DUY THỨC ĐƠN
GIẢN
(Duy Thức Giản Giới)
----------------------------------------------------
Cư
sĩ Tuyết Lơ biên thuật
Pháp
sư Huệ Lực chỉnh lý tài liệu
Thích
Thắng Hoan Việt dịch
ĐỒ BIỂU
I:
A.- ĐỊNH
NGHĨA:
Ngăn che
khơng cĩ ngoại cảnh
|
B.- BIỆT
TÁNH CỦA THỨC (Giải thích nguyên tánh nơi Thức)
Chú Thích 1
Người
đời giải thích: “Pháp
Tánh là như thế”
|
Thái dịch–
khơng thể thấy
|
Thái sơ - Mới
bắt đầu của Khí.
|
Thái Thỉ - mới
bắt đầu của hình tượng
|
Thái Tố - mới
bắt đầu của thể chất
|
ĐỒ BIỂU
II:
Chú thích 2:
Chỉ
cĩ Thức mới phân biệt hiểu biết
|
Chỉ
cĩ
Cảnh mới tính là thật
|
Chân Đế thiết
lập Tâm và Cảnh cộng chung thành Chân Khơng
|
Tục
Đế thiết lập chỉ cĩ Cảnh là khơng Thức
|
Chú thích 3:
Phân Biệt Y ( nương
nơi sự phân biệt)
|
Nhiễm
tịnh y (nương nơi nhiễm tịnh)
|
Căn Bản y (nương nơi căn bản)
|
Các Thức
quan trọng độc nhất
|
Tiên lai Hậu
khứ
(đến trước đi sau)
|
Chú Thích 4:
“Tám Thức
bốn bộ”: bộ phận năm Thức
trước, bộ phận Thức thứ sáu, bộ
phân thức thứ bảy, bộ phận thức thứ
tám
|
“Sự
sai biệt của danh xưng” tức là
Ngũ Uẩn: năm Thức trước gọi là Thọ,
Thức thứ sáu gọi là Tưởng, Thức thứ
bảy gọi là Hành, Thức thứ tám gọi là Thức.
|
“Cơng dụng
tám Thức”: Năm Thức trước
phân biệt, Thức thứ sáu luơn luơn biến đổi,
Thức thứ bảy luơn luơn tư lương, Thức
thứ tám hàm tàng Dị Thục.
|
“Danh xưng
dị đồng”: danh xưng đồng là
Tâm, cũng đồng là Thức. Danh xưng dị: Thức
thứ tám gọi là Tâm, Thức thứ bảy gọi là
Ý, ngồi ra gọi là Thức.
|
ĐỒ BIỂU
III:
A.- KHÁI QUÁT VÀ
BỘ PHẬN CỦA VẠN PHÁP:
(Giải thích vạn pháp
duy thức)
1.- Vạn
pháp đều cĩ ba phần:
2.- “Thức”
và “Cảnh” phát khởi tác dụng:
Thuyết
minh bốn phần Tâm Sở
|
Lập
Hợp Đồng chứng nhận hai bên
|
Quan Tồ phê
phán Hợp
Đồng
|
Hai Phần
quan hệ lẫn nhau, khơng phải cĩ Phần thứ
năm.
|
Chú Thích 5:
Tướng
Phần và Kiến Phần thì thuộc Tướng, Tự
Chứng và Chứng Tự Chứng thì thuộc tánh. Tướng
từ nơi Tánh sanh, đề cử con ốc sên để
thí dụ.
|
Tự
Chứng và Chứng Tự Chứng duyên với nhau,
đề cử quả cân cao thấp để thí dụ.
|
3.- “Thức”
Năng Duyên cĩ ba Lượng:
(Mặt
trăng khơng trịn khuyết). Thấy nhà hiểu nhà
|
Mặt
trăng đi khuynh đảo, Thấy khĩi biết cĩ lửa.
|
4.- “Cảnh”
Sở Duyên của Thức cĩ ba:
Hoặc
sự hoặc lý hiển hiện khơng hư dối
|
Thuần
túy thật tánh, khơng phải từ tính tốn, đo lường.
|
Hình sắc
núi, tiếng chuơng, thấy núi nghe tiếng chuơng
|
Nương
nơi bản chất khởi phân biệt giải thích
khác đi
|
Nương
nơi bản chất kia giải thích cảnh trái với
bản chất
|
Đêm tối
thấy vật nghi là gặp quỷ
|
Tâm duyên ba
cõi chẳng dựa
vào bản chất
|
Tâm khởi
hình tướng, Thể khơng hiển hiện
|
Chỗ
hiện mộng huyễn giả tưởng..v..v....
|
ĐỒ BIỂU
IV:
B.- TU QUÁN DUY
THỨC
1.- Quán ba tánh
của pháp:
Biến
kế sở chấp tánh
(vọng cĩ)
|
Viên thành thật
tánh (Chân cĩ)
|
Tu từng
phần thứ tự năm
lớp đây
|
2.- Quán
Năm Lớp Duy Thức (Ngũ Trùng Duy Thức Quán)
Năm lớp Duy
Thức
(ngũ trùng Duy Thức)
|
1.- Bỏ
cảnh hư giả, lưu lại thật Thức
|
2.- Bỏ cảnh bừa
bãi, Lưu lại thuần Thức
|
3.- Thay mạt Thức, trở về bản Thức
|
4.- Giấu Thức yếu kém, hiển bày Thức
thù
thắng
|
5.- Bỏ
Thức Tướng, chứng Thức Tánh
|
2.- Bỏ cảnh
bừa
bãi,
lưu lại
thuần
Thức
|
Tướng
Phần là cảnh sở duyên (Loại bỏ)
|
Ba phần
sau là của Tâm năng duyên (lưu lại)
|
Thể
và Dụng khơng phải khơng
|
Y Tha, Viên
Thành (lưu lại)
|
1.- Bỏ
cảnh hư
giả,
lưu lại
thật
Thức
|
3.- Thay mạt
Thức, trở
về bản
Thức
|
Kiến, Tướng hai phần
từ nơi Thức Phần sanh khởi (Thay)
|
Thức
tự thể sanh khởi cĩ hai phần: Năng và Sở
(Trở về)
|
5.- Bỏ
Thức
Tướng,
chứng
Thức
Tánh.
|
Tám Thức
Tâm Vương là sự tướng của “Y Tha Khởi”
(bỏ).
|
Thật
tánh của sự tướng là “Viên Thành Thật” của
nhị khơng (chứng).
|
4.- Giấu
Thức
yếu kém,
hiển
bày Thức
thù
thắng
|
Tám Thức
Tâm Vương đều cĩTâm Sở làm cận Thần
(Giáu Kín).
|
Tự thể
tám Thức Tâm Vương đều gọi là Quân (hiển
bày).
|
3.- Chuyển Tám Thức thành bốn
Trí và ba Thân:
Tám Thức
chuyển thành trí
|
I.- KHỞI
NGHUYÊN DUY THỨC HỌC
Nam Hải Ký
Quy Truyện nĩi rằng: “Đại Thừa nơi cõi Tây Trúc
khơng ngồi hai loại: một là “Trung Quán”, một là “Du Già”.
Trung Quán thơng thường thì cĩ Chân Khơng, “Thể hư giả
như huyễn”. Du Già ngồi thì Khơng, trong thì Cĩ. Sự việc
Duy Thức luơn luơn tuân theo Thánh Giáo, tất cả đều
tương hợp với Tâm Phật.
Học phái Duy Thức phân biệt
tánh tướng các pháp, sử dụng nĩ để làm sáng tỏ
tơng chỉ Vạn Pháp Duy Thức, cho nên gọi là Pháp Tướng
Học và cũng gọi là Duy Thức Học. Bồ Tát Di Lặc
đáp ứng lời thỉnh cầu của Bồ Tát Vơ Trước
giảng luận Du Già Sư Địa, Bồ Tát Vơ Trước
lại tạo ra các bộ luận như: Hiển Dương
Thánh Giáo Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, A Tỳ
Đạt Ma, Quảng Tập Luận, đệ tử của
ngài là Bồ Tát Thế Thân tạo ra các bộ luận như:
Nhị Thập Duy Thức Luận, Duy Thức Tam Thập
Luận..v..v.... đây là khởi nguyên căn bản của
học thuyết này.
Chiếu theo Nhất Ban Tạng
Sử Ký ghi, sau Phật nhập diệt hơn bốn trăm
năm, Bồ Tát Long Thọ lãnh hội và căn cứ nơi
nghĩa Bát Nhã phát huy học thuyết Chân Khơng, chọn nghĩa
khơng của duyên khởi, ngộ nhập thật tướng
các pháp, phát nguyện đại bi rộng lớn, thật
hành Lục Độ, tu Thập Địa, đạt
đến danh xưng Phật Quả; Kinh Pháp đây, đệ
tử của Bồ Tát là A Lê Da Đề Bà và cháu chắt
mơn đồ là Mã Minh, Giác Hộ, Nguyệt Hộ..v..v.... tất
cả Đại Đức tận lực hoằng dương;
về sau đề xướng yếu kém và trong phương
diện học thuyết Trung Quán sản sanh sai lệch, đứng
nơi chỗ ngộ khơng tối cao, đặc tánh trọng
yếu là hồn tồn phủ định hành Lục Độ,
tu Thập Địa, cho rằng tu hành chẳng qua là người
làm cơng việc khơng chánh thống. Sau Phật nhập diệt
khoảng 850 năm đến 950 năm, Bồ Tát Di Lặc
xuất hiện giám sát những lý luận và thực tiễn
của các học giả Trung Quán nhận thấy nghi ngờ
chưa thốt khỏi mâu thuẫn khơng được trịn đủ,
tổ chức đã khuyết điểm mà lại thuyết
minh khơng cĩ hệ thống, động một tí là dễ
khiến con người rơi vào con đường sai lầm.
Bồ Tát Di Lặc nhân đĩ căn cứ nguyên lý Nhân Duyên
Sanh đặc biệt sử dụng luận lý của Duy
Thức theo thứ tự thành lập tổ chức vạn
hữu, để thuyết minh muốn thành Phật thì tất
nhiên phải gieo giống, tức là chủng tử Bồ
Đề, mà lý do để trợ giúp chủng tử Bồ
Đề trưởng thành thì tất nhiên phải tu Lục
Độ và hành Thập Địa, trước tác kinh sách
và thành lập học thuyết, tận lực hoằng dương
học thuyết Duy Thức, trải qua hai đại sĩ
Vơ Trước và Thế Thân tiếp tục truyền thừa
học thuyết này bằng cách đầu tiên kiến lập
cơ sở cho học thuyết.
Nhìn chung khởi nguyên của học
thuyết Duy Thức, cố nhiên trải qua đều do các
đại Bồ Tát Di Lặc, Vơ Trước, Thế Thân..v..v.....
phát huy, đầu tiên thành lập một đại Tơng Phái.
Tư tưởng căn nguyên này chẳng qua tham cầu cĩ
thể truy nguyên sâu xa từ Tứ Đế, Thập Nhị
Nhân Duyên, Tam Pháp Ấn..v..v..... của Phật Giáo Nguyên Thỉ,
cho đến Phật Giáo Bộ Phái, đặc biệt là tư
tưởng Phi Tức Uẩn Ngã và Phi Ly Uẩn Ngã của
Độc Tử Bộ, thuyết Cữu Vơ Vi của Hố Địa
Bộ, Thuyết Cùng Sanh Tử Uẩn và Chủng Tử Tương
Tục, thuyết Chủng Tử Huân Tập của Kinh Lượng
Bộ, thuyết Tế Ý Thức, tất cả đều
cĩ thể xem như quan hệ cụ thể tư tưởng
Duy Thức, do đĩ nên biết tư tưởng Phật Học
Đại Thừa nguồn gốc phát xuất từ nơi
tư tưởng Phật Học Tiểu Thừa, đây là
sự thật khơng thể phủ nhận được.
