THÍCH THẮNG HOAN
Dịch
Giả
BIỆN
TRUNG
BIÊN
LUẬN
TỤNG THÍCH
(Giải thích những bài Tụng của
bộ
luận Biện Minh Trung Đạo và Nhị Biên
Trích
từ trong Thái Hư Toàn Thư)
Phật Lịch 2559 – Dương Lịch 2015
LỜI DỊCH GIẢ
Biện Trung Biên Luận Tụng Thích, theo
sử liệu, các nhà nghiên cứu ai cũng đều biết là tác phẩm của Bồ
Tát Di Lặc sáng tạo với nhan đề là Biện Trung Biên Luận. Bồ Tát Vô
Trước thọ giáo với Bồ Tát Di Lặc tạo thành bộ Luận gọi là Biện
Trung Biên Luận Tụng. Kế đến Bồ Tát Thiên Thân chọn bộ Biện Trung
Biên Luận Tụng của Bồ Tát Vô Trước giải thích sâu rộng thêm với
danh xưng là Biện Trung Biên Luận Tụng Thích. Tam Tạng Pháp Sư Huyền
Trang đời Đường dịch bộ Biện Trung Biên Luận Tụng Thích của Bồ Tác
Thế Thân sang tiếng Trung Quốc để truyền bá sâu rộng tư tưởng Trung
Đạo Thắng Nghĩa của Đại Thừa. Theo Luận này, Trung Đạo Thắng Nghĩa là
cảnh giới thù thắng y báo của chư Phật, nguyên vì hai chữ Thắng Nghĩa
mà Luận này giải thích chính là chỉ cho cảnh giới thù thắng. Trung
Đạo Thắng Nghĩa đích thực là quả của Bồ Tát Đạo, chư Phật nhờ tu nhân
Bồ Tát Đạo mà chứng được đạo quả Pháp Thân chánh báo và cảnh
giới Niết Bàn y báo của chư Phật an trụ. Cảnh giới Niết Bàn y báo
cũng chính là cảnh giới Trung Đạo Thắng Nghĩa; điều đó không khác
nào như người học ngành y khoa là nguyên nhân và thi đậu thành Bác
Sĩ là kết quả chánh báo, đồng thời nhà thương hay phòng mạch là
cảnh giới y báo của bác sĩ sinh hoạt. Trung Đạo Thắng Nghĩa không
phải là Tánh Không của chân vọng và cũng không phải là Tướng Không
của vạn pháp, nhưng ngoài Tánh Không của chân vọng và Tướng Không
của vạn pháp không tìm thấy Trung Đạo Thắng Nghĩa nên gọi là Trung
Đạo Thắng Nghĩa. Tại sao thế?
Trước
hết Tướng Không đây là nhân tướng của vạn pháp nằm trong tánh
không nên gọi là Tướng Không, có chỗ gọi là Chủng Tử; hiện tượng
vạn pháp thì thuộc về Quả Tướng của Nhân Tướng trong Tánh Không.
Tướng Không của vạn pháp là ảnh tử phát xuất từ Trung Đạo Thắng
Nghĩa; Trung Đạo Thắng Nghĩa cũng như mặt trăng trên không, còn Tướng
Không của vạn pháp cũng như mặt trăng dưới nước; mặt trăng trên
không không phải là mặt trăng dưới nước, nhưng không có mặt trăng
trên không thì nhất định không có mặt trăng dưới nước và không có
mặt trăng dưới nước thì không tìm thấy mặt trăng trên không. Thì đây
cũng vậy, Trung Đạo Thắng Nghĩa không phải là Tướng Không của vạn
pháp, nhưng không có Trung Đạo Thắng Nghĩa thì nhất định không có
Tướng Không của vạn pháp và không có Tướng Không của vạn pháp thì
không tìm thấy được Trung Đạo Thắng Nghĩa.
Còn Tánh Không của chân và vọng,
cả hai đều trống rỗng, nhằm diễn tả hoàn toàn không có một chút
hình ảnh cảnh giới vọng hiện nào trong đó. Tánh Không này mặc dù
chân thật bất hư, nhưng không phải Trung Đạo Thắng Nghĩa. Nguyên vì Trung
Đạo Thắng Nghĩa chính là cảnh giới diệu hữu trong Tánh Không do Tạng
Như Lai của Chân Tâm thể hiện. Có thể khẳng định, Trung Đạo Thắng
Nghĩa không phải là Tánh Không, nhưng không có Tánh Không thì Trung
Đạo Thắng Nghĩa không thể nương vào đâu để hiện hữu. Tóm lại, Trung
Đạo Thắng Nghĩa quan hệ với Tướng Không của vạn pháp và Tánh Không
của chân vọng, cho nên gọi là Trung Đạo Thắng Nghĩa. Đây là tư tưởng
đặc thù của Biện Trung Biên Luận Tụng Thích. Các học giả Duy Thức Trung
Hoa đều chọn lấy bộ Biện Trung Biên Luận Tụng Thích của Pháp sư
Huyền Trang dịch thuật làm nền tảng phát huy thành tông phái gọi là
Pháp Tướng Duy Thức Tông.
Nhơn đọc Pháp Tướng Duy Thức Học
trong Thái Hư Toàn Thư, Thắng Hoan tôi bắt gặp Biện Trung Biên Luận
Tụng Thích của Pháp Sư Huyền Trang dịch thuật vô cùng thích thú tư
tưởng cao thâm của Phật Giáo Đại Thừa trong Luận này. Sau khi đọc xong tôi cảm thấy cần phải
phổ biến sâu rộng trong nhân gian tư tưởng siêu phàm thoát tục đây liền
mạo muội dịch ra tiếng Việt để làm tư liệu nghiên cứu cho nền văn
học Phật Giáo Việt Nam trên lãnh vực Pháp Tướng Duy Thức Học. Để
tiện cho việc nghiên cứu nơi bản tiếng Việt, tôi chia bộ Biện Trung
Biên Luận Tụng Thích ra ba phần: Phần Duyên Khởi tức là phần lý do
có bộ Luận, Phần Lưu Thông là phần nội dung của bộ Luận và Phần
Kết Luận. Hơn nữa mỗi đề mục trong bộ Luận, tôi tách bản dịch ra thành
hai đoạn và mỗi đoạn cho nó một nhãn hiệu là “Bài Tụng” và “Giải
Nghĩa” giúp cho đọc giả dễ phân biệt đoạn nào là văn Tụng và đoạn
nào là văn giải thích. Những đoạn văn nào nằm trên nó nhãn hiệu
“Bài Tụng” và nằm trong dấu ngoặc kép“.......” này, đó chính là chỉ
cho văn Tụng của Biện Trung Biên Luận Tụng Thích; còn những đoạn văn
nào nằm trên nó nhãn hiệu “Giải Nghĩa”, đó chính là chỉ cho văn giải
thích ý nghĩa của văn Tụng nói trên. Ngoài ra trong các văn Tụng
cũng như trong các văn Giải Thích, tôi cũng có thêm vào các chữ
nghiêng nằm trong dấu ngoặc đơn (......) này với mục đích làm sáng tỏ
thêm ý nghĩa sâu xa ẩn chứa khó hiểu trong các danh từ chuyên môn
cho dễ nhận thức.
Nhằm giới thiệu một phương trời bất
sanh bất diệt của Trung Đạo Thắng Nghĩa ở ngoài vòng vô thường sanh
diệt do bộ Biện Trung Biên Luận Tụng Thích diễn tả, tôi cấp tốc
chuyễn ngữ sang tiếng Việt xin chân thành gởi đến quý đọc giả bốn
phương một dịch phẩm phi thường để rộng đường tham khảo. Dịch phẩm này
có chỗ nào thiếu sót hoặc sai trái ý nghĩa thâm sâu trong bản chính
Hán Tạng của bộ Biện Trung Biên Luận Tụng Thích, xin quý đọc giả cao
kiến hoan hỷ chỉ bảo để tôi tu chỉnh cho được vẹn toàn hơn.
Cẩn
bút,
Dịch
giả Thích Thắng Hoan.
I.- PHẦN DUYÊN KHỞI:
a.- Tiểu Sử Phiên Dịch của Luận.-
Biện Trung Biên Luận Tụng, trên
Sử Học Phật Tạng ở Ấn Độ và Trung Hoa thì rất có giá trị. Dường như
ngay khi Phật nhập diệt chín trăm năm, các giới Phật học của Ấn Độ
có kẻ chấp Có, có kẻ chấp Không. Bồ Tát Vô Trước nương vào tâm
đại bi tu hành nhiều kiếp chứng được năng lực thần thông trí tuệ và
độ khắp quần sanh, cầu thỉnh Thế Tôn Từ Thị thuyết giảng các bài tụng
của Luận này, trải qua bao nhiêu gian nan khổ sở mới lưu hành đến
được nơi nhân gian. Cho nên lúc bấy giờ tại Ấn Độ, các học giả nhờ
Luận này khéo lìa khỏi chấp một bên và đều quan trọng là dùng nó làm
mẫu mực. Về sau vấn đề phiên dịch được truyền đến Trung Quốc, các
học giả tông phái Pháp Tướng Duy Thức, vâng theo những bài Tụng nói
trên làm thành một bộ Luận, đó là một trong sáu bộ Kinh và mười
một bộ Luận. Những ai nghiên cứu Pháp Tướng Duy Thức Học lẽ tất
nhiên đều phải nghiên cứu bộ Luận này. Sau đó Ấn Độ truyền vấn đề
phiên dịch đến Tây Tạng và ở đây liền tôn vinh Bồ Tát Từ Thị là
một trong năm Luận Sư. Chúng tôi hôm nay có duyên được giảng những bài
Tụng của bộ Luận này, thật là một sự kiện đáng vui mừng biết bao.
Tại Trung Hoa, chỗ truyền bá Tạng
Luận đều liên hệ bộ Luận đã được Bồ Tát Thiên Thân giải thích. Dĩ
nhiên những bài Tụng căn bản của bộ Luận chính là do Bồ Tát Di Lặc
sáng tạo. Hôm nay giảng những văn Tụng của bộ Luận tức là giảng
những bài Tụng do Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng mạng Hoàng Đế
Đường Triều dịch thành. Ngoại trừ văn dịch đây, lại có một thứ bản
dịch khác gọi là Trung Biên Phân Biệt Luận do Tam Tạng Chân Đế Trần
Triều phiên dịch, tác phẩm này cũng có thể tham khảo nghiên cứu.
b.- Tên Đầu Đề của Luận:
Danh xưng Biện Trung Biên có nghĩa
rằng: chữ Biện chính là phân biệt rành rõ, chữ Trung chính là trong
chánh đạo không lạc vào biên kiến, chữ Biên chính là chấp một bên
có lỗi lầm không chánh đáng hiếm thấy. Nguyên vì người đời phần
nhiều khó khăn lý giải Trung Đạo, cho nên rất dễ sanh khởi chấp một
bên, chẳng nghiêng về nơi Không thì cũng ngả vào nơi Có. Lý do cần
phải trừ bỏ sự chấp một bên của con người, để quán chiếu cảnh
Trung Đạo, tu hành Trung Đạo, chứng quả Trung Đạo, đặc biệt ở chỗ là
biện minh ý nghĩa Trung Đạo cùng Nhị Biên (hai bên). Tông chỉ của bài Tụng đây đúng với nhân danh là
Biện Trung Biên.
c.-
Văn Tụng của Luận:
Toàn văn của bài Tụng đây, nơi
bản dịch của Trung văn thì chia làm bảy phẩm, bản dịch của Tạng văn
chỉ chia làm năm phẩm, nhân vì nơi Tạng văn đem ba phẩm: bốn, năm và
sáu bắt đầu hợp lại làm một phẩm, cho nên mặc dù giảm bớt hai phẩm,
nhưng nội dung của nó thì giống nhau. Toàn văn cộng chung là một trăm
mười bảy bài Tụng, tổng quát chia làm ba phần để giảng: Bài Tụng
thứ nhất là Phần Thiết Lập An Định Thể Của Luận, một bài Tụng sau
cùng là Phần Đúc Kết Danh Nghĩa Hiển Bày Của Luận, còn chính giữa
là một trăm mười lăm bài Tụng đều là Phần Phân Biệt Nghĩa Của
Luận. Bài Tụng thứ nhất của Phần Thiết Lập An Định Thể Của Luận,
tổng quát bao gồm bảy phẩm danh xưng, chính là Phẩm Tướng, Phẩm
Chướng, Phẩm Chân Thật, Phẩm Tu Đối Trị, Phẩm Tu Phần Vị, Phẩm Đắc
Quả, Phẩm Vô Thượng Thừa. Cho nên bài Tụng thứ nhất là đề mục
chung của bảy phẩm, cũng chính là toàn thể đại cương của bổn Luận An
Lập. Trong bảy phẩm này, sáu phẩm trước là nghĩa thông suốt của
Biện Trung Biên, phẩm thứ bảy là phân biệt sáng tỏ Vô Thượng Thừa.
Trong khoa của Nghĩa Thông Suốt Biện Trung Biên lại phân ra thêm ba
khoa nữa là: Biện Cảnh, Biện Hành, Biện Quả. Ba phẩm Biện Tướng,
Biện Chướng và Biện Chân Thật đều thuộc về Cảnh. Hai phẩm Biện Tu
Đối Trị, Biện Tu Phần Vị thì thuộc về Hạnh. Biện Đắc Quả thì thuộc
về Quả. Dùng sáu phẩm này phân biệt ba Thừa: Thinh Văn, Duyên Giác
và Bồ Tát; còn phẩm thứ bảy là phân biệt Vô Thượng Thừa. Đây là
chuyên làm sáng tỏ Đại Thừa đến cao tột vô thượng.
II.- PHẦN LƯU THÔNG:
A.-THIẾT
LẬP AN ĐỊNH THỂ CỦA LUẬN
(Phẩm
biện minh thứ nhất)
Bài Tụng:
“Chỉ
vì Tướng làm chướng ngại chân thật và tu tập các pháp đối trị, tức
là tu tập Phần Vị này thì đắc quả Vô Thượng Thừa.”
Giải Nghĩa:
*- Chỗ gọi là Tướng trong bài Tụng
thứ nhất, chính là Phẩm Biện Tướng, nghĩa là phẩm biện minh tất cả
pháp tướng của hữu lậu và vô lậu.
*- Chỗ gọi Chướng, chính là các
pháp phiền não chướng và sở tri chướng của hữu lậu.
*- Chỗ gọi Chân Thật, chính là pháp
chân thật thanh tịnh của vô lậu.
*- Chỗ gọi Tu Đối Trị, chính là các
pháp Ba Mươi Bảy Phần Bồ Đề của hành giả ba Thừa cần phải tu.
*- Chỗ gọi Tu Phần Vị, chính là giai
đoạn phải trải qua khi tu tập đoạn trừ phiền não.
*- Chỗ gọi Đắc Quả, chính là quả báo chỗ chứng đắc sau khi
đoạn trừ xong phiền não.
*- Chỗ gọi Vô Thượng Thừa, chính là
chuyên phân biệt kết quả hành trì của Đại Thừa Vô Thượng.
B.- PHÂN BIỆT NGHĨA CỦA LUẬN.
1.- THÔNG
SUỐT BIỆN TRUNG BIÊN.
A.- BIỆN MINH CẢNH:
1/- Biện Minh Tướng:
Ngoại trừ bài Tụng thứ nhất, văn tụng
của Phẩm Biện Minh Tướng cộng chung có hai mươi hai bài Tụng. Mười
một bài Tụng trước biện minh Pháp Tướng, mười một bài Tụng sau biện
minh Tánh Không. Pháp Tướng cũng gọi là Thức Tướng, Tánh Không cũng
gọi là Pháp Tánh. Nói chung lại là biện minh đạo lý tướng và tánh
của các pháp.
a)-
Biện Minh Pháp Tướng: (gồm 7 biện minh)
a/1-
Biện Minh Tướng Trung Đạo.
Bài
Tụng:
“Hư vọng phân biệt thì có (1), ở nơi hai năng thủ và sở thủ thì không, trong năng
thủ sở thủ đó chỉ có cái Không. Ở nơi tánh không của hai thủ kia cũng có hư vọng
phân biệt đây. Cho nên nói tất cả pháp không phải không và không
phải chẳng không, có tánh không và có hư vọng phân biệt, chính là tương hợp (quan hệ) với Trung Đạo.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây, căn cứ theo chín thứ
Tướng của Luận giải thích phân làm hai: một bài tụng nói về Tướng
Có và một bài tụng nói về Tướng Không. Văn tụng đây nếu quán
chiếu thẳng vào chính là trình bày rõ Tướng Trung Đạo. Ở đây, Tướng
Có và Tướng Không hợp nhau lại trên lãnh vực hư vọng chính là Tướng
của năng thủ sở thủ biến hiện tựa hồ giống như chân thật, dùng để
hình dung không chân thật của Tâm Thức phân biệt. Nhân vì sự sanh khởi của Tâm Thức phân biệt là
do duyên nơi cảnh sở thủ, cho nên mới có sự phân biệt của năng
thủ, pháp năng thủ và pháp sở thủ đều là hư vọng không thật, chỉ
cái chỗ Có đây chính là Tâm Thức Phân Biệt, vì thế nên gọi là Có.
Ở nơi Hai đều không đây, nghĩa là ở trong cái Có của hư vọng phân
biệt, hai thể của năng thủ và sở thủ đều là không; nguyên vì hai
thủ nói trên chỉ là nương nơi Tâm Thức Phân Biệt mà giả hiện, cho
nên đều không có thể tánh thật tại. Còn trong đó chỉ có cái Không
mà thôi, nghĩa là trong cái Có của hư vọng phân biệt, thể tánh tồn
tại của năng thủ và sở thủ thì không có thật và cái Thật Có ở
đây chính là Tánh Không, trong đó không có mặt năng thủ và sở thủ.
Ở nơi kia cũng có ở nơi đây, nghĩa là ở nơi trong tánh hai không của
hai thủ đều không kia thì cũng chỉ có hư vọng phân biệt ở nơi đây mà
thôi. Cho nên nói tất cả pháp không phải không không phải chẳng không,
nghĩa là chỉ cho tất cả pháp thuộc hữu vi và vô vi, nguyên vì hữu vi
là của hư vọng phân biệt và vô vi là của hai không, không phải là
không có, cho nên gọi là Không Phải Không. Lại nữa nguyên vì thật
thể của hai thủ tuyệt đối là không, nhưng hư vọng phân biệt thì cũng
có mà không phải chân thật, cho nên gọi là Không Phải Chẳng Không.
Có (Tánh) Không và Có (hư vọng phân biệt), nghĩa là: Vì
Có, chính là chỉ cho có Tánh Không của thắng nghĩa và có hư vọng
phân biệt của thế tục. Vì Không, tức là chỉ cho hai thủ thì không và
hư vọng phân biệt thì có không thật. Vì Có, tức là trong phân biệt
thì có cái Không và trong cái không thì có Phân Biệt, đây chính là
tương hợp (quan hệ) với Trung
Đạo, nghĩa là tất cả pháp đã không phải là hoàn toàn thiên về
Không, cũng không phải là hoàn toàn thiên về Không Phải Không (Có). Thật tế không phải không mà
đích thực chính là không, lý do vì đã lìa khỏi hai bên (nhị biên) cho nên mới tương hợp
với Trung Đạo.
----------------------------------------------------
(1)Cảnh
giới hư vọng phân biệt sở dĩ có là do Tâm Thức phân biệt nương nơi
nhân mượn nơi duyên xây dựng nên. Cảnh gới hư vọng phân biệt đây
chính là Cảnh Sở Thủ bao gồm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp do sáu
Căn Năng Thủ thâu nhận.
a/2- Biện Minh Tự Tướng.
Bài Tụng:
“Thức sanh biến nghĩa (Thức sanh khởi
biến hiện cảnh giới sáu trần) Tợ (tựa hồ) hữu tình, ngã
và liễu (hiểu
biết);
cảnh đây thật không phải có; cảnh đã không cho nên Thức cũng không.
Tánh hư vọng phân biệt; do nghĩa (cảnh giới) đây được
thành, không phải thật có, hoàn toàn là không; mong đợi diệt phiền
não để giải thoát.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây chính là biện minh Tự
Tướng của Thức hư vọng phân biệt. Nói đến Thức sanh khởi biến hiện nghĩa (cảnh giới) tựa hồ: chữ Thức ở đây thông thường là chỉ
cho Nhãn Thức, Nhĩ Thức..v..v...... gồm có tám Tâm Thức và các Tâm
Sở. Tám Tâm Thức này khi sanh khởi phải nương nơi Nhân và mượn nơi
Duyên để biến hiện cảnh giới sáu Trần hơi giống Biến Kế Sở Chấp,
đồng thời chấp cảnh giới sáu trần biến kế này cho là thật có, nên
gọi là Biến Tợ Nghĩa (biến hiện tợ
hồ cảnh giới); chữ Nghĩa đây chính là chỉ cho cảnh giới. Ngã và
liễu (hiểu biết), câu này nên đem
hai chữ biến tợ của câu trước nối lại với nhau để đọc thì có nghĩa
là biến hiện tợ hồ hữu tình, biến hiện tợ hồ ngã, biến hiện tợ
hồ liễu biệt (phân biệt hiểu biết).
Biến Hiện Tợ Hồ Hữu Tình, nghĩa là biến hiện tợ hồ có thân thể thật
của hữu tình, của mình và của người. Biến Hiện Tợ Hồ Ngã (biến hiện tợ hồ Ngã thật của mình),
nghĩa là nguyên do Thức thứ bảy của Ý Căn, suốt tất cả thời gian
và tương ưng không gián đoạn với bốn thứ phiền não ngã si, ngã ái,
ngã mạn, ngã kiến mà chấp sai lầm Kiến Phần của Thức thứ tám làm
Nội Ngã của mình. Biến Tợ Hồ Liễu, nghĩa là sáu Thức trước duyên
nơi sáu Trần mà biến hiện tợ hồ của Năng Liễu Biệt (công năng phân biệt hiểu biết). Nhưng
sáu Trần, năm Căn, Ý Căn và bốn cảnh của sáu Thức (Bốn cảnh gồm có:Tánh Cảnh, Chân Đới
Chất Cảnh, Tợ Đới Chất Cảnh và Độc Ảnh Cảnh), quán chiếu triệt
để, xét đến cùng đều là không, xác thực là không phải có; nhân vì
những cảnh đây đều do Thức hư vọng phân biệt sanh khởi mà biến hiện
tợ hồ có đích thực, cho nên nói những cảnh đây thật không phải có.
Cảnh đã không thì Thức cũng không, nghĩa là tất cả Tâm Thức mỗi khi
sanh khởi đều nương nơi cảnh mà sanh, nhưng hiện tại cảnh sở duyên đã
hoàn toàn không có thì năng duyên của Thức làm sao có độc lập được?
Thức hư vọng phân biệt căn cứ nơi văn nghĩa của một bài Tụng trước
đây có thể thành lập là đã không phải có thật, nhưng cũng không
phải là không hoàn toàn, nguyên vì Tâm phân biệt hữu lậu của chúng
sanh nơi ba cõi có khả năng tu các hạnh Bát Nhã và nhờ đó để diệt
hết phiền não sớm được giải thoát, cho nên gọi là mong đợi diệt
phiền não để giải thoát. Thức hư vọng phân biệt nếu như có thật thì
không thể nào dùng nó để đối trị diệt được phiền não, còn như nếu
không hoàn toàn thì không cần phải đợi đối trị để diệt phiền não.
Vì chấp có thật và chấp hoàn toàn không của hai thứ (Cảnh sở duyên và Thức năng duyên) đều
có lỗi cả.
a/3- Biện Minh Tướng Thâu Nhiếp.
Bài Tụng:
“Chỉ có chỗ chấp trước tánh Y Tha; và tánh Viên Thành Thật; vì
Cảnh, vì Phân Biệt; và vì Hai Không mà thuyết minh.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh đạo lý
Tướng Thâu Nhiếp (Tướng thâu nhận).
Cái gì gọi là Tướng thâu nhiếp? Chính là Pháp Hữu (Pháp có hình tướng) thuộc hư vọng phân biệt đã giảng ở
trước, trong đó có năng lực thâu nhận và đùm bọc ba thứ Tự Tánh.
Hôm nay ý kiến của bài tụng đây chính là trình bày rõ năng lực Pháp
Hữu (là Pháp Tướng) thuộc hư
vọng phân biệt thâu nhiếp ba Tự Tánh. Các pháp đây đúng ra chỉ thâu
nhiếp hai thứ Tự Tánh là Y Tha và Viên Thành Thật, nhưng thông
thường hay gọi ba thứ Tự Tánh là Biến Kế Sở Chấp Tánh, Y Tha Khởi
Tánh và Viên Thành Thật Tánh. Do ba thứ tánh này liền có thể thâu
nhiếp tận cùng tất cả pháp hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi và cũng
chỉ có ba tánh này mới có thể thâu nhiếp được tận cùng tất cả
pháp, nhưng vì ở đây bài tụng chỉ nói: do chỗ chấp trước tánh Y Tha
và tánh Viên Thành Thật.
a,- Chỗ gọi Biến Kế Sở Chấp Tánh:
chữ Biến, nghĩa là biến khắp tất cả sắc, tâm, vũ trụ vạn pháp;
chữ Kế, nghĩa là tính toán so lường, biểu thị đối với nơi cảnh của
mỗi mỗi pháp, cân nhắc tính toán so lường. Hợp nhau lại để trình
bày, Biến Kế chính là tính toán so lường biến khắp tất cả Tâm Thức
có thể tưởng đến được, ngôn ngữ có thể nói đến được, thảy đều là
loại phân biệt tính toán so lường. Thường các pháp chấp ở nơi các sắc
như sáu Trần, sáu Căn, sáu Thức đều có thật thể riêng biệt nên
gọi là Biến Kế Sở Chấp.
b,- Y Tha Khởi Tánh: nghĩa là trình
bày rõ tất cả vạn pháp vũ trụ, trên căn bản đều không có tự
tánh, sự sanh khởi của chúng nó đều nương nơi nhân duyên mà sanh,
chỗ gọi là duyên tụ lại thì có, nhân ly tán thì không. Thí dụ như vạn
pháp thế gian trước mắt, chúng nó sanh khởi đều nương nơi nhân và
mượn nơi duyên, nếu như không nhân duyên thì trên căn bản không có
pháp thế gian này. Trở lại thí dụ con người! Con người là do nương nơi
tứ đại, ngũ uẩn, máu huyết của cha mẹ, các chất ăn uống dinh dưỡng
mà sanh khởi trưởng thành, nếu lìa khỏi những điều kiện này thì con
người sống như thế nào? Quán sát con người đã là như thế, cho đến
một cộng cỏ, một thân cây..v..v...... không ai là không như thế, cho
nên tất cả đều là Y Tha Khởi, không có tánh cố định, không có tánh
tự nhiên.
c,- Viên Thành Thật Tánh: chữ Viên
tức là viên mãn, nghĩa là không luận lúc nào chỗ nào pháp nào
cũng đều đầy khắp; chữ Thành nghĩa là thành tựu vĩnh viễn không
biến, quá khứ là như thế và vị lai cũng là như thế; chữ Thật nghĩa
là chân thật; hợp nhau lại để giải thích chính là lý tánh viên mãn
thành tựu chân thật, nên gọi là Viên Thành Thật Tánh. Trong đây thì
căn cứ nơi tất cả pháp để biện minh ba tánh và chỗ kia thì cũng căn
cứ nơi ba tánh để biện minh tất cả pháp. Tóm lại, tất cả pháp
không ra ngoài ba tánh này, cho nên câu Tụng thứ nhất trình bày chỉ
có, tức là chỉ có ba tánh đây, không có tánh nào khác.
Nhưng ba tánh này là thế nào? Tụng
nói rằng: Vì cảnh, vì phân biệt và vì hai không mà trình bày rõ. Vì
Cảnh là giải thích Biến Kế Sở Chấp, Vì Phân Biệt là giải thích Y Tha
Khởi, Vì Hai Không là giải thích Viên Thành Thật, đây rất là thấu
triệt.
Thứ nhất, chỗ gọi Vì Cảnh, nghĩa là
Thức sanh khởi biến hiện tợ hồ cảnh giới và vấn đề này đã được
giải thích ở Tụng thứ hai; còn biến hiện tợ hồ hữu tình, biến hiện
tợ hồ ngã, biến hiệt tợ hồ cảnh của công năng liễu biệt tức là
chỉ cho sáu Trần, sáu Căn, sáu Thức, những hiện tượng đây hoàn toàn
là do Duy Thức biến hiện mà không có thật thể; sở dĩ có các thứ
Tướng tợ hồ này là nguyên nhân do Tâm năng chấp, chính tâm vọng
chấp cho hoàn toàn có thật. Tánh của thứ vọng chấp đây hoàn toàn hư
vọng không có mà lại cho là thật có, đây chỉ là vọng chấp mà sự
thật nơi chân lý thì mảy may không bao giờ có, nên gọi là Biến Kế
Sở Chấp .
Thứ hai, chỗ gọi Vì Phân Biệt, nghĩa
là trình bày Thức sanh khởi công năng biến hiện tợ hồ Thức (Kiến Phần tợ hồ của Thức) để
biến hiện tợ hồ các pháp, Thức muốn sanh khởi công năng thì phải
nương nơi Nhân và mượn nơi Duyên để sanh khởi, nên gọi là Y Tha Khởi.
Như bài Tụng có nói: “Nhãn Thức có chín duyên để sanh, Nhĩ Thức chỉ
theo tám duyên để sanh, ba Thức: Tỷ, Thiệt, Thân thì theo bảy duyên
để sanh, ba Thức sau: Ý Thức nương năm duyên để sanh, Mạt Na Thức
nương ba duyên để sanh, A Lại Da Thức nương bốn duyên để sanh.” Các
Thức đây là Thức Tâm Phân Biệt có mặt trong ba cõi; các Phân Biệt
này của Thức Tâm vẫn mang Tướng Hư
Vọng có mặt tợ hồ năng phân biệt và sở phân biệt, tức là nương
nơi cảnh giới phân biệt để sanh khởi, cho nên gọi là Y Tha Khởi.
Cảnh giới Y Tha Khởi ở trước đã giải thích qua, chính là nương nơi các
duyên mà sanh khởi và các pháp không lìa Thức để hiện hữu. Nếu như
ở nơi các pháp này mà chấp cho là thật thể, hoặc mỗi mỗi chấp cho
là Tự Ngã thì đều thuộc về Biến Kế Sở Chấp. Thật ra sự sanh diệt vi
tế của các pháp đều do Thức hư vọng phân biệt này cả; Thức lại
nương nơi nhân duyên mà sanh khởi, cho nên Thức Phân Biệt đây thì thuộc
về Y Tha Khởi.
Thứ ba, Và Vì Hai Không, nghĩa là
trình bày rõ Tánh Không của Hai Không
(không Năng Thủ Sở Thủ) chính là chỉ cho Viên Thành Thật, nguyên
vì Viên Thành Thật do Hai Không Chân Như hiển hiện biến khắp tất cả
pháp, cho nên nói căn cứ Hai Không mà gọi là Viên Thành Thật.
Như là căn cứ nơi sự chấp trước cảnh
thật để giải thích Biến Kế Sở Chấp, căn cứ nơi sự phân biệt của
Thức để giải thích Y Tha Khởi, căn cứ nơi cái Không Năng Thủ và Sở
Thủ trong các pháp của Thức để giải thích Viên Thành Thật. Hai Không
đây nơi trong Biệt Chủng Kinh Luận gọi là Sanh Không và Pháp Không,
thật sự chính là chỉ cho cái Không năng thủ và sở thủ của bản Luận
giải thích. Do vì Cảnh Không của Sở Thủ, cho nên gọi Tâm của Năng Thủ
cũng là không, đây chính là trình bày rõ tất cả Cảnh Sở Duyên đều
do Duy Thức biến hiện, mà Thức thì
lại nương các duyên khác để sanh khởi, vì thế Sở Thủ đã không thì
Năng Thủ cũng không. Thí dụ như vải trắng trên cái bàn, do Thức
năng tri cho vải hoàn toàn là màu trắng, nếu màu trắng của sở tri
căn bản vốn không có thì cùng lúc đó Thức năng tri biết màu trắng
cũng không thể thành lập. Chân lý Hai Không này có mặt khắp trong tất
cả pháp Y Tha, vì căn cứ nơi nguyên lý Tánh không chân thật của các
pháp Y Tha nên gọi là Viên Mãn Thành Tựu Chân Thật. Như Tâm Kinh
nói rằng: “Đây các pháp không Tướng, không sanh không diệt, không
nhơ không sạch, không tăng không giảm”: Ý đây chính là nói Tánh
Không khắp nơi các pháp, bản lai như thế, chẳng phải hiện tại là
không mà quá khứ là có, cũng chẳng phải quá khứ là có mà hiện
tại là không, mà là tất cả thời đều hoàn toàn không nên gọi là
không sanh không diệt ; Tánh Không đây có mặt khắp tất cả chỗ nên
gọi là không tăng không giảm và không chuyển biến nên gọi là
không nhơ không sạch. Nguyên vì Tánh Không luôn luôn lúc nào cũng
như thế, vì có mặt khắp tất cả chỗ, vì không chuyển biến nên gọi
là Viên Thành Thật Tánh. Căn cứ nơi các nghĩa như thế nên biết vọng
Thức (là Tướng hư vọng) có thể
thâu nhiếp ba tánh. Nghĩa là Vọng Thức chấp cảnh thuộc Biến Kế,
chấp bản thân thuộc Y Tha, chấp Tánh Không thuộc Viên Thành.
a/4- Biện MinhTướng Phương Tiện:
Bài Tụng:
“Nương nơi Thức có chỗ chứng đắc, cảnh không chỗ chứng đắc
sanh khởi; nương nơi cảnh không chỗ chứng đắc, Thức không chỗ chứng
đắc sanh khởi. Do Thức có tánh chứng
đắc, cũng thành không chỗ chứng đắc, nên biết hai Tánh có chứng
đắc và không chứng đắc đều bình
đẳng.”
Giải Nghĩa:
Bài
Tụng đây đều là trình bày rõ Tướng Phương Tiện. Tướng phương tiện
chính là nương nơi Thức Tướng đã trình bày ở trước để chứng vào pháp
môn phương tiện của cái Không Vô Tướng (cái Không không có tướng). Pháp môn phương tiện đây theo
Bồ Tát Thiên Thân giải thích thì chỉ có một bài Tụng và một bài
Tụng kế tiếp là trình bày rõ Tướng Sai Biệt của các pháp không
giống nhau. Hiện tại cái Ngã căn cứ theo tư tưởng nhất quán của văn
Tụng, đem hai pháp môn đầu tiên hợp lại làm một pháp môn, cho nên
chín Tướng của pháp tướng đầu tiên đã trình bày qua, hiện tại chỉ
còn lại bảy Tướng mà thôi.
Nương nơi Thức có chỗ chứng đắc và cảnh không chỗ chứng đắc
sanh khởi, nghĩa là do có Thức
Năng Biến, biến hiện ngay cảnh tợ hồ sáu Trần và tợ hồ sáu Căn tợ
của hữu tình..v..v....., nhờ đó các thứ Năng Thủ và Sở Thủ mới có
chỗ để chứng đắc; suy cứu căn nguyên của sáu trần và sáu căn hoàn
toàn là nương nơi Tâm Thức biến hiện thành hình tợ hồ như có Năng
Thủ và Sở Thủ hiện hữu ở trong, mà kỳ thật không phải có. Như
cảnh thật không phải có đây của văn trước đã giải thích chính là cảnh
vật nương nơi Thức để biến hiện mà thật tế không hề có thật, nghĩa
là không có nguyên nhân cho nên không có chỗ để chứng đắc. Do cảnh
không có chỗ để chứng đắc thì ý nghĩa của tất cả vạn pháp Duy Thức
đồng thời cũng không thể thành lập. Tức là cái Có của các pháp
là do Thức mà có, có tợ hồ mà không phải chân thật, nhờ khả năng
thấu rõ cảnh không có chỗ chứng đắc mà trí tuệ liền được sanh
khởi. Nhờ trí tuệ sanh khởi cho nên mới biết rõ cảnh là không,
chẳng hề có. Lại tiến thêm một bước nữa, tất cả vũ trụ vạn hữu
chứng tỏ đều không có chỗ chứng đắc, xét cho cùng đều là không,
Thức năng biến của chúng cũng là không và nhờ đó trí tuệ thấu rõ Thức
năng biến là không liền được sanh khởi. Ý đây chính là nói: Thức Năng Thủ sở
dĩ sanh khởi đều do nơi Sở Thủ và Sở Thủ đã là không thì Năng Thủ
đương nhiên cũng là không; hai Thủ đã không liền chứng được Viên
Thành Thật của tất cả vô tướng. Do Thức có tánh chứng đắc cũng
thành không có chỗ chứng đắc, nghĩa là nói các pháp hư vọng của
năng thủ sở thủ để có chứng đắc, những pháp hư vọng đây đều do
Thức giả hiện, xét cho cùng đều không thật thể để có chứng đắc,
cho nên nói pháp có chỗ chứng đắc đó chính là trở thành không có
chỗ chứng đắc. Nên biết hai tánh có chứng đắc và không chứng đắc
đây là hai câu văn kết thúc, nghĩa là chỉ cho hai thứ năng thủ và
sở thủ mặc dù có khả năng chứng đắc, nhưng vì hai thứ này mà thể
của các pháp không thể thành lập. Tại sao thế? Lý do hai thứ này thuộc
về loại hư vọng phân biệt, xét cho cùng chúng nó đều là không,
không có thật thể, cho nên chúng nó mặc dù có chứng đắc lại trở
thành không chứng đắc, nguyên vì sự chứng đắc cái không thật cho
nên trở thành không chứng đắc, do đó gọi là chứng đắc cái không
chỗ chứng đắc.
Hơn nữa hai cái không trong chỗ không chứng đắc của năng
thủ và sở thủ chính là chỉ cho các pháp duyên sanh hư vọng phân biệt,
nguyên vì các pháp này cũng do Thức giả hiện đều không thật thể để
có chứng đắc; từ đó cho thấy hai tánh có chứng đắc và không chứng
đắc đều bình đẳng hoàn toàn không thật thể nên gọi là Không. Vấn
đề này như trước đã giải thích, nơi đây chỉ có cái không của năng
thủ sở thủ và nơi kia cũng có pháp hư vọng phân biệt nơi đây là nghĩa giống nhau. Nếu
có thể hiểu rõ cái Có của hư vọng phân biệt đây xét cho cùng
không có chỗ chứng đắc, vì ngoại cảnh đều là không, ý nghĩa rốt
ráo Cảnh và Thức Phân Biệt cũng đều không, do nhờ thể nhập được
phương tiện vô tướng cho nên có thể đạt đến được chỗ có chứng đắc
chính là không chứng đắc, trong không chứng đắc cũng chỉ có pháp hư
vọng để có thể chứng đắc, nhờ đó đi đến trong chỗ chứng ngộ hoàn
toàn của đạo thật tướng.
a/5- Biện Minh Tướng Dị Môn:
Bài Tụng:
“Tâm và Tâm Sở trong ba cõi đều là hư vọng phân biệt, chỉ
hiểu được cảnh đích danh là Tâm, cũng biệt danh là Tâm Sở.”
Giải Nghĩa:
Tướng Dị Môn nghĩa là ở trên cùng
một thứ pháp nào đó mà kiến lập các thứ tên riêng. Như trên Luận
đây nói hư vọng phân biệt, lại có khi gọi là Thức..v..v...... Thí dụ
như một ngôi nhà mở riêng từng cửa khác nhau, cho nên gọi là Dị Môn
Tướng. Tâm và Tâm Sở trong ba cõi đều là hư vọng phân biệt, nghĩa
là chỉ cho tám Thức Tâm Vương và các Tâm Sở. Tâm Sở là chỉ cho các pháp
thuộc sở hữu của Tâm Vương, lại nữa Tâm Vương là tên gọi chung và
Tâm Sở là tên gọi riêng. Tâm Sở là thuộc tánh của Tâm Vương, như
trên Nhãn Thức có cảm thọ tiếp thu khổ lạc, nắm lấy, xả bỏ tốt
xấu là những chỗ phát khởi tham sân..v..v......, đây là những Tâm
Sở lệ thuộc nơi Nhãn Thức. Tâm Sở thì có rất nhiều gồm năm mươi
mốt thứ, như năm Biến Hành, năm Biệt Cảnh..v..v...... đều gọi là Tâm
Sở. Tâm Sở Hữu Pháp lại tùy theo hữu tình trong ba cõi mà có sai
khác, như người và trời..v..v...... những chúng sanh trong sáu đường
chỗ có Tâm Vương và Tâm Sở đều thuộc về Tâm Vương và Tâm Sở của
cõi Dục. Vượt qua cõi Dục Tâm Vương và Tâm Sở của hữu tình trong
cõi Sắc so cùng với cõi Dục thì không giống nhau. Bởi vì cõi Dục thì
nhàn tản, mà cõi Sắc thì luôn luôn ở trong định. Từ Nhị Thiền trở
lên, năm Tâm Thức thì lại không có, chỉ có ba loại Thức là Ý Thức,
Mạt Na Thức và A Lại Da Thức, cho đến các Tâm Sở ở đó so sánh cõi
Dục thì thiếu rất nhiều, nhân vì ở đó không có cái khổ của sân
của ưu sầu. Còn đến cõi Vô Sắc kể cả căn thân và khí giới cũng
không có, chỉ có Tâm Vương và pháp Tâm Sở. Các Tâm Vương và Tâm Sở
hư vọng phân biệt đây nếu như phân tích vi tế thì sâu xa khó lường,
do chỗ ranh giới phân biệt rất phiền phức, cõi Dục và cõi Sắc đã
khác nhau thì cõi Vô Sắc lại càng không giống nhau. Như Tâm Vương và
pháp Tâm Sở trong ba cõi đã trình bày đều là hư vọng phân biệt, cho
nên bao hàm rất thâm sâu và rộng lớn. Giờ đây sự sai biệt của Tâm
Vương và các Tâm Sở xin trình bày rõ như sau: Tâm Vương đây chỉ duyên
nơi tướng chung, như Nhãn Thức duyên nơi sắc, chỉ duyên tướng chung của
sắc. Như khi duyên nơi sắc liền sanh khởi các tâm lý của khổ lạc,
tốt xấu, thiện ác, những tâm lý đây chính là các Tâm Sở. Còn Nhĩ
Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức..v..v...... thì cũng
giống như thế, đều duyên tướng chung của cảnh nên gọi là Tâm Vương,
còn những tướng riêng của cảnh được gọi biệt danh là Tâm Sở.
a/6-
Biện Minh Tướng Sanh Khởi:
Bài Tụng:
“Một là gọi Thức duyên, hai là gọi Thọ giả, trong đây công
năng thọ dụng, phân biệt chỉ Tâm Sở.”
Giải Nghĩa:
Chỗ gọi là Tướng Sanh Khởi, nghĩa
là biện minh Tâm và Pháp Tâm Sở lần lượt sanh khởi như thế nào;
còn Thức Duyên, nghĩa là công năng làm cho các Tâm và Pháp Tâm Sở
sanh khởi Thức để duyên các pháp, nên gọi là Thức Duyên. Thức
Duyên đây tương đương nơi Thức thứ tám của các Kinh Luận khác, văn
của Luận đây rõ ràng tuy không đề cập đến Thức thứ tám, nhưng ở
trong ý nghĩa thì lại có. Hơn nữa, Thức thứ tám chính là Thức tàng
trử và bảo dưỡng chủng tử của bảy Chuyển Thức Trước huân tập kết thành
và có thể sanh khởi nhân duyên của các pháp, cho nên gọi A Lại Da
là công năng khiến cho Thức phát sanh các duyên và tái hợp trực
tiếp không lầm lỗi. Giả sử soi sáng tinh tế duyên sanh của các pháp
đều là nương nơi chủng tử trong Thức thứ tám, Thức thứ tám giống như
đại địa, ngoài ra các pháp sanh khởi thì cũng giống như cỏ cây mà
thôi. Tuy nhiên Luận xét tinh tế nói rằng, chỗ sanh ra chủng tử chính
là bảy Hiện Hành Trước (bảy Chuyển
Thức Trước) và lại cũng có thể huân tập sanh ra chủng tử, như
là công năng huân tập và sanh khởi của bảy Chuyển Thức Trước cùng
Thức thứ tám quanh co lẫn nhau làm nhân quả không dứt. Hôm nay Luận
này chỉ cần trình bày phương diện chủng duyên của công năng sanh khởi
và vấn đề đây cần phải biết rõ. Thứ hai gọi là Thọ Giả, ý nghĩa
hai chữ Thọ Giả bao gồm bảy Chuyển Thức Trước, như Nhãn Thức, Nhĩ
Thức..v..v...... đều gọi là Thọ Giả.
Đạo lý đây thế nào? Nhân vì chữ Thọ ở chỗ này không riêng
chỉ nói Tâm Sở Thọ, mà còn chung chung chỉ cho nghĩa chữ Thọ của lãnh
thọ, nghĩa là bảy Chuyển Thức đều có công năng lãnh thọ cảnh
riêng, thọ dụng riêng các thứ pháp cảnh giới, như Nhãn Thức chỉ
duyên cảnh sắc, Nhĩ Thức chỉ duyên cảnh âm thanh..v..v...... đều gọi
là Thọ Giả. Trong đây công năng thọ dụng, nghĩa là trong tám Thức
Tâm Vương có công năng thọ dụng những cảnh thọ khổ lạc, không khổ
không lạc..v..v......, chữ Thọ này chính là chỉ riêng Tâm Sở Thọ.
Còn câu Phân Biệt chỉ Tâm Sở đây, danh từ Phân Biệt chính là Tưởng,
nghĩa rộng có thể chỉ cho tất cả Tâm và Tâm Sở. Định nghĩa chữ
Tưởng, trong Kinh gọi là chọn lấy cảnh đều bằng nhau, đây là tác
dụng của Tâm, như Nhãn Thức duyên cảnh chọn lấy các Tướng đều bằng
nhau, chính là đối với cảnh kia và cảnh đây có hạn định bằng nhau,
đó gọi là Tưởng; cái có ở nơi đây thì không phải ở bên này và
bên kia, căn cứ nơi cái có này mà thành lập các thứ danh ngôn, tất
cả đều là Tưởng. Chữ Thôi là thúc đẩy, chính là chỉ cho Hành, tự
thể của Hành là Tư, thế gian thông thường gọi là Tư Tưởng, hoặc gọi
là Tưởng, hoặc giống nơi Tâm Sở Tầm và Tâm Sở Tứ, nơi Phật Học Tự
Điển gọi Tư là tác động của Tâm, chính là chỉ cho Hành Uẩn một trong
Ngũ Uẩn. Nhưng Hành Uẩn thì rất rộng lớn, như Tâm Sở Thiện, Tâm Sở
Phiền Não, Dục, Thắng Giải..v..v...... đều nương nơi Tư để tạo tác.