II.-
CÁC TỔ CHUYÊN TRUYỀN THỪA DUY THỨC HỌC
VÀ PHÁT TRIỂN TẠI TRUNG QUỐC:
Duy Thức Học tại Trung
Quốc cĩ hai hệ thống Tổ chuyên truyền thừa
khơng giống nhau, nay đem chỗ truyền thừa nơi
Tây Tạng và Hán Địa bày tỏ như sau:
1.-
Truyền Thừa Tạng Truyền Duy Thức Học: Sơ
Tổ là Di Lặc, Nhị Tổ là Vơ Trước, Tam Tổ là Thế Thân, Tứ
Tổ là An Huệ, Ngũ Tổ là Đại Khổ Sa Lợi,
Lục Tổ là Tiểu Khổ Sa Lợi, Thất Tổ là Kim Đảo Tơn Giả Pháp Xứng,
Bát Tổ là Miếu Điền A Địa Sa.
2.-
Truyền Thừa Hán Truyền Duy Thức Học: Sơ
Tổ là Di Lặc, Nhị Tổ là Vơ Trước, Tam Tổ
là Thế Thân, Tứ Tổ là Trần Na, Ngũ Tổ là Hộ
Pháp, Lục Tổ là Giới Hiền, Thất Tổ là Huyền
Trang, Bát Tổ là Khuy Cơ, Viên Trắc, Huệ Thiệu, Trí
Châu.
Kèm Thêm:
Các
học giả Duy Thức cận đại: cuối nhà
Thanh và đầu Dân Quốc cĩ: Âu Dương Cảnh Vơ,
Hàn Thanh Tịnh, Đại Sư Thái Hư..v..v.... Duy Thức
truyền vào Trung Quốc về sau lại hình thành ba hệ
phái.
1.- Bắc Ngụy cĩ Lặc
Na Ma Đề và Bồ Đề Lưu Chi truyền Địa
Luận Tơng vào Trung Quốc, Tuyên Võ Đế Bắc Ngụy
đầu năm Vĩnh Bình (508), ngài Lặc Na Ma Đề
từ Trung Ấn Độ và ngài Bồ Đề Lưu
Chi..v..v.... từ Bắc Ấn Độ đến Lạc
Dương dịch “Thập Địa Kinh Luận” của
Bồ Tát Thế Thân để kiến lập tơng phái, đây
là học phái Duy Thức đầu tiên từ Ấn Độ
truyền đến Trung Quốc. Về sau Tơng Phái này nhân vì
ý kiến dịch giả khơng đồng nhau, liền phân
chia thành hai phái kế thừa là phái Huệ Quang của Lặc
Na Ma Đề và phái Đạo Sủng của Cao Xướng
Bồ Đề Lưu Chi.
2.- Trần Chân Đế truyền
thừa tơng phái Nhiếp Luận, Trần Văn Đế
năm Thiên Gia tứ tư (563) ngài Chân Đế dịch
“Nhiếp Đại Thừa Luận” của Vơ Trước
và “Nhiếp Đại Thừa Luận Thích” của Thế
Thân lập thành học phái Duy Thức lần thứ hai từ
Ấn Độ truyền đến Trung Quốc. Nhờ đĩ
tơng phái Nhiếp Luận dẫn đến thạnh hành, đây
là chủ trương học thuyết Duy Thức Vơ Cảnh,
rồi sau đĩ chủ trương vạn hữu duyên khởi
từ Như lai Tạng, so với tơng phái Pháp Tướng
xu hướng của nĩ rất khác xa.
3.-
Đường Huyền Trang truyền thừa tơng phái
Pháp Tướng, Đường Thái Tơng năm Trinh Quán 19
(645) Đại sư Huyền Trang từ Ấn Độ
về đến Trường An, dịch thuật rất
nhiều luận điển Duy Thức Học của các tơng
phái khác thàng lập tơng phái Pháp Tướng. Đây là Duy Thức
Học lần thứ ba từ Ấn Độ truyền
đến Trung Quốc, chủ trương hiện tượng
vạn hữu theo hữu tình đều từ phần nhiễm
A Lại Da triển khai thành: “Ba cõi chỉ cĩ một tâm, ngồi
tâm khơng cĩ pháp nào riêng khác” (Tam giới duy nhất tâm, tâm ngoại
vơ biệt pháp).
III.-
NHỮNG KINH LUẬN CỦA
DUY THỨC HỌC NƯƠNG
TỰA
Học thuyết Duy Thức nương
tựa sáu bộ Kinh và mười một bộ Luận:
A.- SÁU
BỘ KINH GỒM CĨ:
1)-
Kinh Hoa Nghiêm: Đơng Tấn Phật Đà Bạt Đà
La dịch 60 quyển Hoa Nghiêm. Đường Thật Xoa
Nan Đà dịch 80 quyển Hoa Nghiêm. Đường Bát Nhã
dịch 40 quyển Hoa Nghiêm.
2)-
Kinh Giải Thâm Mật: Đường Huyền Trang dịch.
Cộng cĩ 5
quyển (Giải thích thâm mật
của A Lại Da).
3)- Kinh Như Lai Xuất Hiện
Cơng Đức Hoa Nghiêm: Trung Quốc
chưa dịch đến.
4)-
Kinh A Tỳ Đạt Ma: Trung Quốc chưa dịch
đến.
5)-
Kinh Lăng Già: Lưu Tống Cầu Na Bạt Đà Ra dịch.
Tên là Lăng Già A Bạt Đa Ra Mật Kinh 4 quyển, cũng
gọi là Bốn Quyển Lăng Già. Đầu nhà Ngụy,
Bồ Đề Lưu Chi dịch với tên là Nhập Lăng
Già Kinh cĩ 10 quyển, cũng gọi là Thập Quyển Lăng
Già. Đường Thật Xoa Nan Đà dịch với tên
là Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh cĩ 7 quyển, cũng
gọi là Thất Quyển Lăng Già.
6)-
Kinh Hậu Nghiêm: cũng gọi là Mật Nghiêm Kinh và cũng
gọi là Đại Thừa Mật Nghiêm Kinh, trước
sau bản dịch cĩ hai loại, một là Đường
Chi Địa Bà Ha La dịch; một là Đường Đại
Bất Khơng dịch, cả hai giống nhau đều là 3
quyển, Kinh nầy luận nghĩa Như Lai khơng sanh diệt
và diễn nĩi giáo nghĩa Pháp Tướng Đại Thừa
Như Lai Tạng A Lại Da Thức..v..v....
B.- MƯỜI MỘT BỘ LUẬN
GỒM CĨ:
1)- Du Già Sư Địa Luận:
Bồ
Tát Di Lặc giảng giải. Đại sư Huyền
Trang dịch thành 100 quyển. Chủ yếu luận bàn cảnh
giới chỗ nương tựa thật hành gồm cĩ 17 Địa.
2)- Hiển Dương Thánh Giáo
Luận: Vơ Trước sáng tác gồm 20 quyển,
Huyền Trang dịch, chọn lấy yếu điểm
then chốt của Du Già Luận.
3)- Đại Thừa Trang Nghiêm
Luận: Vơ Trước sáng tác gồm cĩ 2 bộ;
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận gồm cĩ 13 quyển
do Ba Ra Phả Ca Ra Mật Đa Ra dịch.
4)-
Tập Lượng Luận: chưa dịch.
5)-
Nhiếp Đại Thừa Luận: Vơ Trước sáng
tác, bản dịch cĩ 3 loại
khơng giống nhau:
a. Hậu
Ngụy Phật Đà Phiến Đa dịch gồm cĩ 3 quyển,
gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận.
b. Trần
Chân Đế dịch gồm cĩ 3 quyển, cũng gọi
là Nhiếp Đại Thừa Luận.
c. Đường
Huyền Trang dịch gồm cĩ 3 quyển, gọi là Nhiếp
Đại Thừa Luận Bổn.
6)- Thập Địa Kinh Luận: gồm
12 quyển, do Thế Thân trước tác,
Hậu Ngụy
Bồ Đề Lưu Chi dịch..v..v....
7)- Phân Biệt Du Già Luận:
Trung Thổ chưa dịch.
8)- Quán Sở Duyên Duyên Luận: 1
quyển do Trần Na trước tác,
Đường
Huyền Trang dịch, dùng pháp ba chi Nhân Minh để thuyết
minh Sở Duyên của ngoại Tâm khơng phải cĩ và Sở
Duyên Duyên của nội Tâm khơng phải khơng.
9)-
Nhị Thập Duy Thức Luận: 1 quyển do Thế
Thân sáng tác, Đường Huyền Trang dịch, gồm cĩ
21 bài Tụng. Hậu Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch.
Duy Thức Luận hoặc Lăng Già Kinh Duy Thức Luận
do Trần Chân Đế dịch, đề rằng: Đại
Thừa Duy Thức Luận.
10)-
Biện Trung Biên Luận: lại gọi là Ly Tích, Chương
Trung Luận, Di Lặc sáng tác, Huyền Trang dịch, 1 quyển,
thuyết minh đối với hữu vi pháp.
11)- Tập Luận: gọi
đủ là A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Vơ Trước
sáng tác, Huyền Trang dịch, gồm cĩ 7 quyển.
IV.-
TÁNH TRỌNG YẾU CỦA NGHIÊN CỨU
ĐIỂN TỊCH DUY THỨC:
Trên sự tìm
hiểu giáo nghĩa của Phật Giáo, cần phải sử
dụng hệ thống tri thức để nhận thức,
nghiên cứu điển tịch của Duy Thức cĩ thể
nĩi là rất trọng yếu và cũng là khố trình nhập mơn
của cơ bản. Nguyên vì rất nhiều thuật ngữ
và trình tự tu học, cho đến phương pháp đoạn
chứng..v..v..... Điển tịch Duy Thức so sánh bất
kỳ luận điển nào đều đạt được
tường tận trật tự phân minh, nếu như khơng
cĩ một loại điển tịch này mà tiến hành so sánh
nghiên cứu sâu xa thơng đạt áo nghĩa của nĩ thì
đối với tồn bộ trên sự nhận thức Phật
Pháp đều sẽ bị giảm giá rất lớn.
Chúng ta nêu thí dụ hệ thống
tổ chức “Nhiếp Đại Thừa Luận” để
chứng minh tánh trọng yếu nghiên cứu điển tịch
của Duy Thức.
Cổ Đức nĩi rằng:
“Chính cứu cánh của Tơng Thừa, nguồn gốc của
dạy bảo khơng rõ bằng quy củ của Bách Pháp, khĩ
nghiên cứu đến Diệu Đế. Học phái Duy Thức
chuyên đàm luận về danh tướng, mục tiêu của
nĩ muốn con người phá trừ vọng tướng khơng
phải chân thật, sẽ hướng về tơng chỉ cứu
cánh nhất tâm. Cho nên chỉ bày vạn pháp Duy Thức là dùng
tâm khơng sanh diệt cùng với tâm sanh diệt hồ hợp thành
Thức A Lại Da, biến khởi thành căn than và khí giới,
vạch rõ nguồn tâm mê ngộ, khiến học giả nhìn
qua biết ngay.
Mắt thấy
thế giới hiện nay, tư tưởng nhân loại rộng
khắp quá mức, ảnh hưởng nhân tâm rất lớn,
đây là đối với chân tướng thế giới
hiện thật chưa cĩ thể nhận thức triệt
để, dẫn đến bi quan, sống say chết mộng,
xem tin vận mạng, van xin thần quyền, cho đến
Duy Vật Sử Quan giai cấp đấu tranh, tà học tà
luận muơn hình vạn trạng, nhân loại càng tăng thêm
mất
thăng bằng hành vi xã hội, tạo thành rất nhiều
tội ác và thống khổ. Chúng ta là người tu học
Phật Giáo đâu cĩ thể khơng phát nguyện tâm rộng lớn,
thâm cứu điển tịch Duy Thức, nêu cao đạo
lý Duy Thức, để giữa lúc chỗ thiên lệch của
tư trào thời đại dẫn họ hướng tâm
về chân chánh, hồn thành Bồ Tát Hạnh tự lợi lợi
tha, phục vụ chúng sanh, tạo phước cho chúng sanh,
thành tựu vơ thượng Bồ Đề, cách thực tiển
như thế này thì chúng sanh rất hạnh phúc và Phật
Giáo cũng rất hạnh phúc.