Sự hoạt động của tâm lý tác dụng gọi là Thôi, là thúc đẩy cũng
bao quát cả Tâm Sở Tác Ý..v..v......
a/7- Biện Minh Tướng Tạp Nhiễm:
Bài Tụng:
“
Phúc chướng (Vô Minh) và an lập (Hành); tương đạo (Thức), nhiếp (Danh Sắc), viên mãn (Lục Nhập); ba phân biệt
(Xúc), thọ dụng (Thọ); dẫn
khởi (Ái) bao gồm liên tiếp trói buộc (Thủ). Hiện tiền (Hữu), vì quả khổ (Sang và Lão
Tử); do đây não thế gian (Mười hai Hữu Chi); ba (Vô Minh, Ái, Thủ), hai (Hành, Hữu), bảy (Thức, Danh Sắc,
Lục Nhập, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử)
tạp nhiễm; (Mười hai Hữu Chi sanh
ra đều) do hư vọng phân biệt.”
Giải Nghĩa:
Giảng chỗõ này chính là giảng Tướng
Tạp Nhiễm của Thức thứ bảy. Tạp gọi là hỗn tạp không thanh tịnh;
nhiễm gọi là cấu nhiễm, nghĩa là bản thân sự vật có bị nhơ bẩn; nhưng
có những thứ sự vật bản thân của chúng nó không bị nhơ bẩn, nhưng
có những vật nhơ bẩn xen lẫn vào trong chúng nó, một số này đều
gọi là Tạp Nhiễm. Những pháp hữu lậu tạp nhiễm của thế gian có
phải là hư vọng phân biệt hay không, hôm nay bài Tụng đây sẽ thuyết
minh tường tận.
Hiện tại chỗ giải thích chính là Mười
Hai Nhân Duyên, cũng gọi là Mười Hai Duyên Khởi hoặc gọi là Mười
Hai Hữu Chi. Chữ Hữu nghĩa là cõi, tức là chỉ cho ba cõi, chín cõi,
hai mươi lăm cõi, vũ trụ vạn pháp đều gọi là Hữu; vũ trụ tập hợp
thành, cấu tạo thành nhân tố của vạn hữu, gọi là Hữu Chi. Tất cả
vạn hữu chắc chắn do các Chi Phần này cấu tạo thành, mà nổi bật
nhất sanh mạng nhân loại của chúng sanh hữu tình đều là tập đoàn của
Hữu Chi. Mười Hai Hữu Chi đây gồm có:
*- Thứ nhất là Vô Minh. Vô Minh
nghĩa là ngăn che, ngăn che không cho hiểu rõ chân lý các pháp, cho
nên gọi là Vô Minh. Nguyên do Vô Minh chính là mờ tối, che kín chân
lý không cho biển bày, ngăn cản chân Trí không cho phát sanh, đây
đều là Vô Minh phá hại. Những chữ dưới đây, ở trong mỗi câu đều
có thể dùng như là An Lập, và Tương Đạo, và Nhiếp..v..v...... là
hiển bày nó có mười hai thứ, mà không phải là một thứ.
*- Thứ hai là An Lập. An Lập nghĩa
là do Vô Minh làm Tăng Thượng Duyên để phát khởi ra Hành mà Hành
đây bình thường gọi là hành vi; như hành vi tốt gọi là thiện, hành
vi không tốt gọi là ác; hành vi thiện cảm thọ quả báo đáng thương
gọi phước nghiệp, hành vi bất thiện cảm thọ quả báo không đáng
thương gọi là không phải phước nghiệp. Hơn nữa trong ba cõi lại có
một thứ hành vi bất động, tức là Nghiệp Thiền Định; Nghiệp Thiền
Định đây không có trí tuệ xuất thế,
ở nơi Sắc Giới và Vô Sắc Giới cảm thọ phước báo của cõi
Trời thường ở trong Định Bất Động, cảm thọ quả báo này gọi là
Nghiệp Bất Động. Như hành vi của ba nghiệp là phước, không phải
phước và bất động: Phước thì cảm thọ quả nhân thiên, không phải
phước thì cảm thọ quả khổ trong ba đường, Bất động thì cảm thọ quả
của Định trên hai cõi: Sắc và Vô Sắc. Các hành vi này gọi là An
Lập, nghĩa là hành vi phước thiện thì có thể an lập phước báo cõi
người và cõi trời, hành vi hung ác thì an lập ba đường, còn hành vi
bất động thì an lập cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Nói cách khác An Lập
tức là có năng lực chi phối để cảm thọ quả báo của ba cõi sáu
đường.
*-
Thứ ba là Tương Đạo. Tương Đạo nghĩa là sẽ bảo hộ đường trước,
tức là chỉ cho Thức Chi trong mười hai Chi. Nguyên do Thức Chi chính là bảo
hộ đường trước thứ nhất của chúng sanh cảm thọ quả báo, như nhân
loại khi đầu thai, kẻ đầu tiên trong sát na đi trước chính là Thức
Chi. Đây chỉ nói tổng quát là Thức, phân tích chi ly chính là Thức
thứ tám, do Thức thứ tám bảo hộ đường trước và giữ gìn tất cả
pháp thọ báo.
*-
Thứ Tư là Nhiếp. Nhiếp chính là Danh Sắc; Danh Sắc là danh xưng
của năm Uẩn; Danh chính là Thọ, Tưởng, Hành, Thức của bốn Uẩn; Sắc
tức là Sắc Uẩn; Danh Sắc là danh từ gồm chung của năm Uẩn, cũng
là gồm chung tất cả pháp hữu vi
duyên sanh, cho nên Danh Sắc gọi là Tổng Nhiếp.
*- Thứ năm là Viên Mãn. Viên Mãn
tức là chỉ cho Lục Nhập. Lục Nhập đây quan hệ nơi căn và trần; nhưng
chữ Xứ ở đây là chỉ cho sáu Xứ là thuộc về Căn mà không phải
thuộc về Trần. Còn Trần của sáu Trần là chỗ thâu vào của Căn, như
con người thọ quả báo đến trong thai khi sáu Căn viên mãn gọi Lục
Nhập.
*- Thứ sáu là Ba Phân Biệt. Ba Phân
Biệt tức là chỉ cho Xúc, nghĩa là ba pháp Căn, Trần, Thức tiếp xúc
và lẫn nhau phân biệt, như Nhãn Căn khi duyên Sắc Cảnh có thể phát
khởi Nhãn Thức; lại nữa như con người duyên cảnh liền có tác dụng
phân biệt, chính là nương nơi ba pháp tiếp xúc lẫn nhau. Như ngày nay
Tâm Lý Học cũng nói đầu tiên có cảm giác, rồi sau đó mới phát
khởi tâm lý tác dụng.
*- Thứ bảy là Thọ Dụng. Thọ Dụng
nghĩa là Xúc duyên cảnh liền phát sanh ra Cảm Thọ. Nguyên do ba pháp
khi tiếp xúc liền có cảm giác vui thích, cảm giác khổ sở và cảm
giác bình thường sanh khởi.
*- Thứ tám là Dẫn Khởi. Dẫn Khởi nghĩa là dùng Thọ
làm duyên để phát sanh ra Ái. Ái Chi tức là tham ái, nguyên do bởi
Tham cho nên dẫn khởi tạo tác, như đối với người nào có lòng tham
thì lòng tham dẫn khởi họ đi tìm
cầu, như đối với sự việc nào có lòng tham thì lòng tham dẫn khởi
tác dụng, cho nên Ái nghĩa là dẫn khởi, nếu không có chỗ Ái thì
không có chỗ tạo tác. Chữ Xứ đây cũng giống như chữ Xứ ở phía
trước giải thích là hiển bày nó không phải một.
*-
Thứ chín là Liên Tiếp Trói Buộc. Liên Tiếp Trói Buộc nghĩa là liên
tiếp che lấp trói buộc không cho giải thoát, đây tức là chỉ cho Ái
làm duyên mà sanh ra Thủ. Thủ nghĩa là đối với sự vật của ái nắm
lấy chấp trước, như chưa được thì muốn được và đã được thì sợ mất;
sự chấp trước đây không luận đối với con người hay đối với sự việc
đều hiển bày sự liên tiếp trói buộc.
*- Thứ mười là Hiện Tiền. Hiện
Tiền nghĩa là do Thủ làm duyên mà sanh ra Hữu. Hữu Chi tức là có
hạt giống nhân sẽ thọ quả báo tương lai, cũng tức là nhân đã đạt
được của các quả ba cõi, chín địa. Hữu Chi đây chính là do Ái Thủ
của phía trước thấm nhuần, như hạt giống đã thấm nhuần liền phát
khởi mầm giá để sanh ra cây, chẳng qua còn chưa sanh ra khỏi mặt đất,
xét cho cùng là hạt giống cần phải hiện tiền (có mặt), nên ngọi Hiện Tiền là Hữu.
*- Thứ mười một là Quả Khổ. Quả
Khổ nghĩa là chỉ cho hai Chi Sanh và Lão Tử, hai Chi này đều là quả
khổ. Mặc dù Oán Tắng Hội, Ái Biệt Ly..v..v...... cũng là khổ, nhưng
cái khổ nặng nhất ở đây chính là sanh và tử; sanh tử tức là trong
đó có quả khổ. Câu Chỉ Não Thế Gian đây nghĩa là chỉ cho Mười Hai
Hữu Chi này làm não hại thế gian, khiến cho thế gian khổ não không
yên, ngoài Mười Hai Hữu Chi không có pháp nào khác có khả năng
sáng tạo, cho nên đức Phật nói tất cả là duyên sanh, ngoài đây
không có riêng vị Thần nào có khả năng sáng tạo cả, đó mới đúng
là ý nghĩa.
Ba Hai Bảy Tạp Nhiễm đây: Ba Tạp
Nhiễm tức là chỉ cho ba thứ Tạp Nhiễm, ba thứ tạp nhiễm gồm có:
Phiền não tạp nhiễm, Nghiệp tạp nhiễm và Sanh tạp nhiễm. Ba thứ: Vô
Minh, Ái, Thủ trong Mười Hai Duyên Khởi là thuộc về Phiền Não Tạp
Nhiễm. Hành và Hữu là thuộc về Nghiệp Tạp Nhiễm. Ngoài ra bảy Chi
sau gồm có Thức..v..v..… cho đến Lão Tử là thuộc về Sanh Tạp Nhiễm.
Hai Tạp Nhiễm đây gồm có: Nhân tạp nhiễm và Quả tạp nhiễm. Năm Chi
ở trước là Phiền não tạp nhiễm
và Nghiệp tạp nhiễm thì thuộc về Nhân Tạp Nhiễm; Bảy Chi sau của
Sanh Tạp Nhiễm thì thuộc về Quả Tạp Nhiễm. Bảy Tạp Nhiễm đây cũng
từ Mười Hai Hữu Chi mà phân chia:
+. Thứ nhất, Vô Minh gọi là Nhân
điên đảo tạp nhiễm, nguyên do Vô Minh không rõ chân lý, vô thường
thì chấp thường, vô ngã thì chấp ngã, là khổ thì chấp cho là vui,
không thanh tịnh thì chấp cho là tịnh, nên gọi là Điên Đảo.
+. Thứ hai, Hành là Nhân tạp nhiễm
lôi kéo, nghĩa là Hành tạo tác như thế nào thì lôi kéo thọ lấy quả
báo như thế đó.
+. Thứ ba, Thức là Nhân tạp nhiễm
bảo hộ đường trước, nghĩa là bảo hộ đường trước của thọ báo.
+. Thứ tư, Danh Sắc và sáu Nhập là
Nhân tạp nhiễm thâu nhận, nghĩa là Pháp năm Uẩn sẽ thâu nhận hợp
thành báo thân năm Ấm.
+. Thứ năm, Xúc và Thọ là Nhân
tạp nhiễm thọ dụng, nghĩa là do xúc cảnh mà sanh khởi cảm giác.
+. Thứ sáu, Ái, Thủ và Hữu là
Nhân tạp nhiễm dẫn khởi, nghĩa là do ba thứ năng lực dẫn khởi này
sẽ mang đến khổ báo.
+. Thứ bảy, Sanh và Tử là Nhân tạp
nhiễm ghét sợ, nghĩa là như biết thế gian là vô thường, do biết vô
thường mà khởi tâm ghét sợ.
Mười Hai Hữu Chi như thế, từ Vô Minh
sanh cho đến Lão Tử sanh là thuộc về Lưu Chuyễn Môn (Lưu Chuyển Môn, nghĩa là phương pháp lưu chuển); từ Vô
Minh diệt cho đến Lão Tử diệt là thuộc về Hoàn Diệt Môn (Hoàn Diệt Môn, nghĩa là phương tiêu
diệt hoàn toàn) . Quán sát như thế nào mà có sanh tử? Phát khởi
duyên nơi Hữu cho đến Hành đều là do Vô Minh cả. Nếu như muốn diệt
Lão Tử thì phải diệt Vô Minh trước nhất, Vô Minh diệt thì tất cả đều
diệt. Ba loại tạp nhiễm đây đã rõ ràng đều do nơi hư vọng phân
biệt, như Vô Minh tức là phân biệt điên đảo của hư vọng là chỗ
phát khởi ra Hành, cho đến Lão Tử cũng đều kết quy nơi phân biệt hư
vọng. Giảng đến đạo lý này, biện minh một khoa Pháp Tướng đã được hoàn
tất. Dưới đây sẽ biện minh một khoa Pháp Tánh.
b).-
Biện Minh Tánh Không:
b/1- Biện Minh Lý Do:
Bài Tụng:
“Các tướng (Tướng Không) và dị môn (pháp môn khác), nghĩa (Tướng nhiễm
tịnh),
sai biệt (Tướng
Sai Biệt),
thành lập Tánh Không; nên biết tánh hai không; lược nói chỉ có
đây.”
Giải Nghĩa:
Biện minh Tánh Không đây có mười
một bài Tụng, cũng giống phân khoa trước chia làm bảy đoạn:
*Bài Tụng thứ nhất là nói rõ lý
do,
*Thứ hai dưới đây là nói rõ Tướng
Không không phải có không
phải không,
*Thứ ba là nói rõ pháp môn khác
của Tánh Không,
*Thứ tư là nói rõ Tướng Nhiễm Tịnh,
*Thứ năm là trình bày Tướng Sai Biệt
trong cái Không,
*Thứ sáu là
làm sáng tỏ chỗ Không,
*Thứ bảy là thành lập Tánh Không.
Nên biết Tánh Không của hai Thủ:
Năng Thủ và Sở Thủ, cũng gọi là Tánh Không của hai Pháp: Ngã và
Pháp. Hôm nay làm sáng tỏ Tánh Không qua năm nghĩa đây là: các
tướng, pháp môn khác, nghĩa, sai biệt, thành lập mà giải thích, nên
gọi là Hai Tánh Không; ở đây chỉ nói lược qua mà thôi.
b/2- Biện Minh Tướng Không:
Bài Tụng:
“Không hai (không Năng Thủ Sở Thủ), có và không, chẳng phải có
cũng chẳng phải không, chẳng phải khác cũng chẳng phải một, đây là
nói Tướng Không.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là biện minh Tướng
Không của các pháp. Sao gọi là Không? Thế nào là Không? Chính là
không hai nên gọi là Không. Có và Không nên gọi là Không. Không
Hai đây, nghĩa là thể của hai thứ pháp năng thủ và sở thủ đều không
thật tại nên gọi là không hai. Còn Có và Không đây, nghĩa là có
lý tánh của cái Không trong đó không có năng thủ và sở thủ; hoặc
Nhân và Pháp gọi là Không trong đó chỉ có chân lý Không của nhân
và pháp, cho nên gọi là có và không. Câu chẳng phải có cũng chẳng
phải không đây, nghĩa là chẳng phải có thể của năng thủ và sở thủ,
nên gọi là chẳng phải có; chẳng phải không có lý tánh của không
năng thủ và sở thủ, nên gọi là chẳng phải không. Đây chính là chỉ
cho Viên Thành đối với Biến Kế mà giảng giải; Biến Kế là chẳng
phải có, còn chỗ hiển hiện lý Viên Thành là chẳng phải không. Câu
chẳng phải khác cũng chẳng phải một đây là căn cứ nơi chỗ tương
đối của Y Tha và Viên Thành mà giảng giải; Y Tha thì tự tánh không
thật, chỉ do các duyên sanh ra, nhưng Viên Thành của lý tánh không
trong hai thủ, nghĩa là ở trong pháp Y Tha mà hiện bày lý tánh không
của Viên Tành, bao gồm chẳng phải có cái không riêng khác ở bên
ngoài, nên gọi là chẳng phải khác. Như con người và sự vật đều là
vô thường, chẳng phải có một thứ tánh vô thường riêng khác ở bên
ngoài. Nhưng pháp hư vọng phân biệt thì có tướng phân biệt của năng
và sở, của nhân và ngã, cho nên có thể phát khởi các thứ phân
biệt điên đảo. Riêng Tánh Không thì biến khắp tất cả, nó không có
các thứ phân biệt điên đảo và nó cũng có thể đích thân lìa khỏi hư
vọng để được thanh tịnh mà cũng là chỗ thân chứng của chánh trí;
bản tánh của Tánh Không là giải thoát, nếu như nó cùng với pháp hư
vọng là một thì không thể giải thoát, nên gọi là chẳng phải một.
Do đây câu chẳng phải Có chẳng phải Không, chẳng phải Khác chẳng
phải Một..v..v...... chính là thuyết minh Tướng Không của các pháp.
b/3-
Biện Minh Pháp Môn Khác:
Bài Tụng:
“Trình bày sơ lược pháp môn khác của cái Không, gọi là Chân
Như, Thật Tế, Vô Tướng, Tánh của Thắng Nghĩa; phải biết các pháp
giới..v..v...... Do không biến đổi, không điên đảo, tướng diệt, cảnh
Thánh Trí, và nhân của các Thánh Pháp, nghĩa pháp môn khác như sau.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây thuyết minh đạo lý
Pháp Môn Khác của Tánh Không. Chữ Không đây chính là tánh của hai
không, hoặc chính là không tướng, như không tướng của “Thị chư pháp
không tướng” nơi Tâm Kinh trình bày. Không Tướng đây xưa nay là như
thế, không sanh không diệt, không luận là ở nơi chúng sanh hay ở nơi
quả Phật, đều không một tí sai biệt. Nhưng Tánh Không của không tướng
đây cần bàn đến chính là nghĩa chân lý của các pháp, ở trong các
Kinh khác có rất nhiều danh xưng không giống nhau; danh xưng tuy rất
nhiều, mà đều là biệt danh của tánh không và không tướng, cho nên
bài Tụng nói rằng, trình bày sơ lược pháp môn khác của cái không.
Pháp môn khác của tánh không và không tướng đây, có chỗ gọi là
Chân Như, có chỗ gọi là Thật Tế, có chỗ gọi là Vô Tướng, có chỗ
gọi là Tánh Thắng Nghĩa, hoặc gọi là các loại Pháp Giới. Một số
danh xưng khác đây đều cần phải nghiên cứu để biết, cần phải hiểu
rõ những danh xưng này, đồng thời cũng phải thấu suốt rất nhiều
nghĩa rốt ráo hoàn toàn không giống nhau của chúng. Do câu không biến
đổi, không điên đảo chính là nói rõ lý do danh xưng khác. Nguyên vì
tánh không của các pháp là như thế, luôn luôn là như thế, vĩnh viễn
không biến đổi. Con người và sự vật thì không giống, hiện tại là
như thế, qua một giây thì hoàn toàn không phải như thế. Còn chỗ gọi
Chân Như, nghĩa là khắp tất cả các pháp luôn luôn không chuyển
biến, nên gọi là chân như. Do không điên đảo đây, đó là giải thích
hai chữ Thật Tế, ý nghĩa của thật tế nghĩa là chỗ thấy biết của
Tâm cho là như thế, trên sự thật cũng là như thế, mảy may không một
điểm sai lầm. Giả sử sự thật không như thế, lầm
cho là như thế, hoặc không thật mà nói là thật, tức là hoàn toàn
không đúng thật tế. Không điên đảo cũng là như thế, nghĩa là không
có một điểm điên đảo nào cả, thật tế như thế nào thì nói như thế
đó không một điểm hư dối. Như không thì nói không, có thì nói có,
nên thật tế chính là ý nghĩa không điên đảo. Tướng diệt đây là
giải thích vô tướng. Các tướng vốn là căn cứ theo chỗ thâu ảnh của
tâm tưởng rồi phân biệt tinh tế mà lập danh xưng và định nghĩa; giả
sử nhờ quán không nên thông suốt được năng thủ và sở thủ đều là
không, dẫn đến phát sanh được trí không, diệt được tướng phân biệt,
tức là không có tướng, cho nên gọi tướng diệt tức là không tướng.
Thánh Trí Cảnh đây, là giải thích tên khác của Tánh Thắng Nghĩa:
Thắng Nghĩa cũng gọi là đệ nhất, như ngài Tam Tạng Chân Đế liền
phiên dịch chữ Thắng là đệ nhất. Vô Luận Thắng cùng Đệ Nhất đều
là nói đến từ Thánh Trí của xuất thế gian, tột cùng của Thánh Trí
là trí tuệ của quả Phật, cảnh giới chỗ chứng đắc của Thánh Trí gọi
là Thắng Nghĩa, nguyên vì chữ Nghĩa đây tức là chỉ cho cảnh giới.
Cảnh Thắng Nghĩa tuy là nói tánh không của tất cả pháp, nhưng tâm
phàm phu đều không thể thấy, kẻ thấy được tất nhiên là Thắng Trí
của bậc Thánh, vì thế cảnh giới của Thánh Trí chứng đắc gọi là
Tánh Thắng Nghĩa. Và nhân của các Thánh pháp là trình bày rõ các
pháp giới: Kinh Kim Cang nói rằng: “Ba Thừa đều do pháp vô vi là có
sai biệt”, nghĩa là các thứ phước đức, trí tuệ, từ bi đều nương tựa
nơi sự chứng đắc tánh không vô vi mà có sai biệt, là nhân của
thánh pháp trong Tánh Không. Hiểu rõ Tánh Không đây tức là không
điên đảo mà chứng được công đức thanh tịnh giải thoát. Giả sử không
hiểu rõ chính là thường bị lưu chuyển ở trong sanh tử. Cho nên nói nhân
của tất cả Thánh pháp gọi là pháp giới, chữ Giới tức là nhân.
Hiểu rõ Giới đây thì có thể phát sanh tất cả pháp công đức của chư
Phật và diệt trừ được tất cả pháp vô minh phiền não hữu lậu.
Kỳ thật, một số danh xưng khác đây
chung quy cũng chỉ không ngoài một danh xưng là Tánh Không, nguyên vì
ý nghĩa của mỗi mỗi riêng khác cho nên kiến lập rất nhiều danh xưng,
như nguyên do Tánh Không của các pháp luôn luôn là như thế, không
bao giờ bị biến đổi, nên gọi là Chân Như. Quán sát các pháp không
sai lầm nên gọi là Thật Tế. Diệt trừ các tướng phân biệt nên gọi
là Không Tướng. Là cảnh sở duyên của Thánh Trí nên gọi là Tánh
Thắng Nghĩa. Là Nhân của tất cả Thánh pháp sanh khởi nên gọi là
Pháp Giới. Các tên như thế ở trên đã giải thích. Chúng đều là các
chữ của câu thứ tư, biểu thị có nhiều danh xưng.
b/4-
Tướng Nhiễm Tịnh:
Bài Tụng:
“Tạp nhiễm thanh tịnh đây, do hữu cấu (có nhơ bẩn) vô cấu (không nhơ bẩn), như cõi nước
không vàng, cố nhiên đã tịnh chỉ là tịnh.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh tướng
của các pháp nhiễm tịnh. Ngày hôm qua đem ba đoạn đã giảng trong bảy
đoạn thuyết minh tánh không là nói rõ về Lý Do, nói rõ về Tướng Không
và nói rõ về Pháp Môn Khác. Hiện tại chính là giảng pháp môn
Tướng Nhiễm Tịnh của đoạn thứ tư. Giải thích Pháp Môn là trình bày
pháp môn sai biệt. Tánh của hai không mặc dù mãi mãi không biến, ở
nơi chúng sanh là như thế, ở nơi quả Phật cũng là như thế; nhưng ở
trên địa vị chúng sanh và địa vị quả Phật, Tánh Không có thể hiển
bày tướng sai biệt của nó. Ở nơi địa vị chúng sanh, Tánh Không thì
hiển bày cái không của các pháp tạp nhiễm, còn ở nơi quả Phật và
địa vị của tánh ba Thừa thì lại hiển bày cái không của pháp thanh
tịnh. Tánh Không tuy bình đẳng thường không biến đổi, nhưng Tánh Không
của địa vị phàm phu thì tạp nhiễm, cùng đồng nhất với hư không, như ở
hàn đới thì hư không lạnh, ở nhiệt đới thì hư không nóng, có thể
tuỳ theo chỗ mà khác đi. Tánh Không thì cũng như thế, ở phàm phu thì
nhiễm, ở quả Phật thì tịnh, cho nên có sai biệt.
Chữ Đây trong bài Tụng là hiển bày
chung hai tướng tạp nhiễm và thanh tịnh, tức là ở trên một Tánh
Không có chỗ tạp nhiễm và có chỗ thanh tịnh khác nhau. Tại làm sao
có tạp nhiễm và thanh tịnh? Chính là do có nhơ bẩn và không nhơ bẩn.
Chân Như sở dĩ có nhơ bẩn là do bởi phiền não và hai chướng sở tri (hai chướng sở tri là chấp đoạn và
chấp thường); hai chướng sở tri đây không chỉ có mặt ở trong phàm
phu mà cũng có mặt trong chính các bậc Thánh ba Thừa, hai chướng sở
tri đã hoàn toàn không có thanh tịnh và lại cũng có nhơ bẩn ở chân
như. Nơi ba Thừa sự nhơ bẩn chẳng qua chưa hoàn toàn thanh tịnh, nhưng trong
đó cũng đã có thanh tịnh một phần, không giống như hạng phàm phu chưa
chứng quả họ đã hoàn toàn nhơ bẩn. Đến quả vị Phật thì thanh tịnh
viên mãn cứu cánh không nhơ bẩn, cho nên nói rằng có nhơ bẩn và
không nhơ bẩn. Không nhơ bẩn (vô
cấu) cũng gọi là lìa khỏi
nhơ bẩn (ly cấu), nghĩa là đã lìa
khỏi tất cả tạp nhiễm nhơ bẩn. Nói như thế, Tánh Không ở nơi địa vị
chúng sanh thì tạp nhiễm, tinh tấn chuyển đến địa vị quả Phật thì hoàn
toàn thanh tịnh, đấy chẳng phải là cái vô thường chuyển biến hay sau?
Thật ra thì không phải như thế.
Nhân vì Tánh Không mặc dù có nhiễm
tịnh và phần vị có nhơ bẩn không nhơ bẩn khác nhau, nhưng bản thân
của Tánh Không khắp tất cả pháp nhiễm tịnh thì lúc nào cũng như
thế, không bị nhơ bẩn và thanh tịnh làm ô nhiễm, cũng giống như thủy
giới (cảnh giới của nước) trong
sáu cõi là đất, nước, lửa, gió, không, thức, có khi bùn nhơ đục
ngầu, đây không phải bản thân của thủy giới đục ngầu mà chính là
do đất đai chen vào trong nó làm đục ngầu và đây không phải thủy
giới hoàn toàn đục ngầu, mà do địa giới chen vào lẫn lộn trong nó
tạo thành tướng đục ngầu. Như thế Tánh Không cũng là cùng khắp tất
cả pháp và luôn luôn vẫn thanh tịnh, do vì Tánh Không ở trong pháp
hữu lậu cho nên trở thành tạp nhiễm. Lại nữa cũng như vàng rồng khi
ở trong khoáng chất, mặc dù bảo là vàng quặng, mà chất vàng thì
không bị biến và vàng rồng không bị mất, mặc dù có chất tạp chen
lẫn trong nó, nhưng tự thân của vàng thì rất thuần tịnh. Lại nữa như
hư không, hư không của nhiệt đới, hư không của hàn đới, tùy theo chỗ
mà có sai biệt, nhưng tự thể của hư không vẫn là không, lạnh và
nóng là do biến động của hoả giới, không phải do biến động của hư
không. Sở dĩ Tánh Không ở chỗ chúng sanh thì có nhơ bẩn, ở chỗ Phật
thì không nhơ bẩn, chỉ là do có và không của phiền não..v..v......,
không phải Tánh Không có biến. Nguyên vì Tánh Không luôn luôn vẫn
là thanh tịnh, không phải trước nhiễm rồi sau mới tịnh. Từ đó cho
biết Tánh Không đích thực là không nhơ bẩn không thanh tịnh, chẳng
phải không thanh tịnh mà được thanh tịnh, hoặc do nhơ bẩn mà được thanh
tịnh. Đúng ra không thanh tịnh đây, không phải tự thể của Tánh Không
không thanh tịnh, mà chính là do phiền não khách trần chen vào trong
nó làm tạp nhiễm, cũng như nước bị đất chen vào làm đục ngầu, đục
ngầu chính là do đất. Tánh Không là thuần nhất, là luôn luôn vẫn
thanh tịnh mà không có không thanh tịnh, đây chính là trên vị trí nhiễm
tịnh mà hiểu rõ được Tánh Không.
b/5- Tướng Sai Biệt:
Bài Tụng:
“Tướng sai biệt của không, ở trong Kinh nói có mười bốn thứ,
mười sáu thứ, mười tám thứ, hai mươi thứ..v..v..…. Không tuy là một
và tùy theo tất cả pháp mà phân biệt không, cho nên có tướng khác,
gọi là Tướng Sai Biệt của Tướng Không.”
“Năng lực ăn và chỗ ăn, nương nơi thân này, chỗ trụ (vũ trụ)ï, khả năng
thấy nó, như lý, chỗ cầu hai (hữu vi, vô vi) tịnh không. Là thường lợi ích hữu tình, vì không xả sanh tử,
vì thiện vô cùng tận, nên quán đây là không. Vì chủng tánh (niết bàn và bồ đề) thanh tịnh, vì đắc các tướng hảo, vì
tịnh pháp của chư Phật, cho nên Bồ Tát quán không.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng trên đây là trình bày rõ,
cộng chung có mười bốn thứ Không:
1/- Không của năng lực ăn đây, ở
trong Kinh Bát Nhã gọi là Nội Không
(Không ở bên trong). Bên Trong nghĩa là chỉ cho sáu Căn ở trong,
sáu Căn đây có năng lực thâu hút sáu trần cảnh bên ngoài để tự
tẩm bổ tăng trưởng, cho nên Căn thì có năng lực ăn, tức là có
năng lực đem tự thể bên ngoài mà thâu vào nơi tự thể bên trong để
tiêu hoá dinh dưỡng. Quán sáu Căn là không, nghĩa là chỉ cho năng
lực ăn là không.
2/-
Không của chỗ ăn đây là chỉ cho sáu Trần bên ngoài, trong Kinh gọi
là Ngoại Không (Không ở bên
ngoài). Sáu Trần là chỗ để duyên, nên gọi là chỗ ăn.
3/- Nương nơi thân này đây, trong Kinh
bát Nhã gọi là Nội Ngoại Không (Không
cả bên trong và bên ngoài). Đúng ra sáu Căn thật sự chính là
Tịnh Sắc Căn ở trong thân, thể của nó rất tinh tế, có khả năng
phát ra sự hiểu biết của con mắt, của lỗ tai..v..v...... thuộc thô
trọng mà không thể thấy được. Sắc thô trọng đây nơi trong Kinh Phật
có biệt danh là Căn Y Xứ (Căn là
chỗ nương tựa của Thức). Năm Căn trước nơi Sanh Lý Học hiện nay
gọi là hệ thống thần kinh, có chỗ gọi là Thị Thần Kinh, Thính Thần
Kinh..v..v...... đều không thể thấy được chúng ở mặt ngoài. Ngày nay
Khoa Học tiến bộ dùng Thấu Quang (X
- ray), Kiến Hiển Vi..v..v...... có thể thấy được, nơi trong Phật
Pháp cũng nói Thiên Nhãn có thể thấy được, đây chính là Sắc Pháp
rất vi tế, có khả năng phát khởi năm Thức trước. Nếu thêm Ý Căn
nữa thì thành sáu Căn. Sáu Căn đây đều nương tựa nơi thân, thân tức
là chỗ nương tựa của sáu Căn này, nên gọi là Thử Y Căn (Đây là chỗ nương tựa của Căn).
Mà Thân này cũng là chỗ nương tựa của năm Trần bên ngoài. Thân
làm chỗ nương tựa đây thông suốt qua cả trong và ngoài nên gọi là không,
vì thế cái không của thân làm chỗ nương tựa đây gọi là Nội Ngoại
Không.
4/- Chỗ Trụ đây trong Kinh Bát Nhã
gọi là Đại Không (Thế giới);
Trụ chính là thế giới, là chỗ trụ của thân thể, đồng thời chỗ trụ
đây cũng là vũ trụ khí thế gian, cũng là cực đại, cho nên gọi là
đại không.
5/- Công Năng thấy đây, trong Kinh
Bát Nhã gọi là Không Không (Trí
quán không và Trí Quán cũng không). Không Không nghĩa là trí quán
không có công năng quán sát mặt trước của nội không, ngoại không, nội
ngoại không, đại không..v.. v...... mà trí có công năng quán đây
cũng là không, nên gọi là Không Không.
6/- Như Lý đây, gọi đủ là Tức Như,
Tức Lý. Tức Như, nghĩa là nó chính chân lý mà không có sai trái;
Tức Lý, nghĩa là nó đã như thế mà thấy nó cũng như thế. Như Lý
Không đây, ở trong Kinh Bát Nhã gọi là Thắng Nghĩa Không. Thắng Nghĩa
tức là chỉ cho cảnh sở duyên không sai trái của trí tối thắng không
phân biệt, cho nên như lý không tức là Thắng Nghĩa Không.
7/- Chỗ cầu Hai Tịnh Không, Hai đây
tức là chỉ cho hai pháp hữu vi và vô vi. Hai Tịnh tức là nói rõ Bồ
Tát cầu chánh kiến, tu chánh hạnh, tu tư lương tích phước đức và trí
tuệ, tất cả đều là do vì mong cầu hữu vi tạp nhiễm và vô vi nhơ bẩn
cuối cùng trở thành thanh tịnh, cho nên Bồ Tát luôn luôn lúc nào
cũng quán không. Chữ Không đây, nơi trong Kinh Bát Nhã gọi là Không
Hữu Vi, Không Vô Vi, cũng tức là chỉ cho không hữu vi của Thức thứ
bảy và không vô vi của Thức thứ tám.
8/- Vì thường lợi ích hữu tình đây,
nghĩa là tất cánh không (rốt ráo
không) thứ tám, tức là Bồ Tát tu tập quán không suốt tận cùng
bờ mé vị lai, thường làm lợi ích hữu tình, không có chán nản, không
có mệt mỏi. Nhân vì quán không, Bồ Tát không thấy mình thường làm
lợi ích và hữu tình chỗ được lợi ích, quán chiếu cả hai rốt ráo đều
không, cho nên gọi là Tất Cánh Không.
9/- Vì không xả sanh tử đây là
Không Vô Tế (không, không có bờ
mé), nghĩa là không có bờ mé giới hạn của ba đời, như là không
có quá khứ, không hiện tại, không vị lai, cũng gọi là Vô Thỉ Không,
tức là không có bờ mé khởi đầu. Như quán sát sanh tử thì không có
bờ mé của ban đầu, của chính giữa và của cuối cùng, mà Bồ Tát
nhân vì thường độ chúng sanh, không chán sanh tử, cũng không sợ sanh
tử, nên gọi là Không Xả Sanh Tử.
10/- Vì Thiện Không Cùng Tận đây,
nghĩa là chỗ tu tất cả thiện pháp tư lương phước trí của Bồ Tát, như bố thí vô
tướng..v..v...... công đức của nó là không thể nghĩ bàn, cho nên chỗ
tu thiện hạnh là không cùng tận.
11/- Không Vô Tán (là không tan mất) thứ mười một. Công đức tu thiện của
Bồ Tát vĩnh viễn không tan mất, viên mãn bồ đề vô thượng, tương tục
không dứt, thành công đức tạng vô tận, nên gọi là Không Vô Tán.
Cho nên chỉ cần quán một câu Không đây thì kết quả thành ba Không (Ngã không, pháp không, ngã pháp đều
không).
12/- Vì Chủng Tánh Thanh Tịnh đây là
bản tánh Không thứ mười hai. Nhị Thừa thì có chủng tánh Niết Bàn,
Bồ Tát thì có chủng tánh Bồ Đề, đây là hai tướng chủng tánh thanh
tịnh. Nếu rõ bản tánh thanh tịnh của hai tướng chủng tánh đây thì
khiến ra khỏi phiền não vô minh, cho nên Bồ Tát muốn được như thế
cần phải quán không tất cả năng thủ sở thủ, ngã chấp pháp chấp,
khiến bản tánh thanh tịnh lìa khỏi chướng ngại của hai tướng thanh tịnh
nói trên, nên gọi là Bản Tánh Không.
13/- Vì Tướng Công Đức Quả Phật đây
là Tướng Không thứ mười ba, nghĩa là tu thành ba mươi hai tướng quả
Phật, tám mươi vẻ đẹp, vì tướng công đức quả Phật cho nên Bồ Tát
thường tu Pháp Không. Nhờ tu Pháp Không, Tướng của quả Phật mới có
thể viên mãn, nên gọi là Tướng Không.
14/- Vì pháp thanh tịnh của chư Phật
đây là tất cả Pháp Không thứ mười bốn. Tất cả pháp tức là chỉ cho
tất cả pháp hữu vi và vô vi; vì muốn chứng được tất cả pháp viên
mãn thanh tịnh, cho nên Bồ Tát thường tu Pháp Không, đây gọi là tất
cả Pháp Không.
Mười bốn thứ Không trở lên là
phân biệt Tánh Không rất rõ ràng, Luận đây so cùng Bát Nhã thì
cũng giống nhau. Luận này thì có mười bốn thứ không và Bát Nhã thì
có mười sáu thứ không. Trong mười sáu thứ không, có hai thứ không
chính là Vô Tánh Không và Vô Tánh Tự Tánh Không. Hai thứ không đây
trong Luận này thì không có đề cập đến. Hai thứ không nói trên của
Bát Nhã sau đây sẽ giải thích nơi đề mục: Phân Biệt Chỗ Không.
b/6-
Biện Minh Chỗ Không:
Bài
Tụng:
“Bổ Đặc Già La (Pudgala), pháp; thật tánh đều chẳng phải có, vì không tánh và có tánh
đây, nên biệt lập hai Không.”
Giải Nghĩa:
Hai thứ Không của Bát Nhã ở mục
mười lăm và mười sáu đã đề cập trong bài Tụng, giờ đây đem ra giải
thích. Hai câu trước trong bài Tụng là nói về thật tánh không của
Bổ Đặc Già La, thật tánh của các pháp cũng là Không. Nói cách
khác: tức là chỉ cho Sanh Không và Pháp Không, lý do bởi nhân và
pháp đều không có thật tánh. Chữ Không tức là ý nghĩa của Chẳng
Phải Có.
Bổ Đặc Già La (Pudgala) là dịch âm của tiếng Phạn, người xưa dịch là
nghĩa: có thuyết nói là người, có thuyết nói là chúng sanh, đều là
nghĩa xác thật, tức là chỉ cho Số Thủ Thú. Chữ Thú nghĩa là cõi,
tức là chỉ cho sáu cõi: người, trời..v..v......; chữ Thủ nghĩa là chọn
lấy; Thủ Thú nghĩa là nghiệp báo chọn lấy sáu cõi; chữ Số là nghĩa
thứ bậc liên lụy, hiển bày vấn đề sanh tử tử sanh tương tục không
gián đoạn trong sáu cõi, nên gọi là số thủ thú. Nói cách khác, số
thủ thú nghĩa là sáu cõi chọn lấy nghiệp báo quan hệ. Đây là chỉ
cho nghĩa của Bổ Đặc Già La. Chữ Có của Bổ Đặc Già La đây chính là
có cá thể ngã thật tại, như thân người của chúng ta đây, người
chết rồi thì sanh thiên, Thiên chết rồi thì đọa Địa Ngục, đây chính
là có cá thể Ngã. Nếu không có cá thể Ngã thì ai sanh lên trời và
ai đoạ xuống Địa Ngục? Không phải chết rồi là kết thúc? Do đó quyết
định có cái Ngã làm chủ thể để chọn lấy sáu cõi. Nơi trong Phật
Pháp thì nói không có Ngã Thể thật tại này, nó sanh sanh tử tử cảm
thọ quả báo đều là do pháp Ngũ Uẩn hoà hợp tương tục thành hình. Mỗi
lần sanh tử đây, nghĩa là mỗi lần sanh chính là do Ngũ Uẩn hoà hợp,
chẳng qua có mỗi kỳ mỗi kỳ biến đổi khác đi mà thôi, không phải
đặc biệt có cái Thật Ngã tương tục.
Còn chữ Pháp đây, Pháp tiếng Phạn
là Đạt Nhĩ Ma (Dharma), Trung Hoa
dịch là Pháp. Chữ Pháp thông thường so sánh thì có nhiều nghĩa, phàm
tất cả những gì hiện hữu đều gọi là Pháp, như chúng chẳng tồn tại
nên gọi là Vô Pháp (Pháp không).
Nghĩa rộng của chữ Pháp chính là chỉ cho vạn pháp trong vũ trụ. Vạn
pháp mặc dù rộng lớn nhưng không ngoài hai loại phân biệt: Năng và
Sở. Hai loại Năng và Sở đây đều do Duy Thức biến hiện và các duyên
hợp thành. Cho đến Pháp Tánh hiện bày trong pháp Năng và Sở cũng
chính là Tướng Vô Phân Biệt hiện bày trong pháp phân biệt. Tướng Vô
Phân Biệt thì nương nơi nghĩa mặt trái của Hữu Phân Biệt để hiện
bày. Từ đó cho biết, tất cả pháp, không luận pháp gì đều không ra
khỏi định luật là do các duyên hợp thành và do Duy Thức hiển hiện.
Nếu dựa theo pháp mà chấp cho là thật, đó gọi là chấp pháp; còn
dựa theo Bổ Đặc Già La mà chấp cho là ngã, đó gọi là chấp ngã. Thí
dụ như nhìn hạt đậu xanh, ban đầu xem giống như có vật chất thật tại,
nếu căn cứ theo Vật Lý Học cận đại, hoặc Hoá Học phân tích nó,
hoặc dựa theo bốn Đại Sắc Pháp của Phật Pháp phân tích nó, cuối
cùng xác nhận cho là có thật thể tồn tại, đó chẳng qua chỉ là loại
Cực Vi Trần đã được giả lập trên tri thức phân tích và cực vi trần
này đúng ra không phải tiếng, không phải mùi vị. Chúng ta hiện tại
có thế thấy, có thể nghe, chỉ là hình tượng hão huyền của nhiều Cực
Vi kết hợp, không phải thật thể. Kết cuộc, thật thể của nó ngược
lại không thể thấy nghe. Vả lại, Hoá Học và Vật Lý Học ngày nay,
khảo sát qua thời gian dài nhận thấy: Từ nguyên chất đến phân tử,
từ phân tử đến nguyên tử, từ nguyên tử đến điện tử, nguyên tử cũng
do điện tử tổ hợp thành. Huống chi Chất (Lực) của Hoá Học nghiên cứu, lại có thể tiêu hoá trở
thành năng lực; vì thế Hoá Học đến cuối cùng thì cũng hoà đồng vào
Vật Lý Học, Chất của Hoá Học rốt cuộc cũng hoàn toàn không tồn
tại độc lập. Chất đây sau cùng được mang danh nghĩa thật thể, chẳng
qua chỉ là giả tướng được thành lập trên tri thức của học giả
chuyên môn, vừa đúng với nghĩa biến hiện của Duy Thức. Từ đó có
thể chứng minh rằng các pháp rốt ráo không có thật tánh, tức là
không có thật tánh Bổ Đặc Già La; do vì các pháp không có thật
tánh cho nên gọi là Vô Tánh Không (là
cái Không không có thật tánh). Vô Tánh Tự Tánh Không (là cái Không không có tánh của Tự
Tánh), nghĩa là không có thật tánh của Bổ Đặc Già La và không
có thật tánh của các pháp. Nói ngược lại, Vô Tánh Tự Tánh Không
đây là chỉ cho hai cái không của nhân và pháp, hoặc chỉ cho hai vô tánh; hai Vô Tánh
của nhân và pháp cũng là chỉ cho tự tánh chân thật của nhân và
pháp, tự tánh đây tức là không, cho nên gọi là Vô Tánh Tự Tánh
Không. Một câu hai Không biệt lập nói trên là tổng kết lại thành
hai Không này.
b/7- Biện Minh Thành Lập:
Bài Tụng:
“Đây nếu không tạp nhiễm, tất cả nên tự thoát. Đây nếu
không thanh tịnh, công dụng nên không quả. Chẳng phải nhiễm chẳng
phải không nhiễm, chẳng phải tịnh chẳng phải không tịnh..v..v......
Bản tánh của Tâm vốn là thanh tịnh, do khách trần làm ô nhiễm.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây trên lý luận là
thuyết minh thành lập Tánh Không như thế nào. Trong Tánh Không có
thể có tất cả pháp tạp nhiễm, cũng có thể lìa khỏi pháp tạp nhiễm
để được thanh tịnh, cho nên bản thân của tánh không chính là thanh
tịnh không phải ô nhiễm, hiểu rõ nghĩa này tức là hiểu rõ tánh không.