Tổng
phiêu cương yếu phần thứ 1
|
Duy Thức
tam tánh trung đạo thuyết
|
Nhập
sở tri Tướng phần thứ 4
|
Bỉ
nhập
nhân quả tướng phần thứ 5
|
Bỉ
tu sai biệt phần thứ 6
|
Tăng thượng
giới học phần thứ 7
|
Tăng thượng
tâm học phần thứ 8
|
Tăng thượng
huệ học phần thứ 9
|
Tam học
thuyết tự lợi hành
|
Tam học
thuyết tự lợi hành
|
V.- GIỚI
THIỆU NGUỒN GỐC CỦA DUY THỨC---
ĐẠI SƯ HUYỀN
TRANG:
Đại sư Huyền
Trang, tên tục là Trần Danh Huy, người Lạc Châu Hà
Nam, sanh vào thời đại Nhơn Thọ Tùy Văn Đế
năm thứ 3 (602), cha tên là Huệ Tăng làm Huyện Lệnh
ở Giang Lăng, Đại sư là con thứ tư.
Dương Đế Đại
Nghiệp năm thứ 10 (Tây Nguyên năm 614), khi Đại
sư 12 tuổi, vừa gặp dịp lễ tổ chức
độ Tăng ở Lạc Dương, quan khảo thí
Trịnh Thiện Quả cảm lịng chí thú của Đại
sư là “Xa thì nối tiếp sự nghiệp của Như
Lai, gần thì làm vẻ vang lại Phật Pháp bị bỏ
rơi” đặc biệt kết nạp cho Đại sư
xuất gia, sau đĩ Đại sư đi theo huynh trưởng
thứ hai là Pháp sư Tiệp trụ trì chùa Tịnh Độ
ở Lạc Dương, thân cận hai đại đức
bậc hiền tài đương thời tên là Cảnh,
Nghiêm, nghe giảng Niết Bàn Kinh và Nhiếp Đại Thừa
Luận, nhân Đại sư sáng suốt thấu hiểu vượt
hẳn người thường, tánh lại kiên cường
đặc biệt, rất được sư bạn
khen ngợi coi trọng.
Năm cuối triều đại
nhà Tùy, xã hội loạn lạc, dân chúng trốn vào Tứ
Xuyên tỵ nạn, đây là cơ hội thuận tiện
tìm sư hỏi đạo, Đại sư lại thân cận
với Bảo Tiêm, Pháp sư tiên sinh Khuy Cơ..v..v.... vài năm
sau đối với Phật Pháp cĩ chỗ thơng suốt tương
đương đạt đến trình độ cao thâm.
Đường Võ Đức năm
thứ 3 (Tây nguyên năm 622) Đại sư tuổi đủ
20, theo Phật Chế thọ giới Cụ Túc nơi Thành Đơ.
Lúc bấy giờ chính là nhà Tuỳ tiêu vong và nhà Đường
được lâp nên, thiên hạ thái bình. Pháp sư Huyền
Trang từ Tứ Xuyên đi về phía đơng, trải qua
ba thung lũng, du lịch các chỗ như Hồ Nam, Hồ
Bắc, Hà Nam, Sơn Đơng, Hà Bắc..v..v..... tầm sư
tham học, tùy duyên hoằng pháp.
Đại sư nhân thấy chỗ
người trước dịch kinh luận, đa số áp
dụng phương pháp ý của dịch giả, quá nhiều
chưa trung thực nơi nguyên ý của tác giả, mà cổ
nhân giải thích ý kinh, nghĩa phần nhiều khác nhau,
đều chấp sở kiến của mình cho nên nghĩa
pháp khĩ phân minh, liền phát nguyện đi Tây Vực cầu
pháp, chọn lấy nguyên điển Phạn bản tham cứu,
để làm sáng tỏ chân ý, thệ nguyện đã quyết,
nơi đầu năm Chân Quán (Tây nguyên năm 627) lần
thứ hai dâng biểu lên vua trần tình ý hướng đi
Tây Vực, nhưng chưa được triều đình
Mơng Cổ đặc biệt cho phép. Vì đã đăng ký
cầu pháp, cho nên kiên quyết bất chấp tất cả,
lén lút xuất quan. Từ Trường An trải qua Tần
Châu, Lan Châu, Kinh Châu, xuyên qua hành lang Cam Túc, Qua Châu (nay là Đơn
Hồng), ra khỏi Ngọc Mơn Quan, mới gian khổ là chạy
trốn vượt qua sự đuổi bắt của
quan địa phương, sau đĩ lại gặp đại
sa mạc Mạc Hạ Diên Thích dài 800 dặm, lại chịu
cái khổ cùng cực của giĩ cát, mới đến nơi
biên giới của nước ta, tiếp theo vượt
qua nước Cao Xương, được sự giúp đỡ
của Khúc Văn Thái, điều động Sứ Thần
Thơng Tri Duyên Đồ Chư Quốc bảo hộ trơng nom
mà cĩ thể thơng qua cao nguyên thần bí, lại đi theo con đường
phía nam Thiên Sơn của tỉnh Tân Cương, vượt
qua nước Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Tư Thản, leo
qua dãy núi Sùng Sơn cao lớn đầy trời tuyết
đất băng của A Phú Hãn, đã đến được
nước Ca Thấp Di La của Tây Bắc Ấn Độ
(hiện tại tức là Ca Thập Mễ Nhĩ), tại
chỗ này, Đại sư tạm thời thân cận với
các đại đức Phật Giáo Tiểu Thừa học
tập các Thánh điển Câu
Xá, Bà Sa, Lục Túc A Tỳ Đàm..v..v.... lại theo các học
giả Bà La Mơn Giáo Ấn Độ nghiên cứu triết học
Phệ Đà.
Đại sư Huyền Trang
lại nữa từ Bắc Ấn Độ tiến về
phía Trung Ấn Độ, đi tới phía dưới sơng
Hằng, đi thẳng đến nước Ma Kiệt Đà
Trung Ấn Độ, ở đây Đại sư theo luận
sư Giới Hiền cầu pháp nơi chùa Na Lan Đà, sáu
năm đầu Pháp Tướng Duy Thức Học chuyên bị
cơng kích, và cĩ một năm Đại sư thừa lệnh
luận sư Giới Hiền giảng dạy Nhiếp Đại
Thừa Luận và Duy Thức Quyết Trạch Luận, đồng
thời cĩ nhận xét sự tranh luận Hữu và Khơng của
“Hội Tơng Luận” thuyết minh, các học giả khác ca
ngợi và tơn vinh Đại sư nhận xét sâu sắc.
Vua Giới Nhật nghe danh tiếng
của Đại sư đến lễ thỉnh cùng tranh
luận với các học giả Phật Giáo Tiểu Thừa,
viết thành một bộ một ngàn sáu trăm bài Tụng
“Phá ác kiến luận”, bác bẻ “Phá Đại Thừa Luận”
của các học giả Tiểu Thừa để phát huy
giáo nghĩa Đại Thừa, vơ cùng thắng lợi khiến
các học giả Tiểu Thừa khơng cịn chỗ cơng kích trở
lại. Đại sư lại được vua Giới
Nhật cảm kích và tán phục, vua lại đến lần
nữa thỉnh Đại sư giá lâm Thủ Đơ Khúc Nữ
Thành, cử hành đại hội Vơ Giá Biện Luận bao
gồm tất cả học giả Ấn Độ đều
tham gia. Trong đại hội này Đại sư Huyền
Trang được vua đề cử làm Luận Chủ
và Đại sư liền thiết lập Chân Duy Thức
Lượng Nghĩa, nếu như cĩ người cĩ thể
cơng kích một chữ trong đây Đại sư nguyện
sẽ dâng cái đầu lễ tạ, nhưng trải qua mười
tám ngày khơng cĩ một người nào can đảm dám nĩi vua
Giới Nhật làm lễ tơn vinh Đại sư lên ngơi vị
Quốc sư và ngài trở thành quyền uy tối cao tơng giáo
triết học tồn cõi Ấn Độ.
Đến năm Trinh Quán thứ
19 (Tây Nguyên năm 645) Đại sư Huyền Trang mang Kinh
về nước, Triều Đình hoan nghinh chuẩn bị
chu đáo tiếp rước Đại sư tại Trường
An. Đường Thái Tơng đặc biệt tiếp kiến
Đại sư tại Lạc Dương và yêu cầu của
vua là đem những điều trải qua của cuộc
đi Tây Trúc cầu pháp, dọc đường thấy gì
nghe gì soạn thuật thành một quyển sách trình duyệt,
quyển sách đây chính là “Đại Đường Tây Vực
Ký” mà trong nước và ngồi nước đều nghe danh,
quyển sách đây hiện nay rất cĩ giá trị văn hiến
của lịch sử nghiên cứu Ấn Độ.
Đường Thái Tơng hạ
chiếu Bộ Ty nghinh tiếp Trang Cơng (tức Đại
sư Huyền Trang) trụ tích “Hoằng Phước Tự”
phiên dịch kinh điển và hồn tất nơi “Đại
Từ Ân Tự”, những bài văn chọn lọc nơi chùa
này vẫn tiếp tục sự nghiệp phiên dịch, mà
Trang Cơng phiên dịch kinh điển cĩ một đặc sắc
chính là áp dụng phương pháp dịch thẳng. Ưu điểm
của Đại sư là cĩ thể tương đối
chiếu theo nguyên văn mà lại khơng mất ý nghĩa nguyên
văn. Đây là sáng kiến đầu tiên người sau
gọi là “Tân Dịch”, cịn lối dịch kinh của đời
trước gọi là “Cựu Dịch”.
Trang Cơng kể từ năm
Trinh Quán thứ 19, trở về nước tại “Hoằng
Phước Tự” đầu tiên khai mở cơng trình phiên dịch
thẳng đến tháng giêng đầu năm Lân Đức
Đường Cao Tơng (Tây Nguyên năm 664) là tác phẩm cuối
cùng, tính tổng kết tồn bộ phiên dịch kinh luận
của Trang Cơng trong 19 năm gồm cĩ 75 bộ, 1335 quyển,
số ước tính khoảng ngàn vạn lời, những
hịm sách đây quý báu biết bao là ký lục tối cao trên lịch
sử dịch kinh của Trung Quốc. Tháng 2 đầu năm
Lân Đức, Trang Cơng lao lực quá sức nên viên tịch,
hưởng thọ 63 tuổi, Triều Đình đến
thọ tang giống như cha mẹ đã mất, Tống táng
Trang Cơng hơn mười vạn người, tất cả
rất sẵn sàng vinh danh thương tiếc.
Tư tưởng của Đại
sư Huyền Trang biểu hiện trong Thành Duy Thức Luận,
lại nữa trong thời gian Đại sư truyền
Pháp Tướng Học lần thứ ba từ Ấn Độ
vào Trung Quốc, dọc đường người kể
cả sự sống luơn luơn mạo hiểm ở những
chỗ vĩ đại là nơi nạn nhân tội phạm,
khơng sợ khổ, khơng lùi bước, dũng cảm tiến
tới dù phải hi sinh chết vì tinh thần đạo,
nhờ đĩ Đại sư hồn thành nhiệm vụ gian
khổ nặng nề của sự giao lưu văn hố Tơng
Giáo Trung Ấn, Đại sư phong cách mơ phạm cao cả,
mãi mãi làm gương mẫu lưu lại cho học sinh đời
sau.
VI.-
DUY THỨC GIẢN GIỚI:
A.- ĐỊNH NGHĨA:
1.- Duy Thức:
chữ Duy chính là nghĩa ngăn trừ, chữ Thức là
nghĩa hiểu
biết.
2.- Suy do: nghĩa
là suy cứu căn nguyên của vũ trụ.
3.- Pháp tánh ly
ngơn (Pháp tánh lìa ngơn ngữ), bổn bất khả thuyết
(vốn
khơng thể nĩi): Pháp là nghĩa
quỹ trì, nghĩa là nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật
giải (giữ gìn tự tánh, hình trạng khiến sanh hiểu
biết sự vật); chữ quỹ là một thứ hình
trạng, chữ trì là một thứ lực lượng. Tánh
là nghĩa thật tánh, thành tựu viên mãn, khơng cĩ quỹ trì
(giữ gìn tự tánh và hình trạng). Ly Ngơn: nghĩa là lìa
ngơn ngữ, tức là khơng thể nĩi.
4.- Vạn Pháp
Duy Thức: chữ vạn là đại danh từ bày tỏ
nghĩa rất nhiều.
5.- Giáo Học
của Duy Thức là dùng để hiển bày bản tánh:
nghĩa là
phương pháp của giáo học
Duy Thức dung để hiển bày bản thể của
chúng ta.
6.- Khơng ngoại
cảnh đây: tức là chỉ cho ý nghĩ, nghĩa là khơng
cĩ theo cảnh bên ngồi, nguyên vì tất cả chúng sanh đều
ngộ nhận cho tự ngã là chân thật, cho cảnh bên
ngồi là chân thật.
B.-
BIỆT TÁNH CỦA THỨC (Giải thích nguyên tánh nơi
Thức)
Năng biến
thứ nhất—Thức Căn Bản
|
Năng biến
thứ hai-- Thức Mạt Na
|
Năng biến
thứ ba—
Sáu thức trước
|
chỗ
quan hệ của Nhãn Thức
|
Chỗ
quan hệ của Thiệt Thức
|
chỗ
quan hệ của Thân Thức
|
1.- Tánh của
Thức: Tánh giống như nước, Thức giống
như sĩng. Tánh giống như vàng, Thức giống như
đồ vật. Tánh giống như thể, Thức giống
như dụng. Cho nên Pháp Tánh thì chân khơng, Danh Tướng thì
giả cĩ.
2.- Thức
thứ tám cũng gọi là Thức căn bản, thế
gian gọi là linh hồn.
3.- Năm Thức
trước theo Tâm Lý Học ngày nay gọi là cảm giác.
4.- Thức
thứ sáu cũng gọi là tri giác. Nhưng năm Thức
trước mỗi Thức phụ trách một việc. Chỉ
Ý Thức thứ sáu cĩ khả năng tổng hợp sự
tác dụng của năm Thức trước.
5.- Thức
thứ bảy là căn bản của Ý Thức, gọi là Ý
Căn.
6.- Căn Trần
Thức: chỗ Căn đây khơng phải giống Căn của
cỏ cây. Nguyên vì Căn của cỏ cây cĩ thể giúp cho
Thức trực tiếp phát sanh, nghĩa là chỉ cĩ thể
trợ duyên cho Thức sanh khởi.
Tĩm tắt giống như các nhà
khoa học nĩi: Thần Kinh Thị Giác cho đến tế
bào Thần Kinh Xúc Giác..v..v.... theo Sách Phật Giáo mỗi mỗi
đều gọi là Căn là chỗ cực vi kết thành.
Thức thì khơng phải vật chất, cho nên khơng phải
cực vi kết thành. Khơng thể khơng phân biệt vi tế.
Trần là nghĩa nhiễm ơ, chính là năm Dục sáu Trần.
Căn lại phân làm hai thứ: Phù Trần Căn và Tịnh
Sắc Căn. Phù Trần Căn cũng gọi là Căn Y Xứ,
là ở nơi phía ngồi mặt cĩ thể trực tiếp
phan duyên ngoại cảnh. Nhưng Căn đây khơng thể
phát sanh ra Thức, chỉ cĩ thể làm chỗ nương tựa
cho Tịnh Sắc Căn. Riêng Tịnh Sắc Căn mới
chính là nơi cĩ thể giúp cho Thức phát khởi. Tĩm lược
Tịnh Sắc Căn cũng giống như Thần Kinh Tương
Tợ của Sinh Lý Học. Thần Kinh thì cĩ thể thấy
được, nhưng Tịnh Sắc Căn thì khơng thể
thấy được. Nguyên vì Tịnh Sắc Căn so sánh
với Thần Kinh thì cĩ phần vi tế hơn.
Tỷ dụ
như Đồ Hình biểu biện sau đây:
Tịnh
Sắc Căn (nước,
đất, phân bĩn)
|
7.- Mười
tám giới và chủng tử: 6 Căn, 6 Trần, 6 Thức
và Chủng Tử tổng hợp thành 36 loại (18 giới
+ 18 chủng tử = 36). 18 giới cũng gọi là 18 chủng
loại cá biệt khơng giống nhau. 18 giới đây mỗi
loại đều cĩ chủng tử riêng mình. Cho nên chữ
giới cũng cĩ thể giải thích là chủng tử. Nghĩa
chủng tử, nơi Duy Thức rất là quan hệ trọng
yếu, nếu phân tích tột cùng 18 giới cĩ thể bao gồm
tất cả pháp. Nếu như thấu rõ yếu nghĩa
18 giới tức là thơng suốt tất cả pháp mỗi
pháp đều cĩ chủng tử riêng mình, tuyệt đối
khơng phải khơng cĩ nhân mà sanh ra được.
8.- Ba Năng
Biến: Năng Biến thứ nhất do Tánh biến thành
Thức thứ tám. Năng Biến thứ hai là chấp ngã chấp
pháp của Thức thứ bảy. Năng Biến thứ
ba là sáu Thức trước.
Tướng
của các pháp phân biệt
|
Cho nên gọi
là Pháp Tướng Tơng
|
Bác vật,
lý hố, sinh lý..v..v.... tất cả khoa học vật chất.
|
Tâm lý, luận
lý, số học..v..v..... khoa học tinh thần.
|
9.- Thuyết
minh sự quan hệ của Tám Thức:
a.- Hằng mà
khơng thẩm (khơng xét kỹ): nghĩa là Thức thứ tám
tuy hiện hành tương tục khơng gián đoạn cĩ nghĩa
là hằng, nhưng cơng năng tư lương của nĩ nơng
cạn, cho nên gọi là hằng mà khơng thẩm (khơng xét kỹ).
b.- Thẩm mà
khơng hằng: nghĩa là Thức thứ sáu do Thức thứ
bảy làm căn nên cũng cĩ thể tư lương, nhưng
cĩ khi sanh khởi, cĩ khi gián đoạn cho nên gọi là thẩm
mà khơng hằng.
c.- Khơng hằng
và khơng thẩm: nghĩa là năm Thức trước tất
nhiên được Ý Thức tương trợ đầy
đủ, nhưng lúc mới tác dụng chỉ cĩ thể
hiểu biết nên gọi là phi thẩm, hơn nữa năm
Thức trước đợi đủ duyên mới hiển
được cảnh, nếu như duyên khơng đủ
thì khơng sanh nên gọi là phi hằng.
d.- Cũng thẩm
và cũng hằng: nghĩa là Thức thứ bảy chấp
kiến phần của Thức thứ tám làm ngã, bản tánh
hay xét nghiệm so lường, cho nên cĩ nghĩa là thẩm và
lại cái ngã bị chấp của Thức thứ tám khơng
gián đoạn, vì thế Thức thứ bảy chấp ngã
cũng khơng gián đoạn, cho nên cũng cĩ nghĩa là hằng.
CHÚ
THÍCH 1:
“Pháp Tánh Như
Thế”.
Thế gian giải thích Pháp Tánh:
|
Thái Cực: cịn
chưa khai mở phân định
|
Tứ
Tượng: Thái âm, Thái dương, Thiếu
âm, Thiếu dương.
|
Thái Dịch: khơng
chỗ thấy
|
Thái Sơ: mở đầu
của Khí: hình tượng của Khí này lại vi tế,
chỉ là một thứ Khí.
|
Thái Thủy: mở
đầu của hình tượng:mỗi một nguyên
giống cĩ hình trạng nhất định.
|
Thái Tố: mở
đầu của
chất:mở
đầu của tất
cả
vật chất, thứ
nguyên
giống tạo
thành
vật chất.
|
Tánh: là cái
Khơng khơng chỗ nhìn thấy.
|
CHÚ
THÍCH 2
Chỉ
cĩ CẢNH mới tính thật.
|
Chân Đế thiết
lập Tâm Cảnh cộng
làm Chân Khơng.
|
Tục
Đế chỉ thiết lập Cảnh khơng cĩ Thức.
|
Chỉ
cĩ THỨC
mới hiểu biết
|
GIẢI
THÍCH:
1)- TÂM: Sao gọi
là Tâm: Tâm là nghĩa tập khởi, nghĩa là cĩ cơng năng
huân tập các chủng tử và cĩ cơng năng sanh khởi các
hiện hành, cho nên đặc biệt gọi là Tâm. Nếu
chỉ căn cứ nơi nghĩa cơng năng suy xét duyên cảnh
mà nĩi thì tám Thức đều cĩ thể gọi là Tâm, cịn căn
cứ nơi nghĩa tập khởi mà nĩi thì chỉ cĩ Thức
thứ tám mới cĩ thể gọi là Tâm. Tại sao thế,
nguyên vì chỉ cĩ Thức thứ tám mới cĩ cơng năng huận
tập các chủng tử và cũng cĩ cơng năng sanh khởi
các hiện hành. Thí dụ như nơi kho chứa tích trử
tất cả phẩm vật.
2)- CHỈ CĨ
THỨC MỚI HIỂU BIẾT: nếu như chỉ căn
cứ nơi nghĩa phân biệt biết rõ cảnh giới
mà nĩi thì tám Thức đều cĩ khả năng gọi là Thức,
cịn nếu như căn cứ nơi sự hiểu biết
cảnh giới hiển lộ nơng cạn mà nĩi thì chỉ cĩ
sáu Thức trước cĩ thể gọi là Thức, tại
sao thế, nguyên do sáu Thức trước chi cĩ khả năng
hiểu biết sáu trần nơng cạn của cảnh giới;
nĩi rõ hơn, năm Thức trước chỉ cĩ khả năng
hiểu biết tự cảnh của Ý Thức (Thức Mạt
Na), cịn Thức thứ sáu thì cĩ khả năng hiểu biết
những cảnh của năm Thức trước hiểu
biết và những cảnh mà năm Thức trước chưa
hiểu biết. Nhưng những cảnh giới chỗ
hiểu biết của sáu Thức đều nơng cạn,
như Nhãn Thức thấy sắc, Nhĩ Thức nghe tiếng,
cho đến Ý Thức duyên tất cả pháp đều hiển
lộ nơng cạn dễ biết, khơng giống như những
cảnh giới của Thức thứ tám và Thức thứ
bảy hiểu biết, đều là vi tế khĩ biết được.
3)- CHỈ CĨ
CẢNH MỚI KẾ THẬT: là nĩi những cảnh giới
của phàm phu so tính cho là thật tại.
4)- LUẬN SƯ
THANH BIỆN: chính là sau khi Phật nhập diệt 1100 năm,
Đại Đức theo Phật Giáo cùng thời với Luận
sư Hộ Pháp. Đại Đức vì muốn phá trừ
luận lý tà thuyết sai lầm của Ngoại Đạo
Thuận Thế, liền tạo ra học thuyết Chân Tục
Nhị Đế. Tục Đế là đạo lý chỗ
kiến giải phàm tục mê tình của thế gian; Chân
Đế là chỗ kiến giải của Thánh Trí, lìa nơi
hư vọng, nguyên lý của nĩ quyết định chân thật.