Hai câu đây nếu không tạp nhiễm là thuyết minh tánh không của các
pháp nơi trước kia chưa có đối trị, còn nếu như không có dung chứa các
pháp tạp nhiễm ở trong tánh không thì tánh không đây luôn luôn lúc
nào cũng đã phổ biến, nhờ đó tất cả hữu tình không cần phải tu
hành mà tự nhiên cũng được giải thoát. Nhưng vì tánh không có thể
dung nạp các pháp tạp nhiễm, cho nên chúng sanh ở trong các pháp tạp
nhiễm tạo nghiệp thọ sanh không được giải thoát, vì thế cốt yếu ở
chỗ cần phải tu hành thì mới có thể giải thoát. Hai câu nếu không
thanh tịnh đây, nghĩa là trình bày nếu như đối với tham mà tu bố thí,
đối với sân mà tu nhẫn nhục cho đến đối với tán loạn mà tu thiền
định, các pháp đối trị này mặc dù đã hành trì, nhưng đối với các
pháp tạp nhiễm vẫn không thể diệt trừ để được thanh tịnh thì việc tu
hành mong cầu giải thoát đấy phải chăng là cần lao vô ích không có
hiệu quả hay sao? Thật ra tánh không đây có thể diệt trừ các pháp
tạp nhiễm để cùng các pháp thanh tịnh tương ưng, cho nên hành trì pháp
tu, cũng chính là hành trì pháp định đều có kết quả lợi ích như nhau.
Sở dĩ trong tánh không mặc dù có các pháp tạp nhiễm, nhưng có thể
đối trị để trở thành thanh tịnh, tánh không mặc dù thường phổ biến
nơi tất cả pháp nhiễm, nhưng tánh không vốn đã thanh tịnh cho nên mãi
mãi vẫn thường tại không bị biến đổi. Tụng nói chẳng phải nhiễm
chẳng phải không nhiễn..v..v......, hai câu trước là mục tiêu, hai
câu sau là lý do. Dùng Nhân Minh để trình bày: tánh không đây chẳng
phải nhiễm chẳng phải không nhiễm đó là Tông Chỉ, Tâm Tánh vốn
thanh tịnh đó là Nhân. Câu thứ hai chẳng phải thanh tịnh chẳng phải
không thanh tịnh cũng giống nhau như câu một đó là Tông Chỉ, tánh không
do khách trần làm chỗ ô nhiễm đó là Nhân, cho nên tánh không,
không là thanh tịnh và cũng chẳng phải vốn là ô nhiễm. Thuyết minh
Tâm Tánh chính là hiển bày nghĩa lý tất cả pháp là Duy Tâm.
(Phẩm biện minh thứ hai)
2/- Biện Minh Chướng:
Phẩm Biện Minh Chướng đây là Phẩm
thứ hai trong bảy Phẩm. Chướng nghĩa là che kín và ngăn ngại, có thể trái
ngược và tổn hại. Tuy cùng một loại Pháp Chướng, có một loại cho
là Chướng, riêng có một loại không cho là Chướng, như Sở Tri Chướng
có thể chướng ngại kẻ tu Bồ Tát Hạnh mong cầu chứng quả Phật, nhưng
đối với kẻ phát tâm Tiểu Thừa chỉ mong cầu chứng quả Niết Bàn thì
không có chướng ngại. Phẩm đây thuyết minh tinh tường, cộng chung chia
làm bốn đoạn:
a)-
Năm Chướng:
Bài Tụng:
“Cụ phần (chướng) và nhất phần (chướng), tăng thạnh (chướng) cùng bình đẳng (chướng), nơi sanh tử
thủ xả (chướng), thuyết minh
tánh hai chướng (Phiền não và Sở tri).”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh năm
Chướng: một là Cụ Phần Chướng, hai là Nhất Phần Chướng, ba là Tăng
Thạnh Chướng, bốn là Bình Đẳng Chướng, năm là Sanh Tử Thủ Xả
Chướng. Năm thứ chướng đây chính là chỗ làm chướng ngại hai thứ
chủng tánh của Thinh Văn và Bồ Tát. Giờ đây xin biện minh sự sai
biệt của chúng; như trong năm Chướng, Cụ Phần Chướng thì chỉ quan hệ
nơi Bồ Tát mà không quan hệ nơi Nhị Thừa và cũng có hai thứ quan hệ
đầy đủ cả Bồ Tát và Nhị Thừa, như Tăng Thạnh, Bình Đẳng Chướng, xin
phần sau sẽ giải thích rõ hơn.
Nói Cụ Phần Chướng đây chính là hai
chướng phiền não và sở tri cùng nhau có thể chướng ngại Bồ Tát
phát tâm Đại Thừa mong cầu quả Phật; hai chướng này nhất định phải
đối trị cho kết thúc thì mới có thể chứng đặng Bồ Đề; nếu chỉ đối
trị phiền não chướng mà chưa đối trị sở tri chướng thì quyết định
không thể chứng được quả Phật, cho nên đối với Bồ Tát phiền não
và sở tri toàn phần là chướng ngại. Hai danh xưng phiền não và sở tri
chỗ đây chưa ghi rõ, phải đợi một bài Tụng sau cùng thì mới đề cập
đến. Phiền não chính là Tham, sân..v..v...... thuộc Căn Bản Phiền Não
và Tật, San..v..v...... thuộc Tùy Phiền Não. Bản thân của phiền não
chính là chướng, phiền não tức là chướng, trong Lục Ly Hiệp Thích
cũng gọi là Trì Nghiệp Thích (Nghiệp
thích bảo trì). Nhân vì một số tham..v..v...... là phần tử phá rối
trong giới tinh thần, khiến nhiễu hại không yên ổn, nên gọi là
phiền não chướng. Sở Tri Chướng đây, bản thân không phải là chướng,
chỗ thường chướng ngại chính là vô tri hoặc vô minh; Vô Tri là đủ
các thứ ngu si bạc nhược không có năng lực cho nên làm chướng ngại.
Như nói rằng: Sở Tri, bản chất không phải là chướng, mà chướng (vô tri) mới đích thực làm chướng
ngại sở tri. Nguyên do sở tri là thuộc về Cảnh và năng tri thì thuộc
về Tâm; Tâm thì có thể hiểu biết tất cả pháp tánh, pháp tướng,
pháp hành, pháp quả của cảnh, nhưng Tâm vô trí vô lực mới rõ ràng
chính là chướng ngại sở tri, cho nên gọi là sở tri chướng. Như chư Phật
thì có đại Trí đại Lực biến khắp tất cả pháp, còn Bồ Tát thì không
có công đức đại Trí đại Lực này, cho nên chưa có thể chứng đặng Vô
Thượng Bồ Đề. Vì chứng Vô Thượng Bồ Đề tất nhiên đem trí đức vô
biên tu tập cho được đầy đủ. Sở Tri Chướng đây đối với người chỉ
cầu chứng đặng quả Niết Bàn thì không làm chướng ngại. Nhân vì hàng
Nhị Thừa chỉ một mục đích là tính toán làm cách nào giải thoát sanh
tử thống khổ trong ba cõi, đều không mong cầu Vô Thượng Bồ Đề. Kế
đến Nhất Phần Chướng đây, nghĩa là một phần phiền não chướng chỉ làm
chướng ngại cho hàng Nhị Thừa. Còn nói Tăng Thạnh đây, tức là giảng
phiền não của chúng sanh: Như Tham Tăng Thạnh nghĩa là phần hành động
của tham, Sân Tăng Thạnh nghĩa là phần hành động của sân; lại nữa
mặc dù có tham và sân nhưng không nặng, chỉ có si mới là nặng, cho
nên gọi là Si Phần Tăng Thạnh Hành (Phần
Si thạnh hành tăng trưởng). Các phiền não tăng thạnh có thể làm
chướng ngại lớn cho việc cầu giải thoát, tất nhiên cần phải đem một
số phiền não tăng thạnh đây đi đối trị đi xuống thì mới có thể
chứng đặng quả Thánh để hoá độ lợi lạc hữu tình. Còn nói Bình Đẳng
đây, chữ Đẳng gọi là Đẳng Phần, nghĩa là phiền não Tham
Sân..v..v..... sai biệt không nhiều, thế lực không có mạnh yếu gọi
là Đẳng Phần Hành (Phần hành động
bình đẳng). Nơi Sanh Tử Thủ Xả đây, nghĩa là chuyên làm chướng
ngại cho Bồ Tát Đại Thừa, nhân vì hạng phàm phu thì chấp lấy nơi sanh
tử, hàng Nhị Thừa thì xả bỏ nơi sanh tử, hàng Bồ Tát nơi sanh tử mặc
dù không chấp lấy và cũng không xả bỏ. Tại sao thế, nguyên do Bồ
Tát dùng trí tuệ thấu rõ tất cả pháp đều là Không, cho nên nơi
nghiệp quả hữu lậu không có chỗ để chấp lấy; đồng thời lại dùng
Tâm Đại Bi luôn luôn cứu độ chúng sanh. Bồ Tát thật hành như thế
được xem là đã thành Phật và cũng là đang thị hiện sanh tử. Như vào
Thai, Xuất gia cho đến thành Phật, vào Niết Bàn, tất cả đều là thị
hiện; nhân là thị hiện, mặc dù thị hiện sanh tử nhưng không bị sanh
tử ràng buộc, đương thể vắng lặng, ngay lập tức là Niết Bàn, nơi
sanh tử không có chỗ thủ xả, cho nên trở thành Vô Trụ Đại Niết
Bàn. Nếu như đã có thủ xả thì trở thành chướng ngại cho Bồ Tát
Hạnh, không thể chứng đặng Vô Trụ Đại Niết Bàn.
Từ năm Chướng trên, Cụ Phần là
chuyên chú ý đối với Bồ Tát Thừa, còn Nhất Phần thì chỉ chú ý đối
với Nhị Thừa. Tăng Thạnh, Bình Đẳng hai chướng quan hệ cả Đại Thừa
và Tiểu Thừa. Nơi Sanh Tử Thủ Xả cũng chỉ chướng ngại Bồ Tát Thừa
nhưng không chướng ngại Nhị Thừa. Sự phân chia năm Chướng đây chính
là căn cứ nơi sự không giống nhau của Đại và Tiểu hai Thừa mà trình
bày.
b)-
Chín Kết:
Bài Tụng:
“Chín thứ phiền não tướng, gọi là Ái..v..v...... gồm chín kết (trói buộc): hai chướng
Yểm và Xả ban đầu; ngoài bảy chướng Chân Kiến, gọi là năng chướng
Thân Kiến; Bỉ sự (sư việc của thân kiến), diệt, đạo, bảo; lợi dưỡng cung
kính..v..v......; xa lìa biết cùng khắp.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh chín
kết. Chữ Kết (trói buộc) chính
là phiền não. Ở trong các Kinh Luận khác hoặc gọi là Tố Triền (trói buộc), Tuỳ Miên đều là biệt
danh của phiền não. Chữ Kết có chín thứ, tức là có chín thứ phiền
não trói buộc hữu tình ở trong sanh tử, không cho giải thoát. Chín
Kết đây: 1. Ái Kết, 2. Khuể Kết (oán
giận trói buộc), 3. Mạn Kết, 4. Vô Minh Kết, 5. Kiến Kết (Biên kiến trói buộc), 6. Thủ Kết (chấp lấy trói buộc), 7. Nghi Kết,
8. Tật Kết (ganh tị trói buộc),
9. San Kết (keo kiệt trói buộc).
Chín thứ này so cùng mười thứ phiền não có hơi khác nhau, thực ra
chính là bảy thứ của Căn Bản Phiền Não và hai thứ của Tùy Phiền
Não. Chữ Tham của Căn Bản Phiền Não trong đây là chỉ cho Ái Kết;
Chữ Sân trong đây là chỉ cho Khuể Kết. Hai thứ Ái Kết và Khuể Kết
thường chướng ngại Yểm và Xả (chán
ghét và xả bỏ), nhân vì Ái mà gặp cảnh thuận liền trở nên ái
trước thì không thể lìa chán, như ái trước nơi cảnh giới tốt đẹp thì
quyết định không thể lìa chán. Nếu muốn siêu thoát ba cõi thì nhất
định phải lìa chán ba cõi, cũng như muốn vãng sanh Tịnh Độ mà không
muốn lìa chán uế độ thì trên căn bản làm sao có thể vãng sanh được?
Đó gọi là Ái Kết. Khuể kết của Sân thì cũng giống như thế, nghĩa
là nhân vì Sân Khuể (oán giận)
có thể phát động chính là do nghịch cảnh ứ động nơi tâm, Tâm lý luôn
luôn căm ghét thì đối với cảnh nghịch không thể xả bỏ, cho nên trở
thành Khuể Kết. Ngoài ra bảy thứ Kết còn lại chính là Mạn Kết, Vô
Minh Kết, Kiến Kết, Thủ Kết, Nghi Kết, Tật Kết, San Kết. Bảy thứ Kết này thường chướng ngại cho Chân
Kiến, khiến không thể thấy được chân lý các pháp, cho nên bốn câu
Tụng dưới đây sẽ giải thích:
1, Mạn Kết thường chướng ngại thân
kiến khiến hiểu biết hư ngụy khắp cả: nhân vì thân thể đây của
chúng ta căn bản là do bốn Đại năm Uẩn hợp thành, giả sử có Mạn
Kết thì không chịu đem cái ngã xem như hoàn toàn hư ngụy không thật.
2, Bỉ Sự đây, tức là giải thích Vô
Minh Kết: Bỉ Sự nghĩa là sự
việc của thân kiến kia, sự việc tức là chỉ cho Pháp (thân thể) do năm Uẩn giả hợp kết
thành; Pháp Uẩn Giả đây, vì vô minh nên không rõ cho là có tự thể,
cho là có ngã, có ngã sở, do đó không thể thấy tất cả pháp đều là
không.
3, Kiến Kết chướng ngại Diệt Đế:
Nhân vì đã có Tát Ca Da Đẳng Kiến (Biên
Kiến) thì chấp thân này là thật, chấp có ngã và ngã sở; đã có
biên kiến thì chấp đoạn chấp thường, chấp đoạn cho rằng đã chết là
hết, cần gì phải tu hành? Chấp
thường cho ngã là thường còn, không cần phải cầu giải thoát! Những
thứ kiến chấp này đều có thể
chướng ngại cho việc chứng quả Diệt Đế.
4, Thủ Kết thì chướng ngại Đạo Đế:
Thủ tức là chấp lấy các thứ thấy biết và chấp lấy giới pháp của
ngoại đạo, như chấp lấy giới thờ bò, giới thờ chó, các thứ giới
khổ hạnh không hợp lý, cho là giữ những thứ giới này có thể được
giải thoát; hoặc chấp lấy vọng kiến cho là thế giới có Chủ Tạo Vật,
chỉ có Chủ Tạo Vật mới đủ quyền lực cho được giải thoát, ngoại trừ
Chủ Tạo Vật đây, không luận tu hành pháp môn gì cũng không thể
giải thoát. Đã có Thủ Kết thì không thể nương nơi Phật Pháp để tu
chứng, cho nên chướng ngại Phật Pháp Chánh Đạo.
5, Nghi Kết có thể chướng ngại sanh
tín tâm nơi Tam Bảo: nhân vì đã có nghi thì không biết Phật Pháp Tăng
là chỗ nương tựa duy nhất của thế gian, mà đối với Tam Bảo luôn
luôn do dự, cho là pháp ngoại đạo cùng Phật Pháp giống như nhau
không hơn không kém, đây chính là hoàn toàn sai lầm.
6, Tật Kết thường chướng ngại lợi
dưỡng, cung kính các thứ khắp biết: nhân vì đã có ganh tị thì đối với
danh lợi vinh hiển của thế nhân không thể quán sát thấy như huyễn
được.
7, San Kết có thể chướng ngại xa lìa
biết cùng khắp: chính là đã có san lận thì đối với chỗõ đạt được
tài vật hay Phật Pháp thường keo kiệt bảo thủ không chịu giúp người
khác. Như có tài vật mà không chịu bố thí, có tri thức mà không chịu
dạy người, bí mật bảo trì đều là san kết, có san kết đây làm chướng
ngại thì không thể giải thoát. Chín thứ như thế cần phải biết cùng
khắp. Nhân có chín thứ này, chánh hạnh chánh kiến không thể phát
sanh, cho nên phải đoạn trừ.
c)- Biệt Chướng:
c/1- Mười Thứ Chướng
Thiện Pháp:
Bài Tụng:
“Không gia công hành trì, chẳng phải chỗ, không như lý. Không
sanh, không khởi Chánh Tư Duy, tư lương chưa viên mãn. Thiếu chủng
tánh, thiện hữu, Tâm tánh rất mệt mỏi chán ghét. Và quan hệ nơi chánh
hạnh, thô bỉ và hung ác đồng cư. Đến thô trọng, ba dư thừa, Bát Nhã
chưa thành thục. Và bản tánh thô trọng, biếng nhác, tánh buông thả.
Trước hữu, trước tư tài, và tâm tánh thấp hèn. Không tin, không thắng
giải, như nói mà suy nghĩ nghĩa lý. Khinh pháp, trọng danh lợi, nơi hữu
tình không bi. Thiếu nghe và ít nghe, không tu quản lý diệu định.
Thiện, bồ đề, nhiếp thọ, có huệ, không loạn chướng, hồi hướng,
không khiếp sợ, keo kiệt, tự tại gọi là thiện..v..v...... Như thế
Thiện..v..v...... có mười thứ, mỗi thứ đều có ba chướng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích chướng
của mười thứ pháp thiện. Mười pháp thiện gồm có: 1- Thiện, 2- Bồ
Đề, 3- Nhiếp thọ, 4- Có Huệ, 5- Không Loạn, 6- Không chướng, 7- Hồi
hướng, 8- Không sợ, 9- Không keo kiệt, 10- Tự tại.
1. Mười thứ pháp thiện đây, mỗi
thứ có ba chướng, như trong “Thiện” có ba chướng ngại là không chịu
gia công hành trì, có chướng ngại là gia công hành trì không phải
chỗ, có chướng ngại là gia công hành trì không đúng như lý.
*- Không Gia Công Hành Trì đây,
nghĩa là nguyên do tất cả pháp thiện phát sanh phải nhờ cậy nơi sự
gia công hành trì, như chúng ta nghe giảng Phật Pháp, đây không phải
là mỗi lần nghe giảng là mỗi lần hạt giống thiện căn phát sanh, mà
muốn hạt giống thiện căn phát sanh thì phải từ trước đến nay nhiều
lần gia công hành trì tu tập tích lủy, nếu không gia công hành trì thì
tu tập trở nên lười biếng mà không thể thành tựu.
*- Chẳng Phải Chỗ đây, nghĩa là gia
công hành trì không chánh đáng, như đối với những việc không tốt thì
lại rất tinh tấn, đây chính là gia công hành trì chẳng phải chỗ.
*- Không Như Lý đây, nghĩa là chỉ cho
phương pháp thực hiện gia công hành trì, chỗ pháp lý thì không rõ
ràng và lại rất nhiều sai trái, cho nên cũng không thể thành tựu.
2. Trong Bồ Đề có ba thứ chướng:
không sanh pháp thiện, không khởi Chánh Tư Duy, Tư lương chưa viên mãn.
Ba thứ đây đều có thể chướng ngại thành tựu vô thượng Bồ Đề.
*- Không Sanh Pháp Thiện, nghĩa là
không thể dùng gia công hành trì
để sanh khởi pháp thiện.
*- Không Khởi Chánh Tư Duy, nghĩa là
không thể sanh khởi tư duy về nhơn không pháp không đúng như lý. Chỗ
sanh khởi là chấp trước đích thật không đúng như lý, đây tức là do
không có trí tuệ.
*- Tư Lương Chưa Viên Mãn, nghĩa là
trên quả Phật, tư lương phước trí chưa viên mãn, cho nên không thể
đắc quả vô thượng Bồ Đề.
3. Trong Nhiếp Thọ cũng có ba thứ
chướng: *- Thiếu chủng tánh, *- Thiếu thiện hữu, *- Tâm tánh mệt mỏi
chán nản. Nghĩa của Nhiếp thọ là phát tâm Bồ Đề, dùng phát tâm để
thâu nhiếp và quản lý tất cả pháp thiện, nếu như không phát tâm
thì tất cả pháp thiện bị tiêu mất. Trong đây thiếu chủng tánh làm chướng
ngại, nghĩa là có thứ người nơi chủng tánh Bồ Tát còn chưa đầy đủ
cho nên không thể phát khởi Tâm Bồ Đề. Thiếu Thiện Hữu nghĩa là phạm vi thiện hữu
rất rộng, như Thánh giả hai Thừa là Phật và Bồ Tát, cho đến các
bậc tri thức có thể thuyết chánh Pháp đều gọi là thiện hữu; không
có Thiện Hữu thì thiếu duyên tăng thượng. Tâm tánh rất mệt mỏi
chán nản nghĩa là biếng nhác không chuyên cần, không thể kiên nhẫn
lao động chịu khổ tu hành độ chúng sanh. Cho nên có ba thứ chướng đây
thì không thể phát tâm Bồ Đề.
4. Có Huệ bên trong cũng có ba
chướng: *- Thiếu Chánh Hạnh, *- Chung ở với kẻ thấp hèn đê tiện, *-
Chung ở với kẻ hung ác. Lý do chướng ngại thứ nhất là thiếu chánh
hạnh tức là thiếu thật hành hợp lý, chỗ phát khởi thật hành đều
là tà hạnh tham lam..v..v......, khiến cho Chánh Huệ không thể phát
sanh. Lý do chướng ngại thứ hai là cho nhiều người thấp hèn xấu xa
vô tri ở chung, thường sanh kiêu mạn. Lý do chướng ngại thứ ba là
luôn luôn ở chung cùng làm việc không tốt, không hiểu sẽ bị họ nội
kết ô nhiễm. Như ngạn ngữ nói rằng: “Cùng ở chung với người ác như
vào quán bào ngư, lâu ngày không nghe mùi hôi của nó.” Bồ Bát vì
thường cầu sanh Tịnh Độ cùng ở chung các bậc thiện tri thức có thể
làm trợ duyên cho chánh hạnh. Như thế ba thứ đây đều là chướng ngại
cho Chánh Huệ.
5. Trong không loạn cũng có ba
chướng: *- Điên đảo thô trọng, *- Còn lại, *- Bát Nhã chưa thành
thục. Lý do phiền não điên đảo thô thiển trầm trọng gọi là điên
đảo thô trọng, đây là chỉ cho thấy điên đảo, như vô thường chấp cho
là thường, không an lạc chấp cho là an lạc, vô ngã chấp cho là
ngã..v..v...... thường khiến cho tâm tán loạn không định. Ba còn lại
đây, nghĩa là ba thứ còn lại như phiền não, nghiệp, báo là những
thứ còn lại chưa đoạn trừ để đươc thanh tịnh, những thứ này rốt ráo
có thể làm chướng ngại khi tâm không tán loạn. Bát Nhã chưa thành
thục đây, nghĩa là trí tuệ làm nhân có thể chứng đặng Niết Bàn Bồ
Đề, nhưng chưa đầy đủ thành thục, cho nên khiến tâm không thể không
loạn.
6.
Trong không chướng cũng có ba chướng. Không chướng đây nghĩa là không
có hai chướng Phiền Não và Sở Tri, hoặc là Phục Diệt, hoặc là Đoạn
trừ, hoặc là Nhất Phần, hoặc là Toàn Phần thảy đều không chướng
ngại và không chướng ngại tức là có thể chứng đặng vô thượng Bồ
Đề. Trong đây có ba chướng như là:
*- Bản Tánh thô trọng chướng, nghĩa
là chỉ cho câu sanh phiền não chướng và sở tri chướng, đây là chúng
sanh sanh ra đã có mà không phải do phân biệt sanh khởi.
*- Tánh biếng nhác, nghĩa là không
thể tinh tấn đối với pháp thiện, mặc dù đối với thế lực của pháp
ác cũng không thể tinh tấn.
*- Tánh buông thả, tánh biếng nhác
ở trước đã giải thích chỉ là không chuyên cần, nhưng tánh buông thả
ở đây là không cẩn trọng, tức là nghĩa phóng túng không bị trói
buộc. Như có người bình thường rất siêng năng tinh tấn, nhưng hành vi sơ
suất, đối với tế hạnh không cẩn trọng cũng là khuyết điểm, cho nên
cần phải không cho thiện nhỏ mà không làm, không cho ác nhỏ mà lại
làm, như thế mới thích hợp.
7. Trong Hồi Hướng cũng có ba
chướng: Hồi Hướng đây, nghĩa là chỗ có công đức, chỗ tu pháp thiện
phổ biến hồi hướng tất cả hữu tình và vô thượng Bồ Đề. Ba thứ
chướng đây:
*a. Trước Hữu, nghĩa là tham trước
nhân quả ba cõi, như đem chỗ tu thiện mong cầu quả báo nhơn thiên thì
không thể hồi hướng vô thượng Bồ Đề.
*b. Trước Tư Tài, nghĩa là tham trước
tiền của, không thể bố thí lợi ích cho chúng sanh để hồi hướng vô
thượng Bồ Đề.
*c. Tâm tánh thấp hèn, nghĩa là tâm
lượng nhỏ hẹp không thể đem chỗ tu pháp thiện hồi hướng vô thượng
Bồ Đề và hồi hướng cho chúng sanh, chỉ tự lợi riêng tư, cho nên
không thể khiến công đức được rộng lớn.
8. Trong không khiếp sợ cũng có ba
chướng: Không khiếp sợ đây, nghĩa là trí đức đã được thành tựu viên
mãn, như người chưa từng tạo qua ác nghiệp, cho nên trên tâm lý
không khiếp sợ bị đoạ vào ba đường ác, Phật Pháp gọi là không lo
sợ, không giống như người thế tục gần nơi phóng túng, nghĩa là không
kiêng dè nể nang. Trong đây có ba chướng:
*a. Không tin, chính là đối với Phật
và Bồ Tát không tin có phước trí vô biên, không tin mình đây cũng
có thể tu Bồ Tát Hạnh và chứng quả Phật, cho nên không thể không
khiếp sợ.
*b. Không thắng giải, nghĩa là đối
với Phật Pháp không hiểu rõ, không có kiên quyết, không hành động,
không thể biện biệt để phủ định nào chân nào ngụy, nhân vì không
thể phát sanh kiến giải thiền định.
*c. Như nói mà nghĩ bàn, nghĩa là
không thể thấu đạt được ý nghĩa chỗ Phật thuyết pháp mà chỉ chấp
trên ý nghĩa văn tự mà cho Phật thuyết pháp nhất định là như thế, do
đó đối với địa phương lời nói của Phật có rất nhiều tương phản, vì
tương phản mà sanh ra khiếp sợ, rốt cuộc đối với Bồ Tát Hạnh không
dám tu tập; thí dụ như đã tu thì
phải bố thí cũng giống như cho vay lấy lãi, rốt cuộc phải đền bù
trả lại. Khiếp sợ là chướng ngại của sự giải thoát, đây chính là
chấp trước sai lầm trên văn tự.
9. Trong không keo kiệt cũng có ba
chướng:
*a. Khinh Pháp, nghĩa là đối với
chánh pháp không sanh kính trọng cho nên không thể hiểu rõ chánh
pháp để bố thí phổ thông.
*b. Trọng danh lợi, nghĩa là chạy
theo sự quý trọng danh lợi cung kính của thế gian, cho nên không thể
sử dụng tất cả lợi ích đi bố thí cho mọi người.
*c. Nơi hữu tình không có lòng bi,
nghĩa là không thể cứu tế sự thống khổ của hữu tình, như thấy hữu
tình thế gian có khổ không thể phát tâm cứu tế, đây cũng là chướng
ngại của không keo kiệt.
10. Trong tự tại cũng có ba chướng:
*a. Thiếu Nghe, nghĩa là đối với
Phật Pháp chưa từng nghe qua cho nên không kính trọng Phật Pháp, cũng
không thể tiếp nhận Phật Pháp, vì thế đối với Phật Pháp không được
tự tại.
*b. Ít Nghe, nghĩa là chỉ nghe một
chút ít Phật Pháp, hiểu được một tí cho là đủ, mặc dù có thể tự
tu, nhưng không thể độ người, muốn độ người tất nhiên phải học rộng
biết nhiều.
*c. Không tu quản lý diệu định, nghĩa
là không tu Định thì không thể phát huy thần thông thiền
định..v..v...... cho nên cũng là chướng ngại của kẻ được tự tại.
Như thế mười thứ thiện pháp, mỗi
thứ đều có ba chướng đã được giải thích hoàn toàn, nơi trong Thích
Luận lại đề cử mười năng tác (mười
khả năng tiến hành) làm thí dụ, đây không trả lời rườm rà, có
thể tự tham cứu.
Thứ lớp của mười pháp thiện như
thế, nghĩa là trước hết gieo trồng thiện căn; thứ đến mong cầu chứng
quả Bồ Đề thì cần phải thực hiện Tứ Hoằng Thệ Nguyện của hạnh
phát tâm Bồ Đề, nhờ đó mới có trí tuệ thông đạt chân lý; có trí
tuệ mới có thể đối trị tán loạn, gọi là không loạn, có trí tuệ
mới có thể đối trị các chướng Câu Sanh, gọi là không chướng; đem
chỗ tu thiện có thể hồi hướng vô thượng Bồ Đề; thành tựu chỗ tu
phước trí nhờ đó nên không khiếp sợ; cần yếu ở chỗ là nhờ thâu
nhiếp các pháp rộng độ chúng sanh, trong đó nhờ dùng pháp bố thí cho
nên không có keo kiệt; như là chín thứ đã viên mãn, nơi tất cả pháp
công đức mới được tự tại. Như thế mười pháp thiện, mỗi pháp đều
có ba chướng, cộng ba mươi chướng lại và thường loại trừ hết những
chướng đây thì mười pháp thiện sẽ được viên mãn mà chứng đặïng đạo
quả Phật Thừa.
c/2-
Giác Phần Độ Địa Chướng:
c/1,Tiêu Biểu Chung:
Bài Tụng:
“Nơi Giác Phần (Bồ Đề Phần), độ (phép tắc), địa (Thập Địa); nên biết có biệt chướng”.
Giải Nghĩa:
Nơi Giác Phần: Giác tức là Bồ Đề,
Phần gọi là chi phần, chính là bình thường chỗ gọi Pháp Ba Mươi Bảy
Bồ Đề Phần, trong đây gọi đơn giản là Giác Phần. Tu Giác Phần thường
bị chướng ngại, gọi là Giác Phần Chướng. Chữ Độ (Phép tắc) gọi cho đủ là Thập Độ (mười thứ phép tắc), cũng gọi là Thập Ba La Mật (mười Ba La Mật), nghĩa là mười thư
phép tắc. Thập Độ gồm có: Thí,
Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Huệ, Phương, Nguyện, Lực và Trí. Nương nơi Thập
Độ đây có thể vượt qua đến bờ bên kia. Người tu Thập Độ có thể bị
chướng ngại gọi là Độ Chướng. Chữ Địa, gọi cho đủ là Thập Địa tức
là mười vị trí như Địa ban đầu gọi là Hoan Hỷ Địa, cho đến Địa thứ
mười gọi là Pháp Vân Địa..v..v......, đây là vị trí chỗ tu hành của
Bồ Tát. Những thứ làm chướng ngại cho việc tu chứng Thập Địa nên
gọi là Địa Chướng.
b/2 Giải Thích
Riêng Biệt:
1>
Giác Phần Chướng:
Bài Tụng:
“Nơi sự việc không thiện xảo, lười
biếng, hai định giảm, không gieo trồng, con la yếu tánh (con lừa con yếu
tánh),
thấy, thô trọng lỗi lầm.”
Giải Nghĩa:
Bài
Tụng đây là giải thích Ba Mươi Bảy Phần Bồ Đề. Ba Mươi Bảy Phần Bồ
Đề chính là: Tứ Niệm Trụ---- cũng gọi là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh
Đoạn---- cũng gọi là Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc---- cũng gọi là Tứ
Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo; chung
lại bắt đầu có bảy loại, ba mươi bảy thứ, gọi là Ba Mươi Bảy Phần
Bồ Đề. Phần tức là chi phần hoặc là bộ phận, do các bộ phận đoàn
kết viên mãn liền thành Bồ Đề. Hôm nay một bài Tụng đây là thuyết
minh sự chướng ngại của Phần Bồ Đề này.
*.
Thứ nhất, Nơi sự không thiện xảo, nghĩa là thuyết minh chướng
ngại của Niệm Trụ. Nguyên vì Tứ Niệm Trụ chính là bốn sự việc nơi
Thân Thọ Tâm Pháp thường nương tựa thiện xảo (khéo léo) nơi đạo lý chân chánh, tức là Quán Thân Bất
Tịnh, Quán Thọ Thị Khổ, Quán Tâm Vô Thường, Quán Pháp Vô Ngã. Hiện
tại nơi sự việc của Thân Thọ Tâm Pháp đã không thể thông đạt rõ
ràng mà ngược lại còn sanh khởi chấp trước điên đảo. Như chấp trước
các thứ của thân thể cho là thanh tịnh, đó chính là chướng ngại phát
sanh nơi Chi Phần Bồ Đề của Tứ Niệm Trụ.
*. Thứ hai, Lười Biếng
đây, tức là chướng ngại Tứ Chánh Đoạn, cũng gọi là Tứ Chánh Cần,
nghĩa là bốn thứ đang lúc cần mẫn. Bốn thứ Chánh Đoạn đây gồm có:
1- Điều ác chưa sanh khiến không cho phát sanh, 2- Điều ác đã sanh
khiến cho đoạn diệt, 3- Điều thiện chưa sanh khiến cho phát sanh, 4-
Điều thiện đã sanh khiến cho tăng trưởng. Bốn thứ đây cần phải
siêng năng dũng cảm thì mới có thể thành tựu, giả sử lười biếng
thì nơi công đức của Giác Phần này bị chướng ngại.
*.
Thứ ba, hai Định Giảm đây là chướng ngại Tứ Thần Túc. Tứ Thần
Túc gồn có bốn thứ là Dục, Cần, Niệm và Huệ. Những thứ này đều
quan hệ nơi phương diện tu định; người tu định không thể thiếu một trong
bốn thứ này, nếu có chỗ giảm thứ
nào thì trở thành chướng ngại. Thí dụ như người khi tu định, chú trọng
nơi huệ phát sanh cho được thông suốt, trong lúc đó hai thứ Dục và
Cần không thể thiếu mặt, nếu như thiếu một trong hai thứ này thì trở
thành chướng ngại của Tứ Thần Túc viên mãn. Lại nữa người tu định cần
phải thực hiện tám thứ đoạn hành (hành
trì đoạn trừ) cho được thuần tục. Tám thứ Đoạn Hành gồm có:
Dục, Cần, Tín, An, Chánh Niệm, Chánh Tri, Tư, Xả. Trong tám thứ đây
nếu như có một thứ bị giảm sút thì chỗ đối trị không được viên mãn.
Như trong hai thứ đây hoặc Dục Cần bị giảm sút, hoặc tám Đoạn Hành
bị giảm sút, đều là chướng ngại của Tứ Thần Túc.
*.
Thứ tư, Không gieo trồng là chướng ngại Ngũ Căn (năm thứ căn bản). Người tu Tín, Cần..v..v...... năm Căn
chính là đem hạt giống thiện của năm Căn đây gieo trồng nơi Tâm
Điền, khiến cho gốc rể và mầm chồi phát sanh, thí dụ như trồng cây
gốc phải vững chắc thì mới sống được. Nếu không như thế là không
thể thành tựu pháp phần công đức của Ngũ Căn.
*.
Thứ năm, Con La (con lừa con) yếu
tánh là chỉ cho chướng ngại Ngũ Lực, chính là năm thứ Tín..v..v......,
mặc dù căn bản đã kết thành, nhưng Lực thì không mạnh và tánh của
nó yếu như con La cũng là chướng ngại phần Bồ Đề viên mãn.
*.
Thứ sáu, Thấy sai lầm đây là chướng ngại Thất Giác Chi (Bảy Giác Chi). Nguyên vì Thất Giác
Chi chính là công đức tương ưng với Kiến Đạo, nếu chỗ thấy biết còn
có mang sự sai lầm thì làm chướng ngại Thất Giác Chi.
*.
Thứ bảy, Thô trọng lỗi lầm là chướng ngại Bát Chánh Đạo. Bát
Chánh Đạo là công đức tương ưng địa vị tu đạo của ba Thừa, chính là
chỗ tu đối trị đoạn Hoặc Câu Sanh Phiền Não, nhân vì Hoặc đây tánh
của nó thô trọng khó đoạn trừ, cho nên gọi là thô trọng lỗi lầm.
Hoặc nếu như hiện hành liền trở thành chướng ngại cho Bát Chánh
Đạo. Như thế, trong Ba Mươi Bảy Phần, mỗi phần đều có chướng ngại
của nó, hợp lại thành bảy lớp, đã được giải thích sơ lược qua.
2> Mười Độ Chướng:
Bài Tụng:
“Chướng phú quý, thiện thú; không bỏ các hữu tình; nơi thất
đức tăng giảm; khiến vào cõi, giải thoát. Chướng Thí ..v..v...... các
thiện vô tận, chỗ làm thiện quyết định; thọ dụng thành thục.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh mười
Độ Chướng. Chữ Chướng là thuyết minh mặt trái của sự thật; như tu
bố thí chính là đoạn tham và tham tức là chướng ngại của bố thí; trì
giới chính là cấm chỉ điều ác và điều ác tức là chướng ngại của
trì giới..v..v...... Như là mười Độ mỗi mỗi đều có mặt trái và mặt
trái chính là chướng ngại của mười Độ. Tụng nói Chướng Phú Quý đây
chính là tham trước tiền của cho nên không thể tu hạnh bố thí để
đoạn trừ chướng này, đây là sự chướng ngại nơi phú quý sẽ đến với
người và trời. Nguyên do Chướng Thiện Thú (chướng ngại sanh lên cõi thiện) là không trì giới mà
liên tiếp tạo ác, cho nên bị đọa vào cõi ác và còn chướng ngại
sanh lên cõi thiện. Chướng không bỏ các hữu tình nghĩa là Bồ Tát
nhân nhờ có Tâm Đại Bi lúc nào cũng độ chúng sanh, thường làm
những việc khó làm, thường nhẫn những điều khó nhẫn. Cho nên chữ thường
trong đây, nghĩa là nhân tu an nhẫn, nếu như không tu nhẫn nhục thì
không thể nhẫn nại trước những điều khổ nhọc, không thể ở trong
cõi chúng sanh thường độ chúng sanh, cũng chính là không thể không
bỏ các hữu tình. Như Bồ Tát nhân vì độ chúng sanh cho nên thường cảm
sanh vào cõi thiện, sanh vào nhà phú quý, dùng năng lực Đại Bi
không bỏ hữu tình, điều cần yếu là tu nhẫn nhục, nếu như không thể
nhẫn nhục thì chướng ngại công hạnh không bỏ hữu tình. Chướng nơi
thất đức tăng giảm, chữ Thất là sai lầm, chữ Đức là công đức, nghĩa
là Bồ Tát tu hành là khiến sai lầm giảm thiểu và khiến công đức
gia tăng, nếu như không tu tinh tấn thì không thể khiến sai lầm giảm
thiểu và khiến công đức được gia tăng. Chướng khiến vào cõi, nghĩa
là chướng ngại của sự tu thiền định. Nhờ tu thiền định thần thông có
thể phát sanh để khiến tất cả chúng sanh vào trong cõi Pháp của
Phật. Nếu như tâm tán loạn thì không thể tu Định và cũng là chướng
ngại cho công hạnh giúp chúng sanh vào trong cõi Pháp của Phật, nên
gọi là khiến vào cõi. Chướng khiến giải thoát, nghĩa là ý nói
chướng ngại cho sự tu trí tuệ. Nhờ tu trí tuệ, tự mình mới có thể
giải thoát và cũng có thể giúp người khác được giải thoát. Nếu như
không tu trí tuệ thì chính mình và người khác cả hai đều bị chướng
ngại không thể nào giải thoát được. Chướng Thí..v..v..... (Lục Ba La Mật) các thiện vô tận,
nghĩa là nói không thể tu tập phương tiện độ; người nếu như có thể tu
tập phương tiện thì có khả năng đem chỗ tu bố thí vô tướng hồi hướng
Bồ Đề và hồi hướng cho tất cả hữu tình, đồng thời khiến chỗ tu
thiện được rộng lớn vô lượng vô cùng giống như hư không. Còn người nếu
như không thể tu phương tiện thì chỗ tu của họ bị chấp trước bị giới
hạn, do đó hạnh tu Bố Thí..v..v..... của họ bị chướng ngại không cùng
tận. Chướng cũng không gián đoạn, nghĩa là không thể tu Nguyện Ba La
Mật. Chữ Gián là gián đoạn, là ngăn cách, là giải thoát, Vô Gián
nghĩa là không gián đoạn. Nhờ tu tập đại nguyện cho nên năng lực
tương ưng, khiến những pháp thiện chỗ tu được thường không gián đoạn
và những pháp nhiễm mãi thường viễn ly, nhân đó có thể thường độ
chúng sanh, Bồ Đề viên mãn. Nếu như không có đại nguyện thì pháp
thiện bị gián đoạn và pháp nhiễm lại lẫn lộn, không tương ưng cùng
Tâm Bồ Đề và không thể độ chúng sanh. Chướng chỗ làm thiện quyết
định, tức là chướng ngại không tu Lực Ba La Mật. Bởi vì có tu Lực thì
mới có năng lực làm chủ và nhờ đó nơi chỗ pháp thiện mới có
quyết định được. Nếu như không tu Lực là không có năng lực và nơi
chỗ làm pháp thiện thì không thể quyết định, cho nên gọi là có tâm
mà không có lực. Vì thế không thể làm pháp thiện và hư hoại không
thể cải thiện được, cho nên không tu Lực thì trở thành chướng ngại
làm pháp thiện. Như thế Lực đây, thứ nhất chính là năng lực suy xét
chọn lựa trên trí tuệ, xác nhận đây là, đây không phải là, đây là
ác đây là thiện..v..v......, khả năng phân biệt quyết định dứt khoát
đều là do Lực cả; thứ hai là năng lực do tu tập được thành thục,
có khả năng đảm nhiệm giữ gìn đầy đủ, như một điều kiện làm được
rất nhanh rất tốt chính là năng lực tự tại thần tốc khéo léo. Nếu
như có tâm mà không có lực thì chướng ngại cho việc làm thiện. Còn
chướng thọ dụng pháp thành thục là chướng ngại không tu Trí Ba La
Mật. Bát Nhã Độ thứ sáu, đây dịch
là Huệ, chính là trí tuệ thấu rõ lý vô phân biệt, trí tuệ nầy thấu
rõ các sự việc nhân quả sai biệt của mình và người; nếu như không
thấu rõ viên mãn, tức là ở nơi
pháp thọ dụng trở thành chướng ngại. Cho nên mười Độ đây nơi phương
diện tương phản thì có mười pháp trở thành chướng ngại, do đó có
thể khiến cho công đức của Bồ Tát không thể viên mãn. Dưới đây sẽ
giải thích mười chướng của mười Địa.
3> Mười Địa Chướng:
Bài Tụng:
“Biến Hành cùng Tối Thắng, Thắng Lưu và Vô Nhiếp, Tương Tục
không sai biệt, vô tạp nhiễm thanh tịnh. Các thứ pháp vô biệt, và
không tăng không giảm, bao gồm không phân biệt..v..v......, bốn tự
tại chỗ nơi Nghĩa (nơi Pháp Giới). Nơi mười Pháp Giới này, có
không nhiễm vô minh, chướng công đức mười Địa, cho nên nói là mười
Chướng.”
Giải Nghĩa:
Đây là giải thích Thập Địa (mười Địa) có mười chướng. Nhưng
mười chướng đây đều chưa đặt tên, chỉ căn cứ theo chỗ chướng ngại
nơi mười thứ pháp công đức mà giải thích mười chướng. Ngoài bộ Luận
này ra, như Du Già, Thành Duy Thức..v..v...... cũng có ghi bằng văn tự
nói đến chỗ đoạn trừ mười trọng chướng của Thập Địa, nhưng Luận này
chưa đề cập đến.
*1.
Biến Hành là nói: khi chứng được Hoan Hỷ Địa ban đầu, chỗ chứng
chính là pháp giới chân như; pháp giới là nhân của tất cả Thánh
pháp vô lậu, nguyên do chứng được chân như có thể phát sanh tất cả
pháp tịnh, cho nên nơi Sơ Địa này gọi là Biến Hành Pháp Giới và cũng gọi là Biến Hành Chân Như. Biến
Hành Chân Như chính là tánh thật hành bình đẳng biến khắp tất cả, không
phân biệt tự tha bỉ thử. Nhưng trước khi vào Sơ Địa có thứ vô minh
không nhiễm ô cũng có thể làm chướng ngại cho sự chứng ngộ Biến
Hành Chân Như này, đó chính là Sơ Địa Chướng.
*2.
Tối
Thắng là chỉ cho Ly Cấu Địa. Ly Cấu Địa là nơi chỗ có thể chứng
đặng pháp giới lìa khỏi tất cả hành tướng của hữu vi, cho nên gọi
là Tối Thắng Chân Như. Trước khi chứng đặng pháp giới này cũng có
vô minh không ô nhiễm làm chướng ngại.
*3.
Thắng Lưu là chỗ chứng được pháp giới dòng thác tối thắng của
Phát Quang Địa thứ ba. Nguyên do ở nơi Địa này định lực tăng lên và ở
trong định có thể rộng nghe tất cả Phật Pháp Tổng Trì và tự tâm dung
nạp tất cả Phật Pháp Tổng Trì nói trên thành Diệu Pháp Quang Minh;
những diệu pháp đây đều là dòng thác tối thắng của Phật. Chứng
được Địa thứ ba này gọi là Thắng Lưu Pháp Giới. Trước khi chưa chứng
Địa thứ ba cũng có vô minh không ô nhiễm làm chướng ngại.
*4.
Vô Nhiếp là chỗ chứng được pháp giới của Diệm Huệ Địa thứ tư.
Vô Nhiếp nghĩa là không có chỗ nhiếp thọ, chính là đối với Phật
Pháp chỗ nghe được của ba Địa trước, ở nơi trong Địa này hóa thành
Huệ Diệm, tiêu tan tất cả pháp ái, không đắm trước tất cả các
pháp, nên gọi là Vô Nhiếp Chân Như. Trước khi chưa chứng Địa đây,
cũng có vô minh không ô nhiễm làm chướng ngại.
*5.
Tương Tục Không Sai Biệt là chỗ chứng được pháp giới của Địa thứ
năm. Tương Tục, nghĩa là hữu tình, kể cả chính mình và mọi người
trước sau đều lẫn nhau liên tục sai biệt. Nơi trong Địa thứ năm có
thể chứng kiến tất cả pháp không có ba đời; kia và đây tất cả đều
lẫn nhau liên tục thay đổi, cho nên gọi là pháp giới tương tục không
sai biệt. Trước khi chưa chứng Địa này cũng có vô minh không ô nhiễm
làm chướng ngại.