Luận sư Thanh Biện, căn cứ nơi trong Chân
Đế, thiết lập “Tâm Cảnh cùng là chân khơng” nơi
trong Tục Đế và thiết lập nghĩa của
“Duy Cảnh Vơ Thức”, chúng ta xem ra đều là Tực
Đế, suy cho cùng nghĩa đối lập nhau với
“Duy Thức Vơ Cảnh” của Duy Thức Học chủ trương,
nguyên do là tại Ấn Độ phát khởi phong trào tranh
luận Cĩ và Khơng của hai Tơng phái. Kỳ thật, học
thuyết “Duy Cảnh Vơ Thức” của Luận sư Thanh
Biện chủ trương chỉ là tạm thời theo kiến
giải của phàm tục mê tình, với mục đích là
phá trừ tà thuyết vượt quá quyền hạn phương
tiện của chúng sanh mà thơi, cho nên nơi trong Nam Hải Ký
Truyện của Tam Tạng Nghĩa Tịnh đời Đường
và Đại Thừa của Ấn Độ tường
thuật rằng: “Chỗ gọi Đại Thừa khơng
ngồi hai loại, một là Trung Quán (tức là Bát Nhã Khơng Tơng),
hai là Du Già (tức là Duy Thức Hữu Tơng); Trung Quán thì
trong Tục Đế cĩ Chân Khơng, thể hư vọng như
huyễn; Du Già thì ngồi Khơng trong Cĩ,
sự vật đều do Duy Thức, xét ra ở đây
đều tuân theo Thánh Giáo thì khơng cĩ vấn đề ai đúng
ai sai, mục đích đều khế hợp Niết Bàn
thì khơng cĩ cái nào chân cái nào ngụy
cả. Ý ở nơi là đoạn trừ phiền não nghiệp
hoặc, tẩy sạch cứu độ chúng sanh, đâu
muốn tạo nên tình trạng phân vân nghi hoặc, khiến
tăng thêm nội kết sâu nặng!”
Do đây nên biết: hai Tơng Khơng
và Cĩ, vốn là một nhà, đều là phá trừ chấp
trước của chúng sanh, đồng làm pháp mơn phương
tiện nhằm để dẫn dắt chúng sanh, các học
giả hậu bối thật ra khơng nhất định phải
tốn hao bút mực tranh luận, để khỏi bị
phiền não cả mình lẫn người khác, tăng thêm
khĩ nhận định vơ ích!
Ngoại
Đạo Thuận Thế: Khi Phật cịn tại thế,
cĩ ngoại đạo Thuận Thế, họ chấp trước
bốn Đại cực vi là đất, nước, lửa,
giĩ là chân thật thường cịn (Cực Vi nghĩa là sắc
pháp phân chia đến cực độ vi tế tột cùng).
Họ chủ trương phủ định Thánh Giáo, cự
tuyệt đạo đức, chỉ cĩ thoả mãn dục
vọng nhục thể làm mục đích, đề xướng
chủ nghĩa khối lạc vật chất cực đoan,
cho nên gọi là Ngoại Đạo Thuận Thế, đích
thực ngày nay gọi là Duy Vật Luận.
5)- HAI ĐẾ
CHÂN VÀ TỤC: Chân Đế cho là Khơng, Tục Đế cho
là Cĩ, Chân Đế nĩi là Tánh, Tục Đế nĩi là Tướng.
CHÚ
THÍCH 3:
1)-
Ngũ Câu Khởi Thức: nghĩa là năm
Thức trước cần phát khởi tác dụng tất
nhiên cần phải chuẩn bị đầy đủ
nhiều thứ điều kiện.
2)-
Phân Biệt Y: là chỉ cho Thức thứ sáu.
3)-
Nhiễm Tịnh Y: là chỉ cho Thức thứ bảy.
4)-
Căn Bản Y: là chỉ cho Thức thứ tám.
9
DUYÊN:
1.
Khơng
2.
Minh
3.
Căn
4.
Cảnh
5.
Tác Ý
6.
Phân Biệt Y
7.
Nhiễm Tịnh Y
8.
Căn Bản Y
9.
Chủng Tử Y
THỨC DUYÊN:
1.-
Nhãn Thức đầy đủ 9 Duyên nĩi trên.
2.- Nhĩ
Thức chỉ cĩ 8 Duyên, thiếu Duyên thứ 2 là Minh.
3.- Tỷ
Thức chỉ cĩ 7 Duyên, thiếu 2 Duyên là Khơng và Minh.
4.-
Thiệt Thức chỉ cĩ 7 Duyên, thiếu 2 Duyên là Khơng và
Minh.
5.-
Thân Thức chỉ cĩ 7 Duyên, thiếu 2 Duyên là Khơng và Minh.
6.- Ý
Thức chỉ cĩ 5 Duyên, thiếu 4 Duyên là Khơng, Minh, Phân Biệt
Y và Nhiễm Tịnh Y.
7.-
Thức Mạt Na chỉ cĩ 3 Duyên, thiếu 6 Duyên là Khơng,
Minh,
Căn, Cảnh, Phân Biệt Y,
Nhiễm Tịnh Y.
8.-
Thức A Lại Da chỉ cĩ 4 Duyên, thiếu 5 Duyên là Khơng,
Minh,
Căn, Phân Biệt Y, Căn Bản
Y.
BÀI KỆ TÁM THỨC 9 DUYÊN
1.
Nhãn Thức cửu duyên sanh
2.
Nhĩ Thức Duy Tùng bát,
3.
Tỷ Thiệt Thân tam thất,
4.
Hậu tam ngũ tam tứ,
5.
Nhược gia Đẳng Vơ
Gián,
6.
Tùng đầu các gia nhất.
Nghĩa là:
1.
Nhãn Thức đủ 9 duyên mới
phát sanh,
2.
Nhĩ Thức chỉ theo 8 duyên,
3.
Tỷ, Thiệt, Thân ba Thức
chỉ cĩ 7 duyên,
4.
Ba Thức sau, Ý Thức chỉ
cĩ 5 duyên, Mạt Na Thức chỉ cĩ 3 duyên, Thức A Lại
Da chỉ cĩ 4 duyên,
5.
Nếu cộng thêm Đẳng
Vơ Gián Duyên,
6.
Từ nơi đầu các Duyên
cộng thêm một (Đẳng Vơ Gián Duyên)
Giải
Thích Cho Rõ Hơn:
1.- Nhãn Thức đã cĩ 9 Duyên, cộng
thêm 1 Duyên Đẳng Vơ Gián
thành 10 Duyên.
2.- Nhĩ Thức đã cĩ 8 Duyên,
cộng thêm 1 Duyên Đẳng Vơ Gián
thành 9 Duyên,
3.- Tỷ, Thiệt, Thân ba Thức,
mỗi Thức đã cĩ 7 Duyên, cộng thêm 1
Duyên Đẳng Vơ Gián cho mỗi
Thức thành 8 Duyên cho mỗi
Thức.
4.- Ý Thức đã cĩ 5 Duyên, cộng
thêm 1 Duyên Đẳng Vơ Gián thành
6 Duyên,
5.- Mạt Na Thức đã cĩ 3
Duyên, cộng thêm 1 Duyên Đẳng Vơ Gián
thành 4 Duyên.
6.- Thức A Lại Da đã cĩ 4
Duyên, cộng thêm 1 Duyên Đẳng Vơ Gián
thành 5 Duyên.
Địa Vị Các Duyên
1.
Khơng, Minh thuộc Tăng Thượng
Duyên cho Thức.
2.
Căn, Cảnh thuộc Sở
Duyên Duyên của Thức.
3.
Tác Ý, Phân Biệt Y, Nhiễm Tịnh
Y thuộc Tăng Thượng Duyên cho Thức.
4.
Căn Bản Y, Chủng Tử
Y thuộc Thân Nhân Duyên của Thức.
Các Thức
độc nhất làm chủ
|
1)-
Độc Đầu Ý Thức: là Ý Thức
khơng nương nơi cảnh bên ngồi,
đơn độc mà khởi
tác dụng nên gọi là Độc Đầu Ý Thức. Như
Ý
Thức trong định,
Ý Thức trong mộng, Ý Thức tán loạn đều là
Độc Đầu Ý Thức.
2)- Động Thân Nghiệp: là
nghiệp do thân hành động tạo nên, gồm
cĩ ba nghiệp: Sát, Đạo
và Dâm.
3)- Phát Ngữ Nghiệp:là
nghiệp do lời nĩi tạo nên, gồm cĩ bốn
nghiệp: Vọng ngữ,
Lưỡng thiệt, Ác khẩu và Ỷ ngữ.
4)- Dẫn Mãn hai Nghiệp: Dẫn
Nghiệp nghĩa là Ý Thức thứ sáu
tạo thành Dẫn Nghiệp,
nghiệp này cĩ khả năng dẫn dắt Thức
thứ tám thọ lấy
tổng báo Dị Thục nơi năm cõi. Mãn Nghiệp
nghĩa là thứ nghiệp
cĩ khả năng lơi kéo Thức thứ tám thọ lấy
biệt báo khổ lạc..v..v....
nơi năm cõi.
Độc
Tán
Ý Thức
(Tán vị Ý Thức)
|
1)- Ngũ Câu Ý Thức: nghĩa
là Ý Thức hợp tác với năm Thức
trước
để hiểu biết trần cảnh bên ngồi.
2)- Bất Câu Ý Thức: Ý Thức
sinh hoạt độc lập khơng cĩ năm
Thức
trước hợp tác.
3)- Minh Liễu Ý Thức: Ý Thức
hiểu biết sự vật rõ ràng chính xác
khơng
lầm lẫn.
4)- Ngũ Đồng Duyên Ý Thức: nghĩa
là Ý Thức cùng với năm
Thức trước đồng
duyên cảnh.
5)- Bất Đồng Duyên Ý Thức:
Ý
Thức khơng cùng với năm Thức
trước
đồng duyên cảnh.
6)- Ngũ Hậu Ý Thức: Ý Thức
sinh hoạt sau khi hợp tác với năm
Thức
trước duyên cảnh.
7)- Độc Đầu Ý Thức: Ý Thức
tự động sinh hoạt những cảnh giới
riêng
biệt của mình mà khơng cần đến năm Thức
trước hợp tác.
8)- Độc Đầu Ý Thức: gồm
cĩ Định Trung Ý Thức, Độc Tán Ý
Thức,
Mộng Trung Ý Thức.
Khởi
đầy đủ hoặc khơng đầy đủ
|
Thùy Miên (Khi
Khơng cĩ mộng)
|
1)-
Nhiễm Cĩ Ngã: nghĩa là Nhiễm cĩ Ngã Si, Ngã
Kiến, Ngã Mạn,
Ngã Ái.
Năng chấp
ngã (năng tư lương)
|
Ngã chấp
(Ngã tướng: Hữu tình hơn mê nơi trong ngã tướng)
|
Ngã Thể
của
sở chấp (chỗ Tư
Lương)
|
Cái Ngã của
năng chấp...Mạt Na Thức (Tư Lương)...
Tác dụng của Mạt Na.
|
Thức
thứ bảy...Liễu biệt sự tác dụng của
Thức thứ tám.
|
Ý Căn...
trợ
giúp lâu dài sự tác dụng của Ý Thức.
|
Cái Ngã của
sở chấp... A Lại Da
|
1)- Thức A Lại Da: là
nghĩa hàm tạng, gồm cĩ: Năng Tạng, Sở
Tạng,
Ngã Ái Chấp Tạng.
2)- Dị Thời Nhi Thục: từ
khi sanh cho đến chín mùi khác thời
gian,
nhân và quả khơng đồng một thời gian.
3)- Dị Loại Nhi Thục: từ
khi sanh cho đến chín mùi khơng cùng
một
loại, quả báo tánh vơ ký.
4)- Biến Dị Nhi Thục: từ
khi sanh cho đến chín mùi cĩ biến đổi
khác
tướng, tự chuyển nhân duyên.
5)- Đến Trước Đi
Sau:
chỉ Thức thứ tám, khi sanh đến trước,
khi
chết
đi sau.
(A)
Năng Tạng (giữ
gìn chủng tử) Thức thứ tám
|
(Sở
Tạng)................................Chủng Tử
|
(Năng Tạng)................Bảy
Chuyển Thức
|
(Sở
Tạng) (Thọ Huân).........Thức thứ tám
|
(Năng Chấp
Tạng)............Thức thứ bảy
|
Chỗ
Chấp Tạng (Ngã ái duyên chấp)..... Thức thứ
tám
|
(B)
(C)
(D)
Chủng
Tử của các pháp....Cơng Năng.... đình chỉ
tĩnh lặng chìm ẩn.
|
Hiện
hành của các pháp.... sự vật........ ...phát hiện lưu
hành.
|
(E)
Tập
Khí... .......bất đọan
|
Nhị thủ
tập khí.....Tướng
Huân Tập
|
(F)
Học
thuyết
Chủng Tử phân ba loại
|
A.- Học thuyết căn cứ nơi sự
sanh khởi
|
B.- Học
thuyết căn cứ nơi Hữu Lậu và Vơ Lậu.
|
C.- Học
thuyến căn cứ nơi ba Tánh
|
Lại
cĩ tên là Bản Tánh Trụ Chủng
|
Ngồi đời gọi
là Hậu Thiên
|
Lại
cĩ tên là Tập Sở Thành Chủng Tử
|
Trong ba cõi
sáu đường,
chủng tử thọ nhận sanh tử
|
Chủng
Tử xuấn thế Khi vào Kiến
Đạo cho đến ngơi vị A La Hán quả, Phật
quả.
|
Chủng Tử Thiện, Chủng Tử
Ác, Chủng Tử Vơ Ký.
|
(G)
(H)
Thọ
dụng chung------------------------như sơn hà đại
địa
|
Khơng thọ
dụng chung, như ruộng vườn, nhà cữa , y
phục
|
Thọ
dụng chung-----------------------Phù Trần Căn
|
Khơng thọ
dụng chung---như Thắng Nghĩa Căn
|
(I)
(Chất)
Thân Thể tự mình,
(Tướng)
|
Tướng
Phần
của
tự A Lại Da
|
Hình Tướng
con mắt của người khác.......
|
Chủng
Tử cộng tướng biến và duyên
|
Chủng
tử khơng cộng tướng biến và duyên (Tự
mình)
|
(J)
Năng Sanh (Nhân)
Thức
thứ
tám
Chỗ
sanh (Quả)
Chỗ
Sanh (Quả)
|
Chủng
sanh hiện
Hiện
huân chủng
(k)
Nhân
Quả
Dị
Thời
(L)
1.- Nội
y tức là chủng tử
|
2.- Ngoại duyên như
Nhãn Thức
|
3.- Cần
Nhãn Căn, Sắc Trần
|
(M)
(N)
(O)
Bảy Thức
Trước
và
Nghiệp
Lực
|
Chú Ý Bốn
1)- “Bốn Bộ Tám Thức”: Bộ
Năm Thức Trước, Bộ Thức Thứ
Sáu, Bộ Thức Thứ Bảy,
Bộ Thức Thứ Tám.
2)- “Danh Xưng Đồng Dị”:
Danh xưng đồng là Tâm, danh xưng
cũng đồng là Thức,
Danh xưng dị thứ tám là Tâm, danh xưng
dị thứ bảy là Ý, ngồi
ra danh xưng là Thức.
3)- “Sự khác biệt danh xưng”:
tức là năm Uẩn, năm Thức trước
tức là Thọ, Thức thứ
sáu tức là Tưởng, Thức thứ bảy tức là \
Hành, Thức thứ tám tức
là Thức.
4)- “Cơng Dụng Tám Thức”: năm
Thức trước thì phân biệt, Thức
thứ sáu luơn chuyển đổi
khác, Thức thứ bảy luơn tư lương,
Thức thứ tám chứa nhĩm
Dị Thục.
VII.-
TÂM ĐỘNG BIẾN THỨC,
CẢNH NHÂN THỨC HIỆN:
Nguyên vì tất cả chúng sanh
đều do một niệm mà sanh (tự tâm biến động
mà thành). Tất cả sự việc thiện ác..v..v.....
đều do một niệm sai lầm mà sanh khởi, lý do
tại sao, nên biết sự biến động của tâm
là con mắt của tâm đối với cảnh mà sanh khởi,
tâm bị biến là nguyên nhân khiến cho tâm ý nhận lấy
cảnh luân chuyển mà sanh khởi; cịn nữa cũng nên biết
con mắt của tâm khi chưa đối cảnh, khi chưa
nhận lấy cảnh luân chuyển, khi cĩ tưởng, khi
khơng tưởng, khi ngủ nghỉ cĩ mộng, khi khơng mộng,
cho đến tất cả thời gian, sát na sát na, niệm
niệm sanh diệt là khơng lúc nào khơng biến động (Tâm
động tức là vơ minh). Cho nên kẻ phàm phu khơng thể
thấu rõ chính mình vốn đầy đủ chân tâm thường
trụ (Chân tâm thường như khơng động). Chỗ
gọi vốn đầy đủ chân tâm thường như
khơng động chính là niệm chân thường vơ niệm,
nghĩa là khơng cĩ động trên động (Tuỳ duyên mà
bất biến, bất biến mà tùy duyên). Kẻ phàm phu
đều do một niệm từ vơ thỉ che lấp chân
tâm mà hiển bày vọng tâm. Nguyên nhân kẻ phàm phu khơng biết
tâm này biến động như thế nào. Sự biến
động của tâm gồm cĩ: một sự biến
động thơ trọng, hai sự biến động vi tế,
ba sự biến động nhỏ nhẹ, bốn sự
biến động nhỏ nhẹ trong nhỏ nhẹ
(Động tức là niệm).Vì thế xin đem bốn
thứ động đây giải thích sơ lược như
sau:
1)- Biến Động Thơ Trọng:
nghĩa là tâm niệm của Ý Thức thứ sáu cùng
với năm
Thức trước (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân)
đồng thời cùng nhau phát khởi (so lường xét kỹ
mà khơng phải thường hằng), đây chính là Ngũ Câu
Ý Thức.
a. Ý Thức
với Nhãn Thức cùng nhau phát khởi gọi là “Nhãn Câu Ý Thức”.
b. Ý Thức
với Nhĩ Thức cùng nhau phát khởi gọi là “Nhĩ
Câu Ý Thức”
c. Ý Thức
với Tỷ Thức cùng nhau phát khởi gọi là “Tỷ
Câu Ý Thức”.
d. Ý Thức
với Thiệt Thức cùng nhau phát khởi gọi là “Thiệt
Câu Ý Thức”.
e. Ý Thức
với Thân Thức cùng nhau phát khởi gọi là “Thân Câu Ý Thức”.
Hoặc một Thức cùng với
Ý Thức phát khởi, hoặc hai Thức cùng
với Ý Thức
phát khởi, hoặc ba Thức cùng với Ý Thức phát khởi,
hoặc năm Thức đều cùng khơng nhất định
phải xem cĩ đủ duyên hay khơng đủ duyên, gọi
chung cho là Ngũ Câu Ý Thức. Hiện trạng của nĩ tức
là chúng ta hiện tiền đối với cảnh phan duyên
thấy, nghe, hiểu, biết, phát sanh vọng tâm phân biệt
lo nghĩ. Suốt ngày mê man nhiễu loạn, chạy đua
theo trần cảnh, cảnh
hiện thì cĩ, cảnh diệt thì khơng, sanh khởi hoại
diệt vơ thường, lìa sáu trần trước mắt
như sắc, thinh, hương..v..v..... tâm đây vốn khơng,
hư vọng khơng thật. Giống như những làn sĩng
nước trên biển cả gặp giĩ thì phát khởi, giĩ
yên thì sĩng lặn, theo giĩ sanh diệt vốn khơng tự thể,
đây chỉ là nước của biển cả thỉnh
thoảng khởi động một thứ hiện tượng
tích tụ bọt nước. Hơm nay vọng tâm đây lại
cũng giống như thế, nhưng nĩ khơng đủ điều
khiển bản tâm của chúng ta.
2)-
Biến Động Vi Tế: Ý Thức thứ
sáu (Độc Đầu Ý Thức) tức là chỉ
cho tâm niệm
đơn độc của Ý Thức thứ sáu khi khởi
lên (Tư lương xét kỹ mà khơng phải thường
xuyên). Độc Đầu nghĩa là Ý Thức khơng cùng với
năm Thức trước đồng thời phát khởi
gọi là “Độc Đầu”. Cịn Ý Thức cùng với năm
Thức trước đồng thời phát khởi gọi
là “Ngũ Câu”. “Độc Đầu Ý Thức” đây cĩ bốn
thứ danh xưng:
a)-
Mộng Trung Độc Đầu Ý Thức: đây là Ý
Thức duyên cảnh
giới trong
“Mộng” khi ngủ nghỉ.
b)-
Định Trung Độc Đầu Ý Thức: đây
là Ý Thức duyên cảnh
giới trong
“Định” khi “Thiền Định”.
c)-
Tán Vị Độc Đầu Ý Thức: đây khơng phải
ở trong “Mộng”
và cũng khơng
phải ở trong “Định”, mà chính là chúng ta khi
“Chưa Ngủ Nghỉ”, do
tâm khởi lên tán loạn. Trước kia, hiện
tại và vị lai vọng
tưởng rất nhiều, nhơn đĩ gọi là “Tán Vị
Độc
Đầu Ý Thức”.
d)-
Cuồng Loạn Độc Đầu Ý Thức: Cuồng
tức là “Điên Cuồng”
giống như
người bệnh thần kinh, tự nĩi tự bảo,
khiến người
bàng quan khơng nhìn thấy, mà Ý
Thức của kẻ thần kinh
bệnh hoạn, chọn lấy
những cảnh giới lùi lại làm chỗ để
duyên, đây gọi là “Cuồng
Loạn Độc Đầu Ý Thức”.
3)-
Biến Động Nhỏ Nhẹ: Thức thứ
bảy (Ý Căn) tức là giác quan
của Thức
thứ sáu ở trước nên gọi là Ý Căn, cũng gọi
là Tâm Sanh Diệt, nghĩa là Tâm Thức Ý Căn đây trong
tất cả thời gian đều khởi lên tâm niệm
vi tế sát na sanh diệt (Cũng thường xuyên cũng
tư lương xét kỹ). Nhưng tâm niệm của sáu
Thức trước sinh hoạt cĩ gián đoạn, trái lại
Tâm sanh diệt của Thức thứ bảy tự sanh tự
diệt, mỗi mỗi sát na niệm trước sanh niệm
sau diệt liên tục khơng ngừng, che đậy bản
lai diện mục, cho nên gọi là thường xuyên hành
động vơ minh. Thức thứ bảy hồn tồn mang theo nhãn
cảnh của “Kiến Phần Vơ Minh” mà quán sát “Kiến Phần”
của Thức thứ tám. Xưa nay khơng phải một mà
nĩ ngộ nhận cho là một, xưa nay khơng phải thường
mà nĩ ngộ nhận cho là thường, xưa nay khơng phải
biến mà nĩ ngộ nhận cho là “biến”, xưa nay khơng
phải chủ tể mà nĩ ngộ nhận cho là cĩ “ Chủ
Tể”. Chấp Thức thứ tám làm bản ngã của mình
cho nên sanh ra ngã chấp, tức là Ngã Kiến, nhân cĩ “Vọng
Kiến” cho nên chọn lấy cái khơng phải cho là phải,
chấp cái khơng cho là cĩ. Sự chấp ngã này đã thâm căn
cố đế khơng dễ gì nhổ ra, nĩ chính là căn nguyên của sanh tử
làm vơ minh tâm thức. Tâm sanh diệt này cưởng bức
cho là Thức thứ bảy, kỳ thật chính là sự
động niệm của Thức thứ tám.