*6.
Vô Tạp Nhiễm Thanh Tịnh là chỗ chứng được pháp giới của Địa thứ
sáu. Pháp giới chỗ chứng được đây, chính là quán chiếu thấy được
tất cả các pháp thảy đều bình đẳng như nhau, không có sai biệt,
không có nhiễm tịnh. Trước khi chưa chứng Địa này cũng có vô minh
không ô nhiễm làm chướng ngại.
*7.
Các Thứ Pháp Vô Biệt là chỗ chứng được pháp giới của Viễn
Hành Địa thứ bảy. Các Thứ Pháp Vô Biệt nghĩa là chứng được tất cả
mọi thứ pháp đều không sai biệt, chỗ gọi là có công dụng vô
tướng. Trước khi chưa chứng Địa này cũng có vô minh không ô nhiễm
làm chướng ngại.
*8.
Không Tăng Không Giảm bao gồm không sai biệt..v..v...., bốn tự
tại nương nơi nghĩa đây làm chỗ
chứng Pháp Giới của ba Địa Sau kể từ Địa thứ tám đến Địa thứ mười. Địa
thứ tám là địa vô tướng vô công dụng hạnh. Chỗ chứng của Địa này chính
là Chân Như không tăng không giảm, rốt ráo không có tướng sai biệt,
không thấy có phàm có Thánh, không thấy có mình có người, đây là
công đức chỗ chứng được của Địa thứ tám. Lại nữa, công đức chỗ
chứng được của Địa thứ tám có hai thứ tự tại của bốn thứ tự tại.
Bốn thứ Tự Tại gồm có: một là Không Sai Biệt Tự Tại, hai là Tịnh
Độ Tự Tại, ba là Trí Tự Tại, bốn là Nghiệp Tự Tại. Bốn tự tại nơi
chỗ nghĩa tức là chỉ cho Pháp Giới Chân Như. Nhờ Địa thứ tám không
mượn chức năng vận dụng, cho nên Trí Vô Phân Biệt vẫn thường phát
khởi tự nhiên và vẫn thành thục tất cả pháp thiện, tức là tự tại
vô phân biệt thứ nhất. Hơn nữa chứng vào Địa thứ tám này có thể
thị hiện Tịnh Độ không bị chướng ngại và đối với tất cả sắc pháp,
tâm tưởng như thế nào liền biến hiện như thế đó. Trước khi chưa
chứng Địa đây cũng có vô minh không ô nhiễm làm chướng ngại.
*9.
Bồ Tát chứng Thiện Huệ Địa thứ chín thì đặng trí tuệ biện tài tự
tại, nhờ trí tuệ mà sanh biện giải không ngăn ngại, cho nên Địa thứ
chín đây mới là lúc thuyết pháp chân chánh để độ chúng sanh. Trước
khi chưa chứng Địa này cũng có vô minh không ô nhiễm làm chướng
ngại.
*10.
Địa thứ mười, Bồ Tát được nghiệp tự tại. Bình thường người học
Phật đem nghiệp chữ nghĩa ra sử dụng thì hoàn toàn sai lầm, nghĩa là
nghiệp đều không tốt, có chỗ gọi là nghiệp nặng chướng sâu; kỳ
thật nghiệp đây lại là rất tốt, trong đây chỗ gọi nghiệp tức là
chỉ cho sự nghiệp. Ba nghiệp (thân,
miêng, ý) của Bồ Tát tận bờ mé vị lai, không cùng không tận, đem
lợi lạc hoá độ hữu tình khắp nơi pháp giới. Bồ Tát có được nghiệp
dụng không thể nghĩ bàn cho nên gọi là nghiệp tự tại. Tức là Bồ
Tát dùng các thứ thần thông tạo tác những sự việc của chỗ nên
tạo tác, đây chính là Nghiệp Tự Tại. Trước khi được những sự nghiệp
tự tại này cũng có vô minh không ô nhiễm làm chướng ngại.
Như thế mười Địa đều có mười
chướng, danh xưng của mười chướng đây nơi Du Già thuyết minh tinh tế
tường tận. Luận này chỉ nói một câu tổng quát là: nơi mười pháp
giới đều có vô minh không ô nhiễm. Vô minh không ô nhiễm cũng gọi
là vô tri không ô nhiễm. Chủng loại vô minh cộng chung có hai thứ:
Một là vô minh ô nhiễm, chính là thứ
vô minh thường phát khởi nghiệp cảm sanh tử. Vô minh ô nhiễm chưa đối trị thì không những không
thể thành tựu Bồ Đề, mà lại còn bị lưu chuyển sanh tử; cho nên Nhị
Thừa La Hán tất nhiên cũng đối trị thứ vô minh nói trên, vì vô minh
này thường phát sanh hành nghiệp trong mười hai Chi.
Hai là vô minh không ô nhiễm, nghĩa
là đối với vạn hữu nhân quả sai biệt của thế gian và xuất thế gian
không thể hiểu biết hoàn toàn, nên gọi là vô minh. Vô Minh đây chỉ chướng
ngại nơi Phật và Bồ Tát nhưng không chướng ngại nơi hàng Nhị Thừa.
Hàng Nhị Thừa chứng Niết Bàn không cần đối trị Vô Minh nói trên cũng
có thể giải thoát. Trong bản Luận này chỗ trình bày rõ mười Địa Chướng
đều là căn cứ nơi Thập Địa mà thuyết minh, chính là chỉ cho công đức
của mười Địa Chướng làm chướng ngại sự thành Phật. Cho nên tụng nói
rằng: chướng ngại công đức của Thập Địa gọi là mười Địa Chướng.
d)-
Thông Báo Kết Thúc:
Bài Tụng:
“Đã trình bày các phiền não, và các sở tri chướng, có thể hai
đây đã hết, tất cả chướng giải thoát.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là đem năm chướng đã
trình bày ở trước, chín thứ phiền não chướng, nhân chướng của mười
pháp thiện, chân thật chướng của Giác Phần, vô thượng chướng của
mười Độ, thành tựu sai biệt chướng của mười Địa, gom chung lại không
ngoài hai chướng: một là phiền não chướng, hai là sở tri chướng. Tụng
nói rằng: đã trình bày các phiền não và các chướng sở tri do các
văn Tụng ở trước đã thuyết minh chính là chỉ cho phiền não và sở
tri. Như Chín Kết chính là chỉ cho Phiền Não Chướng, mười Địa chính là chỉ
cho Sở Tri Chướng, năm chướng và giác phần thì quan hệ nơi hai chướng
là phiền não và sở tri. Phiền não chướng thì thường cảm thọ khổ
não sanh tử trong ba cõi; phiền não chướng này nếu không đối trị thì
không thể giải thoát sanh tử. Sở tri chướng, sở tri tức là chỉ cho cảnh
giới. Sở tri chướng nghĩa là đối với nguyên lý tánh tướng của các
pháp thuộc cảnh giới lẽ ra phải biết rành, trái lại không thể biết
rõ, cho nên có chỗ gọi là vô tri, vô năng, vô lực. Còn chữ Chướng
ở đây là chỉ cho sự chướng ngại nơi thành Phật, mà không chướng
ngại nơi Nhị Thừa La Hán. Phiền não là cộng chướng, còn sở tri là
không cộng chướng. Hai thứ chướng đây ở trong đạo pháp Đại Thừa cho
là có thể cùng tận và khi hai chướng đã cùng tận thì tất cả chướng
đều cùng tận. Nguyên do hai chướng nói trên thuộc về hoặc chướng và
bản chất của chúng là nghiệp khổ, vì thế hai chướng một khi đã cùng
tận thì nghiệp khổ cũng cùng tận theo, cho nên nói hai thứ (hoặc và ngiệp khổ) đã cùng tận thì tất cả chướng đều cùng
tận. Nhưng tại sao nơi Phẩm Biện Tướng lại trình bày Phẩm Chướng? Do
bởi nó chướng ngại cho nên mới có pháp đối trị, nếu nó không
chướng ngại thì không cần phải tu pháp đối trị. Phật Pháp tất nhiên phải
tu đối trị trước đã, rồi sau đó mới loại trừ chướng; như người uống
thuốc, trước phải khám bệnh, rồi sau mới có thể trị bệnh. Dưới đây
trong ba đoạn biện cảnh, biện thứ ba là thuộc về biện minh tướng
chân thật trong đó có pháp nhiễm của không chướng ngại. Thanh tịnh
chân thật nếu như có nhiễm chướng thì phải như thế nào mới có thể
lìa khỏi nhiễm chướng và đối trị bằng cách nào để được thành thanh
tịnh? Đây chính là Phẩm Chân Thật thứ ba sẽ thuyết minh đại nghĩa.
[PHẨM BIỆN MINH CHÂN THẬT THỨ BA]
3/.-
Biện Minh Chân Thật:
a)-
Tiêu Biểu Chung:
Bài Tụng:
“Chân thật chỉ có mười: nghĩa là căn bản cùng tướng, không
điên đảo, nhân quả, và chân thật thô trọng. Cực thành, tịnh sở
hành, nhiếp thọ gồm sai biệt, mười thiện khéo chân thật, đều là
trừ ngã kiến.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là tiêu biểu chung
mười thứ chân thật. Chữ Chân chính là pháp tương đối so cùng với
Vọng, là biểu thị không phải hư vọng, là pháp thanh tịnh đã lìa ô
nhiễm. Lại nữa sử dụng tất cả pháp tịnh chính là bao gồm cả mười
thứ chân thật ở trong, ngoài đây thì không có nào khác, cho nên nói
chỉ có mười. Mười đây:
*1. Căn bản chân thật,
*2. Tướng chân thật,
*3. Không điên đảo chân thật,
*4. Nhân quả chân thật,
*5. Thô trọng chân chật,
*6. Cực thành chân thật,
*7. Tịnh sở hạnh chân thật,
*8. Nhiếp thọ chân thật,
*9. Sai biệt chân thật,
*10. Thiện xảo chân thật.
Dưới đây có một câu Tụng nhằm mục
đích loại trừ ngã kiến, chính là giải thích mười thiện xảo chân thật
ở trên nhằm để loại trừ sự chấp trước có một Ngã Thể..v..v......
Nguyên do Ngã đây thực tại được giả lập trên năm Uẩn, tinh tế nhìn
thấy chỉ toàn là Uẩn, không có một thể cố định. Cho nên nơi Thiện
Xảo Chân Thật thứ mười cũng có mười thứ:
1- Huẩn thiện xảo,
2- Giới thiện xảo,
3- Xứ thiện xảo,
4- Duyên khởi thiện xảo,
5- Xứ phi xứ thiện xảo,
6- Căn thiện xảo,
7- Thế thiện xảo,
8- Đế thiện xảo,
9- Thừa thiện xảo,
10-Hữu vi vô vi pháp thiện xảo. Mười
thứ đây sẽ giải thích riêng ở
sau.
b)-
Giải Thích Riêng Biệt:
b/1- Căn Bản Chân Thật:
Bài Tụng:
“Ở nơi ba tự tánh, chỉ một thường không phải có, chỉ một có
mà không chân, chỉ một có không chân thật.”
Giải Nghĩa:
Đây tức là căn cứ nơi ba tự tánh
mà làm sáng tỏ căn bản chân thật. Ba Tự Tánh gồm có: 1- Biến Kế
Sở Chấp Tự Tánh, 2- Y Tha Khởi Tự Tánh, 3- Viên Thành Thật Tự Tánh.
Chỉ một thường không phải có là nói thật thể Bổ Đặc Già La cùng các
pháp của Biến Kế Sở Chấp luôn luôn không có tự tánh, quá khứ thì
không, hiện tại thì không, vị lai cũng không, tức là khẳng định rằng
luôn luôn lúc nào cũng không có tánh chân thật. Chỉ một Có mà
không chân chính là chỉ cho Y Tha Khởi Tánh. Y Tha Khởi Tánh sở dĩ có
là do y tha khởi (do nương nơi Tâm
Thức kia để sanh khởi), là giả có, không phải có chân thật,
nhưng cũng không thể nói Y Tha đây là không; do vì ở nơi pháp Y Tha,
chúng sanh nếu như tạo nghiệp thì cũng bị cảm thọ quả báo như thường và
nghiệp quả đây gất nhiên không mất; nhưng nếu tu hành thì có thể
đối trị, có thể chứng được công đức đạo lý nhất định. Sở dĩ Y Tha
Khởi là giả có mà không phải chân thật, cho nên nói có mà không
chân. Câu chỉ một Có không chân thật chính là chỉ cho Viên Thành
Thật. Chữ Không nghĩa là không có thể tánh của hai Thủ, tức là
không có thật Ngã và thật Pháp nên gọi là không chân thật; chữ
Có đây chính là có hai Tánh Không cho nên gọi là có chân thật. Như
trên ba Tự Tánh đã trình bày qua, mỗi Tự Tánh có một thứ chân
thật, tức là đã làm sáng tỏ Ngã Pháp thường không có thể tánh
chân thật và mỗi Tự Tánh đã lìa khỏi hai Thủ cho nên có hai Tánh Không,
đây là nghĩa căn bản chân thật thứ nhất của mười thứ nghĩa chân
thật.
b/2- Tướng Chân
Thật:
Bài Tụng:
“Nơi Pháp Sác Thủ Thú, và Sở Thủ Năng Thủ, trong tánh có
không phải có, kiến tăng ích tổn giảm, Biết đây nên không chuyển,
là gọi Tướng Chân Thật.”
Giải Nghĩa:
Đã trình bày ba tánh căn bản của
tướng chân thật, Tướng Chân Thật đây tức là căn cứ nơi ba Tánh mà
giải thích. Chữ Biết của câu thứ năm tức là chỉ cho ba tánh. Tụng
nói Nơi Pháp nghĩa là chỉ cho các pháp đã giải thích ở trước. Sác
Thủ Thú nghĩa là chỉ cho Bổ Đặc Già La (Pudgala). Nếu biết rõ Biến Kế Sở Chấp trong ba tánh, lúc
đó nơi pháp, nơi người khi chuyển khởi kiến chấp tăng giảm thì không còn
chấp trước nữa, cho nên gọi là danh xưng tướng chân thật. Nói rõ hơn
Tướng chân thật nghĩa là tướng đã lìa khỏi sự chấp trước tăng giảm
nơi Pháp, nơi Sác Thủ Thú đồng thời cũng đã thông suốt được tướng
chân thật của Biến Kế Sở Chấp Tự Tánh. Nhưng trong đây chỗ gọi
tăng giảm, chữ Tăng nghĩa là pháp và nguồn gốc không bao giờ có, nay
đem nó chuyển khởi thêm lên cho có và nói cho rõ hơn chính là không
có trên sự thật, mà chỉ có trên tri thức tăng thêm, nghĩa là Có ở
đây do tri thức gia công tưởng tượng sáng tạo thêm lên. Hiện tại đề
cập đến Pháp và Sác Thủ Thú, nguyên là không có thật tánh, do vì
tri thức căn cứ nơi Pháp và Sác Thủ Thú gia công tưởng tượng sáng
tạo thêm lên cho là có thật Ngã thật Pháp, đó gọi là kiến chấp
tăng ích. Nếu không thừa nhận Sác Thủ Thú sở dĩ có là do nghiệp của
ba đời sanh tử tương tục thành lập và cũng như không chấp nhận các
Pháp sở dĩ có là do nhân duyên hợp thành, đây chính là thuộc về
kiến chấp tổn giảm. Nói cách khác nơi Pháp và nơi Sác Thủ Thú đã
hiểu rõ là không thật thể, cũng đã biết rõ tất cả pháp là do nhân
quả sanh tử trong sáu cõi tạo thành, mặc dù có mà không phải thật,
tức là đã lìa khỏi kiến chấp tăng giảm và cũng chứng được thật tướng
Trung Đạo, đồng thời cũng thông suốt được tướng chân thật của Biến
Kế Sở Chấp Tự Tánh. Còn Sở thủ và Năng thủ, nghĩa là tâm phân
biệt của năng thủ và cảnh phân biệt của sở thủ đều thuộc Y Tha
Khởi Tánh, ở nơi đó nếu biết rõ là giả có, như thế kiến chấp tăng
giảm cũng không còn chuyển khởi nữa. Nhân vì đã thông suốt được các
thứ pháp đều do nhân duyên kết hợp thành hình, cho nên được lìa khỏi
kiến chấp tổn giảm: đây là tướng chân thật của Y Tha Khởi Tánh thứ
nhất.
Lại nữa còn phương diện tăng ích, đã
biết rõ các thứ pháp đều là giả có mà không phải thật có, đó
cũng chính là đã lìa khỏi kiến chấp tăng ích: đây là tướng chân thật
của Y Tha Khởi Tánh thứ hai. Riêng trong Tánh Có Không Phải Có đây,
tức là căn cứ nơi Viên Thành Thật mà trình bày. Tánh Có nghĩa là
có nhơn không pháp không và có hai tánh không của năng thủ và sở
thủ. Không Phải Có nghĩa là không có thật tánh của nhơn và pháp, nên
gọi là tánh có không phải có. Biết được Viên Thành Thật tức là biết
được tánh có không phải có và cũng tức là đã lìa khỏi kiến chấp
tăng giảm. Chỗ gọi có hai Tánh Không chính là chỉ cho không phải
không, vì đã lìa khỏi kiến chấp tổn giảm; chỗ gọi thật tánh hai thủ
không ngã pháp, chính là chỗ đã lìa khỏi kiến chấp tăng ích, đó cũng
chính là tướng chân thật của Viên Thành Thật Tánh thứ ba. Ba thứ
chân thật như thế nếu đã biết rõ thì không chuyển khởi hai kiến
chấp tăng giảm và chứng đặng thật tướng Trung Đạo trong ba tánh. Chỗ
gọi thật tướng các pháp nghĩa là phải sử dụng ba tánh trên để
thông suốt các Pháp, thông suốt Sác Thủ Thú và thông suốt Nhị Thủ
cùng Tướng chân thật của Tánh Có Không Phải Có.
b/3- Không Đảo Chân
Thật:
Bài Tụng:
“Vô tánh cùng sanh diệt, cấu tịnh ba vô thường. Sở thủ và sự
tướng, hoà hợp ba loại khổ. Không cũng có ba loại: gọi là Vô, là
Dị, là Tự Tánh. Vô Tướng và Dị Thục, Tự Tướng ba Vô Ngã. Như thứ
lớp bốn ba loại, nương nơi Chân Thật căn bản.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh chân
thật không đảo. Không Đảo nghĩa là bốn thứ không điên đảo, nơi lý
thì quan hệ ba Thừa. Không Điên Đảo gồm có bốn: Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh. Mặt trái của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chính là bốn thứ điên đảo,
như vô thường cho là thường, bị khổ cho là vui, vô ngã cho là ngã,
không thanh tịnh cho là thanh thịnh. Nếu như lìa khỏi bốn thứ điên đảo
này chính là không điên đảo. Nếu hiểu rõ các pháp là vô thường,
là khổ, là không, là vô ngã, là một thứ giải thoát rất chính xác,
nên gọi là chân thật không điên đảo. Bài Tụng đây chỉ căn cứ nơi
căn bản chân thật của ba Tánh mà phân ra bốn loại và mỗi loại đều
có ba nghĩa:
a, Một là Vô Thường, trong vô thường
có ba nghĩa: Thứ nhất là Vô Tánh, nghĩa là Pháp Biến Kế Sở Chấp
hoàn toàn không có thể tánh, nên gọi là Vô Thường. Thứ hai là Sanh
Diệt, nghĩa là nương vào duyên mà sanh ra pháp Y Tha Khởi; pháp Y Tha
Khởi sát na sanh diệt, chỗ gọi duyên tụ lại thì sanh, duyên ly tán
thì diệt, cho nên gọi sanh diệt là vô thường. Thứ ba là Cấu Tịnh,
nghĩa là Viên Thành Thật Tánh, mặc dù vẫn là như thế, tuy nhiên ở nơi
tất cả chúng sanh thì Chân Như có nhơ bẩn, nhưng khi chứng quả Thánh
thì Chân Như trở thành thanh tịnh. Nhân vì phần vị Phàm và Thánh không
giống nhau, cho nên cấu và tịnh đều là vô thường.
b, Hai là Khổ, trong Khổ có ba nghĩa: Thứ nhất là Sở
Thủ, nghĩa là Biến Kế Sở Chấp thuộc loại mê vọng cho nên chọn lấy
ngã pháp và do chấp trước sở thủ cho nên là khổ. Thứ hai là Sự
Tướng, nghĩa là hiện tượng Pháp Y Tha Khởi bị sanh diệt trói buộc
không thể tự tại, cho nên là khổ. Thứ ba là Hoà Hợp, nghĩa là Viên
Thành Thật Tánh ở trong pháp hữu tình sanh diệt, mặc dù mãi mãi lúc
nào cũng vẫn là Tánh Không, nhưng hoà hợp cùng với các pháp sanh
tử, nên gọi là hoà hợp khổ.
c, Ba là Không, trong Không có ba
nghĩa: Thứ nhất là Vô Tánh, nghĩa là Pháp Biến Kế Sở Chấp vọng có
giả danh, không có thật thể, giống như lông rùa sừng thỏ, do vì
không biết nên vọng chấp giả danh cho là thật có. Đúng ra nó không
có thật tánh cho nên gọi là Vô Tánh. Thứ hai là Dị Tánh, nghĩa là
Pháp Y Tha Khởi mặc dù không phải không nhân duyên sanh thành và do
Duy thức hiện khởi, mặc dù đã lìa ngôn ngữ văn tự, nhưng ở nơi thông
thường do tri thức phân biệt, cho nên mới có tên pháp này pháp kia,
pháp A pháp B..v..v...... và từ đó giả danh được thiết lập trên ngôn
ngữ phân biệt và cũng từ đó chúng khác xa với thể tánh chân thật
ban đầu, cho nên gọi là Dị Tánh Không (Khác
với Tánh Không). Thứ ba là Tự Tánh, nghĩa là thuyết minh Viên
Thành Thật Tánh chính là Tánh Không của tất cả pháp, tự tánh đã là
không, cho nên gọi là Tự Tánh Không.
d, Bốn là Vô Ngã, Vô Ngã có ba
nghĩa: Thứ nhất là Vô Tướng, Vô Tướng nghĩa là Ngã tướng Pháp tướng
của Biến Kế Sở Chấp đều là không, như chúng ta không tin có vị Thần
Tạo Vật, Vị Thần Tạo Vật theo Phật Pháp tức là không có, do vọng
chấp cho là có hình tướng vị Thần, hình tướng vị Thần Biến Kế Sở
Chấp đây xét cho cùng thì không có, vì không có tướng tức gọi là
Vô Ngã. Thứ hai là Dị Tướng, Dị Tướng đây nghĩa là như Thức thứ bảy chấp
Kiến Phần Thức thứ tám làm Ngã, thật tại Kiến Phần Thức thứ tám
chính là pháp giả do nhân duyên sanh ra, vốn không phải là Ngã; Thức
thứ bảy vọng chấp cho là Ngã thì khác (Dị) nơi chân tướng của Thức thứ tám, cho nên gọi là Dị
Tướng Vô Ngã (khác với tướng vô
ngã). Thứ ba là Tự Tướng, Tự Tướng đây là chỉ cho Viên Thành
Thật Tánh. Tự Tướng chính là vô ngã cho nên gọi là Tự Tướng Vô
Ngã. Dưới đây tiếp theo ba bài Tụng nương nơi Tánh để thiết lập ba
nghĩa chân thật, cho nên nói rằng: “ Như từng tự bốn thứ có ba loại
nương nơi chân thật căn bản”, nghĩa là bốn thứ không điên đảo ở
trước đều nương nơi ba tánh làm căn bản và chúng từng tự đều có ba loại
chân chật.
b/4- Nhân Quả
Chân Thật:
Bài Tụng:
“Khổ ba Tướng (khổ, lạc,
không khổ không lạc) đã trình bày, Tập
củng có ba loại: gọi là Tập Khí, Đẳng Khởi, và Tướng chưa lìa khỏi
sự trói buộc. Tự Tướng, nhị bất sanh (hai năng thủ sở thu không sanh), nhị cấu tịch (hai thứ nhơ
bẩn
và
vắng lặng),
ba Diệt. Biến Tri và Vĩnh Đọan, chứng đặng ba Đạo Đế.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh Tứ Đế
cũng đều có ba loại chân thật. Tứ Đế chính là phần vị của nhân quả,
Khổ Tập là nhân quả thế gian,
Diệt Đạo là nhân quả xuất thế gian, có chỗ gọi là biết Khổ đoạn Tập,
mến Diệt tu Đạo. Tứ Đế đây cũng dùng ba tự tánh làm căn bản và mỗi
Đế đều có ba loại chân thật:
1, Trong Tướng Khổ có ba chân thật:
nơi trước đã trình bày trong khổ điên đảo của bốn điên đảo, gồm có
ba loại như là, Sở Thủ Khổ, Sự Tướng Khổ và Hoà Hợp Khổ, cho nên
gọi là ba Tướng Khổ đã được trình bày qua.
2, Trong Tập Đế có ba chân thật: Thứ
nhất là Tập Khí, Tập Khí nghĩa là do Biến kế Sở Chấp nương nơi chúng
sanh hữu tình phát khởi chấp trước nhơn ngã; nương nơi các pháp phát
khởi chấp trước ngã pháp, chỗ chấp trước đây mặc dù đều là không,
nhưng Tập Khí được chấp liền huân sanh và tăng trưởng phiền não
thạnh hành cảm nhận các khổ sanh tử, như Kinh Giải Thâm Mật giải
thích: “Thức A Đà Na rất thâm tế, tất cả chủng tử như dòng thác
nước chảy xiết, Ngã nơi phàm ngu không mở bày, sợ kia phân biệt
chấp làm ngã.”, đây chính là ý nghĩa của Thức A Đà Na, là trình bày
không hoà hợp với chúng phàm phu, nhân vì chúng phàm phu mặc dù có
Câu Sanh Ngã Chấp, nhưng không chướng ngại cho việc tu thiện để sanh
thiên; nếu như đem Thức A Đà Na đối với chúng phàm phu mà giải bày
thì ngược lại dẫn đến phát khởi sự phân biệt chấp ngã và sự chấp
ngã này huân tập thành Tập Khí, đồng thời gia tăng tạo nghiệp khổ
não của ác thú (các cõi), cho
nên gọi là Tập Khí Huân Tập. Thứ hai là Đẳng Khởi (Các pháp đồng thời sanh khởi),
Đẳng Khởi nghĩa là cảm thọ quả báo cụ thể rõ ràng tất cả nghiệp
phiền não của loại Đẳng Lưu (cùng
một dòng họ) huân tập, cho nên gọi là Đẳng Khởi Tập. Thứ ba là
Tướng Vị Ly Phược (Tướng chưa lìa
khỏi sự trói buộc), Tướng Vị Ly Phược đây, nghĩa là ở nơi trong
Hoặc và Nghiệp, Viên Thành Thật Tướng chân thật lúc đó thì chưa lìa
khỏi sự trói buộc của Tập.
3, Trong Diệt Đế có ba chân thật:
Thứ nhất là Tự Tánh Diệt, Tự Tánh Diệt nghĩa là Biến Kế Sở Chấp
Tự Tánh xưa nay không có, như lông rùa sừng thỏ. Tự tánh của Biến
Kế vốn không sanh không diệt, không mong đợi để Diệt trở lại. Cũng chỉ
vì do sai lầm mà cho Biến Kế Sở Chấp có tự tánh, như ban đêm thấy
giây thừng lầm cho là con rắn, nếu biết rõ là giây thừng thì con rắn
vốn không sanh và cũng không cần đến diệt. Thứ hai là Nhị Bất Sanh,
Nhị Bất Sanh nghĩa là hai pháp Năng Thủ Sở Thủ không sanh, do hai Thủ
đây mới có vọng phân biệt, nếu tu vô tướng thì hai Thủ đây không
có sanh. Thứ ba là Nhị Cấu Tịch, Nhị Cấu Tịch nghĩa là hai thứ nhơ bẩn
và vắng lặng. Nhơ bẩn vắng lặng nghĩa là nhơ bẩn đã diệt; do có nhơ
bẩn cho nên chân như thường ở trong
pháp ô nhiễm nhơ bẩn, như hạt minh châu ở trong bùn nhơ. Hạt minh châu
từ trong bùn nhơ được lấy ra gọi là Cấu Tịch. Cấu Tịch đây có hai
thứ: Thứ nhất là Trạch Diệt Vô Vi, nghĩa là dùng chánh trí đem phiền
não ra chọn lựa cho chấm dứt mà chứng được thanh tịnh. Thứ hai là
Chân Như Vô Vi, nghĩa là bản thân của chân như là vô vi, xưa nay vẫn
là vắng lặng.
4, Trong Đạo Đế có ba chân chật:
Thứ nhất là Biến Tri Đạo, Biến Tri Đạo là biết khắp tất cả, nghĩa là biết rõ hoàn toàn thật thể
của Chủ Tạo Vật..v..v...... của Biến Kế Sở Chấp không phải có thật
cũng giống như lông rùa sừng thỏ; vấn đề đây nếu như biết rõ chính là hiểu biết chân
thật. Thứ hai là Biến Tri Vĩnh Đoạn Đạo, Biến Tri Vĩnh Đoạn Đạo nghĩa
là nương nơi pháp Y Tha Khởi để cần phải biến tri (biết khắp tất cả) và để cần phải vĩnh đoạn (đoạn trừ vĩnh viễn); Biến Tri tức
là biết các pháp Y Tha Khởi là vọng, Vĩnh Đoạn tức là nếu tu vô tướng
thì đoạn trừ vĩnh viễn hai Thủ phân biệt. Thứ ba là Biến Tri Chứng
Đắc Đạo, Biến Tri Chứng Đắc Đạo nghĩa là Viên Thành Thật Tánh trước
hết phải biết rõ hoàn toàn và sau đó mới chứng đắc, đây là ba
chân thật nghĩa của Đạo Đế. Biến Kế thì có một biến tri, còn Y Tha và Viên Thành nơi trong biến
tri lại thêm một thứ nữa chính là nghĩa nhân quả chân thật thứ tư.
b/5- Thô Tế Chân
Thật:
Bài Tụng:
“Nên biết Thế Tục Đế, sai biệt có ba thứ: gọi là Giả, là Hành,
là Hiển Liễu; như thứ lớp nương nơi
căn bản thì có ba. Thắng Nghĩa Đế cũng có ba: gọi là Nghĩa, là Đắc,
là Chánh Hạnh; duy nhất nương nơi căn bản: Vô Biến, Vô Đảo hai Viên
Thật.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây giải thích rõ nghĩa
chân thật thô tế của hai Đế. Thô tức là thô tướng, Tế tức là tế
tướng, Thô Tế là giảng tương đối. Thô tức là pháp thô thiển của
thế tục, Tế tức là pháp thắng nghĩa của vi diệu; pháp thế tục mặc
dù cũng là thật Đế, nhưng chỉ có pháp thật tại triệt để vi diệu mới
gọi là thắng nghĩa. Đây là chỗ thấy cảnh thắng nghĩa của thắng trí
vô lậu, cho nên gọi là Tố Thắng Nghĩa (Thấy Thắng Nghĩa). Như ở trong Bách Luận của Bồ Tát Đề
Bà, giải thích hai Đế Chân và Tục; Tục Đế đối với Chân Đế thì
không thật. Có người kia hỏi rằng, dĩ nhiên thế tục đối với thắng nghĩa
là không thật, thế thì nên làm cách nào hoàn toàn không phải là
Đế? Người kia giải thích đại ý rằng: Hai Đế Chân và Tục là căn cứ
nơi tương đối cạn và sâu, thô và tế mà giảng giải, như đem bình trà
so với tách trà mà nói thì bình trà là lớn, nhưng bình trà so với
mâm trà mà nói thì bình trà trở nên nhỏ, nguyên do không đồng nhau
vì đối đãi, cho nên nói là lớn, cho nên nói là nhỏ. Thế Tục Đế
đối với hư vọng lầm lạc của thế gian là thật Đế, nhưng đối với
nghĩa cứu cánh chân thật của xuất thế gian thì hoàn toàn không thật.
Lại nữa Y Tha đối với Biến Kế thì Y Tha trở thành có, nghĩa là có
nhân quả; còn Y Tha đối với pháp Viên Thành thì Y Tha trở thành
không, nghĩa là không có trên Thắng Nghĩa. Như hôm nay trình bày hai Đế
Chân và Tục, gọi là chân thật thô tế, cũng chính là căn cứ nơi
đối đãi mà trình bày, thật ra không có nghĩa cố định. Tụng nói nên biết Thế Tục Đế, theo thứ
lớp nương nơi căn bản chân thật thì có ba loại sai biệt và ba loại
sai biệt này cũng nương nơi ba tự tánh để giải thích. Ba loại sai biệt
gồm có: Giả Thế Tục, Hành Thế Tục và Hiển Liễu Thế Tục. Một là Giả Thế Tục, nghĩa là Pháp Biến
Kế Sở Chấp chỉ có giả danh mà không có thật nghĩa. Hai là Hành Thế
Tục, nghĩa là nương nơi Pháp Y Tha Khởi thì sanh diệt vô thường. Ba là
Hiển Liễu Thế Tục, nghĩa là vì hiển bày rõ Viên Thành Thật Tánh mà
thiết lập ngôn ngữ để phân biệt, nhưng trên thực tế Viên Thành
Thật thì lìa ngôn ngữ phân biệt. Pháp Thế Tục Đế có ba thứ nghĩa,
đều là nương nơi ba Tánh mà kiến lập. Thắng Nghĩa Đế cũng có ba thứ
sai biệt: Nghĩa Thắng Nghĩa, Đắc Thắng Nghĩa và Chánh Hạnh Thắng Nghĩa.
1, Nghĩa
Thắng Nghĩa đây, nghĩa là bản thân có danh nghĩa thù thắng, tức là
chỉ cho Thắng Nghĩa Thắng Nghĩa Chân Như Pháp Giới. Thắng Nghĩa Thắng
Nghĩa Chân Như Pháp Giới, nghĩa là danh nghĩa thù thắng của Pháp Giới
Chân Như.
2, Đắc Thắng Nghĩa đây, nghĩa là chỗ
chứng đắc Niết Bàn lìa khỏi chướng ngại, đó chính là Chân Như, mặc
dù Chân Như biến khắp tất cả pháp, nhưng tự thể vẫn là thường trụ
như thế, mà ở đây cần yếu là sau khi đối trị phiền não mới được gọi
là Chứng Đắc Niết Bàn.
3, Chánh Hạnh Thắng Nghĩa đây, nghĩa
là tu hành Chánh Hạnh có thể chứng Niết Bàn, đó chính là khả năng
chứng Thắng Nghĩa nên gọi là Chánh Hạnh Thắng Nghĩa.
Ba thứ Thắng Nghĩa nói trên chỉ căn
cứ nơi Viên Thành Thắng Nghĩa trong ba Tự Tánh để định danh và do bởi
Viên Thành có nghĩa không biến đổi không điên đảo và theo đó mà
kiến lập ba thứ Thắng Nghĩa. Nương tựa nơi Thắng Nghĩa thường không bị
biến đổi khác đi mà kiến lập Nghĩa Thắng Nghĩa và Đắc Thắng Nghĩa.
Chánh Hạnh mặc dù là có biến đổi, tuy nhiên vẫn tuân theo Vô Đảo (không điên đảo) mà có thể chứng
Thắng Nghĩa và nhơn đó kiến lập Chánh Hạnh Thắng Nghĩa. Tóm lại,
nguyên nhân căn cứ nơi Viên Thành Thật không biến đổi, không điên
đảo mà kiến lập ba thứ Thắng Nghĩa này.
b/6- Cực Thành
Chân Thật:
Bài Tụng:
“Thế Cực Thành nương nơi một, Lý Cực Thành nương nơi ba.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Cực
Thành chân thật. Phân chia có hai thứ: 1- Thế Gian Cực Thành, 2- Đạo
Lý Cực Thành. Cực Thành nghĩa là tư tưởng cứu cánh phổ biến cộng
đồng chấp nhận, nơi Nhân Minh gọi là làm cho thế gian chấp nhận và
đạo lý đều chấp nhận. Như nói cái chén, mọi người đều có thể chấp
nhận là cái chén, mọi người đây là chỉ cho thế gian theo tập quán đều
cùng biết cùng chấp nhận các thứ danh tướng nói trên, đó gọi là
Thế Gian Cực Thành. Đạo Lý Cực Thành là do học lý, học vấn chuyên môn
mà thành lập, như Thiên Văn Học nói rằng Thái Dương thì lớn như Địa
Cầu, còn người phổ thông thì nói rằng Thái Dương chẳng qua là mặt
bồn lớn mà thôi. Thiên Văn Học nói lớn như Địa Cầu là dùng các
thứ lý do mà thành lập, lý do của nó chính là nhân và lại nêu ra
rất nhiều thí dụ để chấp nhận, như hoạ đồ tiêu biểu..v..v...... điều
đó chứng tỏ mọi người Học Lý Thiên Văn đều cùng chấp nhận, đây
gọi là Đạo Lý Cực Thành. Trong Thế Gian Cực Thành ở trước là căn
cứ nơi Biến Kế Sở Chấp Tự Tánh mà thành lập, do thế gian thường
thường căn cứ nơi tập quán Biến Kế mà thành lập danh tướng. Còn
Đạo Lý Chực Thành thì quan hệ nơi ba thứ, như thành lập Tông Chỉ Tạo
Chủ vạn hữu và dùng các thứ Nhân và Dụ để biện minh, đây gọi là
Biến Kế. Lại nữa như dùng học lý thuyết minh thế gian là do nhân duyên
biến hiện qua hiện tượng Y Tha Khởi. Nó dùng đạo lý thuyết minh tất
cả các pháp Y Tha Khởi xét đến cùng đều là không, đây chính là
Viên Thành Thật.
b/7- Tịnh Hạnh
Chân Thật:
Bài Tụng:
“Tịnh
Sở Hành có hai, nương nơi một Viên Thành Thật.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh Tịnh Sở
Hành chân thật. Tịnh Sở Hành, nghĩa là cảnh giới tịnh trí của chỗ
thật hành đã lìa khỏi hoặc. Cảnh giới tịnh trí đây có hai thứ: một
là cảnh giới tịnh trí của chỗ thật hành đã ra khỏi phiền não
chướng, hai là cảnh giới tịnh trí của chỗ thật hành đã ra khỏi Sở
Tri Chướng. Hai thứ cảnh giới này đều nương nơi Viên Thành Thật mà an
lập, chẳng qua chỗ thật hành ra khỏi phiền não chướng chỉ là được
một phần Viên Thành, còn chỗ thật hành ra khỏi sở tri chướng lẽ
tất nhiên mới được gọi là hoàn toàn Viên Thành, riêng Tánh Không
mới gọi là Tịnh Sở Hành chân thật.
b/8- Nhiếp Thọ
Chân Thật:
Bài Tụng:
“Danh, Biến Kế Sở Chấp;
Tướng, Phân Biệt, Y Tha, Chân Như và Chánh Trí; chỗ thâu nhiếp của
Viên Thành Thật.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh dùng năm pháp
để thâu nhiếp tất cả các pháp. Năm Pháp gồm có: Tướng, Danh, Phân
Biệt, Chân Như, Chánh Trí và còn thuyết minh thêm nữa là Như Như. Năm Pháp đây đều thâu nhiếp nơi ba Tự
Tánh: như Danh tức là chỉ cho Biến Kế Sở Chấp và Tướng cùng Phân
Biệt tức là pháp của Y Tha Khởi. Tướng là căn cứ nơi pháp mà đặt
tên, như đặt tên là Sắc, Thọ..v..v......, nghĩa là căn cứ nơi sự
thật của Sắc, của Thọ..v..v...... mà thiết lập danh xưng. Các thứ
danh xưng nói trên chính là của Biến Kế Sở Chấp; riêng Tướng thì
thuộc Sắc và Phân Biệt thì thuộc Tâm Tâm Sở, cả hai đều của pháp Y
Tha Khởi. Chân Như và Chánh Trí thì thuộc chỗ thâu nhiếp của Viên
Thành. Nguyên do Chánh Trí đây chính là chỉ cho Chánh Hạnh không điên
đảo và nương nơi Chánh Trí này có thể biết rõ nào là chân thật,
nào là không phải chân thật mà chứng được Chân Như. Trong Chánh Trí,
năm Pháp và ba Tự Tánh đều nhiếp lấy lẫn nhau, nhưng theo Du Già và
Thành Duy Thức Luận giải thích thì không giống nhau, mặc dù Thành Duy Thức Luận cũng có đề cập đến
nghĩa đây, chẳng qua hiển bày một thứ không giống nhau của nó để xác
định riêng khác. Như Thành Duy Thức Luận nói rằng ba Tự Tánh và năm
Pháp đều nhiếp lấy lẫn nhau và bốn thứ như Danh, Tướng, Phân Biệt và
Chánh Trí đều nương nơi Pháp Y Tha Khởi. Còn Chân Như chính là pháp
Viên Thành Thật. Năm Pháp thì có thâu nhiếp Biến Kế Sở Chấp mà Biến
Kế Sở Chấp thì không thâu nhiếp năm Pháp; đây là Du Già Duy Thức
chỗ quyết đoán khác lạ như thế. Theo Du Già Duy Thức giải thích Y Tha
thì bao quát cả nhiễm và tịnh, nguyên vì Chánh Trí mặc dù là thanh
tịnh nhưng cũng bao quát Y Tha ở trong. Biện Trung Biên Luận so với Du
Già Duy Thức thì có chỗ không giống nhau. Chỗ khác nhau của Biện
Trung Biên Luận so cùng với Du Già Duy Thức chính là như quyển đầu
của Biện Trung Biên nói rằng: Hư Vọng Phân Biệt thì có, nghĩa là Y
Tha do nương nơi hư vọng cho nên chỉ nói có phần nhiễm, còn Vô Đảo
Hành của phần tịnh Y Tha thì lại nhiếp vào Viên Thành; cho nên Luận
này khác nhau với Duy Thức. Do đó, nghĩa rộng của Viên Thành nơi Luận
này thì bao quát cả Chân Như và Tịnh Y Tha. Nghĩa hẹp của Y Tha chỉ
nhiếp lấy ô nhiễm mà thôi. Còn Y Tha của Thành Duy Thức Luận thì
rộng bao quát cả nhiễm và tịnh; nghĩa hẹp của Viên Thành là chỉ
nhiếp lấy Chân Như Không Tánh mà thôi, đây là hai chỗ không giống
nhau.
b/9- Sai Biệt Chân
Thật:
Bài Tụng:
“Lưu chuyển cùng an lập, tà
hạnh, căn cứ ban đầu thì có hai; Thật Tướng, Duy Thức, Tịnh, Chánh
Hạnh, căn cứ sau cùng thì có một.”
Giải Nghĩa:
Đây là giải thích sai biệt chân thật
có bảy. Ở trong Kinh Luận khác gọi là bảy thứ Chân Như, còn ở trong
Luận này gọi là bảy thứ Chân Thật: 1- Lưu Chuyển Chân Thật, 2- Thật
Tướng Chân Thật, 3- Duy Thức Chân Thật, 4- An Lập Chân Thật, 5- Tà
Hạnh Chân Thật, 6- Thanh Tịnh Chân Thật, 7- Chánh Hạnh Chân Thật.
Trong đây Lưu Chuyển Chân Thật chính
là sanh tử lưu chuyển tất cả pháp hữu lậu sanh diệt. An Lập Chân
Thật chính là an lập quả báo của chúng sanh trong ba cõi, đây tức là
Khổ Đế. Tà Hạnh Chân Thật chính
là phiền não và nghiệp lực, đây tức là Tập Đế. Ba thứ Chân Thật
như thế đều là chân thật nương nơi Biến Kế Sở Chấp và Y Tha Khởi để
làm sáng tỏ. Còn bốn thứ chân thật dưới đây là Thật Tướng, Duy
Thức, Thanh Tịnh và Chánh Hạnh chỉ nương nơi một chân thật sau cùng
của Viên Thành để làm sáng tỏ. Thật Tướng Chân Thật tức là Tướng
Không của các pháp, nghĩa là trong tất cả các pháp Sanh Không Pháp
Không đã được làm sáng tỏ chính là thật tướng của các pháp. Duy
Thức Chân Thật chính là tổng nhiếp tất cả pháp hữu vi vô vi, đều
là do Duy Thức biến hiện, Tánh của vô vi cũng là do Duy Thức biến
hiện, cho nên gọi là Duy Thức Chân Thật. Thanh Tịnh Chân Thật chính là Thanh Tịnh Niết Bàn Diệt Đế
được hiển bày sau khi lìa khỏi sự nhiễm ô. Chánh Hạnh Chân Thật
chính là Chánh Hạnh Đạo Đế của công năng chứng đắc chân thật. Bốn
thứ đây đều là nương nơi Viên Thành để thuyết minh, cho nên gọi là
Viên Thành Thật Sở Nhiếp.
b/10- Thiện Xảo
Chân Thật:
*a, Trình Bày Tổng Quát:
Bài Tụng:
“Nơi Uẩn..v..v...... Ngã Kiến, Chấp Nhất, Nhân, Thọ Giả, Tác
Giả, Tự Tại Chuyển, Tăng Thượng Nghĩa và Thường; Thanh Tịnh Y lìa khỏi
ô nhiễm, Quán, Tánh trói buộc và giải thoát; chỗ chấp đây, phân
biệt, nghĩa Pháp Tánh ở nơi kia.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là trình bày chung
mười thứ Thiện Xảo. Mười thứ Thiện Xảo gồm có: Uẩn Thiện Xảo,
Giới Thiện Xảo, Xứ Thiện Xảo, Duyên Khởi Thiện Xảo, Xứ Phi Xứ
Thiện Xảo, Căn Thiện Xảo, Thế Thiện Xảo, Đế Thiện Xảo, Thừa Thiện
Xảo và Pháp Hữu Vi Vô Vi Thiện Xảo. Nơi trong mười Thiện Xảo đây
đều có thể sanh khởi Ngã Kiến:
1/- Như nơi trong Ngũ Uẩn, chấp trước
cho là có một Căn Thân (Thân Thể),
Phật Pháp công khai quán thấy đó tức là Sắc, Thọ..v..v...... Ngũ
Uẩn, như thân thể tức là Sắc Uẩn, Khổ Lạc..v..v...... tức là Thọ
Uẩn, Tư Tưởng tức là Tưởng Uẩn, Thiện Ác..v..v...... tức là Hành
Uẩn, Tâm..v..v...... tức là Thức Uẩn; lìa khỏi Ngũ Uẩn này ngoài ra
không có một thật thể nào khác, chỉ là thể chất chứa nhóm của
Pháp Uẩn, không có Ngã Thể thật tại thống nhất. Tuy nhiên cái Ngã,
thông thường gọi đều cho là có cá tánh độc nhất, thật tế chính là
Giả Tướng hoà hợp, cũng giống như nương nơi đoàn thể đặt tên là
Phật Học Xã, nghĩa là cùng nhau nương nơi pháp Ngũ Uẩn mà đặt danh
xưng cho người, ngoại trừ đặc biệt hoà hợp chứa nhóm không thật thể
đây, chẳng qua giả danh gọi là anh A, anh B mà thôi. Vì bị chấp một
Ngã Tướng, do đó cần phải khéo léo để thông suốt được Ngũ Uẩn, cho
nên gọi là Uẩn Thiện Xảo.