*-Lược Cử Một Thí
Dụ: Thức
thứ tám như biển lớn; bảy Thức trước
như sĩng ba đào hiện khởi; căn cảnh tác ý..v..v....
như cuồng phong; chủng tử như nước chảy.
*-Riêng đem sự
quan hệ của Thức thứ tám và Thức thứ bảy
trình
bày
như đồ biểu sau đây:
Chủng
Tử---------------------Nước chảy
|
Thức
thứ tám ------------------ Biển Cả
|
Bảy
Thức trước hiện khởi-----------sĩng ba
đào
|
Căn, Cảnh, Tác Ý..v..v...--cuồng phong
|
4)- Biến
Động Nhỏ Nhẹ Trong Nhõ Nhẹ: Thức
thứ tám (Tạng
Thức)
động niệm vi tế vơ cùng (Thường xuyên tư
lương mà khơng
phải
xét kỹ).Thức thứ tám bị các pháp hiện hành của
bảy Thức trước
(Pháp
tạp nhiễm) làm chỗ huân tập, cho nên cũng gọi
là Vơ Minh
Tạng
Thức.
A.-
SƠ LƯỢC VÀI NÉT VÀ BỘ PHẬN CỦA VẠN PHÁP
(Giải Thích Vạn
Pháp Duy Thức)
1)-
Vạn Pháp Đều Cĩ Ba Phần:
2)-
“Thức” và “Cảnh” Khởi Dụng:
Thuyết
minh bốn Phần, Tâm Sở
|
Thiết
lập hợp đồng chứng nhận hai bên
|
Quan Quyền
phê chuẩn hợp đồng
|
Hai phần
duyên lẫn nhau khơng phải kẻ thứ năm.
|
CHÚ
Ý BỐN PHẦN:
Tướng,
Kiến thuộc Tướng, hai Chứng thuộc Tánh,
Tướng sanh ra từ Tánh
Đề
cử con ốc sên để thí dụ.
|
Hai Chứng
duyên lẫn nhau đề cử quả cân làm cao thấp.
|
1)-
Tâm Sở: là chỉ cho Tâm Vương và Tâm Sở.
2)- Tướng Phần: là chỉ
cho sắc pháp, vật chất,
cĩ hình tượng khắp nơi
như sơn hà đại địa.
3)-
Kiến Phần: là chỉ cho Tâm Pháp tinh thần,
khơng hình tượng như thấy,
nghe, ngộ, biết.
4)- Tự Chứng Phần: cũng
gọi là Tự Thể Phần là
chỗ nương tựa của
Kiến và Tướng hai phần.
5)-
Chứng Tự Chứng Phần: Tự Chứng
Phần là thể,
Chứng Tự
Chứng Phần là dụng.
6)-
Tướng Kiến Thuộc Tướng: nghĩa
là Tướng Phấn và Kiến Phần
thuộc nơi Thể (Tánh), Tưĩng
và Dụng là của các pháp, Tướng ở đây
là một trong ba phần.
7)-
Một Chứng Thuộc Tánh: nghĩa là Tự
Chứng Phần, Chứng Tự
Chứng Phần, là thuộc Thể
trong ba Phần của các pháp.
8)-
Một Chứng Hổ Tương Duyên: Tự
Chứng Phần là thể, Chứng Tự
Chứng Phần là dụng, sinh
hoạt giúp đỡ lẫn nhau vừa làm chỗ nương
tựa và vừa duyên thể
để sanh ra Dụng, Dụng đây khơng lìa Thể.
9)-
Đề Cử Quả Cân Làm Cao Thấp Để Thí Dụ: Quả
Cân tức là Cái
Cân, đề cử cái cân để
làm thí dụ, cũng như bên trái của cái cân nếu
cao lên thì bên phải của các cân
phải thấp xuống, bên phải của cái
cân nếu cao lên thì bên trái của
cái cân phải thấp xuống, Tự Chứng
Phần và Chứng Tự Chứng
Phần cũng là như thế, nương nơi thể
đế
khởi tác dụng và nhiếp lấy
dụng để quy về thể.
Dùng Đồ Hình để giải
thích và
biểu hiện Ơ Trịn để
thuyết minh:
(A)
(B)
(C)
Năng Phân
Biệt---------
Thức (Kiến Phần)
|
Sở
Phân
Biệt.......Ngã Pháp (Tướng Phần)
|
(D)
Chứng
Tự
Chứng Phần (Cơng Năng
Thân Chứng Tự Chứng Phần thứ
ba,
duyên Kiến Phần khơng sai lầm.
|
Tự
Chứng Phần (Chỗ nương tựa của
Tướng, Kiến hai phần, cơng năng thân chứng
Kiến Phần, duyên Kiến Phần khơng sai lầm.
|
Kiến
Phần (là nghĩa Năng Duyên, nghĩa là Tâm
Tánh hiểu biết, thường chiếu soi những cảnh
phía trước.
|
Tướng
Phần (Tướng nghĩa là tướng trạng,
là nghĩa sở duyên, nếu duyên thấy Tâm thì Tâm
cũng là Tướng, nhưng đây chỉ là Sở
Duyên.
|
1)- Tướng
Phần------- Sở Duyên
|
2)- Kiến Phần-------Năng
Duyên
|
3)- Tự
Chứng Phần----------
năng
Duyên Kiến Phần
|
4)- Chứng
Tự Chứng Phần-------
năng
duyên Tự Chứng Phần.
|
(E)
Tâm
Vương, Tâm Sở, Bốn Phần:
Tướng
Phần: tức là Tướng của các pháp để
thấy.
|
Kiến
Phần: tức là Dụng để duyên các pháp.
|
Tự
Chứng Phần: nghĩa là chỗ chứng biết của
Kiến Phần năng duyên.
|
Chứng
Tự Chứng Phần: nghĩa là khả năng chứng
biết Tự Chứng Phần.
|
(F)
Tâm
Vương, Tâm Sở, Bốn Phần:
Sơn
hà đại địa..v..v......
|
Tác dụng
thường phân biệt sơn hà.....
|
Chỗ
nương tựa của hai phần trước, lại
thường duyên Kiến Phần.
|
Như
Hợp Đồng của anh A và anh B cùng nhau kiến lập.
|
Thường
duyên Tự Chứng Phần.
|
Như
Quan Quyền phê chuẩn Hợp Đồng.
|
(G)
Ý nghĩa chân
vọng hồ hợp, khơng phải một khơng phải khác, tên
A Lại Da Thức tức là Thức thứ tám. Thức thứ
tám đây phân làm hai phần Kiến Phần và Tướng
Phần, Kiến Phần biến ra bảy Thức như
Nhãn Thức, Nhĩ Thức.........Mạt Na Thức; Tướng
Phần biến thành than căn, khí giới, bên trong cĩ sáu căn
chấp thọ cho nên gọi là Thân Tướng Phần, bên
ngồi khí giới khơng chấp thọ, cho nên làm Sơ Tướng
Phần, hai thứ Tướng Phần đây đều
do bốn Đại hợp thành, bốn Đại là năng
tạo, nương nơi hai Tướng đây làm sở
tạo, tám Thức là chủ năng biến. Đủ rõ
trong Duy Thức Luận.
(H)
Nương
Tướng Phần Thức thứ tám làm bản chất
|
Từ
nơi Thức biến tướng để duyên
|
Nương
nơi Pháp Trần làm bản chất
|
Từ
nơi Thức biến tướng để duyên
|
(I)
Trong Tự Thể của Thức thứ
tám
|
Cùng Chủng
Tử ba Phần
sau
|
Trong Tự Thể
của Thức thứ tám
|
(J)
(K)
(L)
Thức Tánh
Hai phần bên trong
|
Chứng
Tự Chứng Phần (Đào Nhân)
|
Hai Phần
bên
Ngồi (Thức
Tướng)
|
(M)
(N)
Chỗ
Suy Xét Giống như
Vải Tướng Kiến
|
Năng Suy Xét
Giống
như Thước Kiến Tự
Chứng
|
Quả
Suy Xét Giống như
Trí Tự Chứng Chứng Tự Chứng
|
(O)
Người
xưa
Thí dụ
bốn Phần
trong hai thí dụ
|
(P)
(Q)
Kiến,
Tướng hai phần giống như hai sừng Con ốc sên
|
Thân và đầu con ốc sên tức
là Tự Chứng Phần
|
Vỏ con ốc sên giống
như Chứng Tự Chứng Phần
|
3)-
Năng và Sở của Thức
Cĩ ba Lượng
của Thức năng duyên
|
Hiện tại khơng đúng
hiện cảnh
|
So sánh tương
tợ với cảnh tương tợ
|
Mặt trăng đi quây
nghiêng
|
Thấy
nhà cửa
là hiểu đúng nhà cử
|
Mặt trăng khơng trịn
khuyết
|
THỨC LƯỢNG: Cái
gì gọi là Thức Lượng? Chúng ta cĩ biết cảnh
đối tượng là sở duyên khơng? Thức là năng
duyên do duyên đến cảnh sở duyên cho nên mới sanh
ra Thức Lượng. Thức Lượng là chỉ cho
nghĩa đo lường suy tính, như người đo
vãi biết được dài ngắn của vãi, nên gọi
là lượng. Tâm ở nơi cảnh giới phân biệt
hiểu biết đối tượng, đồng thời
căn cứ nơi sự biện biệt trắng đen,
phê phán xác định thị phi, tà chánh, đây chính là cơng dụng
của lượng; sở dĩ nĩi rằng Thức Lượng
là tùy theo nhân tố khơng đồng, chỗ được
kết quả cũng cĩ sự sai biệt, do đĩ nĩi đến
“Lượng”, tổng quát cĩ ba loại và phối hợp thành
ba cảnh:
Lượng
là đo lường suy tính
|
Do cĩ so sánh bằng mà biết nĩ là đúng
|
Do đồng
thời Ý Thức thiếu suy nghĩ, tuỳ sự thấy
theo đĩ liền phân biệt
|
Lượng
là đo lường suy tính
|
Như
hiện tượng riêng biệt khơng giả trong cái gương
|
Thấy
núi chính là núi,
Thấy nước chính là nước
|
Lượng
là đo lường xuy tính
|
Nếu
Tâm khi duyên cảnh, nơi Tâm sai lầm
|
Phân biệt hư
vọng khơng thể chánh tín
|
Cảnh
khơng xứng với Tâm phân biệt nhân ngã
|
“Cảnh”
sở duyên của Thức cĩ ba:
|
Hoặc sự
hoặc lý hiển hiện khơng hư dối
|
Nĩ thuần
là tánh chất, khơng phải từ đo lường suy
tính
|
Nương
nơi bản chất phát khởi giải thích khác biệt
|
Giải
thích cảnh tượng trái với bản chất mà
mang lấy bản chất khác
|
Khơng dựa
vào bản chất Tâm duyên ba cõi
|
Thể
khơng hiển hiện Tâm khởi ảnh tượng.
|
Sắc
chất núi, tiếng chuơng ngân, nhìn thấy núi, nghe tiếng
chuơng.
|
Mộng
ảo chỗ hiện và giả tưởng..v..v....
|
Đêm tối
nhìn thấy vật nghi là gặp ma.
|
Thức
Cảnh: Thức Cảnh nghĩa là gì? Các Thức khi sanh
khởi tác dụng tất nhiên phải cĩ cảnh giới,
tác là cảnh giới sở duyên của Thức. Thức nương
tựa nơi cảnh giới đây phát sanh tác dụng, lại
lợi dụng mỗi tác dụng đây đi nhận thức
rõ cảnh tướng sở duyên mới cĩ thể hiểu
rành cảnh tướng là vật gì, cho nên nĩi Thức là năng
nhận thức và cảnh là sở nhận thức, cĩ năng
nhận thức thì tất nhiên phải cĩ sở nhận thức,
nhân đây (Nhận) Thức tất nhiên phải cĩ cảnh
(đối tượng), thế thì trạng thái cảnh giới
của Thức như thế nào? Nếu như căn cứ
nơi Thức của các chủng loại khác nhau chính là cĩ
các thứ cảnh tướng sản sanh khơng giống
nhau. Chẳng qua thể của cảnh tướng cĩ giả
cĩ thật bất đồng, phân loại cĩ ba thứ: Tánh
Cảnh, Đới Chất Cảnh và Độc Ảnh Cảnh:
Tánh
Cảnh: Tánh là thật là nĩi thể của thứ cảnh
này cĩ thật tại, khơng phải là thứ hư vọng
giả thiết, nguyên vì nĩ khơng phải là từ nơi tâm tính
tốn suy lường sanh khởi. Lại nữa Tâm ở nơi
cảnh thể này thật chứng khơng cĩ sai lầm, chuẩn
bị đầy đủ thứ ý nghĩa để được
gọi là Tánh Cảnh và thứ Tánh Cảnh đây thơng thường
là pháp hữu vi, pháp vơ vi tán định nhiễm tịnh..v..v....