2/- Chấp Nhân, nghĩa là chấp trước
hữu tình, mặc dù là tướng hoà hợp, nhưng tất nhiên có sự vật thật
tại làm nhân và cho nhân thể đây tức là Ngã, đó gọi là chấp Nhân
Ngã. Do vì bị chấp, cho nên Thập Bát Giới mới được thuyết minh. Thập
Bát Giới (Mười tám Giới), chữ
Giới tức là chỉ cho Nhân của nghĩa chủng tử. Nhân của nghĩa chủng tử
gồm có: sáu Căn, sáu Cảnh và sáu Thức, mỗi mỗi đều có chủng tử
phát khởi hiện hành, cho nên gọi là Nhân và ngoài Nhân đây không
có Ngã nào khác có thể cho là Nhân được. Thập Bát Giới đây nếu
đã hiểu rõ thì được mang danh xưng là Giới Thiện Xảo.
3/- Chấp Thọ đây có thứ người quan
niệm rằng: nếu không có Ngã thì ai thọ báo? Do đó xác định rằng tất
nhiên phải có một người để thọ báo và người đó đúng là Ngã. Nhưng
quán sát tinh tế chỗ thọ báo giác ngộ được là không ngoài sáu
Trần. Sáu Trần gồm có: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp và hơn nữa sáu
Trần thọ báo đích thực là không ngoài sáu Căn. Sáu Trần và sáu
Căn cọng lại là mười hai Xứ. Mười Hai Xứ (sáu Trần và sáu Căn) chính là chỉ cho Năng Thọ và Sở
Thọ, nhưng Năng Thọ đây bị chấp trước cho nên gọi là Xứ Thiện Xảo.
4/- Chấp Tác Giả, nghĩa là có thứ
người mặc dù không chấp nhận con người thọ nhận nhân quả, nhưng lại
cho vạn vật thế gian này nhất định một tác giả sáng tạo và chấp
tác giả sáng tạo đó chính là Ngã. Kẻ bị chấp trước đích thực là
Thập Nhị Duyên Khởi (Mười hai Duyên
Khởi). Nhân quả trong ba cõi đều không ngoài Thập Nhị Duyên Khởi
này, nghĩa là Vô Minh duyên nơi Hành, Hành duyên nơi Thức, Thức duyên
nơi Danh Sắc, Danh Sắc duyên nơi Lục Nhập, Lục Nhập duyên nơi Xúc,
Xúc duyên nơi Thọ, Thọ duyên nơi Ái, Ái duyên nơi Thủ, Thủ duyên nơi
Hữu, Hữu duyên nơi Sanh và Sanh duyên nơi Lão Tử. Sanh và Lão Tử sau
cùng bị biến chuyển là do nghiệp vô minh phiền não phát khởi, ngoại
trừ Thập Nhị Duyên Khởi đây không ai có thể thay thế làm Ngã được,
cho nên trong Phật Pháp không bao giờ nói có Thiên Thần chủ tể tạo
vật và còn phá chấp Đại Tự Tại Thiên, Đại Phạm Thiên..v..v..... và
cũng không nói con người có một Thần Ngã thường trụ bất diệt. Mặc
dù nói rằng Thức thứ tám có công năng làm ông chủ khi đi thì đi sau,
khi đến thì đến trước, nhưng Thức đây không thể tạo tác, vì nó không
có năng lực tự chủ cho nên bị chuyển biến theo nghiệp trở thành
dòng nước chảy và nghiệp quyết định đi đông thì đi đông, quyết định đi
tây thì đi tây, không mảy may tự quyết định. Ý Thức thứ sáu mặc dù
có thể tạo nghiệp, nhưng bị theo duyên để sanh khởi và theo duyên để
biến diệt và nó cũng không tự tại. Cho nên không có Ngã để làm
chủ tác giả, chỉ có Vô Minh..v..v... của Thập Nhị Hữu Chi làm chủ
tác giả. Do Vô Minh cho nên không rõ được vô ngã, không rõ được khổ,
vì thế tạo nghiệp mà phải cảm thọ quả báo sanh tử; tất cả nghiệp
báo đây chính là Thập Nhị Duyên Khởi làm chỗ chuyển biến sanh khởi.
Do vì nương theo Thập Nhị Duyên Khởi thế nên bị chấp trước cho là tác
giả.
5/- Chấp Tự Tại Chuyển, Tự Tại
Chuyển nghĩa là chuyển biến theo tự ý. Ngoài ra các thứ pháp có số
người cho là do Tự Tại Lực chuyển biến, đó chính là chỉ cho Ngã, chỉ
cho Chủ Tể. Muốn phá chấp này phải thiện xảo xứ phi xứ, nghĩa là tất
cả pháp tuyệt đối không có Tự Tại Lực; mỗi pháp đích thực có là
có như thế, đích thực có là không như thế, có chỗ gọi là có đúng chỗ (xứ), có chỗ gọi là không đúng
chỗ (phi xứ); như đất thì có thể
chuyên chở (đích thực là có như
thế, là có đúng chỗ) nhưng không thể che chở (đích thực là không như thế, không đúng chỗ), lửa có thể nóng nhưng
không thể lạnh, mỗi pháp đều có là xứ phi xứ, phá chấp này gọi là
xứ thiện xảo (là khéo léo đúng
chỗ).
6/- Tăng Thượng Nghĩa, nghĩa là có
một thứ người chấp trước cho rằng có thứ Nghĩa của thế lực đặc
biệt thù thắng, gọi là Tố Ngã (làm
bản ngã), như Nhãn Căn có thể phát ra Nhãn Thức, Nhãn Căn nếu
như hư hoại thì không có Nhãn Thức, Nhãn Căn chính là Tăng Thượng
của Nhãn Thức. Nương nơi đây mà chấp ngã, nghĩa là nói phàm pháp
Tăng Thượng đều không thể xuất sanh ra hai mươi hai Căn được (Hai mươi hai Căn gồm có: 6 Căn [Nhãn
Căn, Nhĩ Căn….Ý Căn], 3 Căn [ Nam Căn, Nữ Căn, Mạng Căn], 5 Thọ Căn
{khổ, vui, mừng, lo, xả], 5 Thiện Căn [Tín, Tấn, Niệm, Địng, Huệ], 3
Vô Lậu căn {Vị tri đương tri Căn, Dĩ tri Căn, Cụ tri Căn [Trích trong
Từ Điển Phật Học Huệ Quang]), ngoại trừ đây không có Ngã riêng
làm Nghĩa Tăng Thượng, đó chính là Căn Thiện Xảo.
7/- Chấp Vật Thể Thường Trụ là
Ngã. Ngoại trừ bị chấp đây, đạo lý ba cõi, đạo lý này là pháp
nhân quả do chỗ chấp mà có nhân quả sanh diệt, có ba đời là quá
khứ, hiện tại, vị lai. Rõ ràng ngoài tánh không của các pháp ra,
tất cả pháp đều không có thường trụ, đây là Thế Thiện Xảo.
8/- Nương nơi tạp nhiễm thanh tịnh đây,
nghĩa là nương tựa nơi chỗ chấp trước tạp nhiễm thanh tịnh làm Ngã. Ngoại
trừ chỗ chấp trước này, đạo lý Tứ Đế là đạo lý nhân quả của
pháp tạp nhiễm và đạo lý này chính là Khổ Tập; đạo lý nhân quả
của pháp thanh tịnh và đạo lý này chính là Diệt Đạo. Do nương tựa nơi
Tứ Đế mà có tạp nhiễm và thanh tịnh. Ngoại trừ Tứ Đế này, không
có pháp tạp nhiễm và thanh tịnh nào khác. Ngã chấp nếu như phá được
đó chính là Đế Thiện Xảo.
9/- Chấp Quán Hạnh làm Ngã, nghĩa
là chấp ba Thừa Thánh Quả làm Ngã. Ngoại trừ chấp ngã đây, ba Thừa
không phải là Thừa, như kẻ thường tu quán hạnh thì có thể chứng quả
Thánh và nương nơi nghĩa này mà kiến lập nghĩa của ba Thừa là Thinh
Văn, Duyên Giác và Bồ Tát; ba Thừa Thánh Quả này đều nhờ tu hành
mà được chứng đắc, đúng ra ba Thừa Thánh Quả không có Ngã Thể thật
tại. Ba Thừa nếu như có thể phá chấp đó chính là Thừa Thiện Xảo.
10/- Chấp trói buộc giải thoát đây
làm Ngã, nghĩa là có thứ người cho là sanh tử có trói buộc, niết
bàn có giải thoát, nếu như không có Ngã Chủ Tể thì nhất định không
có sanh tử và niết bàn. Nếu muốn phá trừ chấp trước này, phải
hiểu rõ tất cả pháp hữu vi vô vi, nghĩa là tất cả pháp hữu vi do nhiễm ô cho nên có bị
trói buộc và tất cả pháp vô vi thanh tịnh nhờ chứng đắc cho nên có
được giải thoát. Nhờ phá trừ được sự chấp trước pháp trói buộc và
pháp giải thoát cả hai đều không có ngã, cho nên gọi là Pháp Vữu
Vi Vô Vi Thiện Xảo.
Nương nơi mười Thiện Xảo để phá trừ
mười Ngã Kiến. Lại nữa ở trong mười thứ pháp Thiện Xảo này, mỗi
một pháp đều bao gồm ba Tánh: như ở trong Sắc Pháp của Ngũ Uẩn,
nương nơi Sắc Pháp mà chấp cho rằng có thật thể, đó chính là Biến
Kế Sở Chấp Tánh; hiểu rõ Sắc Pháp là do các duyên sanh ra và do Duy
Thức biến hiện, đó chính là hiểu rõ Y Tha Khởi Tánh; hiểu rõ Sắc
tức là không, đó chính là hiểu rõ Viên Thành Thật Tánh. Nơi Sắc
Uẩn đã là như thế, cho đến Thọ Tưởng Hành Thức và Giới
Xứ..v..v...... cũng là như thế, cho nên ba Tự Tánh đây đều ở khắp
trong các pháp Ngũ Uẩn. Mười cảnh thiện xảo trên đã được trình bày
tổng quát.
*b, Biện Minh Riêng Biệt:
1>Uẩn Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Không phải một và tóm lược tổng quát, nghĩa Phần Đoạn gọi
là Uẩn.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Uẩn
Thiện Xảo. Uẩn là nghĩa hoà hợp chứa nhóm, cũng gọi là tụ họp.
Sắc không phải một Sắc, Thọ không phải một Thọ, chính là nhiều thứ
tập họp, nên gọi là không phải một. Đem nhiều thứ pháp đây họp
nhau lại làm một pháp tụ gọi là tóm lược tổng quát. Không phải
một đây như trên đã tóm lược nghĩa là có thể phân đoạn, nên gọi
là Uẩn. Phân Đoạn, nghĩa là phân chia mạch lạc, như con người là một
hệ hình thể nhưng trong đó có Sắc, Thọ..v..v...... hoà hợp chứa nhóm.
Ở trong Sắc tự nó trở thành phân đoạn gọi là Sắc Uẩn. Sắc Uẩn đã
là như thế, Thọ Uẩn cũng là như thế, Tưởng Uẩn cũng là như thế, cho
đến Thức Uẩn cũng là như thế. Chữ Uẩn người xưa dịch là Ấm, chính
là nghĩa che phủ, ngày nay căn cứ nơi nghĩa chính của nó dịch là Uẩn.
2>Giới Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Năng,
Sở Thủ, Bỉ Thủ; nghĩa chủng tử gọi là Giới.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích mười
tám Giới. Năng Thủ tức là sáu Căn, Sở Thủ tức là sáu Trần, Bỉ
Thủ tức là sáu Thức. Mười tám pháp đây đều gọi là Giới. Nghĩa của
Giới tức là Chủng Tử, hiểu rõ nghĩa của mười tám Giới đều có khả
năng sanh ra chủng tử Nhân, nên gọi là mười tám Giới.
3>Xứ Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Năng
thọ chỗ Liễu Cảnh; Dụng, nghĩa là Môn gọi là Xứ.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây giải thích mười hai
Xứ. Nói đến Xứ là nói đến nghĩa Hữu Dụng, là nói đến Nghĩa Môn;
Hữu Dụng, nghĩa là có khả năng thọ dụng; Nghĩa Môn, nghĩa là chỗ
chuyên môn thọ dụng; chỗ có khả năng thọ dụng chuyên môn chính là
chỉ cho sáu Căn; chỗ chuyên môn để thọ dụng chính là sáu Trần.
4>Duyên Khởi Thiện
Xảo:
Bài Tụng:
“Nghĩa Duyên Khởi nơi Nhân, nơi Quả, nơi Dụng; không tăng giảm.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây giải thích Duyên Khởi
Thiện Xảo. Đối với Nhân, với Quả, với Dụng không thấy có tăng ích
và tổn giảm, tức là hiểu rõ thật tướng của nhân, của quả, của dụng
nơi Thập Nhị Duyên Khởi. Không thấy phát khởi tổn giảm chính là thừa
nhận có nhân quả. Không thấy phát khởi tăng ích chính là không chấp
nhận có Thiên Thần, có Thần Ngã..v..v...... và không chấp nhận có
nhân bình đẳng. Nếu như hiểu rõ nghĩa này tức là đã lìa khỏi vọng
chấp tăng ích và tổn giảm, đây là Duyên Khởi Thiện Xảo.
5>Xứ Phi Xứ Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Nơi Phi Ái, Ái, Tịnh, Câu Sanh, và Thắng Chủ, Đắc, Hành không
tự tại; là nghĩa xứ phi xứ.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Xứ Phi Xứ Thiện
Xảo mà phá trừ chấp trước có Ngã Tự Tại. Tụng nói rằng nơi Phi Ái
(nơi không ham muốn) là hiển bày
quả Phi Ái không có khả năng tự tại, như con người nguyên là không
có ý nguyện phi ái (ham muốn)
đọa Địa Ngục, nhưng mà do nghiệp tội cho nên phải đoạ Địa Ngục. Lại
nữa như mỗi con người đều không ý nguyện phi ái chịu khổ về lão bệnh tử, nhưng mà do nghiệp đã thuần
thục cho nên không thể không thọ khổ về lão bệnh tử. Đây chính là
nơi Ái không khả năng tự tại. Nơi Ái không khả năng tự tại, nghĩa
là như có người nhờ phước nghiệp của họ mà được thọ phước báo và
phước báo của họ được thọ nhận không phải do họ mong cầu mà được
kết quả, đây cũng gọi là không tự tại. Nơi thanh tịnh không tự tại,
nghĩa là quả nhất định phải do nhân và nhân thành thục thì mới cảm thọ
được quả, như trì Ngũ Giới thì được sanh lên cõi Trời và cõi Người,
tu Thất Giác Chi thì chứng được Niết Bàn, nhưng muốn chứng Vô Thượng
Bồ Đề thì nhất định phải tu đầy đủ Phước Huệ song hành. Câu Sanh
Không Tự Tại, nghĩa là ở nơi một trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới
không có hai Phật Đà, như Ta Bà Thế Giới này đồng thời chỉ có một
Phật Thích Ca mà thôi. Đến như ở đời gọi người nào đó là Phật
Sống, đây chỉ là lối nói khách sáo mà thôi. Nơi một Tiểu Thế Giới
đồng thời cũng chỉ có một Chuyển Luân Thánh Vương mà không có Thánh
Vương thứ hai, đây gọi là Câu Sanh Không Tự Tại. Thắng Chủ Không Tự
Tại nghĩa là chỉ cho danh hiệu của Phạm Vương, Đế Thích, Chuyển Luân
Thánh Vương..v..v...... Chỗ thân thể để nương tựa của các vị ấy tất
nhiên phải thân nam thì mới có thể làm Thế Thắng Chủ. Chứng Đặng
Không Tự Tại, nghĩa là nơi Quả Phật và quả Bích Chi Phật cũng phải
thân nam thì mới có thể chứng đặng. Hiện Hành Không Tự Tại, nghĩa
là như người đã chứng Sơ Quả nơi Thiện Câu Sanh thì nhất định hạnh sát
sanh không thể sanh khởi trở lại, nhân vì
họ đã đoạn trừ dứt nhân ác pháp. Sơ Quả đã là như thế,
ngoài ra Thánh Quả nhất định cũng không bị ác hạnh tái diễn. Nơi
Phàm Phu cũng có rất nhiều quyết định không thể hạn lượng được, như
khi đức Phật còn tại thế vua Lưu Ly muốn tiêu diệt dòng họ Thích,
đức Phật quán thấy đây chính là nghiệp đã thuần thục, không có
phương pháp nào có thể cứu vãng được, nhưng Mục Kiên Liên bạch
Phật: con có thể dùng thần thông đem hết dòng họ Thích cứu vào trong
cõi Không. Đức Phật trả lời: ông có thể cứu dòng họ Thích thì cũng
có thể đem nghiệp lực của tất cả chúng sanh an trí vào trong cõi
Không hay sao? Mục Kiền Liên làm thinh. Hiện tại người đời hành động
độc ác đối với chúng ta đó cũng là cộng nghiệp chiêu cảm của chúng
ta, mặc dù trong cộng nghiệp chiêu cảm nói trên có một người phát
khởi năng lực tu thiền định thì lúc đó họ chẳng qua chỉ giải thoát
được một người mà thôi, còn đại nghiệp của cộng đồng thì khó có
thể chuyển hoá toàn bộ được. Cho nên cộng nghiệp thì rất rộng lớn,
trong trường hợp nghiệp đã thuần thục, ngay lúc đó có người phát
tâm tu hành thì những thứ nhân đã tu tập được sẽ đem cộng nghiệp
khiến cho giảm nhẹ trong tương lai, mặc dù họ ở trong hoàn cảnh khổ
mà ngược lại không cảm thấy khổ trước những điều khó nhẫn nại và lại
còn thọ nhận những điều thuận lợi. Hết sức quan trọng ở chỗ là đã
không thọ lấy quả khổ mà còn cần phải quyết định không được tạo
thêm nghiệp nhân ác mới, hoặc cần phải chữa trị nghiệp ác tích lũy
lâu đời khiến được giảm thiểu. Cho nên ở trong Phật Pháp tin hiểu
chân chánh chính là phải ngăn ác hành thiện và nương nơi đó để tu
hành thì có thể được giải thoát. Nếu không được như thế mặc dù cầu
Phật để cứu độ thì cũng vô dụng. Như A Nan đệ tử của Phật, ông nguyên
vì tu hành chưa chứng quả, lúc nào cũng nương tựa ỷ lại nơi Phật, rốt
cuộc cũng không thoát khỏi nạn Ma Đăng Già. Đây là lời dạy chân
thật, nghĩa là nương nơi nhân thì được nơi quả. Bảy ý nghĩa như thế
chính là giải thích rõ đạo lý có Xứ (có
chỗ) có khả năng tự tại và có Phi Xứ (có không chỗ) tất nhiên không khả năng tự tại.
6>Căn Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Căn
nơi Thủ, Trụ, Tục, Dụng, hai Tịnh, Tăng Thượng.”
Giải Nghĩa:
Câu Tụng đây là giải thích Căn
Thiện Xảo. Chữ Căn là nghĩa tăng thượng, gồm có hai mươi hai loại,
có khả năng phát khởi công dụng tăng thượng của sáu Thức để nhận
lấy sáu Trần, cho nên sáu Căn (như
Nhãn Căn, Nhĩ Căn..v..v...... Ý Căn) đây gọi là Thủ (nhận lấy). Lại nữa chúng ta khi
ngủ mê..v..v...... mà vẫn sinh hoạt như người chưa ngủ (mộng du), đây chính là mạng căn
và cũng gọi là Trụ Tăng Thượng. Tục Tăng Thượng, nghĩa là hai Căn
của nam nữ có thể khiến cho gia tộc nối tiếp liên tục không dứt.
Dụng Tăng Thượng, chữ Dụng nghĩa là thọ dụng, tức là có thể thọ
dụng năm Thọ Căn như: Khổ, Lạc, Ưu, Hỷ, Xả. Xả Thọ trong đây chính
là thọ bình thường không phải khổ không phải lạc. Hai Tịnh, chính là
thanh tịnh của thế gian và thanh tịnh của xuất thế gian. Tín..v..v......
năm Thiện Căn là năng lực thế gian tăng thượng; đã biết, chưa biết,
biết đầy đủ là ba vô lậu Căn thuộc về năng lực xuất thế thanh tịnh
tăng thượng. Trước khi chưa chứng quả Thánh nghĩa là sẽ vào kiến đạo,
trường hợp đây gọi là chưa tri căn; đã chứng quả Thánh, đã biết Tứ
Đế, trường hợp đây gọi là đã tri căn; đã thành A La Hán và đã
thành Phật, trường hợp đây gọi là tri căn đầy đủ. Ba Căn nói trên
là thuộc về Thiện Pháp Xuất Thế. Còn Căn Tăng Thượng thì không
phát xuất hai mươi hai loại Căn. Hai mươi hai loại Căn gồm có: sáu
Căn (Nhãn Căn, Nhĩ Căn..v..v......) cộng thêm Mạng Căn, cộng thêm hai
Căn Nam Nữ thì thành chín Căn; chín Căn cộng thêm năm Căn nữa (Khổ,
Lạc..v..v......) thì thành mười bốn Căn; mười bốn Căn cộng thêm năm
Căn nữa (Tín, Tấn..v..v.....) thì thành mười chín Căn; mười chín Căn
cộng thêm ba Căn sau (ba Vô Lậu Căn) thì trở thành hai mươi hai loại
Căn. (Ba Vô Lậu Căn gồm có: 1- Vị
Tri Dục Tri Căn, nghĩa là Căn chưa nghe biết chân lý Tứ Đế nay muốn
nghe biết, đây thuộc về ngôi vị Kiến Đạo. 2- Dĩ Tri Căn, nghĩa là Căn
đã biết rỏ chân lý Tứ Đế, đây thuộc về ngôi vị Tu Đạo. 3- Cụ Tri
Căn, nghĩa là Căn đã biết rỏ chân lý Tứ Đế và còn đoạn trừ xong
các phiền não, đây thuộc về ngôi vị Vô Học. Ba Vô Lậu Căn này
được trích trong Từ Điển Phật Học Huệ Quang) Nơi có khả năng tác
dụng Tăng Thượng thì không phát xuất hai mươi hai loại căn này.
7>Thế Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Nhân
quả đã chưa thọ dụng, thì nghĩa ba đời nên biết.”
Giải Nghĩa:
Câu Tụng đây là giải thích ba đời.
Nhân đã thọ dụng mà quả còn hiện tại, đây gọi là hiện tại; nhân
quả đều đã thọ dụng, đây gọi là quá khứ; nhân quả đều chưa thọ
dụng, đây tức là vị lai. Tất cả pháp phàm đã có đầy đủ nhân quả
mà chưa có nghĩa thọ dụng thì đều được ghép vào Thế Thiện Xảo.
8>Đế Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Thọ và Thọ Tư Lương, các Hành sở nhân kia, hai Tịch Diệt, đối
trị: là nghĩa Đế nên biết.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích nghĩa Tứ Đế. Các
thứ tư lương của được thọ và khổ thọ chính là Khổ Đế. Nhân của các
thứ Khổ Thọ kia chính là Tập Đế. Công năng diệt trừ hai đế Khổ và
Tập chính là Diệt Đế. Công năng Chánh Hạnh đối trị Khổ và Tập chính
là Đạo Đế. Đó là nghĩa của Tứ Đế.
9>Thừa Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Do công đức lỗi lầm, và Trí vô phân biệt; Y Tha, tự thoát ly
khỏi, là nghĩa Thừa nên biết.”
Giải
Nghĩa:
Bài
Tụng đây là giải thích nghĩa ba Thừa. Thừa là nghĩa chuyên chở, tức
là chỉ cho khả năng chuyên chở từ biển sanh tử đến thành Niết Bàn.
Thừa đây có ba hạng: Theo bài Tụng do các công đức lỗi lầm chính là
nói Thánh Giả ba Thừa. Người nào nếu như nghe đến chỗ lỗi lầm của
công đức sanh tử mà được thoát ly khỏi, đây là hạng Thinh Văn Thừa.
Người nào chưa được nghe đến chỗ công đức lỗi lầm của sanh tử của
niết bàn kia mà tự mình giác ngộ được và thoát ly khỏi, đây là
hạng Độc Giác Thừa. Người nào không từng nghe đến chỗ công đức lỗi
lầm của sanh tử của niết bàn mà
tự nhiên phát khởi trí vô phân biệt và được thoát ly khỏi, đây là
hạng Đại Thừa. Những nghĩa của Thừa đây cần phải hiểu biết.
10>Hữu Vi Vô Vi Thiện Xảo:
Bài Tụng:
“Nghĩa hữu vi vô vi: gọi nếu
là giả, nếu là nhân, nếu là tướng; nếu là vắng lặng, nếu nghĩa sở
quán kia.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích nghĩa
của pháp hữu vi và vô vi. Một câu trước là nói chung, ba câu sau là
giải thích riêng biệt. Nếu là giả, nếu là nhân, nếu là tướng chính là
giải thích hữu vi. Giả đây nghĩa là các pháp chỉ có giả danh, không
có thật thể. Nhân đây nghĩa là
Tạng Thức thâu nhiếp các chủng tử. Tướng đây nghĩa là khí thế
giới của y báo và căn thân của chánh báo, sáu trần cảnh của chỗ
thọ dụng, năm Thức tướng năng thủ cảnh hiện lượng, Thức thứ sáu
năng tư duy, cho đến Thức thứ bảy năng hằng thẩm tư lương, tất cả đều
bao gồm ở trong Tướng. Như thế nếu là giả, là nhân, là tướng thảy
đều thuộc về hữu vi. Nếu là tịch tịnh, nếu là nghĩa sở quán, chính
là giải thích vô vi. Nguyên do Niết Bàn và Đạo Đế có thể chứng đắc,
cho nên tất cả đều thuộc về tịch tịnh. Nếu là nghĩa của sở quán thì cảnh
sở quán đây thuộc về chân như của bản tánh Niết Bàn, nhờ chân như
này trí vô phân biệt mới có thể duyên được cảnh chân thật.
B.-
BIỆN MINH HẠNH:
Phẩm vị
Biện Minh Chân Thật thứ ba đã giảng hoàn tất, tiếp theo là giảng phẩm vị
Biện Minh Tu Đối Trị thứ tư, đây là thuyết minh chân chánh phương pháp
tu hành và chiếu theo sự tu hành này có thể đối trị phiền não. Cũng
giống như trị bệnh, nguyên do bị bệnh cho nên mới dùng thuốc và có
bệnh gì thì dùng thuốc nấy để trị liệu, có những bệnh chướng gì thì
tu hành pháp môn đó để đối trị. Nơi trong ba khoa lớn là Cảnh, Hạnh,
Quả, sẽ biện minh Hạnh thứ hai. Trong Hạnh thứ hai lại phân làm hai
phần: Biện minh tu đối trị và biện minh tu phần vị. Trong pháp noãn
phần vị đây hiển nhiên đều là trình bày ở nơi Hạnh. Còn ở nơi Cảnh thì
trước đã giải thích, chính là nương nơi giáo pháp của Phật mà quán
chiếu lý giải làm cảnh. Riêng trong Hạnh đây, nghĩa là phàm người tu
hành tất nhiên đều phải nương nơi chỗ minh lý mà thật hành, có chỗ
gọi là muốn chứng chân lý thì tất nhiên phải tu hành. Nhờ lý của cảnh
chân thật là chỗ chứng thánh trí của chư Phật và lý của cảnh này chưa
có sanh hư vọng phân biệt, mặc dù nó thường ở trong điên đảo tạo
nghiệp thọ khổ. Chúng ta muốn chứng được Thánh trí nơi lý của cảnh
này thì trước hết phải đối trị hư vọng điên đảo và muốn đối trị hư
vọng điên đảo thì cần phải tu hành phương pháp đối trị.
[PHẨM BIỆN MINH TU ĐỐI TRỊ THỨ TƯ
a)- Biện Minh Tu
Đối Trị:
a/1- Biện Minh Tu Đối Trị Chân Chánh:
1)- Tứ
Niệm Xứ:
Bài Tụng:
“Do vì thô trọng, nhân ái, ngã sự,
không mê; là vào Tứ Thánh Đế, tu niệm trụ nên biết.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng
đây là giải thích Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ chính là Thân, Thọ, Tâm,
Pháp. Năng tu bốn thứ này chính là thường trụ nơi trong chánh lý, là
căn bản của hậu lai đưa đến sanh Định và Huệ. Đúng ra bốn thứ này
là bốn thứ Quán Huệ và Huệ thì nương nơi Niệm mà được sanh khởi an
trụ, cho nên gọi là Niệm Trụ. Niệm Trụ chính là ở chỗ quán lý của
cảnh, quán niệm nhiều lần trở thành rất thuần thục và hiểu rõ
không bị mê muội. Thí dụ như bình thường chỗ gọi niệm Phật cũng chính
là nương nơi Phật để niệm và niệm rõ ràng không mê muội, nhờ đó
về sau trở thành Định và nhờ Định dẫn đến sanh ra Huệ, Huệ có thể tương tục sanh
khởi gọi là Trụ. Thân, Thọ, Tâm, Pháp của bốn Niệm Trụ làm thế
nào trở thành bốn thứ Chánh Niệm? Đó là quán thân bất tịnh, quán
thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Nhờ bốn thứ
quán đây khiến cho Huệ được trụ nên gọi là Tứ Niệm Trụ. Tụng nói
rằng: Do vì thô trọng đây, Thô là thô bỉ nghĩa là thấp hèn; Trọng
là trầm trọng nghĩa là nặng nề; Thô Trọng nghĩa là không phải thanh
tịnh, không phải mầu nhiệm, đây là giải thích Quán Thân Bất Tịnh. Do
vì nguyên nhân của Thọ cho nên giải thích Quán Thọ là khổ. Do Thọ
là nguyên nhân của Ái và muốn đoạn trừ tham ái thì tất nhiên phải
Quán Thọ là khổ và nhờ đó mới có thể đối trị được Ái. Vì Ngã Sự
là giải thích Quán Tâm Vô Thường. Do chấp Thức thứ bảy Thức thứ
tám hoặc Tâm Tâm Sở làm ngã, hôm nay quán chúng đều là vô thường,
cho nên nơi chỗ sự việc nương tựa chấp ngã cũng là vô thường. Hiểu
biết tất cả pháp đều vô ngã thì ở nơi tất cả pháp không bị mê
muội, cho nên gọi là Quán Pháp Vô Ngã. Tu Tứ Niệm Trụ đây cũng có
thể ngộ được bốn Thánh Đế, như nhờ Quán Thân Thô Trọng tức là tu
hành nơi tánh khổ mà chứng nhập được Khổ Đế. Quán Hữu Lậu Thọ
chính là nguyên nhân của Ái và nhờ đó chứng nhập được Tập Đế.
Quán Tâm là chỗ nương tựa, chỗ duyên sự của chấp ngã thảy đều là
vô thường sanh diệt và nhờ đó thoát ly được chấp đoạn chấp thường
đồng thời chứng nhập được Diệt Đế. Quán tất cả pháp nếu không bị
mê muội liền được nhập vào Đạo Đế. Tư duy Tứ Niệm Trụ thì có thể
chứng vào Tứ Đế, Ngoài ra, chỉ trong Luận này mới đề cập đến Tứ
Niệm Trụ là Khổ Hạnh Tướng. Quán Tập, Quán Diệt, Quán Đạo mỗi thứ
đều có bốn Hạnh Tướng, chỗ gọi là Tứ Đế Thập Lục Hạnh Tướng. Nương
nơi Thập Lục Hạnh này có thể vào Kiến Đạo, nghĩa là mỗi Đế đều có
bốn Hạnh và nương nơi bốn Hạnh đây thì được nhập vào Khổ Đế. Ba Đế
sau thì cũng giống như thế. Nhưng Tứ Niệm Trụ trong Phật Pháp căn bản
thì thuộc về Quán Huệ và Tâm nhờ đó mới có thể an trụ hoàn toàn
trong bốn cảnh nói trên; Tứ Niệm Trụ chính là pháp xuất thế và
không như thế thì không phải pháp xuất thế, nguyên vì Tứ Niệm Trụ
là cơ bản của pháp xuất thế.
2)- Tứ Chánh Đoạn:
Bài Tụng:
“Đã trị Chướng biến tri, tất cả thứ sai biệt, là xa lìa tu tập,
cần tu Tứ Chánh Đoạn.”
Giải Nghĩa:
Bài
Tụng đây là giải thích Tứ Chánh Đoạn. Tứ Chánh Đoạn còn gọi là Tứ
Chánh Cần, nghĩa là trì giới. Là nương nơi yếu lý Phật Pháp Căn Bản
đã nghe ở trước mà phát khởi tu hành thiết thực. Nhờ nương nơi đây
tu hành mà có thể đem những điều ác đã sanh khiến cho đoạn diệt,
những điều ác chưa sanh khiến không cho sanh khởi, những điều thiện
đã sanh khiến cho tăng trưởng, những điều thiện chưa sanh khiến cho
phát sanh. Nói ngược lại, chính là đem chỗ có ác pháp khiến cho
khuất phục tiêu diệt, chỗ có thiện pháp khiến cho sanh trưởng, cho
nên gọi là Tứ Chánh Đoạn. Bài Tụng đã nói phẩm chướng biến tri, nghĩa
là tất cả thứ sai biệt đây nhờ đã tu Tứ Niệm Trụ ở trước, cho nên
chỗ có tất cả vô ngã..v..v...... đều có thể đối trị và chỗ đối trị
ngã đảo ..v..v...... đều có thể hiểu biết cùng khắp, đã hiểu biết
cùng khắp, nhân vì muốn xa lìa một số phẩm chướng này cho nên cần
phải tinh tấn tu tập Tứ Chánh Cần, nương nơi Tứ Chánh Cần khiến
thiện pháp đã có liền được sanh trưởng và ác pháp đã có liền bị tiêu
diệt.
3)- Tứ Thần Túc:
Bài Tụng:
“Nương nơi Trụ, tánh kham
năng; là thành tất cả sự. Diệt trừ năm lỗi lầm; cần tu tám đoạn
hành (tám
điều thật hành để đoạn trừ). giải đãi, quên Thánh Ngôn; và
trầm trạo; không tác hạnh, tác hạnh; là năm lỗi lầm nên biết. Là
đoạn trừ giải đãi; tu dục, cần, tín, an; tức là chỗ nương tựa, khả
năng nương tựa; và sở nhân, năng quả. Ngoài ra còn lại bốn Thất; tu
niệm, trí, tư, xả; ghi chép lời nói, giác ngộ hôn trầm trạo cử;
phục hạnh, diệt đẳng lưu.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh tu Tứ
Thần Túc (bốn Thần Túc), Tu Tứ
Niệm Xứ ở trước đã trình bày là chú trọng nơi sự sáng tỏ về lý,
Tứ Chánh Đoạn là chú trọng nơi sự trì giới, Tứ Thần Túc đây thì
chú trọng nơi sự tu định. Nguyên do tiếng Phạn gọi là Tam Ma Địa, Hán
dịch là Đẳng Trì, tức là trụ trì bình đẳng. Định lực này nếu tu thành
thì có tánh kham năng, có tánh kiên cường kham khổ nhẫn nại, siêng
năng làm những việc khó làm, siêng năng nhẫn những việc khó nhẫn;
người nào không thể hành trì không thể nhẫn là người đó chưa từng
tu định, nhờ định lực nên mới có kham năng. Nơi Phật Pháp nói rằng,
Tư Lương Đại Thừa Bồ Đề nhờ có định lực thì mới có thể tu tập tích
trử pháp thiện thế gian và xuất thế gian, cho đến thật hành Lục Độ
Tứ Nhiếp để rộng độ chúng sanh, lẽ cố nhiên cần phải có Định Lực
thì mới có thể thành tựu tất cả sự việc để tu tập. Nói diệt trừ
năm lỗi lầm và cần tu tám đoạn hành, nghĩa là do năm lỗi lầm làm chướng
ngại của sự tu định, năm lỗi lầm đây nếu như không trừ thì việc tu
định không thể phát sanh; vì muốn diệt năm lỗi này, cần phải tu tám
thứ năng đoạn hành. Năm lỗi lầm gồm có: 1- Giải Đãi, 2- Quên Thánh
Ngôn, 3- Hôm trầm Trạo cử, 4- Không Tác Hạnh, 5- Tác Hạnh. Nghĩa
Giải Đãi là không ra sức năng nổ đoạn trừ phiền não, không chuyên
cần tu tập pháp thiện. Quên Thánh Nhôn, nghĩa là hoàn toàn quên mất
đem chánh lý chánh hạnh trong Phật Pháp ra để thuyết minh. Trầm Trạo đây, hai thứ pháp căn bản
này thường hiệp lại làm một; Trầm tức là hôn trầm, nghĩa là tâm
tánh chìm xuống, ám độn không thanh tịnh sáng suốt và so với ngủ nghỉ
chênh lệch không nhiều. Như có thứ người ngồi xuống là ngủ, đây
tức là hôn trầm. Lại có thứ người không ngồi thì đã ngủ, một khi
ngồi thì tưởng đông tưởng tây, tợ hồ có vật quay đi quay lại, giống
như dùng tay đem vật đưa lên hư không, trạng thái đây tức là trạo
cử. Mỗi khi định tâm liền bị trầm mê, tức là chỉ cho hôn trầm. Còn
cử động chân tay chính là trạo cử. Phàm có hôn trầm trạo cử thì
tâm không được trong sáng và không được yên tĩnh, đây gọi là Định
Chướng. Không tác hạnh, nghĩa là gia hạnh cần phải thực hành và
không thực hành gia hạnh thì trở thành lỗi lầm. Như đối với hôn
trầm thì cần phải thực hành gia hạnh để khiến tâm khởi lên trụ nơi
chánh niệm, còn đối với trạo cử thì cần phải thực hành khiến tâm
an định và ngược lại không chịu thực hành thì trở thành lỗi lầm. Còn
Tác Hạnh, nghĩa là đối với vấn đề không nên gia hạnh mà lại thực
hành gia hạnh, đây cũng là trở thành lỗi lầm. Như phải định tâm bình
đẳng phải vận hành tương tục, nhưng đối với gia hạnh này làm ngược
lại thì cũng trở thành lỗi lầm. Cho nên cần phải thực hành mà
không chịu thực hành, hoặc không nên thực hành mà lại thực hành, hơn
nữa chỗ thực hành thì lại đình chỉ, chỗ vận hành thì lại giảm thiểu,
tất cả hành động vừa kể đều trở thành tai hoạ lỗi lầm. Đối với năm
lỗi lầm nói trên cần phải tu Tứ Thần Túc để đối trị. Tứ Thần Túc
gồm có bốn pháp là Dục, Cần, Niệm, Trí. Tu bốn pháp đây thì có thể
thành tựu được định. Nghĩa là nhân vì có Dục thì mới có hy vọng mong
cầu, nhân vì có Cần thì mới có thể tinh tấn, nhân vì có Niệm thì
mới không bị hôn trầm, nhân vì có Trí thì mới có thể quyết định chọn
lựa. Cho nên nhờ bốn thứ này có thể thành tựu được định và nhờ
định mà phát khởi năng lực thông suốt tất cả, dùng năng lực thần
thông này có thể làm những sự việc mà bình thường không thể làm,
có năng lực thì mới vượt qua được người phổ thông, năng lực đây
chính là công năng của Tứ Thần Túc
(bốn Thần Túc). Hơn nữa ở nơi Tứ Thần Túc cộng thêm bốn thứ
nữa là Tín, An, Tư, Xả liền trở thành bát Đoạn Hành (tám Đoạn Hành). Nhờ tám thứ Đoạn
Hành này có thể đối trị năm lỗi lầm: thứ nhất là đối trị lỗi lầm
giải đãi. Muốn đối trị lỗi lầm giải đãi can phải tu tập bốn thứ là
Dục, Cần, Tín, An. Dục là chỗ nương tựa và Cần tất nhiên nhờ nương
nơi Dục mà phát khởi, do Dục mới có hy vọng, đối với tu Định hy vọng
là yếu tố phát sanh mong cầu và nhờ mong cầu cho nên mới chuyên cần
dũng mảnh tinh tấn tu Định. Nhưng có hy vọng tất nhiên là do nơi Tín
và Tín tức là tín ngưỡng, nhờ công đức tín ngưỡng tu Định, cho nên hy
vọng mới được phát khởi. Hơn nữa Tín lại nương nơi Dục làm nhân, nhờ
Dục cho nên tinh tấn mới được phát khởi và tinh tấn là chỗ sanh ra
quả tức là khinh an, cũng gọi là Định. Cổ nhân nói rằng: “Biết dừng
mà sau đó có thể định, định mà sau đó có thể tịnh, tịnh mà sau đó có
thể an” cũng là nghĩa này. An đây tức là khinh an trên thân tâm và cũng
tức là tượng trưng sự thành tựu của Định; Định đã được thành tựu thì
có thể đối trị giải đãi. Ngoài đối trị bốn thứ lỗi lầm nói trên,
còn có bốn thứ lỗi lầm nữa gọi là: Quên Thánh Ngôn, Trầm Trạo,
không Tác Hạnh và Tác Hạnh. Muốn hoá giải bốn thứ lỗi này cần
phải tu bốn thứ sau đây như là Tu Niệm, Trí, Tư, Xả nhằm để đối trị
bốn thứ vừa kể như là Quên Thánh Ngôn, Trầm Trạo..v..v.... Như nhờ
tu Niệm liền có thể nhớ rõ không quên và đối với xu hướng chân lý
của Thánh Giáo luôn luôn lúc nào cũng hiện tiền. Nhờ tu Trí khiến
được phát hiện trên tâm cho nên không bị trầm trạo (hôn trầm và trạo cử). Nhờ tu Tư
cho nên có thể sanh khởi gia hạnh để chinh phục và trừ khử trầm trạo.
Nhờ tu Xả cho nên có thể an trụ bình đẳng. Công hạnh của bốn thứ đã
được rõ rành như thế, trong bốn thứ đây Niệm và Trí thì rất trọng
yếu, nhờ có niệm thì chánh trí mới có thể sanh khởi, nhờ chánh trí
sanh khởi mới phát hiện được trầm trạo để phát khởi gia hạnh tu tập
và nhờ chánh trí sanh khởi mới biết được tâm đã trụ nơi bình đẳng
thì không cần phát khởi gia hạnh nữa. Tụng nói rằng: Đã ghi nhận
những Thánh Ngôn nghĩa là đã ghi nhận được chánh lý của Thánh Ngôn,
như là các hành vô thường, các
pháp vô ngã, tất cả đều do Duy Thức biến biện..v..v...... đây thuộc
về Niệm. Có thể phát hiện trên tâm không có trầm trạo, đây thuộc về
chánh Trí. Có thể tu gia hạnh để chinh phục và đoạn trừ trầm trạo,
đây thuộc về Tư. Có thể để cho tâm định bình đẳng lưu hành tương tục
không gián đoạn, đây thuộc về Xả. Như thế tám Đoạn Hành đối trị
năm lỗi lầm vừa trình bày trên đều là phương tiện tu Định xuất thế.
Nguyên vì Định đây ở nơi tu hành là trọng yếu phi thường và Định đây
nếu như thành tựu thì có thọ dụng vô cùng to lớn không gì bằng.
Những điều không lỗi lầm đã được giải thích sơ lược qua, muốn hiểu
rõ tinh tế về chúng nó thì hãy xem nơi Du Già Sư Địa Luận Đẳng. Gần
đây có pháp môn Tu Định Nghi Quỹ của ngài A Vượng Kham Bố cũng có
thể tham khảo.
4)- Ngũ Căn Lực:
Bài Tụng:
“Đã thứ thuận giải thoát; khôi phục tu năm tăng thượng, gọi
là: Dục, Hành, Không Quên, Không Tán Loạn, Tư Trạch (Tư duy chọn
lựa).
Tức là tổn chướng tên lực, nhân quả lập thứ đệ. Hai thuận quyết
trạch, hai, tại Ngũ Căn, Ngũ Lực.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Ngũ Căn
và Ngũ Lực. Câu Tụng thứ nhất là trước hết văn giải thích kết
thúc, chính là chỗ tu Tứ Thần Túc..v..v......, tu theo chỗ này đều là
tùy thuận nơi pháp thiện của giải thoát phần. Nhờ đã tu tập các
pháp thiện đây, cho nên được gọi là đã thứ thuận giải thoát (đã theo thứ lớp của thuận giải
thoát). Tiếp theo sau chính là tu tập nhằm khôi phục năm thứ tăng
thượng. Năm thứ tăng thượng gồm có Ngũ Căn: Tín, Tấn, Niệm, Định và
Huệ. Nhờ năm thứ này có thể khiến cho Ngũ Lực gia hạnh càng thêm
tăng thượng. Ngũ Lực tăng thượng gồm có năn thứ: Dục, Thắng Giải,
Niệm, Định và Huệ. Như tu Tín thì phát khởi nguyện Dục, Tín tức là
tăng thượng của Dục. Cũng như đối với Di Đà Tịnh Độ sở dĩ không
phát sanh tín ngưỡng là do bởi quan niệm cho rằng, cảnh giới Di Đà
Tịnh Độ là ảo tưởng không thể tin được, cho nên không thể phát
nguyện vãng sanh. Còn như đối với ba Thừa của Phật Pháp nếu không
phát sanh tín tâm thì cũng không có
thể nguyện chứng Bồ Đề. Cho nên nguyện Dục một khi phát sanh thì Định
tất nhiên cần phải có Tín để làm tăng thượng, nguyên vì Tín có thể khiến
sanh ra Dục. Thứ hai là Tinh Tấn, Tinh Tấn chính là yếu tố của người tu hành, nguyên
vì người tu hành tất nhiên cần phải tinh tấn và nhờ có tinh tấn sự
tu hành mới có thể nuôi lớn pháp thiện, cho nên tinh tấn là tăng
thượng của tu hành. Thứ ba là Niệm, Niệm chính là ghi rõ không quên,
không luận đối với năm pháp, chánh hạnh, chánh quả, thảy đều không
quên mất, là không quên cảnh tăng thượng. Thứ tư là Định, Định nghĩa
là tâm chuyên nhất vào tánh cảnh không có tán loạn, đây có thể
làm tăng thượng không tán loạn. Thứ năm là Huệ, Huệ nghĩa là đối
với tất cả pháp đều có thể tư duy chọn lựa, đây là tăng thượng
của tư trạch (tư duy và chọn lựa).
Năm thứ Tín..v..v......đối với năm thứ Dục..v..v...... có công dụng
tăng thượng cho nên gọi là Căn. Nghĩa là năm Căn đây hoàn toàn đã
được thành tựu thì có khả năng phát khởi một thứ thế lực thù
thắng có thể chế phục được chướng và lần lần tổm giảm lực lượng
của chướng, cho nên gọi là Tố Lực. Ở nơi năm Căn (Ngũ
Căn) theo thứ lớp gọi là năm Lực (Ngũ
Lực), tức là chỉ cho nhân quả thứ tự: như nhờ Tín Dục cho nên
phát khởi gia hạnh Tinh Tấn, nhờ Tinh Tấn cho nên nơi Phật Pháp không
quên, nhờ ghi nhớ cho nên không bị tán loạn, nhờ không bị tán loạn
cho nên phát huệ để tư trạch. Thứ tự của nhân quả là như thế. Lại
lần nữa trình bày phương diện của Căn Lực, năm Căn chính là nhân và
năm Lực chính là quả, ở địa vị chưa tự tại thì gọi là nhân, còn ở
địa vị đã tự tại thì gọi là Lực.
Như trước đã nói, Chỗ tu Tứ Niệm
Xứ là chỉ chú trọng nơi Tu Huệ, Tứ Chánh Đoạn là chỉ chú trọng nơi
Trì Giới, Tứ Thần Túc là chỉ chú trọng nơi Tu Định, Ngũ Căn đã thành
tựu thì có công dụng chính là Lực của tăng thượng nhằm để chế phục
phiền não. Người tu Huệ nếu đem
Ngũ Lực tổng hợp cùng với Giới và Định thì sự tu tập dễ thành tựu
viên mãn. Bốn lãnh vực này không luận vị trí phân định của Đại Thừa
và Tiểu Thừa, cả hai đều có phần vị của thuận giải thoát và phần
vị của thuận quyết trạch (chọn lựa),
hoặc gọi là Tư Lương Vị và Gia Hành Vị. Như Ngũ Đình Tâm (Bất Tịnh, Từ Bi, Nhân Duyên, Giới
Phân Biệt, Sổ Tức), Tổng Tướng Niệm (niệm tướng tổng hợp), Biệt Tướng Niệm (niệm riêng từng tướng) của Tiểu Thừa chính là Tư Lương Vị thuộc
phần vị Thuận Giải Thoát; Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất là Gia Hạnh
Vị thuộc phần vị Thuận Quyết Trạch của Đại Thừa. Nay trong vị trí Ngũ
Đình Tâm đây, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Đoạn, Tứ Như Ý Túc là ở nơi
phần vị Thuận Giải Thoát. Còn Ngũ Căn, Ngũ Lực thì thuộc phần vị
Thuận Quyết Trạch. Riêng Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất của phần vị
Thuận Quyết Trạch được nhận thức như là: Noãn và Đảnh là thuộc về
hai phần đầu của Ngũ Căn; Nhẫn và Thế Đệ Nhất là thuộc về hai
phần sau của Ngũ Lực. Nghĩa là nơi phần vị Noãn và Đảnh là thuộc về
tu Căn; nơi phần vị Nhẫn và Thế Đệ Nhất là thuộc về tu Lực. Cho đến
giáo thuyết của Đại Thừa thì nói rằng, tu đến Niệm Trụ là có thể
phát tâm Bồ Đề Đại Thừa, tức là vào được ngôi vị Sơ Trụ của Thập
Tín. Tu Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc tức là vào được ngôi vị của Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Còn Tu Ngũ Căn, Ngũ Lực thì cũng còn
ở trong ngôi vị Tứ Gia Hạnh. Chẳng qua so sánh nơi Đại Thừa thì rộng
lớn hơn, như chỗ tu Lục Độ và Tứ Nhiếp Pháp..v..v...... thật ra trong
đây thì cũng có thể bao quát Tứ Gia Hạnh. Bồ Tát đã đến Gia Hạnh Vị
thì thường ở trong Định Vị, chỗ tu Gia Hạnh của họ cũng tương tục
không gián đoạn, cho nên trong đó chỗ nói đích thực đều là phương
pháp để tu hành của hạnh xuất thế chân chánh. Hạnh đây chỗ nói đơn
giản là Tam Học: Giới, Định, Huệ, nói rộng ra chính là Lục Ba La Mật,
lại rộng hơn chính là Ba Mươi Bảy Pháp Bồ Đề Phần. Pháp Bồ Đề Phần
đây lại phân ra gồm có: Tư Lương, Gia hạnh, Kiến Đạo, Tu Đạo, Vô Học Đạo, năm
ngôi vị này trước đã trình bày, đều là ngôi vị thuộc Kiến Đạo cả.
5)- Thất Giác Chi:
Bài Tụng:
“Giác Chi lược có năm: chỗ gọi là Sở Y, Tự Tánh, Xuất Ly, gồm
Lợi Ích, và ba Vô Nhiễm Chi. Do Nhân Duyên, Sở Y, Tự Tánh nghĩa sai
biệt cho nên Khinh An, Định, Xả gọi là Vô Nhiễm Chi.”
Giải Nghĩa:
Bài
Tụng đây là giải thích Thất Giác Chi. Thất Giác Chi là bảy chi giác
ngộ. Thất Giác Chi gồm có: 1- Niệm, 2- Trạch Pháp, 3- Tinh Tấn, 4-
Hỷ, 5- Khinh An, 6- Định, 7- Xả. Nay ở trong Luận này trước hết là đem
bảy Giác Chi hợp lại thành năm Giác Chi để trình bày, nhân vì ba
Giác Chi sau kỳ thật lại giống nhau cho nên ghép lại làm một Chi thứ
năm gọi là Vô Nhiễn Chi. Xưa nay Ba Mươi Bảy Bồ Đề Phần đều là Giác
Chi cả. Thất Giác Chi đây đúng ra chính là trình bày Kiến Đạo Chân
Lý làm tự thể cho nên biệt danh là Giác Chi và khi trở thành Giác
Bất Giác là do quan hệ thứ nhất của Thánh Giả và Phàm Phu. Nghĩa là
Thất Giác Chi đã viên mãn thì đặng Thánh Quả; Thất Giác Chi chưa
viên mãn chính là Phàm Phu. Thất
Giác Chi này lẽ tất nhiên là chỗ tu của Tam Thừa.
1, Sở Y Giác Chi, trong Tụng nói Sở
Y chính là chỉ cho Niệm Giác Chi. Niệm Giác Chi nghĩa là nương nơi nghe chánh
Pháp ghi nhớ được thuần thục, chánh niệm thời khắc nào cũng hiện
tiền rõ ràng, cho nên gọi là Niệm. Niệm đây là một trong năm Biệt
Cảnh Tâm Sở, nghĩa là nơi cảnh đã từng tu tập liền ghi nhớ rõ ràng không
hề quên làm tánh. Niệm đây tức là Chánh Huệ và Nghiệp dụng là
chỗ nương tựa của Niệm. Hơn nữa Niệm là sở y của Huệ, cho nên nương
nơi Niệm thì Huệ liền được an trụ ngay.
2, Tự Tánh Giác Chi chính là Trạch
Pháp Giác Chi. Trạch Pháp nghĩa là đối với sự lý của tất cả pháp
tiến hành chọn lựa một cách tinh tường. Những thứ là có là không,
là chân là vọng, là nhiễm là tịnh, là thiện là ác đều do công
dụng của Huệ giải phẫu một cách tinh tường. Cho nên Trạch Pháp là
tự tánh của Huệ, như hiện thấy Khổ là tánh bức bách, hiện thấy
Tập là nghĩa nhân duyên, hiện thấy Diệt là tánh vắng lặng, hiện
thấy Đạo là nghĩa Chánh Hạnh..v..v......, tất cả đều công dụng của
Trí Huệ soi sáng.
3, Giác Xuất Ly Chi chính là Tinh Tấn
Giác Chi, nghĩa là ở nơi trí huệ sau khi chọn lựa, muốn lìa khỏi từ
trong pháp nhiễm ngăn che chỉ có tinh tấn là trên hết.
4, Giác Lợi Ích Chi chính là Hỷ Giác
Chi. Hỷ ở nơi Đại Thừa là thuộc về Hoan Hỷ Địa ban đầu và Địa đây
có khả năng đoạn hoặc chứng chân, có khả năng chứng đặng chân lý
Hướng Vị Chứng Đắc (Hướng nơi chỗ
chưa chứng đắc). Như cầu chứng Phật Pháp, như muốn hiểu rõ tánh
chân như của Sanh Không và Pháp Không, người tu tập cần phải lắng
nghe chánh pháp, rồi sau đó nương nơi chỗ nghe phát tâm tu tập chỉ quán
và sau đó giác ngộ được chân như, cho nên gọi là Đại Hoan Hỷ. Nhân
của Sơ Địa gọi là Hoan Hỷ Địa. Còn Giác Lợi Ích Chi đây chính là trình
bày thông cả ba Thừa (Thinh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát). Riêng hai Thừa (Thinh Văn và Duyên Giác) thì chứng đặng Sanh Không Chân
Như và cũng gọi là Tố Lợi Ích Chi, nguyên vì hai Thừa này đã lìa
khỏi tất cả chướng và đã được phát sanh Đại Hoan Hỷ.
5, Và Ba Vô Nhiễm Chi, nghĩa là ba
thứ Khinh An, Định và Xả từ trong pháp nhiễm ra khỏi mà thành thanh
tịnh; tự tánh của ba thứ này cũng là Huệ, cho nên gọi là Giác Chi.
Tụng nói rằng, do nhân duyên đây chính là giải thích Khinh An Vô
Nhiễm Chi, nghĩa là phàm được Khinh An thì hoàn toàn tương phản với
pháp hữu lậu thô trọng, cho nên Khinh An chính là nhân duyên của
pháp lìa tạp nhiễm. Sở Y tức là chỉ cho Định Vô Nhiễm Chi. Chữ Định,
tiếng Phạn gọi là Tam Ma Địa, dịch là Đẳng Trì, nghĩa là giữ gìn bình
đẳng các pháp thanh tịnh, không cho chìm mất. Nghĩa Tự Tánh tức là
giải thích Xả Vô Nhiễm Chi, nghĩa là nhờ nương nơi Định trên, tâm cảnh
không bị chấp trước trói buộc, bình đẳng tự tại mặc tình vận hành
không gặp trở ngại, hiện tượng đây chính là xả, cho nên được xác
nhận Định chính là chỗ Sở Y (chỗ
nương tựa) và tự tánh của vô nhiễm chính là Xả. Chẳng qua Xả đây
là thuộc về Hành Xả và khác biệt với Xả trong Xả Thọ. Hành
Xả là Xả của mười một Tâm Sở
Thiện; còn Thọ Xả tức là Xả Thọ của năm Thọ: Khổ, Lạc ..v..v......,
nhưng Xả Chi đây chính là chỉ cho Hành Xả. Như Kinh Kim Cang nói rằng: “Ưng
vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.” Vô Sở Trụ xuất sắc sanh khởi thiện
tâm tức là sanh khởi Hành Xả. Vô Sở Trụ xuất sắc cũng là Xả cùng
với Không Huệ bình đẳng tương ưng, giống như thật hành hạnh bố thí đã
ở trong trạng thái không tỏ thái độ năng thí, không tỏ thái độ sở
thí và cũng không tỏ thái độ vật thí để được thành tựu Đại Thí Vô
Tướng của Tam Luận Thể Không, công dụng đây chính là công dụng của
Xả. Lại nữa như Tổ Sư của Cổ Lai Thiền Tông nói rằng: “Dụng Tâm cần
không lạc vào khuôn sáo cũ.” Nhân vì dụng tâm bình thường đại đa số
đều có chỗ thiên trọng, đã thiên trọng tức là lạc vào khuôn sáo
cũ, lẽ tất nhiên là có chấp trước, nếu như đã có chấp trước trong
tâm thì nhất định có bốn bên: nhân, ngã, bỉ, thử, muốn trừ khử thứ
tai vạ lỗi lầm này phải nhờ đến Xả ra tay. Như Thất Giác Chi là pháp làm chỗ tương ưng
của ba Thừa khi ba Thừa chứng được Thánh Quả, nguyên do không luận
địa vị Thánh Quả nào, Thiện Tâm Sở của họ là chỗ tương ưng nhưng chỉ
có hai mươi mốt thứ. Trong hai mươi mốt thứ đây, Thất Giác Chi chính
là công án cần yếu của chỗ đề xuất, như Niệm Giác Chi, Trạch Pháp
Giác Chi, Định Giác Chi là thuộc nơi Biệt Cảnh Tâm Sở. Tinh Tấn, Khinh An, Xả, ba Giác Chi này là thuộc
nơi Thiện Tâm Sở. Hỷ Giác Chi là thuộc nơi Thọ trong Biến Hành Tâm
Sở. Thất Giác Chi có thể khẳng định là chỗ của hai mươi mốt Vô Lậu
Thiện thâu nhiếp.
6)- Bát Chánh Đạo:
Bài Tụng:
“Phân biệt và khuyên bảo; khiến họ tin có ba; đối trị chướng
cũng ba; cho nên Đạo Chi (Bát Chánh Đạo) thành tám. Biểu Kiến, Giới, Viễn
Ly; khiến họ thâm tín thọ; đối trị gốc, tùy hoặc; và tự tại
chướng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Bát
Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo gồm có tám thứ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định. Tám thứ đây lại gọi là Bát Chánh Hạnh, tức là từ nơi
Kiến Đạo trở về sau nương nơi chân lý chỗ thấy đây, luôn luôn lúc
nào cũng tu tập tám thứ Chánh Hạnh. Nơi trong bổn Luận này, Bát Chánh
Đạo được phân làm bốn loại để giải thích:
1, Phân Biệt, chính là Chánh Kiến,
nghĩa là ở nơi trí vô phân biệt sau khi chứng được chân như sâu kín,
liền phát khởi trí Hậu Đắc và lập tức phân biệt thánh phàm, thiện
ác, nhiễm tịnh, nhân quả; sự phân biệt đây chính là sự phân biệt
của trong Tụng đã đề cập, nó được dẫn khởi bởi Trí Căn Bản. Như
người nghiên cứu địa lý xưa nay đối với địa đồ rất quan hệ thấu
triệt, một khi thân họ ngăn cách bối cảnh của họ thì ngay lúc đó
sự thật bối cảnh lập tức vẫn hiện rõ trước mắt và họ vẫn nhớ
rất rành mạch. Như thế Trí Hậu Đắc của chánh kiến, liền đem cảnh
giới chỗ chứng được của Trí Căn Bản ôn lại rất chính xác sáng
trong.
2, Khuyên Bảo, chính là nương nơi
Chánh Kiến chỗ thấy được mà phát khởi Chánh Tư Duy và nương nơi
Chánh Ngữ mà đi giáo hoá chúng sanh, khuyên bảo người khác tu tập,
chỗ gọi là tự ngộ ngộ tha, đây là một phần của Chánh Tư Duy và
Chánh Ngữ sanh hoạt.
3, Khiến Họ Tin, nghĩa là dùng Phật
Pháp khai thị cho người khác, khiến họ thâm tín tiếp nhận, đây cũng
là hạnh của Bồ Tát Đại Thừa, nguyên do chỗ chủ yếu của Bồ Tát là
nương nơi Pháp làm lợi ích cho mọi người, khiến họ đối với Phật Pháp
sanh tín tâm và phát nguyện tu hành; vấn đề này bao gồm có ba thứ: Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Chánh Ngữ, nghĩa là chỗ thuyết minh
phải là thắng nghĩa của Phật Pháp, chính xác phi thường, lìa khỏi ỷ
ngữ trong các ngôn ngữ, lìa khỏi lỗi lầm của vọng ngữ..v..v... có
thể khiến người nghe sanh tín tâm. Chánh Nghiệp, nghĩa là nghiệp gồm
cả ba thứ, chính là ba nghiệp thân, miệng và ý, ba nghiệp đây phải
thanh tịnh và nhờ đó mới có thể khiến người sanh tín tâm. Chánh Mạng,
nghĩa là phương thức sanh hoạt phải chân chánh, nhờ đó có thể khiến sanh
mạng tương tục duy trì, lẽ tất nhiên cần phải có đầy đủ y thực của
tự thân, mà những thứ y thực đây nhất định phải chân chánh. Như khi
Phật còn tại thế, người xuất gia cần phải khất thực; hoặc nương tựa
chức nghiệp phải chân chánh, sanh hoạt phải chân chánh, đây đều là
Chánh Mạng. Ba thứ chân chánh này có thể giáo hoá người khác sanh
tín tâm, nguyên do người tu đạo nếu như tu hành thành thục ba thứ
chân chánh này thì có thể khiến người khác đối với Phật Pháp sanh
tín tâm, khiến hạt giống Phật Pháp không bị đứt đoạn. Nhờ Chánh Ngữ
biểu thị thấy thanh tịnh, có thể khiến người khác tự biết đã có huệ
thù thắng; nhờ Chánh Nghiệp có thể khiến người khác tự biết đã có
giới thanh tịnh; nhờ Chánh Mạng có thể khiến người khác tự biết đã
được viễn ly. Tuy nhiên trong đây chỗ giải thích Giới thanh tịnh chính
là chỉ cho Giới Biệt Giải Thoát, cũng gọi là Đạo Cộng Giới, nghĩa
là Giới cùng Định sau khi được phối hợp. Thiền Định chưa phát khởi
gọi là Giới Biệt Giải Thoát; Thiền Định đã sanh khởi thì tự nhiên
không phạm giới đó chính là Định Cộng Giới; người tu cùng với trí vô
lậu đồng thời hiện tiền đó chính là Đạo Cộng Giới.
4, Đối Trị Chướng đây bao gồm cũng
có ba: gọi là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Tụng nói rằng
đối trị Hoặc căn bản chính là tu chỗ đoạn Câu Sanh Hoặc; nhờ ở trong
địa vị tu đạo này phiền não đã không còn phân biệt thì mặc dù
tham..v..v...... câu sanh vẫn còn. Đối Trị Tùy Hoặc chính là chỉ cho
Hôn Trầm..v..v...... thuộc Đại Tùy Phiền Não, do Đại Tùy có mặt
khắp tất cả tâm nhiễm ô, hễ phiền não phát khởi thì chúng nhất
định cùng phát khởi theo. Đối Trị Tự Tại Chướng nghĩa là công đức tự
tại của năng lực chướng ngại thù thắng có thể đối trị những thứ
Câu Sanh Căn Bản Phiền Não này; muốn có công đức tự tại thù thắng
nói trên, cần phải tiến hành ba thứ Chánh Tinh Tấn. Như nhờ Chánh
Tinh Tấn cho nên Định và Huệ có năng lực thù thắng và năng lực thù
thắng đây có thể đối trị câu sanh căn bản phiền não. Mặc dù
Niệm..v..v...... cũng có thể đối trị, nhưng khi đối trị thì tất nhiên
cũng phải phát khởi tinh tấn. Kế đến nhờ Chánh Niệm thì mới có khả
năng trói buộc Niệm an trụ trong Chỉ Đẳng Tướng (đình chỉ tất cả tướng), có thể đối trị Hôm
Trầm..v..v...... của Đại Tùy Phiền Não. Hơn nữa nhờ Chánh Định thì
mới có khả năng đối trị Định Chướng không tự tại, như Định chẳng
thâm sâu thì không thể hướng dẫn các thứ công đức, cho nên chỉ bậc
La Hán thì mới có Huệ Giải Thoát. Mặc dù có trí huệ đoạn trừ phiền
não, nhưng Thiền Định chưa từng viên mãn thì các thứ pháp định không
thể tự tại, nhưng vì Huệ Giải Thoát của người ở trong Định Tự Tại
còn bị chướng ngại. Tất cả Bát Chánh Hạnh đây nếu như tu được viên
mãn hoàn toàn thì có thể chứng đắc quả vị vô học.
a/2.- Biện Minh Sai Biệt:
1)- Phàm Thánh
Sai Biệt:
Bài Tụng:
“Có điên đảo thuận theo không điên đảo, không điên đảo có
điên đảo đi theo, không điên đảo không bị điên đảo đi theo, là tu đối
trị sai biệt.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh kẻ Phàm Thánh
có sai biệt. Căn cứ nơi Đại Thừa giải thích, kẻ chưa vào bậc Thánh
thì có ngôi vị khác phát sanh từ ngôi vị ban đầu, nghĩa là có khác
biệt của ngôi vị Nội Phàm và Ngoại Phàm: Ngôi vị Ngoại Phàm là
ngôi vị Thập Tín; ngôi vị Nội Phàm là ngôi vị Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng. Căn cứ nơi Tiểu Thừa giải thích: trước Ngũ Đình Tâm
là ngôi vị Ngoại Phàm, sau Ngũ Đình Tâm là ngôi vị Nội Phàm. Ở đây
trên địa vị Phàm Phu, nếu có thể tu tập các hạnh Ba Mươi Bảy Bồ Đề
Phần, tức là có điên đảo thuận theo không điên đảo. Do tâm hạnh
của phàm phu có điên đảo, Thức thứ bảy luôn luôn chấp ngã, cho nên
ở địa vị căn bản của phàm phu chưa lìa khỏi điên đảo, mặc dù địa vị
căn bản của phàm phu tuy còn điên đảo mà vẫn có thể thuận theo
thật hành không điên đảo, cho nên gọi là Thuận Giải Thoát Phần. Không
điên đảo có điên đảo đi theo, nghĩa là từ nơi Kiến Đạo trở về sau
đã có thể nương nơi Huệ không điên đảo để tu hành, mặc dù ở nơi địa
vị hữu học còn có pháp hữu lậu, do đó vẫn có điên đảo phát khởi,
cho nên gọi là không điên đảo có điên đảo đi theo. Đã đến địa vị
Phật là địa vị vô học, hoặc kẻ đã đến Địa thứ tám trở lên của
Thập Địa thì Huệ không điên đảo luôn luôn lúc nào cũng sanh khởi,
lúc bấy giờ tâm hạnh đều hoàn toàn không điên đảo, cho nên gọi là
không điên đảo không bị điên đảo đi theo. Đây là sự sai biệt của
Phàm Thánh tu hành đối trị.
2)- Đại
Tiểu Sai Biệt:
Bài Tụng:
“Bồ Tát chỗ tu tập; do sở duyên, tác ý, chứng đắc; vì thù
thắng; cùng Nhị Thừa sai biệt.”
Giải Nghĩa:
Bài
Tụng đây là thuyết minh sự sai biệt của Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Nghĩa là Bồ Tát chỗ tu của họ có ba thứ điều kiện thù thắng hơn
người Nhị Thừa:
1, Sở Duyên thù thắng: nghĩa là
Thinh Văn và Độc Giác chỉ duyên nơi thân tâm của chính mình làm bối
cảnh để tu phương tiện đối trị phiền não giải thoát sanh tử, cho nên
gọi là Tự Liễu Tự Độ. Còn Bồ Tát thì thông dụng cả thân tâm của
mình và người làm bối cảnh để tu đối trị, đây là sở duyên không
giống nhau.
2, Tác Ý thù thắng: nghĩa là Thinh
Văn và Độc Giác phần lớn đều từ nơi vô thường, khổ..v..v...... tác
ý tu hành; còn Bồ Tát thì quán khắp tất cả mình và mọi người giống
nhau đều bình đẳng và bình đẳng không có tự tánh, đều là không
không có chỗ được, do đó khởi tác ý tu đối trị tất cả.
3, Chứng Đắc thù thắng, nghĩa là chỗ
chứng đắc của Nhị Thừa chỉ là Tiểu Niết Bàn; còn chỗ chứng đắc của
Bồ Tát chính là Vô Trụ Đại Niết Bàn. Hơn nữa Đại Bi của Bồ Tát
lúc nào cũng hiện tiền, mặc dù đã thấu đạt tất cả sanh tử đều
không, mà lại lúc nào cũng tế độ chúng sanh, cho nên chỗ chứng quả
của Bồ Tát cũng rất thù thắng.
[BIỆN MINH TU PHẦN VỊ PHẨM THỨ
NĂM]
b)- Biện Minh Tu Phần Vị:
Phần Vị của tu hành, đơn giản thì chỉ có ba phần vị, mở rộng
thì có mười tám phần vị, lại có thể tùy theo nghĩa mà thiết lập
riêng biệt, chẳng qua trên kinh luật mở bày và hợp chung lại có thể
hoàn toàn không giống nhau. Hôm nay để so sánh cho thích đáng trước
hết xin trình bày mười tám phần vị.
b/1- Mười Tám Phần Vị:
Bài Tụng:
“Chỗ trình bày tu đối trị, phần vị có mười tám: gọi là Nhân,
Nhập, Hành, Quả, Tác, Vô Tác, Thù Thắng, Thượng, Vô Thượng, Giải
Hạnh, Nhập, Xuất Ly, Ký, Thuyết, Quán Đảnh, và Chứng Đắc, Thắng
Lợi, Thành Sở Tác.”
Giải
Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích mười
tám phần vị trên tu hành. Mười tám phần vị này là do phàm phu tiến
vào giai đoạn quả Phật:
1-Nhân Vị, chính là chủng tánh vị;
chủng tánh gồm có Bản Tánh Trụ Chủng và Tập Sở Thành Chủng. Bản
Tánh Trụ Chủng tức là Câu Sanh Chủng Tánh có từ vô thỉ đến nay;
còn Tập Sở Thành Chủng chính là Vô Lậu Chủng do lắng nghe chánh
pháp được kết thành, ở đây Pháp Tướng Duy Thức Tông lại cho là năm
loại Chủng Tánh: gọi là Thinh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, Bất Định, Vô
Tánh. Trong năm thứ Chủng Tánh đây Vô Tánh tức là chủng tử không
xuất thế, nghĩa là không thể giải thoát. Trong đây, Nhân Phần Vị
chính là chỉ cho Tập Sở Thành Chủng và Tập Sở Thành Chủng có khả
năng đầy đủ hành tướng của Đại Thừa đó là Đại Thừa Chủng Tánh cụ
thể mầu nhiệm, như Bồ Tát Ngoại Phàm có thể tu Lục Độ, nhưng chưa
có thể tương ưng cùng Thắng Giải Không, chẳng qua nhờ đây huân tập
tăng trưởng thành chủng tánh Bồ Tát mà thôi.
2-Nhập Vị, chính là đã vào Sơ Trụ ở
trên và trải qua các ngôi vị của Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng.
3- Hành Vị, nghĩa là phát tâm tu
hành Bồ Tát Gia Hạnh là ngôi vị chưa được Thánh Quả.
4- Quả Vị, nghĩa là do tu Gia Hạnh mà
chứng đặng Bồ Tát Sơ Địa.
5- Tác Vị, nghĩa là địa vị Hữu Học.
6- Vô Tác Vị, nghĩa là ngôi vị La
Hán Vô Học.
7- Thù Thắng Vị, nghĩa là đã thành
tựu công đức thù thắng. Bảy Phần Vị trên mặc dù Đại Thừa đã
thuyết minh, nhưng thật ra cũng thông qua cả ba Thừa.
8- Thượng Vị, nghĩa là Bồ Tát đã vượt
qua khỏi Nhị Thừa ở trên và nơi Bồ Tát đây trở lên lại có Phật
quả ở trong.
9- Vô Thượng Vị, chính là chỉ cho quả
vị Phật.
10- Giải Hạnh Vị, nghĩa là từ Sơ Trụ
của Thập Trụ đến Tứ Gia Hạnh là hạnh vị Thắng Giải.
11- Nhập Vị, nghĩa là chứng vào Hoan
Hỷ Địa ban đầu.
12- Xuất Ly Vị, nghĩa là từ Nhị Địa
đến Thất Địa, mỗi Địa đều đã ra khỏi (đều
đã giải thoát) sanh tử.
13- Thọ Ký Vị, nghĩa là Bồ Tát Bát
Địa sau khi biết đạo, tự mình tu tập đã trải qua hai A Tăng Kỳ Kiếp, đây
tất nhiên tương đương một vị Phật.
14- Thuyết Vị, nghĩa là Địa thứ chín đã
được bốn biện tài vô ngại và khéo biện giải những pháp yếu.
15- Quán Đảnh Vị, nghĩa là Địa thứ
mười đã được Như Lai làm quán đảnh.
16- Chứng Đắc Vị, nghĩa là ngôi vị chứng
đặng Pháp Thân của Phật.
17- Thắng Lợi Vị, nghĩa là ngôi vị chứng
đặng Báo Thân của Phật và thọ dụng quả thắng lợi của Phật.
18- Thành Sở Tác Vị, nghĩa là thân
biến hoá đi xây dựng các việc để độ chúng sanh. Trong đây từ phần
vị tứ tám đến phần vị thứ mười lăm hoàn toàn là trình bày phần vị ở
trên của Bồ Tát và chứng đặng ba bậc đây là trình bày các việc
trên quả Phật.
b/2- Thuyết Minh Sơ Lược
Ba Bậc:
Bài Tụng:
“Nên biết trong pháp giới; sơ lược có ba phần vị: Bất Tịnh, Tịnh
Bất Tịnh, Thanh Tịnh; Tùy Sở Ưng.”
Gải Nghĩa:
Câu Tụng đây là thuyết minh tu ba
thứ phần vị trong đối trị. Chỗ gọi là Pháp Giới đây có hai nghĩa
rộng và hẹp: Nghĩa hẹp là pháp trần trong sáu trần, là pháp giới
sở duyên của Thức thứ sáu. Nghĩa rộng là biệt danh hai không chân
như của nhân và pháp. Về phương diện trước mặt cũng được nói qua,
pháp giới chính là nhân của tất cả Thánh phàm, trong đó chỗ nói
đến cũng tức là trông cậy vào pháp giới làm nhân sở duyên của
tất cả Thánh pháp thanh tịnh để cho Thánh trí vô lậu tác dụng duyên
đến. Nên biết ở trong pháp giới đây, đại lược có ba phần vị: Một
là Bất Tịnh Vị, tức căn cứ theo hai không chân như mà nói chính
là chỉ cho phàm phu khi còn ở trong pháp tạp nhiễm chưa phát sanh hành
động đối trị. Hai là Tịnh Bất Tịnh Vị, nghĩa là chỉ chứng được
một phần thanh tịnh mà chưa được thanh tịnh hoàn toàn, cho nên gọi là
trong thanh tịnh còn mang theo không thanh tịnh. Còn căn cứ nơi Nhị Thừa
mà nói, như quả Tu Đà Hoàn của Thinh Văn, mặc dù chứng được quả
Thánh, mà còn có tu chỗ đoạn Hoặc, đây cũng chính là trong thanh tịnh
mang theo không thanh tịnh. Lại nữa căn cứ nơi Đại Thừa mà nói, như
chứng được Hoan Hỷ Địa ban đầu trở lên còn có hai chướng cần phải
đoạn trừ, đây cũng chính là trong thanh tịnh mang theo không thanh tịnh. Ba
là Thanh Tịnh Vị, nghĩa là La Hán
và Bích Chi Phật của Nhị Thừa, ở
nơi hai quả vị này có thể đối trị phiền não đã được thanh tịnh, có
chỗ gọi là Tố Hoàn Toàn Thanh Tịnh.
Ba
phần vị đây đều là tùy theo chỗ tương ưng mà phân chia thành phần như
nhau, nên gọi là Tùy Sở Ưng.
b/3- Tùy Ưng Lập Vị:
Bài Tụng:
“Nương nơi trong các phần vị trước, chỗ có tướng sai biệt, tùy
theo chỗ tương ưng mà kiến lập, các Bổ Đặc Già La.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh tùy
theo chỗ tương ưng của nó mà kiến lập riêng biệt các thứ phần vị.
Như Du Già Sư Địa Luận ..v..v......kiến lập mười ba Trụ. Rõ ràng hơn
như Hoa Nghiêm kiến lập năm mươi hai phần vị, chỗ gọi là Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cộng thêm Thập Địa, Đẳng Giác
và Diệu Giác, là năm mươi hai phần vị. Hoặc về sau cộng thêm Tứ Gia
Hạnh của Thập Hướng trở thành là năm mươi sáu phần vị. Hoặc nơi
Thập Tín ở trước cộng thêm Càn Huệ Địa thì trở thành năm mươi bảy
phần vị. Những Phần Vị đây là tùy theo sự phân chia đều nhau mà kiến
lập, chính là hiển bày một thứ Phần Vị Đại Thừa Bồ Đề trên tướng
sai biệt mà tu hành. Bốn câu Tứ Quả của Tiểu Thừa, hoặc rộng ra như
Câu Xá..v..v.. .... lại thuyết minh hai mươi bảy Hiền Thánh, tất cả
đều là tùy theo chỗ tương ưng mà kiến lập các thứ không giống nhau,
đây là biệt danh của Bổ Đặc Già La.
(Biện minh đắc quả phẩm thứ sáu)
C.- BIỆN MINH QUẢ:
Trên
đây Cảnh và Hạnh đã giảng xong, sau đây bao gồm giảng về
Biện Minh Quả. Thứ lớp của Cảnh, Hạnh và Quả này
có thể phân biệt
tất cả Phật Pháp, căn cứ nơi Giáo để sáng tỏ về lý
gọi là Cảnh, căn
cứ nơi Lý để tu hành gọi là Hạnh, căn cứ nơi Hạnh
để chứng quả gọi là
Quả. Nơi trong Luận đây phân chia đều nhau, quan trọng
là hiển bày
rõ ràng, ba phẩm trước là biện minh Cảnh, phẩm bốn và năm là biện
minh Hạnh, phẩm thứ sáu là biện minh Quả. Do tu
chứng chỗ đạt được
chính là Quả Sở Đắc; chữ Đắc đây có nghĩa phổ
thông là thành tựu,
như sách nọ vật nọ đã được thành tựu đều gọi là
Tố Đắc. Còn nơi Phật
Pháp thì cho rằng, chữ Đắc đây nghĩa là có chủng tử
thành tựu, có hiện
hành thành tựu; nhưng có chủng tử mặc dù đã thành
tựu mà hiện hành
thì chưa thành tựu, như phàm phu có tánh thành Phật,
nghĩa là chủng tử
đây đã thành tựu, nhưng còn chưa sanh hiện hành. Hoặc
có chủng hiện
mặc dù đã thành tựu mà lại bị tiêu mất, như chủng
tử phiền não có
thể do đối trị cho tiêu mất, tâm thiện..v..v...... đã
phát khởi cũng có
thể bị tiêu mất, cho nên những thứ này đều không
thể cho là thành tựu
chính xác. Thành tựu chính xác phải là pháp vô lậu
xuất thế, phải là
chứng được Thánh quả..v..v...... và những thứ đây
vĩnh viễn không bị
tiêu mất, như chứng được Thánh cảnh của quả Tu Đà
Hoàn thì không
bị tiêu mất. Tuy La Hán Nhị Thừa có thể thối lui,
nhưng quyết định
không bị thối lui xuống đến hạng phàm phu, Thành tựu
đây gọi là nhất
định thành tựu và vĩnh viễn thành tựu, không giống
như trong phần vị
sanh tử lưu chuyển đã thành tựu quả báo nhân thiên,
tuy đã được thành
tựu mà lại còn bị tiêu mất. Nhưng thành tựu thì
phải thành tựu quả Phật
thì mới tính là thành tự viên mãn của tột cùng cứu
cánh, đây là nghĩa
của đắc quả, đại lược như thế.
1/- Biện Minh Năm Quả:
Bài Tụng:
“Khi nói là Dị Thục; Lực là kia tăng thượng; ái lạc, tăng
trưởng, tịnh; như thứ tự tức là năm quả.”
Giải
Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích năm quả.
Năm quả này ngoài ra rất nhiều Kinh Luận giải thích: 1- Dị Thục Quả,
2- Tăng Thượng Quả, 3- Đẳng Lưu Quả, 4- Sĩ Dụng Quả và 5- Ly Hệ Quả.
Năm thứ Quả đây hôm nay Luận này trình bày nương nơi Khí của năm pháp
mà kiến lập. Chữ Khí, thí dụ như thông thường chỗ gọi là Căn Khí,
như nói “Quân Tử bất khí”, chữ Khí đây nghĩa là tài liệu, (nghĩa là người quân tử thì không cần
tài liệu). Còn nơi Phật Pháp, chữ Khí chính là Dị Thục của Chánh
Báo và Y Báo hiện tại đã có được. Chánh Báo và Y Báo nếu là tốt
đẹp thì Dị Thục đây là thiện pháp vô lậu và chỗ chiêu cảm là tùy
theo người khác nhiều kiếp đã tu. Nghĩa của Dị Thục, đổi ngược lại
mà nói chính là Nghiệp Báo. Nghiệp Báo đây có ba nghĩa:
1, Nghiệp chính là nhân trước kia đã
sử dụng mà hiện tại quả đã thành thục, nghĩa là biểu thị nhân quả
không phải là đồng thời mà phải là khác thời mới thành thục.
2, Nhân là thiện ác mà quả báo
lại là vô ký, phân biệt đơn giản theo Phật Quả thì phải trải qua
khác loại mới thành thục.
3, Nơi Nghiệp Nhân thì vi tế phi
thường, mà đến thành quả thì rất rõ ràng, nghĩa là khi thành thục
thì phải biến đổi khác đi.
Trong ba nghĩa đây, nghĩa khác thời
mới thành thục, nếu so sánh thì định nghĩa khác thời nhân quả mới
thành thục, nghĩa là do nhân quả không đồng thời cho nên người đời
không dễ gì biết. Như quả thì ở đời này mà nghiệp thì ở đời trước
và nghiệp cũng có thứ ở mấy ngàn vạn năm trở về trước và ở vô
lượng kiếp trở về trước. Nghiệp đây không chỉ phàm phu không thể
biết mà cho đến La Hán..v..v...... có thần thông cũng không thể
biết, nhân quả đây ẩn sâu khó biết, chỉ có Phật Trí mới có thể biết
rõ. Cho nên Phật luôn luôn là người thọ ký, nhà ngươi ở nhiều kiếp
về trước đã được thứ nhân Phật thì nhiều kiếp về sau đương nhiên
được làm Phật, đây là đối với Nghiệp Dị Thục đã thấy suốt cả.
Thân Khí hiện tại của chúng ta, chính là hai thứ chánh báo và y báo,
Căn Khí tốt là nhờ tu thiện pháp mà có được. Như từ phàm phu cho
đến thành một thân sau cùng, hoặc báo thân sanh lên cõi Tịnh Sắc
Cứu Cánh Thiên để được thành Phật Quả Bồ Đề, hoặc vãng sanh Tịnh
Độ phương khác để được chánh báo và y báo tốt đẹp, như sanh trong
Tây Phương Tịnh Độ một đời liền có thể thành Phật, đây tức là nhân
được tốt cho nên Căn Khí có thể thành tựu thiện pháp là tu chứng
Bồ Đề. Nguyên do trong đây nói đến Thân Khí chỗ có được đó chính là
chỉ cho Dị Thục. Nghĩa là Thân Khí đây có năng lực tăng thượng có
thể khiến thiện pháp được thành thục, như Phật Thích Ca khi ở thân sau
cùng cảm nhận được quốc độ tăng thượng, phụ mẫu, gia thuộc đều rất
viên mãn, đây là tăng thượng của thân khí, khiến một đời có thể
thành tựu Phật Quả thượng phẩm thiện pháp thù thắng, đó chính là
năng lực tăng thượng duyên, nhờ năng lực tăng thượng duyên thành
thục cho nên quả được thành tựu là quả tăng thượng. Ái Lạc là
Đẳng Lưu Quả, chữ Đẳng nghĩa là đều nhau, chữ Lưu nghĩa là lưu chuyển
chủng loại, như bình thường chỗ nói thượng lưu hạ lưu, nghĩa là từ nhân
đây lưu chuyển chủng loại đều nhau đến quả, gọi là Đẳng Lưu Quả. Như
Bồ Tát từ phát tâm ban đầu tu các pháp thiện phước huệ, liền ái
lạc (yêu thích) thiện pháp, tín
ngưỡng Tam Bảo, không chỉ một đời và nhiều đời như thế, mà nổi bật
là hiện thân đặc biệt được ái lạc. Như có hữu tình bị đoạ vào súc
sanh, nhân vì có tâm ái lạc thiện pháp cho nên được chuyển vào nhơn đạo
là được lạc thiện làm người, đây là đời trước lạc thiện lưu chuyển
giống loại đều nhau đến đời này. Lại nữa như có người nếu không
sát sanh thì có thể được quả báo
sống lâu, lại như đem ánh sáng bố thí cho người thì kiếp sau được con
mắt sáng trong, đây đều là nhân đồng loại thì cảm được quả đồng
loại. Tăng Trưởng đây chính là Sĩ Dụng Quả. Sĩ Dụng Quả, Sĩ nghĩa là
sĩ phu (người trí thức), Dụng
nghĩa là công dụng tạo tác, Sĩ Dụng Quả nghĩa là biểu thị con người
trong họ có một thứ lực lượng có thể tạo nên sự nghiệp. Sĩ Dụng
Quả khả dĩ lúc bấy giờ nhìn thấy được, như đem trà khổn từ chỗ này
vận chuyển đến chỗ kia chính là lúc bấy giờ thấy công dụng có hiệu
quả. Sĩ Dụng Quả đây nghĩa hẹp là nói hữu tình; nghĩa rộng là nói
khắp tất cả pháp, như gió thổi lá cây rụng, gió thổi là nhân và
lá cây rụng là quả. Chỗ gọi tăng trưởng chính là hiện tại lúc nào
cũng thường tu tập thiện pháp, khiến thiện pháp tăng trưởng viên
mãn. Như khi Phật còn tại thế, được nghe pháp liền chứng đặng quả La
Hán, hoặc nghe pháp khởi tín tâm tu hành mà chứng hai ba quả mới
thành được La Hán, đây là thành tựu thiện căn tăng trưởng. Như có
người hiện tại cần tu sự nghiệp học vấn, ngày kia có thể khiến
công nghiệp thành tựu, hoặc hiện tại chuyên cần tu hành cho đến
thành Phật cũng là sĩ dụng khiến các thứ pháp tăng trưởng. Chữ Tịnh
chính là Ly Hệ Quả, tức là chứng giải thoát vĩnh viễn đoạn trừ hoàn
toàn hai chướng (Phiền não chướng
và Sở tri chướng). Năm Quả đây, nói nghĩa hẹp là Dị Thục chỉ quan
hệ nơi hữu tình; còn Tăng Thượng, Đẳng Lưu, Sĩ Dụng thì quan hệ cả
hữu lậu và vô lậu; riêng Ly Hệ thì chỉ quan hệ nơi vô lậu. Nói nghĩa
rộng, trong năm quả nói trên, bốn Quả trước có thể quan hệ hữu lậu
và vô lậu, mà Ly Hệ nếu tạm thời lìa khỏi sự trói buộc..v..v......
thì cũng có thể quan hệ hữu lậu và vô lậu. Nghĩa của năm quả đây
đại lược là như thế.
2/.- Thuyết Minh Dư Quả:
Bài Tụng:
“Lại nói sơ lược về Dư Quả; hậu hậu, sơ, số tập, cứu cánh,
thuận, chướng diệt, ly, thắng, thượng, vô thượng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh các
thứ pháp quả ngoài năm quả. Xưa nay Pháp Quả phân biệt vi tế có
rất nhiều, trong Luận đây nói đến cũng không ngoài đại cương mà
thôi.
1, Hậu Hậu, nghĩa là do tiền kiếp
về trước làm nhân mà hậu kiếp về sau làm quả, như các vị Thập Tín,
Thập Trụ..v..v...... Sơ Tín Vị tức là nhân của Tín thứ hai, Tín thứ hai
tức là quả của Sơ Tín. Lại nữa như Thập Bát Vị đã nói ở trước,
dòng họ của nó là nhân và phát tâm là quả; căn cứ nơi hậu pháp
về sau mà nói, tức là quả của thành phần trước kia, đây chính là
căn cứ trên quả tướng mà thuyết minh.
2, Chữ Sơ, nghĩa là quả tối sơ, như
Tiểu Thừa đặng quả Tu Đà Hoàn, Đại Thừa đặng Sơ Địa.
3, Số Tập (nhiều lần tu tập), nghĩa là chỗ đắc quả chính là do nhiều
lần tu tập, như Thinh Văn thì chứng hai hoặc ba quả; Bồ Tát thì chứng
đặng hai hoặc ba cho đến Thập Địa, tất cả đều là nhiều lần tu tập
mà được chứng quả, đây chính là ngôi vị Tu Đạo.
4, Cứu Cánh, nghĩa là kết quả tối
cao, như Đại Thừa thành Phật, Nhị Thừa chứng Tứ Quả, đều là quả cứu
cánh. Dưới đây sẽ nói sáu thứ quả, trong sáu thứ quả này có bốn
thứ sai biệt như thứ 5, thứ 6, thứ 7 và thứ 8.
5,
Chữ Thuận, tức là tùy thuận, nghĩa là tuỳ nhân trước mà đặng hậu
quả về sau, nhân trước đây cùng hậu quả về sau chẳng qua danh từ
không giống nhau mà thôi.
6, Chướng Diệt, nghĩa là căn cứ nơi
đối trị tiêu diệt hai chướng mà lập quả, chướng đã rốt ráo tiêu
diệt gọi là Ly Hệ (lìa khỏi sự
trói buộc), đây là căn cứ nơi nghĩa sai biệt của ngôi vị Kiến
Đạo ban đầu mà kiến lập.
7, Chữ Ly, tức là Ly Hệ (lìa khỏi sự trói buộc), là căn
cứ trên sự tu hành khi đạt đến ngôi vị cứu cánh thì đã lìa khỏi tất
cả sự trói buộc.
8, Chữ Thắng, nghĩa là thù thắng,
tức là khi giải thoát phiền não, tu tập tích lủy thành các thứ công
đức rất thù thắng.
9, Chữ Thượng, tức là nói Bồ Tát
ở trên hai Thừa, mà Phật thì lại ở trên Bồ Tát.
10, Vô Thượng, tức là chỉ cho Phật
quả và không có bậc nào trên nó. Các thứ quả đây từ sau này đến
cứu cánh, nghĩa là từ phàm phu cho đến Phật quả, kể từ Tùy Thuận
trở xuống là nghĩa sai biệt, ở trước đã được tóm lược đại cương như
thế.
(Biện
minh Vô Thượng Thừa phẩn thứ bảy)
2.- BIỆN
MINH RIÊNG BIỆT VÔ THƯỢNG:
Biện minh phẩm Vô Thượng Thừa là
biện minh phân biệt vô thượng thứ hai của phần Phân Biệt Luận Nghĩa,
chỗ thuyết minh của phẩm này là thuộc chuyên môn Đại Thừa vô
thượng, Đại Thừa gọi là Đệ Nhất Thừa, tức là ở trong ba Thừa nó thuộc
về thứ nhất. Thừa này cũng gọi là Tối Thượng Thừa, hoặc gọi là
Bồ Tát Thừa, nếu căn cứ nơi quả cũng được gọi là Tố Phật Thừa,
những thứ tên đây đều là biệt danh của Đại Thừa. Ở trong Phật Điển
thuyết minh nghĩa của Đại Thừa đã có nhiều thứ, như Du Già..v..v......
có bảy pháp biện minh Đại Thừa, còn Luận này thì thuyết minh ba thứ
Vô Thượng. Chữ Thừa chính là từ tỷ dụ, bình thường gọi là chiếc xe,
cho nên chữ Thừa đây có chỗ không phải động từ mà thuộc về danh
từ. Vô Thượng Thừa nói ngược lại, chính là chiếc xe lớn rất tốt vô
thượng. Kinh Pháp Hoa tỷ dụ ba Thừa, dụ như xe dê, xe nai, lớn thì gọi
là xe bò; bởi vì dùng sức con bò đem so sánh con dê, con nai thì lớn
hơn, cho nên thí dụ là Đại Thừa. Nhưng bản thể của Đại Thừa trong
đây chính là Pháp Giới Chân Như, phải dùng động lực của trí Bát Nhã
Vô Phân Biệt để chuyên chở. Thí dụ như hiện tại hoả xa, xe
hơi..v..v...... động lực của chúng là trí, bản thể của động lực chính
là pháp giới, các thứ trang trí trên xe cũng như các thứ pháp công
đức trong Thừa. Như là động lực và các thứ trang nghiêm đầy đủ thì
trở thành là Thừa. Sự sai biệt của Thừa đây, Kinh Hoa Nghiêm nói
rằng có vô lượng Thừa, có thể phân chia thành năm Thừa như: Nhơn
Thừa, Thiên Thừa, Tinh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa. Như
định nghĩa của Thừa là chuyên chở khởi điểm từ sanh tử lưu chuyển đi
đến Niết Bàn, vì thế Nhơn Thừa và Thiên Thừa thì không thể hoàn
toàn giải thoát sanh tử và lại không thể gọi là Tố Thừa; nguyên
tắc có thể thích hợp gọi là Thừa chỉ có ba Thừa Thinh văn, Duyên
Giác và Bồ Tát. Ba Thừa bậc Thánh đây, chỗ tu của họ là Pháp Ba
Mươi Bảy Bồ Đề Phần, nhờ đó có thể từ sanh tử liền vào Niết Bàn.
Mà ở trong ba Thừa, chỉ có Đại Thừa là cứu cánh tối thượng. Trong
sáu phẩm trước, chỗ giảng giải mặc dù nghiêng trọng về Đại Thừa,
nhưng cũng bao gồm cả Nhị Thừa, Trình bày nghĩa Trung Đạo của họ không
bị lạc vào Nhị Biên. Nay phẩm này chuyên giảng Đại Thừa, hiển bày
tối thù thắng của Đại Thừa, nên gọi là Vô Thượng Thừa.
a.-
Bày Tỏ Ba Vô Thượng:
Bài Tụng:
“Tổng quát do ba Vô Thượng, nói là Vô
Thượng Thừa; gọi là Chánh Hạnh, Sở Duyên, và tu chứng Vô Thượng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây bày tỏ tổng quát ba
thứ vô thượng. Nghĩa vô thượng mặc dù có nhiều thứ, nhưng tổng quát
gom lại không ra ngoài ba thứ này: một là Chánh Hạnh Vô Thượng, hai
là Sở Duyên Vô Thượng, ba là Tu Chứng Vô Thượng. Chánh Hạnh chính
là chỗ phát khởi hành động, chỗ tu Lục Ba La mật..v..v...... Sở
Duyên chính là các cảnh Đại Thừa. Tu Chứng chính là tu Tư Lương được
viên mãn không thiếu sót, chứng đắc thành tựu. Ba thứ như thế và
mỗi thứ đều thù thắng hơn Nhị Thừa, nên gọi là Vô Thượng Thừa.
b.- Giải Thích Ba Vô
Thượng:
b/1- Chánh Hạnh Vô Thượng:
1)- Bày Tỏ Sáu
Chánh Hạnh:
Bài Tụng:
“Chánh Hạnh có sáu thứ: gọi là Tối
Thắng, Tác Ý, Tùy Pháp, Ly Nhị
Biên, Sai Biệt, Vô Sai Biệt.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là bày tỏ tổng quát
sáu thứ Chánh Hạnh. Ý nghĩa vi tế tinh tường của sáu thứ này dưới
đây sẽ giải thích. Sáu Chánh Hạnh gồm có: 1- Tối Thắng Chánh Hạnh,
2- Tác Ý Chánh Hạnh, 3- Tùy Pháp Chánh Hạnh, 4- Ly Nhị Biên Chánh
hạnh, 5- Sai Biệt Chánh hạnh, 6- Vô Sai Biệt Chánh Hạnh.
2)- Biện Minh Sáu Chánh hạnh:
a, Tối Thắng Chánh Hạnh:
Bài Tụng:
“Tối Thắng có mười hai: gọi
là Quảng Đại, Trường Thời, Y Xứ, và Vô Tận, Vô Gián, Vô Nan Tánh,
Tự Tại, Nhiếp, Phát Khởi, Đắc, Đẳng Lưu, Cứu Cánh. Do nói mười độ này,
gọi là Ba La Mật Đa.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Tối
Thắng Chánh Hạnh. Phân tích vi tế về nó cộng có mười hai thứ:
1, Quảng Đại Tối Thắng nghĩa là phát
tâm rộng lớn, vĩnh viễn không mong cầu giàu có, sung sướng, uy tín,
phước đức và giải thoát của Nhị Thừa, từ phát tâm ban đầu cho đến
tận hư không giống như hư không, biến khắp pháp giới, phát tâm được
rộng lớn và cao tối cực, nên gọi là Quảng Đại Tối Thắng.
2, Trường Thời Tối Thắng (thù thắng tột cùng thời gian lâu dài),
nghĩa là ở nơi trước khi chưa thành Phật, trải qua ba A Tăng Kỳ Kiếp,
tu tập tích lủy tư lương phước đức trí tuệ. Sau khi đã thành Phật, luôn luôn lúc
nào cũng là đi độ chúng sanh đến tận cùng bờ mé đời vị lai, cho nên
Bồ Bát phát tâm thời gian lâu dài không có so sánh nên gọi là
Trường Thời Tối Thắng.
3, Y Xứ Tối Thắng, nghĩa là Bồ Tát
phát tâm khắp tất cả chúng sanh giới, đem lợi ích đến cho tất cả
hữu tình làm chỗ nương tựa, phát tâm không vì thế gian, hoặc phát
tâm không vì một thân, một gia đình, một địa phương, một đoàn thể, hoặc
một quốc gia cho là lớn, vì thế nên gọi là Y Xứ Tối Thắng.
4, Vô Tận Tối Thắng, nghĩa là Bồ
Tát tu hành thông đạt tất cả pháp không tự tánh, không tướng,
không ngã, khắp nơi hư không, cho nên có thể hồi hướng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ Đề, trở thành vô cùng vô tận. Chúng ta hiện tại
công đức chỗ tu được cũng giống như giọt nước, đem giọt nước đây
ném vào biển lớn thì cũng giống như biển lớn vô tận, nếu có thể
tùy theo tu một hạnh nào dùng hạnh đó hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề
thì cũng giống như Bồ Đề vô cùng vô tận vậy. Nhưng đây cũng phải
là Bồ Tát Đại Thừa mới có thể được như thế. Nhị Thừa thì chỉ cầu
tự độ cho nên chỉ đến được Niết Bàn là cùng tận. Lại nữa theo lập
trường của con người nếu là quốc gia, là nhân loại thì đời đời bất diệt,
nhưng thế giới khi hoại diệt thì công đức của họ rồi cũng tiêu tan.
Đúng ra chỉ có Đại Thừa thì mới có thể thành tựu chân thật vô cùng
vô tận mà thôi, cho nên gọi là Vô Tận Tối Thắng.
5, Vô Gián Tánh Tối Thắng, chữ
Gián là cắt đứt hẳn, vô gián nghĩa là không có xa cách, tức là đã
đạt được tất cả tự tha cuối cùng bình đẳng, chỗ phát khởi tu hành
cũng không có cách biệt tự và tha, thân và sơ, vật và ngã. Nhờ vô
gián cho nên chỗ tu thí..v..v...... cũng đều bình đẳng đối với tất cả
chư Phật, thành tựu tối viên mãn, cho nên gọi là Vô Gián Tánh Tối
Thắng.
6, Không Nan Tánh, nghĩa là đối với
chỗ tu thiện pháp của người hữu tình kia sanh tâm tùy hỷ thì đối với
thiện pháp của mình tu cũng thành tựu viên mãn và cũng hoàn toàn
không khó khăn, cho nên gọi là Không Nan Tánh.
7, Tự Tại, nghĩa là Bồ Tát có thể
thành tựu các thứ thiền định, thần thông, tam muội..v..v....... Các
thứ năng lực kham nhẫn, năng lực tự tại, Bồ Tát đạt đến và có
thể tự tại chuyển biến pháp khác mà không bị các pháp khác chuyển;
nhờ tự tại đây cho nên dễ thành tựu chỗ tu thí..v..v......
8, Nhiếp lấy, nghĩa là Bồ Tát chỗ
tu hành, thường dùng Trí vô phân biệt đã thâu nhiếp được để tương ưng
các hạnh của Bồ Tát, như Bồ Tát Sơ Trụ khi thật hành Bồ Tát lại
thường tương ưng cùng Không Thắng Giải, khi đến được Sơ Địa thì thường
tương ưng cùng Trí Không Vô Phân Biệt, nhờ thế mà đi tu tất cả hạnh vô
trụ, không người không pháp, không năng không sở, cho nên nhiếp lấy
được tối thù thắng.
9, Phát Thú, căn cứ theo nghĩa rộng
thì có phát khởi trùng trùng, trong đây chỉ căn cứ nơi Gia Hạnh Vị
của Bồ Tát, chính là thường phát khởi Trí Vô Phân Biệt, cho nên gọi
là Tối Thắng.
10, Đắc đây, ở trước được trình bày
qua, nghĩa là đã Đắc Thánh Quả vĩnh viễn không bao giờ quên mất;
nhưng Đắc Thánh Quả Nhị Thừa thì không phải Đại Thừa Tối Thượng; Đắc
Hoan Hỷ Địa ban đầu mới gọi là Đắc trong tối thù thắng. Do từ phát
tâm nghe pháp giới chân như cho đến nay đã lâu chưa được chứng đắc,
mãi đến nay mới có thể được chứng đắc, cho nên phát tâm như thế gọi
là phát tâm cực đại hoan hỷ.
11, Đẳng Lưu, nghĩa là Đắc Sơ Địa trở
về sau đều là loại Đẳng Lưu, triển khai đến Nhị Địa và đến Cửu Địa
đều gọi là Đẳng Lưu.
12, Cứu Cánh, chính là Pháp Vân Địa
thứ mười, Địa đây là chỗ tột cùng của Đại Thừa Bồ Tát đã viên
mãn công đức; từ Pháp Vân này tiến thêm một bước nữa tức là
chứng đắc Phật Quả, cho nên Pháp Vân là nhân cứu cánh và Phật Quả
là quả cứu cánh. Do mười hai thứ thù thắng đây mà nói đến mười Độ
gọi là Ba La Mật Đa. Ba La Mật Đa là tiếng Phạn, Trung Hoa gọi là đến
bờ bên kia. Nghĩa là nhờ mười hai thù thắng này mỗi người đều có
thể vượt qua biển phiền não của họ mà đến bờ bên kia. Hơn nữa chữ
Độ lại giống như chiếc thuyền và chiếc thuyền là chỗ có thể có
thể vượt qua biển phiền não tham sân..v..v...... mà đến bờ Đại Niết
Bàn bên kia và nơi đó vĩnh viễn không phải là chỗ phiền não tạp
nhiễm có mặt mà chính là chỗ bỉ ngạn đã vượt đến bờ. Ở trong Độ
đây cũng có tu bố thí..v..v...... mà không gọi là Ba La Mật giống như
Bồ Tát Ngoại Phàm Vị. Bố thí đây chỉ là bố thí độ, trì giới đây chỉ
là trì giới độ mà không gọi là Ba La Mật, hoặc không gọi là trì
giới Ba La Mật..v..v...... Tại sao thế? Do vì Độ đây chưa cùng tương ưng với mười hai
tối thắng. Tu cách nào có thể cùng mười hai tối thắng tương ưng thì
được xưng Ba La Mật Đa. Thế nào là mười thứ Ba La Mật Đa?
Bài Tụng:
“Mười Ba La Mật Đa gồm có: Thí, Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn,
Định, Bát Nhã, Phương Tiện,
Nguyện, Lực, Trí. Nhiêu Ích, Bất
Hại, Thọ, Tăng Đức, Năng Nhập, Thoát, Vô Tận, Thường Khởi, Định, Tha
Thọ Dụng Thành Thục.”
Giải Nghĩa:
Trong bài Tụng đây, bốn câu trước là
tỏ bày danh xưng mười Độ, bốn câu sau là giải nghĩa mười Độ. Mười
Độ gồm có: 1, Bố Thí nghĩa là đem tài vật ra bố thí, đem Phật Pháp ra
bố thí và đem không lo sợ ra bố thí. 2, Trì Giới nghĩa là ngưng việc
ác làm việc lành, như Luân Lý Học thế gian gọi là mô phạm của đạo
đức. 3, An Nhẫn nghĩa là ở trên đời có thể an tâm thọ nhận các
pháp khổ lạc và chứng đặng pháp vô sanh, cho nên có thể an trụ. 4,
Tinh Tấn nghĩa là nổ lực hướng đến pháp vô lậu xuất thế và còn Cần
nghĩa là chỉ nổ lực những việc của thế gian cho nên không được gọi
là Tinh Tấn. 5, Thiền Định tức là chỉ cho Tứ Thiền, thuộc cơ bản của
Phàm Thánh cùng nhau tu tập, còn Bát Định là thuộc về xuất thế của
ba Thừa, nghĩa là chỗ tu của Thánh Định trong đó có các thứ Bất
Cộng. 6, Bát Nhã nghĩa là trí tuệ; theo nghĩa rộng Bát Nhã bao gồm
năm Độ, nhưng hiện tại đang trình bày mười Độ cho nên chỉ riêng cộng
thêm bốn Độ sau đây thì thành mười Độ. Bốn Độ sau đây gồm có Phương
Tiện, Nguyện, Lực và Trí. Riêng Trí ở đây là chỉ cho Căn Bản Trí của
Huệ Vô Phân Biệt, tức là Như Lý Trí. Chữ Độ đây ở trong Pháp Đại
Thừa thì trọng yếu phi thường, có thể phủ định để thành Thánh Đạo,
nghĩa là xem như đã phát khởi không có trí vô phân biệt, đã phát khởi
chính là Thánh Trí, chưa phát khởi chính là phàm trí. Phàm Phu tuy quán
không, nhưng còn dùng tâm phân biệt để quán, cho nên không được gọi
là chân kiến đạo. Còn chân chánh không đây tức là chân kiến đạo,
thông đạt tánh không của tất cả các pháp, thông đạt đi khắp chân
như, thông đạt không có năng chứng sở chứng, nghĩa là năng và sở
cả hai đều không, đây mới là Bát Nhã chân chánh. 7, Phương Tiện
nghĩa là nhờ trí vô phân biệt mà thông đạt tất cả pháp không và
nương nơi trí vô phân biệt đây mà phương tiện tu tất cả hạnh. Trong
thời gian tu tập các hạnh thì không nên trụ nơi tướng, nguyên vì nơi
các hạnh để tu cũng hoàn toàn là không, như Kinh Kim Cang nói rằng:
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, chỉ sợ tâm có chỗ trụ các pháp thì
chỗ tu các hạnh trở nên bị giới hạn, như trụ nơi Thí thì việc tu thí
có giới hạn, do đó sẽ không được công đức vô lượng, cho nên phải
nương tựa nơi trí vô phân biệt để tu tất cả hạnh. 8, Nguyện, nghĩa là
chỉ cho tứ hoằng thệ nguyện. Muốn tu tứ hoằng thệ nguyện thì phải nương
nơi trí vô phân biệt mà tu và trong khi tu tập phát nguyện độ vô
lượng chúng sanh mà thật tế phải thấy rằng không có một chúng sanh
nào được độ cả. 9, Lực, nghĩa là mười lực của chư Phật và Bồ Tát,
đây cũng chính là phán đoán các lực phải dựa trên trí mà trình bày.
10, Trí, chính là trí tuệ thấu suốt tất cả pháp, nhân vì trí vô phân
biệt đối với tất cả phiền não đều đã giải thoát sở tri chướng thì
đối với tất cả cảnh sở tri thảy đều thông suốt và đối với tất cả
tâm hạnh chúng sanh trong sát na thảy đều thông đạt, đây tức là chỉ
cho Trí. Danh nghĩa của mười Độ trên đại khái là như thế.
Giờ đây lại giảng mười thứ công
đức của mười Ba La Mật Đa: 1, Nhiêu Ích, nghĩa là lợi ích phong phú
hữu tình, như không có tiền của vật dụng khiến được tiền của vật
dụng. 2, Bất Hại, nghĩa là không làm thương hại, không não hại hữu
tình. 3, Thọ, nghĩa là không chỉ không hại người khác mà có thể nhận
chịu người khác làm thương hại đến mình. 4, Tăng Đức, nghĩa là riêng
mình có thể tăng tiến công đức và tất cả hữu tình cũng có thể
tăng tiến công đức, không như Giả Tiến Hoá Luận của thế gian cho
tăng đức đây là lưu chuyển, mặc dù là tạm tiến hoá mà chung cuộc
là thối hoá. Như con người từ ấu thơ mà trưởng thành gọi là tăng
tiến, nhưng chuyển biến trong nháy mắt từ tráng niên mà trở thành
già yếu và từ già yếu mà đi đến diệt vong, đây gọi là thối hoá.
Cho nên đúng ra tiến hoá đây chỉ là công đức tăng tiến mà thôi. Ở
trong các Thánh giả, chỉ có Phật thì công đức đã viên mãn không cần
tăng tiến; Tiểu Thừa chỉ cầu giải thoát mà không cầu tăng tiến;
riêng Bồ Tát thì mới cầu tăng tiến chân chánh. 5, Năng Nhập (khả năng vào trong), chính là Thiền Định, do sức kham nhẫn
cho nên có thể vào trong thiền định, do sức thần thông lại có thể
khiến người khác vào trong Phật Pháp. 6, Thoát, tức là giải thoát,
nghĩa là nhờ Bát Nhã có thể đối trị hai chướng phiền não và sở tri
nên được giải thoát. 7, Vô Tận, nghĩa là nhờ năng lực phương tiện
có thể khiến công đức chỗ tu được rộng lớn vô cùng vô tận. 8,
Thường Khởi, tức là phát đại nguyện, một niệm không thối lui, khiến
công đức chỗ tu được không bị tiêu diệt, có thể hồi hướng vô
thượng Bồ Đề. 9, Định, tức là nghĩa quyết định, như năng lực phán
đoán đã giải thích ở trước, có thể phán đoán chỗ đúng chỗ không
đúng, đây chính là Trí Lực. Do dự không thể phán đoán hoặc ép buộc
cho là hiểu biết, đây tức là không có trí lực, cho nên phải tư duy
chọn lựa thì ngay lập tức mới quyết đoán được, đây đều là do trí
lực chỗ tu tập mới được. 10, Tha Thọ Dụng Thành Thục, nghĩa là đối
với tất cả pháp đã hiểu biết phổ biến, thọ dụng một thứ pháp lạc
thù thắng, đồng thời cũng đem chỗ pháp lạc thọ dụng được đi thành thục cho tất cả hữu tình;
những thứ pháp lạc tha thọ dụng thành thục đây chính là Chánh Hạnh
tối thắng thứ nhất trong mười thứ Chánh Hạnh. Tự thể của nó tức
là mười Độ, cho nên trở thành là sáu Đáo Bỉ Ngạn (Sáu Đáo Bỉ Ngạn gồm có: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh
Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ), chính là lý do có mười thứ tối thắng
cùng tương ưng với nó.
b, Tác Ý Chánh Hạnh:
Bài Tụng:
“Bồ Tát dùng ba Huệ, luôn luôn tư duy Đại Thừa, như chỗ thiết
lập pháp, gọi là Tác Ý Chánh Hạnh. Tăng trưởng thiện pháp đây,
vào nghĩa và sự thành.”
Giải Nghĩa:
Dưới đây là giảng Tác Ý Chánh
Hạnh thứ hai trong sáu thứ Chánh Hạnh. Tác Ý đây, nghĩa là người
nghe pháp, sau khi nghe pháp đem nghĩa lý đã nghe đã hiểu phát khởi xu
hướng mống tâm chú ý, khiến tâm và tâm sở chung nhau phát khởi,
điều khiển tâm ngưng lại chuyên chú gọi là tác ý. Giải thích nghĩa
đây cộng có bốn bài Tụng. Sáu câu Tụng ban đầu chính là giải thích Tác
Ý Chánh Hạnh. Bồ Tát do nơi văn mà được thành huệ, do nơi tư mà
được thành huệ, do nơi tu mà được thành huệ, gọi chung là ba Huệ,
dùng ba huệ đây luôn luôn tư duy Phật Pháp Đại Thừa, như các hạnh
Bồ Tát của mười Ba La Mật Đa, các pháp Đại Thừa của Khế Kinh đã
thiết lập, nên gọi là Tác Ý Chánh Hạnh. Ba Huệ Bồ Tát do nghe mà
được thành huệ, như bài Tụng nói rằng: Tăng trưởng thiện giới đây,
chữ Giới như trước đã nói tức là nghĩa của chủng tử. Chính là nhờ
lắng nghe Phật Pháp Đại Thừa cho nên có thể tăng trưởng chủng tử
thiện căn. Trong Phật Pháp Đại Thừa thường có nghĩa này, nếu có thể
lắng nghe một câu Phật Pháp Đại Thừa, dù cho chưa có sáng suốt,
nhưng cũng thành chủng tử, với chủng tử đây chính là pháp giới thanh
tịnh đẳng lưu huân tập và do chủng tử pháp giới đây có thể tăng
trưởng hạt giống thiện, cho nên Pháp Đại Thừa có một thứ năng lực
oai đức vô thượng như thế. Như Tụng Kinh, Trì Chú..v..v...... cũng có
thể tăng trưởng thiện căn, hà huống là đã lắng nghe, lại còn hiểu
rõ, tự nhiên có thể tăng trưởng thiện căn. Vì Nghe Phật Pháp mà có
thể tin hiểu chính là tăng trưởng thiện căn; đề cập đến ba huệ do Nghe
đây tức là do nghe mà được thành huệ. Nghĩa là hoàn toàn căn cứ nơi
ý nghĩa ngôn từ câu văn trên Kinh có thể ghi nhận được, có thể
giải thích được, đó là do Nghe mà được thành huệ. Do Tư mà được
thành huệ đây, Tụng nói rằng: vào nghĩa. Vào Nghĩa chính là có thể
dùng câu văn của nghe để ly khai mà đi vào trong núi rừng của ý
nghĩa tư duy, tư duy đến chỗ nghe pháp mà hiểu rõ một cách thấu
triệt, dung hoá thấu suốt mà ngộ vào ý nghĩa tinh thâm của nó. Lúc
bấy giờ căn cứ nơi nghĩa mà không căn cứ nơi văn, chỉ căn cứ nơi
nghĩa đã hiểu rõ, có thể biến hoá thành các thứ ngôn ngữ văn tự
đi truyền bá những điều đã giải thích, đây tức là công năng của Tư
đã được thành huệ. Còn do Tu mà được thành huệ đây, tức là Tụng
nói rằng: Sự Thành. Bởi vì chỗ tu đây chính thật là nơi luyện tập,
giả sử Tư đây là tư duy đúng như lý thì chỗ Tu cũng là tu tập đúng
như pháp, cho nên Tụng nói rằng Sự Thành. Tức là do Tu mà được
thành huệ, nghĩa là Tu Thí..v..v...... được pháp Đại Thừa thì có thể
khiến chỗ sự nghiệp của hy vọng được thành tựu viên mãn. Như sau khi
nghe pháp Bố Thí, liền căn cứ nơi chỗ Nghe đi tư duy quán sát, đã
hiểu rõ nghĩa của nó, trong tâm đối với chân lý của bố Thí hiểu
biết xác thực không sai lầm, sau đó lại đi thật hành, lại được thân
chứng, cho nên chỗ tu đã được thành huệ, tức là Huệ của tri hành
hợp nhất; thêm nữa căn cứ nơi Tam Học giải thích thì Huệ đây cùng
với Giới và Định đồng thời phát khởi, hiện nay ở nơi Tam Học đây
đều cho là Tác Ý Chánh Hạnh. Cho nên ba Huệ của Văn, Tư, Tu (Ba
Huệ của Lắng Nghe, Tư Duy và Tu Tập)
đều là tự thể của Tác Ý Chánh Hạnh.
Bài Tụng:
“Giúp bạn nên biết đây, tức là mười thứ pháp hạnh gồm có:
viết sách, cúng dường, bố thí cho người, nghe, giở ra xem, thọ trì, khai
diễn chánh đáng, và tư duy tu tập. Hành mười thứ pháp hạnh này được
phước quy tụ vô lượng, vì thù thắng, vì vô tận, do nhiếp kẻ khác
không dứt.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là chỗ giải thích
mười thứ pháp hạnh, là giúp bạn ba Huệ. Chỗ gọi là giúp bạn nên
biết, tức là chỉ cho mười thứ pháp hạnh. Mười thứ pháp hạnh có rất
nhiều Kinh Luận đều nói đến, chẳng qua không được hoàn toàn đầy đủ.
Như Kinh Kim Cang nói rằng: “Nếu có thể thọ trì, đọc tụng, vì người
khác giải thích..v..v......”, đây chỉ là nói ba phần trong mười phần;
lại như Kinh Pháp Hoa nói: Năm thứ Pháp Sư, cũng chỉ nói năm phần trong
mười phần. Mười pháp hạnh đây chỉ có Biện Trung Biên Luận và Du Già
Sư Địa Luận..v..v...... là giải thích hoàn toàn đầy đủ. Còn Kinh Luận
của Tiểu Thừa thì chưa bàn đến, nhân vì mười hạnh này chỉ nương theo
thứ lớp của pháp Đại Thừa mà tu tập, riêng Nhị Thừa thì không có
mười hạnh này, cho nên gọi là Đại Thừa Thập Pháp Hạnh. Mười Pháp
Hạnh đây gồm có:
1, Viết Sách: nhân vì khi Phật còn
tại thế, lúc bấy giờ đều không có điêu khắc in ấn, kinh điển phổ
biến phải nhờ sao chép. Tuy nhiên sau khi Phật nhập diệt, lời giảng
của Phật mới được sao lục ghi chép trở lại thành Kinh Điển, đây chẳng
qua là đem chỗ đã nghe nhờ năm trăm A La Hán tập hợp lại cùng nhau
đọc tụng, nhờ các vị cùng nghe chứng minh, tạo thành một thứ căn
bản nhất định cụ thể. Thật ra khi Phật thuyết pháp lúc bấy giờ đều
có ghi chép, chuyển đạt phổ biến, cho nên viết sách là một của
mười pháp Hạnh. Hiện tại có ấn loát đồng thời cũng có viết sách
giống nhau, cho nên cần phải in ấn cho nhiều để phổ biến, công đức
này và viết sách thì đồng nhau.
2, Cúng Dường: nghĩa là sau khi được
kinh điển không nên sanh tâm khinh mạn, cần phải cung kính cúng dường
thì tự mình có được phước đức vô lượng.
3, Bố Thí cho người: nghĩa là thường
đem sách vở đã viết đi bố thí giúp cho người khác, khiến những kẻ
không được pháp nhờ công đức này có thể được thiện tri thức đến
giảng giải trao truyền và bạn hữu cùng nghiên cứu. Ở ngày nay nếu
có thể khi in ấn kinh điển, ấn tống bố thí cho người khác thì công
đức đây cũng giống nhau.
4, Lắng Nghe: nghĩa là trước khi chưa
hiểu nghĩa, người khác giảng giải, tự mình đến lắng nghe, giống như
học sinh đọc sách và lắng nghe giảng sách cả hai giống nhau, Tiên
Sanh đọc một biến và giảng giải một biến, tự mình đã lắng nghe và
sau đó thì có thể thuộc lòng.
5, Giở Ra Xem: nghĩa là đem một tờ
văn đi học lại tờ đó và học cho đến khi nào thuộc làu, rồi sau đó
có thể tư duy nghĩa của nó.
6, Thọ Trì: nghĩa là đem chỗ văn
nghĩa đã lắng nghe luôn luôn ghi nhớ thọ trì không cho quên.
7, Khai Diễn Chánh Đáng: nghĩa là
căn cứ nơi nghĩa đã lắng nghe ghi nhớ thọ trì không cho quên những
điều người khác giảng giải tinh tường.
8, Đọc Tụng: nghĩa là học ôn những
điều tu tập đã học được khiến cho văn nghĩa thường ghi nhớ mãi trong
tâm, nhờ đây đọc tụng có thể đạt đến pháp lạc phi thường, văn
nghĩa đây có thể thâm nhập sâu cạn, cho nên Đọc Tụng có lợi ích
rất lớn.
9, Tư Duy: nghĩa là đem chỗ nghĩa đã
nghe được lãnh thọ vào tâm và tinh tế tư duy chỗ thâm y của nghĩa.
10, Tu Tập: nghĩa là căn cứ nơi chỗ
thâm ý của nghĩa đã tư duy được và dùng thân tâm tu tập để thể
nghiệm, khiến cho Huệ của Văn và Tư được thành tựu, đây là Huệ xác
thực tinh tường. Tu Huệ, trước đã thông suốt nơi Gia Hành Vị khi chưa
vào Thánh Quả; trước khi hành trì Gia Hành Vị, nếu dựa theo mười Pháp
Hạnh mà tu tập thì có thể trợ giúp cho ba Huệ sớm thành tựu. Sử
dụng tám thứ pháp hạnh ở trước có thể trợ giúp Văn thành tựu để
huệ được thành tựu; còn hai pháp hạnh ở sau thì có thể trợ giúp hai
pháp Tư và Tu thành tựu để Huệ được thành tựu, cho nên nói rằng, mười
pháp hạnh dùng ba Huệ để làm tự thể. Lại nữa đúng ra thật hành
mười thứ pháp hạnh mà chỗ được phước đức hội tụ thì vô lượng vô
biên, đây có được là đặc biệt của Đại Thừa, nhưng Nhị Thừa thì không
thể so sánh giống như Đại Thừa, là điều gì? Chính là chỗ đầy đủ hai
điều kiện: Điều kiện thứ nhất là Tối Thắng, nghĩa là pháp Đại Thừa
thì phải phổ biến để nhiếp hoá tất cả hữu tình vô lượng vô biên.
Điều kiện thứ hai là Vô Tận, nghĩa là pháp Đại Thừa mặc dù sau khi
đã thành Phật thì lại vẫn tiếp tục lợi lạc độ hết tất cả hữu tình
không bao giờ dừng nghỉ, do đó công đức của pháp Đại Thừa thì vô
cùng vô tận, vô lượng vô biên.
c, Tùy Pháp Chánh Hạnh:
c/1- Hai Loại Tùy
Pháp:
Bài Tụng:
“Hai thứ Hạnh Tùy Pháp: các thứ không tán loạn, không điên
đảo chuyển biến, các Bồ Tát nên biết.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là tỏ bày hai thứ Tùy
Pháp Chánh Hạnh. Hai thứ Tùy Pháp Chánh Hạnh gồm có: 1, Vô Tán
Loạn Chuyển Biến Tùy Pháp Chánh Hạnh; 2, Vô Điên Đảo Chuyển Biến Tùy
Pháp Chánh Hạnh. Hai Thứ Chánh Hạnh đây Bồ Tát cần phải nên biết,
dưới đây sẽ giải thích.
c/2, Giải Thích Hai Tùy
Pháp:
1>- Vô (không) Tán Loạn Chuyển Biến
Tùy
Pháp Chánh Hạnh:
Bài Tụng:
“Xuất định, nơi cảnh lưu, vị trầm trạo, biểu thị lừa dối, tâm
thấp kém, các bậc trí phải biết.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Vô Tán
Loạn Tùy Pháp Chuyển Biến Chánh Hạnh thứ nhất. Vô Tán Loạn Tùy
Pháp Chuyển Biến Chánh Hạnh nghĩa là Chánh Hạnh không tán loạn
chuyển biến theo pháp. Do bởi sáu thứ tán loạn có thể khiến Tâm
không theo Pháp Hạnh, vì muốn loại trừ cho nên nêu ra lỗi lầm của
nó:
a,
Một là ra khỏi Định, nghĩa là nói tự tánh của năm Thức Trước là
tán loạn. Năm Thức trước sau khi vào định thì không hiện hành và sau
khi ra khỏi Định thì lại hiện hành, chúng không cùng Tâm Định tương ưng
cho nên trở thành tán loạn.
b, Hai là Nơi Cảnh Lưu Chuyển, tức
là năm Tâm Thức Trước tùy theo cảnh lưu chuyển mà phóng túng buông
lung, hướng ngoại chạy tán loạn, không thể chuyên chú vào một cảnh.
c, Ba là Vị Trầm Trạo, Vị tức là
đắm trước mùi vị an lạc của thiền định có thể dẫn sanh hai phiền não
tham si tương ưng; Trầm tức là hôn trầm không sáng suốt, xác thực
cùng với Định rõ ràng tương phản; Trạo tức là trạo cử, như tay nâng
lên một vật bỗng nhiên trên dưới khiến nội tâm không thể an định.
Vị Trầm Trạo đây đều là tán loạn nội tâm.
d, Bốn là biểu thị lừa dối, tức là
dối trá giả hiện ngụy tướng, như thật ra không tu hành mà giả hiện tướng
tu hành, mặc áo Bá Nạp xin ăn nhơ bẩn..v..v...... đều là biểu thị
lừa dối mà gạt gẫm người khác.
e, Năm là ngã chấp, tức là tán
loạn thô trọng, do có ngã chấp thì tâm sanh kiêu mạn, không thể bình
đẳng mà theo pháp chánh hạnh.
g, Sáu là Tâm hạ liệt, tức là mất
đi ý chí hành pháp Đại Thừa, không thể nương nơi pháp Đại Thừa mà
phát tâm Bồ Đề, nhưng đối với bậc Nhị Thừa thì khởi tâm vui thích.
Sáu thứ như thế đều là tán loạn, cho nên các Bồ Tát có trí tuệ
cần phải thấu rõ hoàn toàn và cấp tốc diệt trừ đi.
2>- Vô (không) Điên Đảo Chuyển Biến
Tùy Pháp Chánh
Hạnh:
a)- Liệt
Kê Mười Tên Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Trí thấy nơi văn, nghĩa (cảnh giới), tác ý, và
bất động, hai tướng, nhiễm, tịnh, khách, không sợ, cao không đảo.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Vô Điên
Đảo Chuyển Biến Tùy Pháp Chánh Hạnh. Vô Đên Đảo Chuyển Biến Tùy
Pháp Chánh Hạnh nghĩa là Chánh Hạnh không điên đảo chuyển biến theo
pháp. Không Điên Đảo liệt kê tiêu biểu có mười thứ tên. Mười thứ
tên không điên đảo là: 1- Nơi văn không điên đảo, 2- Nơi nghĩa không
điên đảo, 3- Nơi tác ý không điên đảo, 4- Nơi bất động không điên
đảo, 5- Nơi tự tướng không điên đảo, 6- Nơi cộng tướng không điên
đảo, 7- Nơi nhiễm tịnh không điên đảo, 8- Nơi khách không điên đảo, 9-
Nơi không sợ không điên đảo, 10- Nơi không cao không điên đảo. Thứ
năm và thứ sáu của mười thứ không điên đảo đây là chỉ cho hai
tướng không điên đảo. Hai tướng không điên đảo của thứ năm và của
thứ sáu trong bài Tụng được mở bày thêm cho nên thành mười thứ. Văn
không điên đảo nghĩa là thấy không điên đảo. Thấy không điên đảo
chính là nương nơi Trí để thấy, chỗ gọi là biết văn biết
nghĩa..v..v...... Nương nơi Trí để thấy hoặc có chỗ dùng phổ thông, hoặc
có chỗ dùng riêng biệt, như có chỗ đích thực là thấy mà không phải
Trí, có chỗ đích thực là Trí mà không phải thấy..v..v......, tức là
nó có chỗ sai biệt.
b)- Giải Thích Nghĩa Mười
Tên Không Điên Đảo:
*1- Nơi Văn
Không Điên Bảo:
Bài Tụng:
“Biết chỉ do tương ưng, xuyên suốt luyện tập hoặc vượt qua đây,
có nghĩa hoặc không phải có, là nơi văn không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây chính là giải nghĩa nơi
văn không điên đảo trong mười thứ không điên đảo. Tương ưng nghĩa là
tùy thuận thông suốt trật tự thứ lớp trước sau của văn tự, đem nó
ra rõ ràng không có gián đoạn; như làm một bài văn, hoặc giảng một
đoạn ngôn ngữ, nghĩa thì có thứ lớp trước sau tương tục liên đới
thông suốt, tức là tương ưng. Nói xuyên suốt luyện tập, nghĩa là đem
văn tự luôn luôn luyện tập thành thông thạo xuyên suốt, như có thể
làm văn và không thể làm văn. Có thể làm văn nghĩa là trên lý thì
rõ ràng giống nhau một việc không sai trái, có thứ tự không hỗn tạp, thanh nhã mà
giản dị hay khéo, đó là văn có ý nghĩa. Không thể làm văn, nghĩa là
lối văn thô cứng sanh ra khó hiểu, tức là vì thói quen chỗ không
thói quen, đó là văn không có ý nghĩa. Nó trật tự thông suốt thanh
nhã thuần thục đây tức là văn có ý nghĩa có thể hiểu rõ được gọi là văn không
điên đảo.
*2- Nơi Nghĩa (cảnh giới hai thủ) Không Điên
Đảo:
Bài Tụng:
“Tương tợ hai tánh hiển hiện, như hiện thật không phải có,
biết lìa khỏi có không phải có, là nơi nghĩa không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Tương tợ hai tánh hiển hiện, nghĩa
là có tâm năng thủ tương tợ và cảnh sở thủ tương tợ, hai hiển hiện
đây đều là hư vọng phân biệt, tìm cầu thể tánh thật tại của nó thì
không chỗ nào có cả. Tâm đã không nắm bắt được và Cảnh cũng không
có chỗ nắm bắt được, nên gọi là: Như hiện thật không phải có.
Biết lìa khỏi chấp có không phải có đây nghĩa là biết rõ hai thủ
năng và sở chỉ là hư vọng phân biệt, không có thật thể, nhờ đó lìa
khỏi sự chấp có; nhưng cả hai không phải là không có tướng hiển
hiện của hư vọng phân biệt, nhờ đó lìa khỏi sự chấp không phải có.
Do bởi lìa khỏi chấp có và chấp không phải có, cho nên có thể rõ
thấu thật tướng Trung Đạo của Đại Thừa.
Xét ra nơi văn không điên đảo ở
trước và nơi nghĩa không điên đảo chỗ đây chính là năm Pháp Tướng (Năm Pháp Tướng: sắn, thinh, hương, vị,
xúc) phối hợp gắn liền với danh tướng phân biệt..v..v....... Nơi
văn không điên đảo chính là nơi Danh trong năm pháp không điên đảo.
Nơi nghĩa không điên đảo chính là phân biệt không điên đảo nơi trong
năm pháp Tướng; chữ Tướng đây tức là chỉ cho các thứ Tướng của
năng thủ và sở thủ; chữ Phân Biệt đây tức là chỉ cho các thứ hư
vọng phân biệt, có thể biết nghĩa đây tức là lìa khỏi các thứ chấp
trước, cho nên gọi nơi nghĩa không điên đảo.
*3- Tác Ý
Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Nơi tác ý không điên đảo, biết kia
nói huân tập, nói tác ý nơi kia, vì hiện ra tương tợ hai nhân.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Tác Ý
không điên đảo. Biết kia nói huân tập, nghĩa là dùng trí để rõ biết
ngôn ngữ của hai thủ Năng và Sở kia do tưởng tượng huân tập. Do có
ngôn ngữ tưởng tượng huân tập thì có thể tạo thành các thứ nhân
tố của danh ngôn; nhân tố của danh ngôn nơi phổ thông gọi là chủng
tử, nhưng trong đây gọi là Tác Ý. Tác Ý
là chỗ nương tựa sanh khởi của
Năng Thủ và Sở Thủ kia, cho nên gọi là nương nơi kia. Chỉ nói tác ý
là tại sao làm chỗ nương tựa nơi kia? Do nói tác ý tức là thông
thường chỗ gọi tập khí hý luận, do tập khí này huân tập nơi A lại Da
để làm nhân tương lai của tướng nhị thủ sanh khởi; nhờ khả năng hiểu
rõ lời nói tác ý, cho nên có thể điều khiển trừ khử các thứ tập
khí hý luận. Nếu như không lìa khỏi tập khí hý lận của Tác Ý, mặc
dù ở nơi giáo pháp nhưng cũng sanh khởi sự phân biệt của Năng Thủ
và Sở Thủ. Cho nên tu theo Pháp Hạnh thì chỗ cần yếu là trừ khử sự
phân biệt của hý luận đây; như Kinh Kim Cang nói rằng: “Pháp còn nên
xả hà huống là phi pháp”? Đây chính là nói nơi Phật Pháp khi đang phát
khởi tác ý, liền lập tức thấu suốt pháp tánh lìa ngôn ngữ thì lúc
đó các thứ phân biệt hý luận không còn tăng trưởng trở lại.
*4- Bất Động Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Nơi bất động không điên đảo, gọi là biết nghĩa không phải
có, không phải không như huyển đẳng, vì có và không bất động.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích bất
động không điên đảo. Bất Động nghĩa là khả năng khéo léo phân biệt
các pháp mà không bị động nơi các pháp; như Kinh Kim Cang nói rằng:
“Không thủ nơi tướng, như như bất động”, tức là cùng trong chỗ đây ý
nói bất động gần nhau. Nguyên do trong chỗ đây giải thích bất động
nghĩa là chỉ cho khéo léo biết rõ nghĩa và văn mà trước đã nói đều là
như huyễn như hoá và đã lìa khỏi sự chấp trước không phải có của
chúng cho nên được tự tại gọn là bất động . Như huyễn như hoá chính
là dụ vì thế có sai biệt. Sự sai biệt đây gồm có, hoặc nói là:
sáu thứ, tám thứ, chín thư,ù mười thứ. Nói sáu thứ là: như Kinh Kim
Cang xưa dịch rằng: “Như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệt như điển.” Nói chín thứ là: như Kinh Kim Cang của
nhà Đường dịch. Nói mười thứ là: như Kinh Đại Bát Nhã. Nói tổng
quát là hiển bày các pháp đã không có và cũng không phải không
có. Vấn đề đây có thể dẫn đến sanh nghi hoặc, nhân vì đã là có thì
phải không phải không, đã là không thì phải không phải có, là cái
gì không phải có lại không phải không? Đây chính là chỉ cho vấn đề
Như Huyễn và dựa theo đó giả hiện con ngựa, con quạ cũng có thể bay,
cũng có thể chạy, nhưng kỳ thật chúng nó không có, cho nên gọi
không phải có; tuy nhiên chúng nó mặc dù không thật thể, chỉ có
giả tướng có thể thấy được, nên gọi là không phải không. Như thế
từ nghĩa này mà suy nghiệm ra nơi tất cả vũ trụ vạn hữu cũng đều
là như thế, nghĩa là năng thủ sở thủ không có chân thật nên gọi
là không phải có, nhưng năng thủ sở thủ sở dĩ có là do loạn Thức
hiển hiện, cho nên gọi là không phải không. Đã hiểu được nghĩa này
thì có thể biết rõ tất cả pháp tướng đều là như huyễn như hoá
không phải có mà cũng không phải không, nghĩa là không phải hoàn
toàn không chỗ biến động và không phải hoàn toàn có chỗ biến động.
Nhưng còn thứ bất động (không bị
động) đây chỉ trụ nơi một cảnh, nghĩa là khi dùng tu định có thể
khiến tâm dừng nơi một cảnh và trước sau duy nhất chuyên chú tương
tục! Bất động còn có nghĩa khác nữa là có thể thông đạt bản lai
thật tướng của nhân vật vũ trụ, như như tương ưng, không có tính
toán, không xoay chuyển về hướng không, không bị động nơi nhị biên,
cho nên gọi là bất động. Đã chấp có chính là cộng thêm chủ quan,
đã chấp không cũng chính là chủ quan bị diệt, cả hai đều không thì hạp
với chân tướng của khách quan; chân tướng hạp với khách quan chính
là không phải có không phải không, như huyễn như hoá. Chữ Đẳng trong
bài Tụng chính là chỉ cho lửa mặt trời, cảnh mộng, mặt trăng dưới
nước,..v..v.......
*5- Tự Tướng Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Nơi tự tướng không điên đảo, biết tất cả chỉ có tên, lìa tất
cả phân biệt, nương nơi tự tướng thắng nghĩa.”
Giải Nghĩa:
Tất cả pháp không ra ngoài tự tướng
và cộng tướng; Tự Tướng đây chính là chỉ cho mỗi đơn vị tự thể của
cá thể tất cả pháp; Cộng Tướng đây chính là chỉ cho tướng của cộng
đồng thông suốt tất cả pháp. Hai tướng đây nói nghĩa rộng là ở
trong cộng tướng cũng có trùng trùng tự tướng, ở trong tự tướng
cũng có các thứ cộng tướng. Như sắc uẩn là cộng tướng của năm
uẩn, mà trong sắc uẩn lại có mỗi cá thể tự tướng sắc, thinh,
hương..v..v...... sáu trần và năm căn; ở đây được gọi là tự tướng
của sắc trần gồm có hiển sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, gồm có hình
sắc như dài, ngắn, vuông, tròn..v..v...... Thế thì sắc trần lại trở
thành cộng tướng và xanh, vàng..v..v...... mỗi thứ trở thành tự
tướng; còn ở nơi tự tướng của xanh, vàng..v..v......đây vẫn có thể
thành là cộng tướng, như một mảnh màu xanh lá cây phân tích thì có
rất nhiều cực vi hợp thành, như thế rất nhiều cực vi màu xanh là chỉ
cho tự tướng, mà màu xanh của lá cây là chỉ cho cộng tướng. Cho nên
tất cả pháp do chuyển biến các thành phần để hợp thành, trong đó
đều có tự tướng và cộng tướng. Nhưng tự tướng, cộng tướng có chỗ
thì có ý nghĩa đặc biệt, như trong đó tự tướng đã nói đến tức là
chỉ cho pháp có tự thể. Cái gì bảo là có thự thể? Chính là mỗi
chủng tử các pháp tự dựa vào chủng tử nhân mà mượn các duyên để
sanh khởi. Căn cứ nơi các pháp Y Tha Duyên sanh mà nói đều có tự
thể, như Nhãn Thức khi sanh khởi phải nương từ chủng tử và mượn chín
duyên như ánh sáng, không,..v..v...... mới có thể sanh khởi; chủng tử
của Nhãn Thức chính là nhân, ngoài ra đều là các duyên, các pháp
nhờ đây mới sanh khởi; như thế Nhãn Thức chính là pháp có tự thể; còn
ánh sáng của Nhãn Thức suy cùng cho đến các pháp tâm sắc đều không
có tự thể; riêng cộng tướng thì liền ở trên tự thể có pháp tự
tướng, như nói tự tướng Nhãn Thức..v..v..... kỳ thật sự sanh diệt trên
Nhãn Thức..v..v.... chính là cộng tướng của nó mà không phải là tự
tướng. Lại nữa như con người là tự tướng, các hiện tượng sanh lão
bệnh tử chính là cộng tướng của con người. Thứ cộng tướng trên tự
tướng đây, đều là chỉ ở nơi phần vị tương đối mà giảng giải. Cộng
tướng thì không có chủng tử, không giống pháp tự tướng có chủng tử
trong tự thể. Nơi tự tướng không điên đảo, tức là nói rằng: tất cả
pháp do nhân duyên sanh ra, biết rõ phần vị của chúng chỉ là giả danh
và giả lập cho là pháp này pháp kia; tự thể thật tại của chúng thì
ở ngoài phân biệt lìa ngôn ngữ, nếu dùng danh ngôn phân biệt thì
không thể thông đạt được tự tướng của chúng, cho nên gọi tự thể
thật tại của tất cả pháp là lìa tất cả phân biệt. Chúng ta không
thể nói được tự tướng của thắng nghĩa! Chính là tự tướng năm trần
sở thủ của năm Thức Trước, cũng là lìa nơi tuỳ niệm phân biệt tính
toán so lường. Như nói Nhãn Thức có thể phân biệt sắc cảnh..v..v....
chỗ gọi sắc cảnh đây chẳng qua là một thứ khái niệm mà thôi, cả
đến tự tướng của sắc pháp thì không thể phân biệt. Cho nên nói tự
tướng thắng nghĩa của các pháp chính là Tánh Cảnh hiện lượng, không
phải chỗ danh ngôn có thể phân biệt được; lẽ tất nhiên sau khi
chứng được Sơ Địa, nhờ căn bản trí dẫn khởi Hậu Đắc Trí thì lúc đó
Hậu Đắc Trí mới có thể sanh khởi hiện lượng nơi Tánh Cảnh. Ngoài ra
như kẻ tu định, nơi cảnh định cũng có thể sanh khởi hiện lượng nơi
Tánh Cảnh. Như Thiền Tông Trung Quốc liền nương nơi cảnh hiện lượng
của ly danh ngôn phân biệt, ở trong từng sát na sát na dần dần hoàn
toàn tương ưng thuần túy hoà hợp giác cảnh thanh tịnh tương đồng của
chư Phật, chẳng qua ở nơi tâm phàm phu chỉ có một sát na, mà không
thể biết rõ tương ưng thời gian dài. Muốn được tương ưng thời gian
dài, tất nhiên phải tu các thứ không quán, trừ bỏ tập khí phân
biệt, mà dẫn khởi trí vô phân biệt, lúc bấy giờ mới có thể cùng
tự tướng ly ngôn tương ưng, đây là điểm đặc thù tối thiết yếu của
Pháp Tướng Duy Thức. Do tự tướng ly ngôn, học phái Không Tông thì
không nói, chỉ Pháp Tướng Duy Thức thì nói thấu triệt được, cho nên
gọi là Các Pháp Duy Thức Sở Hiện. Khả năng hiểu rõ nghĩa đây tức
là có thể rõ thấu các pháp như huyễn như hoá không phải có không
phải không, lìa khỏi sự lỗi lầm chấp trước tất cả, nhờ chứng nhận
được tự tướng thắng nghĩa.
*6- Cộng Tướng Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Do lìa chân pháp giới, không riêng có một pháp, vì thông đạt
thứ đây, nơi cộng tướng không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Trong đây chỗ nói cộng tướng cũng
không phải là cộng tướng bình thường chỗ đề cập đến, mà chính là
cộng tướng thắng nghĩa của ly ngôn. Cộng tướng thắng nghĩa đây, có
chỗ gọi là Nhất Chân Pháp Giới, có chỗ gọi là Nhị Không Chân Như,
có chỗ gọi là Nhị Vô Ngã Tánh. Không luận là pháp gì đều không lìa
khỏi tánh không này để riêng có tự thể bên ngoài, không luận
nhiễm tịnh, không luận sắc tâm..v..v...... ngoài ra đều không lìa khỏi
pháp giới này, cho nên Chân Như Pháp Giới là cộng tướng của tất cả
pháp chân chánh. Mặc dù thường nói cộng tướng của sanh diệt là
pháp, mà chỉ quan hệ nơi hữu vi, còn cộng tướng thắng nghĩa thường
trụ..v..v...... thì lại chỉ quan hệ nơi vô vi, cho nên trừ cộng tướng
thắng nghĩa đây không có cộng tướng của các pháp chân chánh thứ
hai.
*7-
Nhiễm Tịnh Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Biết tác ý điên đảo, chưa diệt và đã diệt, nơi pháp giới
tạp nhiễm, thanh tịnh không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây bao quát hai ý nghĩa
trọng yếu: chính là tạp nhiễm và thanh tịnh; suy cứu nguồn gốc của
tạp nhiễm này và trở lại tìm tòi căn nguyên của tác ý điên đảo.
Căn nguyên của tác ý điên đảo là do tâm tác ý sanh khởi liền phát
động tâm và tâm sở. Nếu là tập khí danh ngôn chính là tác ý danh
ngôn, nếu là tập khí pháp Đại Thừa chính là tác ý pháp Đại Thừa.
Hiện tại tác ý điên đảo trong đây là gì? Chính là
Tập
khí điên đảo tạp nhiễm có từ vô thỉ đến nay do phân biệt điên đảo
nội kết tạo thành. Tập khí điên đảo tạp nhiễm này làm nhân tố
phát động tâm điên đảo tương lai; tác ý điên đảo đây nếu không thể
diệt thì pháp giới chân như lúc bấy giờ chính là tạp nhiễm. Nếu như
tác ý điên đảo đã diệt thì pháp giới chân như lúc bấy giờ chính là
thanh tịnh. Một lần nữa nên biết tác ý điên đảo chưa diệt thì nơi
pháp giới trở thành tạp nhiễm, còn
tác ý điên đảo đã diệt thì nơi pháp giới trở thành thanh tịnh.
*8- Nơi Khách Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Biết bản tánh pháp giới, thanh tịnh như hư không, nên nhiễm
tịnh không phải chủ, là nơi khách không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là căn cứ từ trên
bản tánh chân như mà hiển bày sáng tỏ nguyên lý thanh tịnh không điên
đảo. Đúng ra trên bản tánh chân như thì không khác nhau với hư không,
không có chuyển biến nhiễm tịnh. Nhân
vì khách trần phiền não làm chướng ngại ngăn che cho nên gọi là
nhiễm và khách trần phiền não đã bị loại bỏ cho nên gọi là tịnh.
Thứ chuyển biến đây hoàn toàn là ở nơi khách trần mà không phải ở
nơi chân như và pháp giới chân như vĩnh viễn là thanh tịnh như thế. Dụ
như tự thể của nước là một thứ thanh tịnh không khác, còn nhiễm đây
là rất nhiều đất bùn hổn tạp nằm trong nước. Nhờ thí dụ này biết
được pháp giới chân như cũng là giống nhau một thứ tự thể của nước.
*9- Nơi Sợ Hãi Không Điên Đảo:
Bài Tụng:
“Không vì pháp hữu tình, tánh nhiễm tịnh đều không, biết đây
không sợ hãi cao độ, là nơi hai không điên đảo.”
Giải Nghĩa:
Tụng nói hữu tình đây chính là chỉ
cho Bổ Đặc Già La và pháp đây chính là chỉ cho Đạt Ma. Nếu có thể
đối với nhơn pháp, ngã pháp đây biết rõ đạo lý là hoàn toàn không
thật thể, thì có thể thông đạt được tất cả pháp đều không thật
thể. Tất cả pháp đều là giả lập danh tướng, chẳng qua danh từ được
kiến lập trên khái niệm mà thôi, không có mảy may thật thể để đạt
được. Nhân đây tánh tạp nhiễm và thanh tịnh được kiến lập trên các
pháp cũng hoàn toàn không thể đạt được, nguyên do nhiễm tịnh được
kiến lập chính là căn cứ nơi các pháp mà các pháp đã là không thì
nhiễm tịnh làm gì có? Như nói Phật sanh đều là không, sao lại có
Phật sanh? Cho nên thấy tất cả pháp đều là không và chỗ thấy đây
chỉ là tánh không bình đẳng, như Kinh Kim Cang nói rằng: “Là pháp bình
đẳng không có cao thấp.” Tuy nhiên Đại Thừa Bồ Tát Hạnh nói rằng,
không thấy chúng sanh để độ, cũng không thấy Bồ Tát thường hay độ,
tu Bồ Tát Hạnh như huyễn, độ chúng sanh như huyễn, chứng Phật Quả như
huyễn; nhờ thấy tất cả là như huyễn, mặc dù thấy công đức rộng
lớn của Phật cũng không sanh tâm hoảng sợ, mặc dù thấy công đức
nhỏ bé của tất cả chúng sanh cũng không sanh tâm kiêu mạn. Sở dĩ
nó không sợ hãi tức là vì đã thông đạt cuối cùng tánh không vô
ngã.
*10- Tụng Không Điên Đão:
Giải Nghĩa:
Bài Tụng thứ mười không điên đảo
ở nơi Luận này riêng an lập là mười câu Kim Cang, như trong Luận đã
giải thích đầy đủ. Lại nữa dẫn một bài Tụng trong Bảo Tích nói
rằng: “Loạn cảnh tự tánh nhân, không loạn tự tánh cảnh, hai quả
loạn và không loạn, và hai bờ mé kia.” An lập mười thể không điên
đảo được phân tích như sau:
Loạn Cảnh Văn Loạn Nhân Tác Ý Loạn Tự Tánh Nghĩa
Trí Gia Hạnh Bất Động Hai Bờ Mé Kia Không Sợ Hãi Hai Quả Loạn Không Loạn Khách Trần Nhiễm Tịnh Không Loạn
Không Loạn Tự Tánh Không Loạn Cảnh Không Kiêu Mạn Cộng Tướng Tự Tướng
Loạn Quả trong đây tức là tạp
nhiễm, không loạn quả tức là thanh tịnh, đó chính là chỉ cho thể
nhiễm tịnh và nhiễm tịnh cũng là khách trần. Hai quả bờ mé kia gọi
là hữu tình và niết bàn đều là không bờ mé, cho nên không sợ hãi
và không kiêu mạn.
b/2- Chánh Hạnh Lìa Nhị Biên:
Bài Tụng:
“Dị tánh và nhất tánh, ngoại đạo và Thinh Văn, bên tăng ích
và tổn giảm, pháp hữu tình mỗi mỗi có hai. Sở tri và năng tri, thường
trụ cùng đoạn diệt, bên sở thủ và năng thủ, ba thứ hai nhiễm tịnh.
Nhị biên (hai
bên)
tánh phân biệt, nên biết lại có bảy: gọi là bên có và không phải
có, năng và sở vắng lặng, lo sợ, sở năng thủ, chánh tà, hữu dụng
và vô dụng, không khởi và thời gian giống nhau, là nhị biên phân
biệt.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây đều là hiển bày nghĩa
nhị biên (hai bên). Nơi bốn câu
Tụng thứ nhất chính là hiển bày bốn thứ nhị biên. Dị tánh là khác
tánh và nhất tánh là một tánh; dị tánh và nhất tánh đây là chỉ sự
chấp ngã, so sánh cho cùng thì khác thể và một thể của Ngũ Uẩn: như
chấp trước có ngã, nghĩa là nơi sắc uẩn của ngũ uẩn chấp trước sắc
thân thuộc hình sắc vật chất biến hiện ngăn ngại cho là ngã, khi
chết sắc thân liền bị tiêu diệt thì ngã cũng bị tiêu diệt theo. Còn
chấp trước cho thật ngã trường cữu thì sắc thân cùng với ngã khác
nhau nên gọi là dị tánh (khác tánh).
Lại nữa hoặc chấp sắc thân là thật ngã thì ngã cùng sắc uẩn đồng
một thể, nghĩa là trong đây không tính toán cho rằng ngoài ngũ uẩn ra
có ngã thể riêng biệt. Như chấp ngã với sắc uẩn cho là cùng một
tánh hoặc khác tánh thì như thế đối với bốn uẫn còn lại cũng sanh
khởi sự chấp trước giống như trên cũng là một tánh hoặc khác tánh;
khác tánh gọi là một bên và một tánh gọi là một bên, lìa khỏi hai
bên này chính là thấu rõ nghĩa Trung Đạo của không phải một không
phải khác và cũng tức là hiển bày ngã thể của ngũ uẩn đều không
có cá thể thật tại. Như vậy có cái nào là một là khác có thể
chấp? Sở dĩ chấp thật ngã đây, tức là chấp có một thứ khác và
nếu chấp vô ngã tức là chấp không có một thứ khác. Lại nữa, hai
bên của ngoại đạo và Thinh Văn đều chấp trước, ngoại đạo thì chấp
thường trụ, Thinh Văn thì chấp vô thường; ngoại đạo cho là vật
chất..v..v...... có bản thể thật tại trường trụ tối cao, như Thuận
Thế Ngoại Đạo chấp cực vi là thường tại, Số Luận thì chấp tự tánh
các pháp của sắc..v..v...... là thường tại, Phật Pháp đả phá thường
kiến của ngoại đạo và thế gian này mà nói vô thường; Tiểu Thừa
Thinh Văn lại chấp cho là tất cả các pháp mới sanh liền diệt, quyết
định vô thường. Nguyên do mặc dù Phật Pháp căn cứ từ nơi nhân duyên
sanh diệt mà nói vô thường, nhưng thực tế các pháp lại thường xuyên
lúc nào cũng tương tục, không phải thường không phải đoạn, cho nên
ngoại trừ chấp một bên thường và vô thường thì mới sáng tỏ được
lý Trung Đạo không thường mà cũng không đoạn. Tiếp theo, bên tăng
ích và tổn giảm đây, nghĩa là hữu tình và pháp đều có hai thứ, hữu tình
là chỉ cho Bổ Đặc Già La và pháp là chỉ cho các pháp, hữu tình và
pháp đều có hai thứ, mỗi thứ đều có hai bên tăng và giảm. Hai bên của
hữu tình đây như từ nơi pháp hữu tình quyết định chấp có cái thật
ngã thì trở thành bên tăng ích; từ nơi hữu tình mãi mãi chấp trước
ba đời tương tục cũng đều không thì trở thành bên tổn giảm. Còn hai
bên nơi pháp đây, nghĩa là ở nơi pháp chấp trước tâm và tâm sở
pháp..v..v...... đều có thật thể, như Tiểu Thừa và Nhứt Thiết Hữu
Bộ thì giống nhau cả hai chấp trước rằng tất cả các pháp đều có
thật thể, cho đến hai đời quá khứ và vị lai cũng đều thật có, như
thế thì trở thành bên tăng ích; ngược lại, chấp tất cả các pháp
đều không chỗ nào có cả thì trở thành bên tổn giảm. Do tất cả
pháp mặc dù không phải thật có mà có đây là do nhân duyên huyễn
hiện. Bài Kệ Tụng là trình bày rõ bốn lớp biên chấp (chấp một bên). Chấp năm uẩn cùng
với ngã là một và khác, đó là một lớp biên chấp, chấp
sắc..v..v...... thường và vô thường là một lớp biên chấp, nơi hữu
tình phát khởi chấp tăng và giảm là một lớp biên chấp, nơi pháp
phát khởi chấp tăng và giảm là một lớp biên chấp. Nếu có thể nơi
bốn lớp này quán sát không phải một không phải khác, không phải
thường không phải vô thường, không phải ngã không phải vô ngã,
không phải thật không phải không thật thì có thể lìa khỏi bốn lớp của
nhị biên (hai bên) để khế hợp
với Trung Đạo.
Sở trị và năng trị đây, Sở trị là
chỗ để đối trị, năng trị là công năng đối trị. Pháp tạp nhiễm là
sở trị, pháp thanh tịnh là năng trị, như bệnh là sở trị, thuốc là
năng trị. Trong đây sở trị chính là phiền não tạp nhiễm, năng trị
chính là tất cả thiện pháp; pháp năng trị sở trị đây đều là từ nhân
duyên sanh ra, đều là Không không có tự tánh. Sở dĩ trở thành tướng
sai biệt của sở trị và năng trị chính là quan hệ nơi nhân duyên đối đãi,
không thể chấp trước có thể tướng cố định của năng và sở, của
nhiễm và tịnh. Giả sử chấp sai biệt thật có thì trở thành chấp hai
bên (nhị biên). Thường trụ và
đoạn diệt đây là từ nơi hữu tình và nơi pháp mà thuyết minh, nếu như
nơi hữu tình hoặc nơi pháp chấp trước cho rằng có thể tánh thường
trụ cố định thì trở thành chấp trước bên thường trụ; nếu như nơi hữu
tình hoặc nơi pháp chấp trước cho rằng có thể tánh đoạn diệt cố định
thì trở thành chấp trước bên đoạn diệt. Nếu như ở nơi hai bên thường
và đoạn, dùng trí năng quán để quán sát, biết rõ hữu tình và pháp
mặc dù sanh diệt vô thường nhưng lại tương tục không gián đoạn, mặc
dù tương tục không gián đoạn nhưng lại sanh diệt vô thường, giống như
Duy Thức đã trình bày nghĩa chủng tử và hiện hành tương tục thì trái
với hai bên thường và đoạn. Bên sở thủ và năng thủ đây, chính là chỉ
cho nơi vô minh có hai bên năng thủ và sở thủ; nơi ánh sáng của
năng lực đối trị cũng có hai bên năng thủ và sở thủ; như nơi vô
minh có các hành sở thủ thì vô minh đây tức là năng thủ và
hành..v..v...... tức là sở thủ; lại
nữa như vô minh diệt thì
hành..v..v...... cũng diệt; trí của công năng diệt thì năng thủ và
hành..v..v......của sở thủ cũng diệt theo. Từ nơi vô minh thường lệ
suy tìm thì thành ra mười hai chi, không luận lưu chuyển hay hoàn diệt,
không luận nhiễm ô hay thanh tịnh, đều có hai bên (nhị biên); lìa khỏi hai bên đây rõ ràng là hành Trung
Đạo, tức là chúng ở nơi Tâm Kinh đã nói: “Vô vô minh diệc vô vô
minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.” (không vô minh cũng không vô minh tận, cho đến không lão tử
cũng không lão tử tận). Đây chính là nghĩa Trung Đạo cứu cánh
của Tánh Không bình đẳng không phân biệt. Ba thứ hai nhiễm tịnh đây
chính là hai loại pháp nhiễm và pháp tịnh đều có ba thứ. Ba thứ pháp
nhiễm gồm có: 1- phiền não tạp nhiễm, 2- nghiệp tạp nhiễm, 3- sanh
tạp nhiễm. Ba thứ tạp nhiễm đây nơi thông thường gọi là Hoặc Nghiệp
và Khổ. Ở trong Hoặc lại có mỗi mỗi các kiến chấp, mỗi mỗi ba độc
tham sân si và nguyện sau khi sanh có được ước muốn. Đối trị đây chính
là ba môn giải thoát: 1- Môn giải thoát không, 2- Môn giải thoát vô
tướng, 3- Môn giải thoát vô nguyện. Không tức là không quán, nhờ
không quán có thể đối trị các thứ kiến chấp; nhờ quán vô tướng có
thể đối trị tướng phân biệt mà không khởi ba độc tham sân si; nhờ
quán vô nguyện có thể đối trị nguyện có được ước muốn. Vì có các
thứ kiến chấp, có tam độc sanh khởi và có nguyện được ước muốn, cho
nên sau khi sanh khiến sanh tử không dứt. Ở trong nghiệp tạp nhiễm
đây chính là chỉ cho các nghiệp thiện ác của chỗ tạo tác. có thể
đối trị nghiệp này là khi dùng trí không tạo tác để quán sát tất cả
pháp không thể tạo tác và cũng không có nghiệp của chỗ tạo tác,
nghĩa là quán sát chỗ có thể tạo tác đều là không. Nơi trong sanh
tạp nhiễm lại có ba thứ: 1- Kiếp sau có ngôi vị sơ sanh, 2- Ngôi vị
đã sanh tâm và tâm sở tương tục, 3- Kiếp sau có ngôi vị tương tục
của sanh sanh tử tử. Ba thứ công năng đối trị đây là có ba thứ trí:
1- vô sanh trí, 2- vô khởi trí, 3- vô tự tánh trí, nghĩa là chứng đặng
quả La Hán thì không thọ sanh trở lại kiếp sau, không có sanh trở
lại tức là không có chỗ để sanh, lại không chỗ khởi tức là không
có chỗ để phát khởi, chính là chỉ cho không, không có tự tánh. Như
thế đối trị ba thứ tạp nhiễm tức là chuyển thành ba thứ thanh tịnh.
Nhưng giả sử ở nơi pháp nhiễm tịnh này, người chấp trước nếu là
nhiễm thì thuộc về định nhiễm, nếu là tịnh thì thuộc về định tịnh, tức
là trở thành chấp hai bên (nhị
biên). Nên ở nơi các pháp nhiễm tịnh này biết rõ tánh không nhị
biên đều bình đẳng và tánh không đây cũng không phải do đối trị mới
kết thành, chính là biết rõ bản tánh của tánh không nhị biên vốn là
không. Thấu rõ nghĩa này liền có thể không chấp hai bên mà khế hợp
được với nghĩa của Tâm Kinh đã nói: không khổ tập diệt đạo. Không
nhiễm trong đây chính là không khổ không tập, không tịnh trong đây
chính là không diệt không đạo.
Lại nữa tiếp tục giải thích hai bài
Tụng phía sau. Hai bên (nhị biên) tánh
phân biệt đây nghĩa là phân biệt chấp trước nghĩa thật tánh của hai
bên, chấp trước nghĩa thật tánh của hai bên gồm có bảy thứ. Căn
cứ
từ
nơi tâm cảnh tu chứng của Bồ Tát Địa mà trình bày bảy thứ nghĩa thật
tánh của hai bên:
1)- Bên có không phải có, nghĩa là
chấp trước Bổ Đặc Già La hoặc các pháp chính là lạc vào hai bên
hoặc có hoặc không phải có. Nguyên vì Bổ Đặc Già La và các pháp
đều bị hoại diệt cho nên mới an lập Tánh Không. Ngã (Bổ Đặc Già La) và pháp đã không thật tại thì làm gì bị
hoại diệt? Cho nên năng diệt sở diệt nhất định phải có thật. Hơn
nữa có một loại chấp cho là không có hữu tình và pháp, vì tánh
chân như cũng đều không phải có, đây là hai lối chấp một bên có
và không của Bồ Tát Thông Trị Địa Tiền.
2)- Năng và sở bên vắng lặng cũng giống
như sở trị và năng trị; sở trị tức là chỉ cho phiền não sanh tử; năng
trị tức là chỉ cho bồ đề niết bàn. Nếu chấp sở và năng thật có
vắng lặng tức là chấp hai bên, nếu có thể hiểu rõ sở và năng cả
hai đều tánh không thì thật thể đối lập cũng không khác; Nhị Thừa
thì chấp một bên chọn lấy đối trị sanh tử niết bàn cho là có thật.
3)- Hai bên Bố Úy (Khiếp Sợ), chữ Bố là căn cứ nơi pháp biến kế sở chấp
mà trình bày, như sáng sớm thấy giây thừng ngộ nhận cho là con rắn,
hoảng hốt sanh hoảng sợ; chữ Úy là do vọng chấp sanh khởi Hoặc Nghiệp
để chiêu cảm quả báo mà trình bày, như xưa kia có một hoạ sư, tự
mình ở trong nhà lớn hoạ một con quỹ Dạ Xoa, có một đêm nọ đi uống
rượu, khi trở về nhà nhìn thấy con quỹ Dạ Xoa, hoạ sư lại hốt hoảng không dám vào nhà, đây
chính là nơi vọng chấp sanh khiếp sợ trên Nghiệp quả. Như thế chúng
ta khởi Hoặc tạo Nghiệp, cảm quả thọ Khổ đều không ra khỏi hai bên
của Bố và Úy này. Hôm nay chữ Bố
trong đây chính là căn cứ nơi Nhân mà trình bày, tức là nơi tâm sanh
khởi vọng chấp; chữ Úy tức là căn cứ nơi quả mà trình bày, tức là
nghiệp đã chín mùi nên sợ khổ. Đây rõ ràng là nhân quả đều do tự
tạo tác, Bồ Tát vì vọng chấp cho nên rất sợ nhân bố và quả úy.
4)- Hai bên sở thủ và năng thủ, sở
thủ chính là chỉ cho cảnh, năng thủ chính là chỉ cho tâm, hai chấp
trước đây tự có thể chất hai bên. Rõ biết Cảnh Sở Thủ đều là không
do đó lìa khỏi Tâm Năng Thủ và ngoài Cảnh Sở Thủ không có Tâm, cho
nên gọi là Duy Thức. Dụ như Huyễn Sự hiển bày các thứ huyễn tướng,
một tiệc rượu như huyễn cùng một mỹ nhân huyễn hiện, lại do huyễn
mỹ nhân huyễn hiện các thứ huyễn sự, đây tức là trong huyễn hiện
ra huyễn, cho nên không chỉ Sở Thủ là huyễn cho đến Thức năng biến
cũng là huyễn. Nếu có thể hiểu rõ vấn đề này thì có thể hiểu rõ
cái Không của hai Thủ. Từ bốn Gia Hạnh đây tâm đầu ý hợp với học
thuyết Không của hai Thủ.
5)- Hai bên Chánh Tà, đây là căn
cứ vào Như Thật Quán của Kiến Đạo ở trước mà trình bày. Như Thật
Quán mặc dù bản tánh không chân chánh, nhưng vì bản tánh vẫn thuận
theo chân chánh, do đó bản tánh cũng không gian tà, cho nên được gọi
là lìa khỏi hai bên tà chánh. Như nói hai thẻ cây cọ sát với nhau
sanh ra lửa đó là dụ, cây mặc dù không phải là lửa, nhưng có thể
cọ sát sanh ra lửa và lửa sanh ra có thể thiêu cháy cây thành tro
bụi. Nhờ Như Thật Quán mà được sáng tỏ mặc dù không phải chánh trí,
nhưng có thể phát sanh chánh trí và chánh trí phát sanh thì Như Thật
Quán biến mất.
6)- Hai bên hữu dụng và vô dụng.
Hữu dụng là có công dụng và vô dụng là không công dụng. Hữu dụng
và vô dụng là khi căn cứ vào kiến đạo phá chấp của Thánh trí mà
trình bày. Hữu dụng là lý do chấp công năng phá trừ chấp đoạn
phiền não, tất nhiên có công dụng của phân biệt. Vô dụng là lý do
chấp vô phân biệt, tất nhiên quyết định không công dụng. Ý của
không công dụng đây là nói tỷ như ngọn đèn điện khi mới mở điện,
ánh sáng liền sanh ra phá tan bóng tối, mặc dù điện không công dụng
phân biệt nhưng cũng có thể phá tan bóng tối.
7)- Hai bên không khởi và thời gian
giống nhau, đây đúng là ở nơi ngôi vị Bồ Tát tu đạo mà trình bày.
Bồ Tát tu đạo, hoặc chấp cho trí của năng đối trị vô minh có từ vô
thỉ mà chưa được phát khởi, do đó sau này cuối cùng cũng không phát khởi;
hoặc chấp cho phiền não đã có từ vô thỉ và trí của năng đối trị kia
cũng đã có từ vô thỉ, cho nên lẽ đương nhiên khi tu tập cũng đòi
hỏi phải trải qua thời gian lâu dài giống nhau với phiền não thì mới
được sanh khởi để trừ hết phiền não. Cả hai trường hợp vừa kể trên
cũng là vấn đề phân biệt chấp trước. Hai lối phân biệt chấp trước đây
một lần nữa đem thí dụ ngọn đèn để trình bày, như bóng tối trong nhà
đã trải qua ngàn năm và một khi ánh sáng ngọn đèm phát khởi liền
có thể trừ hết bóng tối ngay. Từ đó có thể xác định là không phải
cuối cùng không phát khởi và cũng không phải thời gian lâu mới trừ
hết phiền não. Tóm lại bảy thứ vừa
trình bày qua đều là phân biệt vi tế hai bên tâm cảnh của Bồ Tát,
cho nên Tụng nói rằng là hai biên phân biệt.
b/3- Chánh Hạnh Biệt Không
Biệt:
Bài Tụng:
“Sai biệt không sai biệt, nên biết nơi Thập Địa, mười Ba La Mật
Đa, tăng thượng đẳng tu tập.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là thuyết minh Bồ Tát
Thập Địa tu mười Ba La Mật Đa, có hai thứ tu Tăng Thượng và tu Bình
Đẳng; Tu Tăng Thượng chính là ở nơi Sơ Địa do chuyên tu bố thí làm
tăng thượng, Nhị Địa do chuyên tu trì giới làm tăng thượng, như thế suy
ra tức là chánh hạnh sai biệt. Tu Bình Đẳng đây là ở nơi mỗi trong
một Địa thông tu mười Ba La Mật Đa. Hai lối tu Tăng Thượng và Bình
Đẳng đã đề cập ở trên chính là Chánh Hạnh không sai biệt.
c/- Sở Duyên Vô Thượng:
Bài Tụng:
“Sở Duyên gọi là An, Giới, Sở, Năng Lập, Nhậm Trì, Ấn, Nội
Trì, Thông Đạt, Tăng, Chứng, Vận, Tối Thắng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây bao gồm mười hai thứ
Sở Duyên: 1, An Lập Pháp Thi Thiết Sở Duyên, nghĩa là an lập các
pháp Thánh và Phàm, nhiễm và tịnh, nhân và quả. 2, Pháp Giới Sở
Duyên, nghĩa là tánh không bình đẳng của pháp giới không có khả
năng an lập. 3, Sở Lập Sở Duyên, nghĩa là chỗ các pháp đã an lập.
4, Năng Lập Sở Duyên, nghĩa là mỗi mỗi các pháp nhiễm tịnh đều không
thể lìa khỏi tánh không và nhờ tánh không mà được thành tựu. Như
Bồ Tát Long Thọ nói rằng: “Do vì có nghĩa không, tất cả pháp được
thành.” 5, Nhậm Trì Sở Duyên, nghĩa là văn huệ do văn tự có thể giữ
gìn nghĩa. 6, Ấn Trì Sở Duyên, nghĩa là tư huệ do nghĩa tư duy có thể
giữ gìn dấu ấn của các pháp. 7, Nội Trì Sở Duyên, nghĩa là tu huệ do
định huệ tương ưng tâm cảnh giữ gìn bên trong. 8, Thông Đạt Sở Duyên,
nghĩa là khi chứng Sơ Địa do trí vô phân biệt thông đạt pháp giới. 9,
Tăng Trưởng Sở Duyên, nghĩa là từ Địa thứ hai đến Địa thứ sáu đều
là tăng tiến hướng thượng. 10, Phần Chứng Sở Duyên, nghĩa là Viễn
Hành Địa thứ bảy quán duyên khởi và hoàn diệt của thế gian và xuất
thế gian, đều chứng riêng biệt hiện tiền. 11, Đẳng Vận Sở Duyên,
nghĩa là trong Địa thứ tám có thể tha hồ vận hành tăng tiến không
mượn công dụng. 12, Tối Thắng Sở Duyên, nghĩa là Địa thứ chín, Địa
thứ mười và quả Phật đều cho là tối thắng vô thượng.
d/- Tu Chứng Vô Thượng:
Bài Tụng:
“Tu chứng gọi là vô khuyết, bất hủy, bất động, viên mãn,
khởi, kiên cố, điều nhu, không trụ, vô chướng, vô tức.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng này thuyết minh mười thứ
tu chứng: 1- Vô khuyết, nghĩa là không thiếu chủng tánh Đại Thừa
chính là thứ có khả năng phát khởi tu chứng. 2- Bất huỷ, nghĩa là
không hủy báng pháp Đại Thừa là thứ có khả năng nương tựa tu
chứng. 3- Bất động, nghĩa là thường phát khởi tâm rộng lớn độ tận tất
cả hữu tình, không vì chỗ thấp kém mà giao động. 4- Viên mãn, nghĩa
là siêng năng thường tu sáu Ba La Mật Đa. 5- Khởi, nghĩa là muốn
chứng nhập pháp tánh vô sanh thì phải phát khởi Gia Hạnh Thánh Đạo.
6- Kiên cố, nghĩa là siêng năng thường tu phước đức vô biên trong ba
Đại Kiếp, để kiên cố thiện căn. 7- Điều Nhu, nghĩa là mềm dẻo điều
phục ba nghiệp của mình và người..v..v..... 8- Không Trụ, nghĩa là
không trụ vào nơi hai bên Niết Bàn và sanh tử; nếu như trụ vào nơi
sanh tử thì trở lại hạng phàm phu, nếu như trụ vào nơi Niết Bàn thì
trở lại vào Nhị Thừa; nhờ không trụ mới được thành Bồ Tát Địa Bất
Thối Chuyển. 9- Vô chướng (không
chướng ngại), nghĩa là Bồ Tát đối trị hai chướng hoàn thành báo
thân Phật Pháp. 10- Vô Tức (không
đình chỉ), nghĩa là sau khi thành Phật thị hiện Hoá Thân không có
đình chỉ. Mười thứ như thế đều là nghĩa chỗ chứng đắc của Đại Thừa.
Giải thích đến đây là đã hoàn tất Đại Khoa thứ hai.
III.- PHẦN ĐÚC KẾT DANH NGHĨA HIỂN
BÀY
CỦA LUẬN:
Bài Tụng:
“Luận Biện Trung Biên này, nghĩa thậm thâm, kiên thật, rộng
lớn, tất cả nghĩa, trừ khử các thứ không kiết tường.”
Giải Nghĩa:
Bộ Luận đây thuyết minh nghĩa Trung
Đạo và nghĩa Nhị Biên (hai bên), nên
gọi là Biện Trung Biên, cũng tức là hiển bày Trung Đạo thích đáng
và trừ khử chấp một bên của nhị biên. Như ở trên cảnh sở duyên,
hoặc ở trên tâm hành đều thường hay dễ lạc vào một bên. Nếu có
thể thấu đạt được cảnh sở duyên là không phải có, không phải
không có, không phải không, không phải không không thì có thể khế
hợp được Trung Đạo mà dứt được nhị biên. Nếu có thể hiểu rõ Phật
thuyết các pháp vô thường vô ngã chính là đối trị được thường ngã
của ngoại Đạo chủ trương và cũng ở nơi thật hành có thể khế hợp
được Trung Đạo. Lại nữa ở nơi tu chứng nếu có thể hiểu rõ các nghĩa
hữu dụng vô dụng đã trình bày ở trước thì biết chính xác các thứ
tăng thượng không phải riêng dùng cho một pháp, như phá trừ bóng
tối không phải ban đầu và không phải sau cùng. Mặc dù sự thành
Phật không phải do có nhân chủng mới thành mà cũng không phải lìa
khỏi nhân chủng chuyển biến tăng thượng mới thành; hiểu rõ nghĩa
này thì không thiên về một bên ban đầu hay sau cùng mà lại khế hợp
với Trung Đạo. Nghĩa Thậm Thâm, chữ Thậm nghĩa là sâu thẩm không có
điểm cuối cùng, chữ Thâm nghĩa là tinh vi sâu kín, không thể phân
tích; Nghĩa Thậm Thâm chính là nghĩa Biện Trung Biên của Luận này phải
cần đến trí rất vi diệu mới có thể hiểu thấu, không phải trí thường
có thể biết được. Nghĩa kiên thật, chính là nghĩa biện minh của Luận
này chân thật kiên cố như kim cương, không bị người khác phá, nhờ đó
mới có thể phá trừ nghĩa dư thừa thô thiển. Nghĩa rộng lớn chính là chỗ
trọng yếu của Luận này ở nơi Đại Thừa. Tất cả nghĩa đây đích thực
là Luận này không chỉ chuyên thuyết minh Đại Thừa mà còn bao gồm cả
Nhị Thừa, không chỉ thuyết minh tu định hoặc các hành trì giới mà cũng
soi sáng các pháp cảnh và quả. Do kể một số loại nghĩa thù thắng,
đối với chỗ có tất cả vô minh phiền não, chỗ có các khổ chướng
ngại, tất cả sự việc đều không kiết tường, vì thế không thứ nào
là không trừ khử, cho nên gọi là trừ khử các thứ không kiết
tường.
Hiện tại tuy đã giảng giải hoàn
tất bộ Luận này, đây chính là bao gồm nghĩa của văn Tụng, nhưng chưa
phát huy đến chỗ cùng tận của nó, chẳng qua sử dụng ngôn ngữ so
sánh để hiển bày, đem nó ra lần lược thuyết minh mà thôi. Nếu như
phát tâm nghiên cứu, tốt nhất là có thể đem Bổn Tụng này đọc cho
thuần thục, lại sử dụng ký ức duy trì chỗ ý nghĩa thâm thúy của nó
rồi đi tham khảo các Luận Thích của Bồ Tát Thế Thân và Thuật Ký
của Pháp sư Khuy Cơ (Bích Tùng Ký) (Trùng Khánh Phật Học Xả ấn
hành).
Dịch
xong tại Tịnh Thất Viên Hạnh
ngày 19 tháng 8 dl năm 2015
MỤC LỤC
Trang
I.- PHẦN DUYÊN KHỞI:
a.- Tiểu sử phiên dịch của Luận.. ..... .. .. ..
............................... 5
b.- Tên Đầu Đề của Luận...
....................................................... 6
c.- Văn Tụng của Luận...............................................................
6
II.-
PHẦN LƯU THÔNG:
A.- THIẾT LẬP AN ĐỊNH THỂ CỦA LUẬN.......................... 7
B.- PHÂN BIỆT NGHĨA CỦA LUẬN.
1.- THÔNG SUỐT BIỆN TRUNG BIÊN................................. 8
A)- BIỆN MINH CẢNH.........................................................
8
1/-
Biện Minh Tướng:......................................................... 8
a)- Biện Minh Pháp Tướng................................. 8
a/1-
Biện Minh Tướng Trung Đạo............................ 8
a/2- Biện Minh Tự Tướng..........................................
10
a/3- Biện Minh Tướng Thâu Nhiếp...........................
12
a/4- Biện Minh Tướng Phương Tiện......................... 16
a/5- Biện Minh Tướng Dị Môn.................................
18
a/6- Biện Minh Tướng Sanh Khởi.............................
19
a/7- Biện Minh Tướng Tạp Nhiễm............................ 21
b)- Biện Minh Tánh Không................................. 26
b/1- Biện Minh Lý Do................................................ 26
b/2- Biện Minh Tướng Không..................................... 27
b/3- Biện Minh Pháp Môn Khác................................. 29
b/4- Tướng Nhiễm Tịnh...............................................
31
b/5- Tướng Sai Biệt......................................................
33
b/6- Biện Minh Chỗ Không..........................................38
b/7- Biện Minh Thành Lập...........................................
40
2/- Biện Minh Chướng:......................................................
41
a)-
Năm Chướng..............................................................
42
b)-
Chín Kết......................................................................44
c)-
Biệt Chướng:...............................................................47
c/1- Mười Thứ Chướng Thiện Pháp..............................47
c/2- Giác Phần Độ Địa Chướng:...................................54
c/1-
Tiêu Biểu Chung..................................................54
c/-2-
Giải Thích Riêng Biệt:.......................................55
1>- Giác Phần Chướng............................................55
2>- Mười Độ Chướng..............................................57
3>- Mười Địa Chướng….............................................
59
d)- Thông Báo Kết Thúc.................................................. 64
3/- Biện Minh Chân Thật:....................................................
65
a)- Tiêu Biểu chung..........................................................65
b)-
Giải Thích Riêng Biệt:................................................66
b/1- Căn
Bản Chân Thật...............................................66
b/2- Tướng Chân Thật..................................................
67
b/3- Không Đảo Chân
Thật.......................................... 69
b/4- Nhân Quả Chân
Thật........................................... 72
b/5- Thô Tế Chân Thật............................................... 74
b/6- Cực Thành Chân
Thật..........................................
76
b/7- Tịnh Hạnh Chân
Thật..........................................
77
b/8- Nhiếp Thọ Chân
Thật...........................................78
b/9- Sai Biệt Chân Thật...............................................
79
b/10- Thiện Xảo Chân
Thật:........................................80
*a,
Trình Bày Tổng Quát...........................................80
*b, Biện Minh Riêng
Biệt:.........................................85
1>- Uẩn Thiện Xảo................................................86
2>- Giới Thiện
Xảo............................................... 86
3>- Xứ Thiện
Xảo................................................. 86
4>- Duyên Khởi
Thiện Xảo.................................. 87
5>- Xứ Phi Xứ
Thiện Xảo......................................87
6>- Căn Thiện
Xảo................................................89
7>- Thế Thiện
Xảo................................................91
8>- Đế Thiện
Xảo.................................................91
9>- Thừa Thiện
Xảo..............................................91
10>- Hữu Vi Vô
Vi Thiện Xảo. ........................... 92
B)- BIỆN MINH HẠNH.........................................................93
a/- Biện Minh Tu Đối Trị:...................................................
94
a/1- Biện Minh Tu Đối Trị Chân Chánh:......................... 94
1)-
Tứ Niệm Xứ............................................................. 94
2)- Tứ Chánh Đoạn....................................................... 95
3)- Tứ Thần Túc............................................................ 96
4)- Ngũ Căn Lực............................................................
99
5)- Thất Giác Chi..........................................................102
6)- Bát Chánh Đạo........................................................105
a/2- Biện Minh Sai Biệt:.................................................
108
1)- Phàm Thánh Sai Biệt............................................. 108
2)- Đại Tiểu Sai Biệt. ................................................. 109
b/- Biện Minh Tu Phần Vị:................................................
110
b/1- Mười Tám Phần Vị..................................................
111
b/2- Thuyết Minh Sơ Lược Ba
Bậc................................. 113
b/3- Tùy Ưng Lập Vị. .................................................... 114
C.- BIỆN MINH QUẢ..........................................................115
1/- Biện Minh Năm Quả...................................................
116
2/-
Thuyết Minh Dư Quả...................................................119
2.- BIỆN MINH RIÊNG BIỆT VÔ THƯỢNG:....................
120
a/- Bày Tỏ Ba Vô Thượng....................................................
122
b/- Giải Thích Ba Vô
Thượng:.............................................. 122
b/1-Chánh
Hạnh Vô Thượng:............................................. 122
1, Bày Tỏ Sáu Chánh Hạnh............................................
122
2, Biện Minh Sáu Chánh Hạnh:..................................... 123
a, Tối
Thắng Chánh Hạnh........................................... 123
b, Tác Ý Chánh Hạnh.................................................. 129
c, Tùy Pháp Chánh Hạnh:........................................... 134
c/1- Hai Loại Tùy Pháp........................................... 134
c/2- Giải Thích Hai Tùy
Pháp:.................................
134
1>- Vô Tán Loạn Chuyển Biến
Tùy Pháp Chánh Hạnh.................................... 134
2>- Vô Điên Đảo Chuyển
Biến
Tùy Pháp
Chánh Hạnh:................................... 136
a)- Liệt Kê Mười Tên Không Điên Đảo............. 137
b)- Giải Thích
Nghĩa Mười Tên Không
Điên Đảo:....................................................... 137
*1- Nơi Văn Không Điên Đảo.........................
137
*2- Nơi Nghĩa (cảnh giới hai Thủ)
Không
Điên Đảo........................................ 137
*3- Tác Ý
Không Điên Đảo............................. 138
*4- Bất Động
Không Điên Đảo....................... 139
*5- Tự Tướng
Không Điên Đảo........................
141
*6- Cộng
Tướng Không Điên Đảo....................
143
*7- Nhiễm
Tịnh Không Điên Đảo.....................
144
*8- Nơi Khách
Không Điên Đảo...................... 144
*9- Nơi Sợ
Hãi Không Điên Đảo......................
145
*10- Tụng
Không Điên Đảo. ........................... 146
b/2- Chánh Hạnh Lìa Nhị Biên........................................... 148
b/3- Chánh Hạnh Biệt Không Biệt............................... ....... 154
c/- Sở Duyên Vô Thượng:..................................................
... .. 155
d/- Tu Chứng Vô Thượng:........................................................ 156
III.-
PHẦN KẾT LUẬN:
Đúc Kết Danh Nghĩa Hiển Bày của Luận: ...............................156