đều khơng phải là khơng hoa thủy nguyệt lơng rùa sừng
thỏ của Biến Kế Sở Chấp? Như là Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc, Tâm Vương, Tâm Sở. Thể
pháp chân như đều là cảnh giới thật sự
thật lý.
Đới
Chất Cảnh: là chỉ cho Tâm và Tâm Sở,
Tâm Sở khi duyên tiếp xúc nơi cảnh giới bên ngồi,
từ cảnh giới bản chất sanh khởi các thứ
thấy biết sai lầm giải thích sai lầm khơng giống
nhau. Nĩi một cách khác, căn cứ nơi bản chất
phát khởi tướng phần khác làm cảnh thân cận
cho Thức, mà cảnh thân cận của Thức đây tất
nhiên là căn cứ nơi bản chất, nhưng lại
sử dụng sự tưởng tượng của mình
đi suy tính so sánh, liền sanh khởi thấy biết cảnh
giới sai lầm, giống như Thức duyên các uẩn
chấp cho là ngã, mà cảnh giới của ngã này phải nương
gá nơi năm uẩn để sanh khởi, mặc dù nương
gá nơi năm uẩn để sanh khởi, thực ra cảnh
giới của ngã đây chính là từ nơi tâm của mình
mê lầm nơi lý thật tướng của các pháp, cho
nên sản sanh chấp lấy thân của ngũ uẩn cho
là tự ngã thật tại? Lao tù khơng thể phá, cũng như
người đi đêm xem thấy người bằng rơm,
bất ngờ lầm cho là quỷ thật, khi cảnh quỷ
từ nơi tâm sanh khởi, lẽ tất nhiên chúng phải
nương gá nơi người rơm, mà người rơm
kia đều khơng phải quỷ thật, nĩ chính là thấy
sai ý lầm chấp cho là quỷ thật, liền sanh khởi
tâm lý sợ hại, thứ cảnh tướng đây từ
nơi cảnh thật thể dẫn phát khởi lên, cho nên
gọi là Đới Chất Cảnh.
Độc
Ảnh Cảnh: độc ảnh tức là cảnh, nĩ
sanh ra từ nơi tâm, tức là tướng phần do Thức
sanh khởi, khơng phải nương gá nơi bản chất,
như là duyên nơi những sự việc của quá khứ
hoặc của vị lai, mà hiện tại những cảnh
đĩ khơng hiện tiền, sử dụng ký ức, chạy
theo ý nghĩ, hoặc tự ý thiết lập tư tưởng
hoặc suy cứu các pháp để biết đều là ảnh
tượng do tâm sanh khởi, những sự việc suy tư
đây đều khơng phải căn cứ nơi các sắc
pháp cĩ thể chất chân thật, cho nên gọi là Độc
Ảnh. Những Độc Ảnh đây giống như cảnh
mộng, đúng là loại cảnh giả huyễn đều
thuộc về cảnh đã được nội kết.
Một lần nữa, ba loại cảnh trên đây xin trình
bày tường tận như sau:
Tánh
Cảnh: khơng
phải do tâm sanh, khi Thức duyên nơi cảnh đĩ, chính
Thức nhìn thấy khơng lầm, tự nĩ cĩ thể tánh.
Đới
Chất Cảnh: chính
do tâm sanh, nhưng phải căn cứ nơi cảnh cĩ bản
chất, mặc dù do tâm sanh, nhưng khi Thức duyên nơi
cảnh cĩ bản chất liền thấy biết khơng chính
xác.
Độc
Ảnh Cảnh: Mặc
dù do tâm sanh, tự nĩ khơng cĩ thể tánh, kẻ hiểu khơng
nhất định là đúng hay là sai, tùy theo cảnh đĩ
sanh khởi.
Năm Thức
trước và Tướng Phần Tâm Sở tương
ưng
|
Thức
thứ sáu và Tướng Phần Tâm Sở tương ưng
|
Thức
thứ bảy và Tướng Phần Tâm Sở tương
ưng
|
Thức
thứ tám và Tướng Phần Tâm Sở tương ưng
|
B.-
DUY THỨC TU QUÁN:
1)- Pháp Quán Ba Tánh:
Tánh Biến
Kế Sở Chấp (Vọng
cĩ)
|
Tánh Viên
Thành Thật (Chân cĩ)
|
Tu theo thứ
tự năm lớp phân chia đây
|
Do Chánh Trí
mà chứng
Chân Như
|
Thể
khơng phải cĩ khơng phải khơng
|
Ba tánh đối
với Vọng và Trung Đạo
|
2)- Quán Năm Lớp Duy Thức:
Loại bỏ
những pháp hư giả của Thức, lưu lại
những pháp hiện thật của Thức.
|
Xả
bỏ những cảnh hổn tạp Pháp Tướng của
Thức, Lưu lại những cảnh thuần túy pháp
Tánh của Thức.
|
Bỏ ngọn
ngành cùa Thức,
trở về phần bản thể của
Thức.
|
Làm mất
dạng phần yếu kém của Thức, hiển bày phần thù thắng của Thức..
|
Loại bỏ Thức Tướng,
chứng nhập Thức Tánh.
|
Những
pháp hư giả tức các cảnh ngồi Tâm
|
1)-
Loại bỏ
những pháp hư giả của Thức,
Lưu lại những pháp hiện thật
của Thức
|
Thể
và
Dụng khơng phải cĩ
|
Những
pháp hiện thật tức các pháp cĩ trong nội Tâm
|
Thể
và Dụng khơng phải khơng.
|
Thuộc Biến
Kế Sở Chấp (loại bỏ)
|
Thuộc
Y Tha và Viên Thành (lưu lại)
|
2)-
Xả
bỏ những cảnh hổn tạp Pháp Tướng của
Thức, lưu lại những cảnh thuần túy Pháp
Tánh của Thức.
|
Những
cảnh hổn tạp Pháp Tướng tức là những
cảnh Tướng Phần của sở duyên. (Xả
bỏ)
|
Những
cảnh thuần túy Pháp Tánh tức là những cảnh của
Tâm do ba Phần sau năng duyên.(lưu lại)
|
3)-
Bỏ ngọn
ngành của Thức,
trở về phần căn bản của
Thức
|
Ngọn ngành của Thức tức
là Kiến Tướng hai phần từ Thức sanh khởi
(bỏ)
|
Phần
căn bản của Thức tức là phần Tự Thể
của Thức cĩ hai Thủ: Năng và Sở (Trở về)
|
4)-
Làm mất
dạng phần yếu kém của Thức, hiển bày phần
thù thắng của Thức.
|
Phần
yếu kém của Thức là phần tám Thức Tâm Vương
bị các quần thần Tâm Sở khống chế (làm
mất dạng)
|
Phần
thù thắng của Thức là phần tự thể tám
Thức Tâm Vương làm chủ (hiển bày)
|
5)-
Loại
bỏ Thức Tướng, chứng nhập Pháp Tánh của
Thức
|
Thức
Tướng tức là sự
tướng của tám Thức Tâm Vương thuộc
“Y Tha Khời” (loại bỏ)
|
Pháp Tánh tức
là sự tướng của “Viên Thành Thật” thuộc
thật tánh nhị khơng (chứng nhập)
|
Thứ
nhất, Loại bỏ những pháp hư
giả của Thức, lưu lại những pháp hiện
thật của Thức
|
Thứ
hai, Xả
bỏ những cảnh hổn tạp Pháp Tướng của
Thức, lưu lại những cảnh thuần túy Pháp
Tánh của Thức
|
Thứ
ba, Bỏ ngọn
ngành của Thức, trở về phần căn bản
của Thức..
|
Thứ
tư, Làm
mất
dạng phần yếu kém của Thức, hiển bày phần
thù thắng của Thức.
|
Thứ
năm, Loại
bỏ Pháp Tướng, chứng nhập Pháp Tánh của
Thức.
|
Thứ
Hai, xả bỏ những cảnh hổn
tạp Pháp Tướng chủa Thức, lưu lại
những cảnh thuần túy Pháp Tánh của Thức.
|
Thứ
nhất, loại bỏ những pháp hư
giả của Thức, lưu lại những pháp hiện
thật của Thức
|
Lưu
lại
Y Tha và Viên
Thành Thật
|
Thứ
ba,
bỏ ngọn ngành của Thức, trở về phần
căn bản của Thức
|
Bỏ
hai
phần Kiến và Tướng
|
Thứ
Năm, loại bỏ Pháp
Tướng, chứng nhập Pháp Tánh của Thức.
|
Thứ
Tư, làm mất dạng phần yếu kém của
Thức, hiển bày phần thù thắng của Thức.
|
Chỗ
tương đối của Tâm Vương
|
Lưu lại
Y Tha và Viên Thành Thật
|
Bỏ hai
phần Kiến và Tướng
|
Chỗ
tương đối của Tâm Vương
|
2)- Chuyển Tám Thức thành bốn
Trí và ba Thân:
Tám Thức
chuyển thành Trí
|
Phẩm
hạnh của Tâm là bốn Trí Bồ Đề
|
Biến
thành Thắng Pháp quả Phật
|
Quan sát
đức
hạnh của tự và tha
|
Thành chỗ
tạo tác ba nghiệp
|
CHÚ
THÍCH:
Tư liệu
đây đã giảng nơi Đại Học Trung Nguyên tại
Dân Quốc năm 68, năm Dân Quốc 74 dạy Đại
Học Phùng Giáp, đồng thời đã từng dạy ở
Đài Đại, Thành Đại và Đại Chuyên Viện
Hiệu Phật Học Xã..v..v....., và cĩ tâm nghiên cứu Duy
Thức Học, sáng tác tư liệu tham khảo cho kẻ
sơ cơ, học giả dùng nĩ dễ dàng. Học Tăng
Huệ Luật tận lực hợp tác.
Chủng Tử Tướng
Phần Năm Thức
Chủng
Tử Tướng Phần Thức Thứ Tám
Chủng Từ Năng Duyên Năm
Thức
Chủng Tử Tướng
Phần Thức Thứ Tám
Chủng
Tử Tướng Phần Thức Thứ Sáu
Chủng
Tử Năng Duyên Thức Thứ Sáu
Chủng
Tử Năng Duyên Thức Thứ Sáu
Chủng
Tử Tướng Phần Thức Thứ Sáu
Chủng
Tử Năng Duyên Thức Thứ Tám
Chủng
Tử Năng Duyên Thức Thứ Tám
Chủng
Tử Tướng Phần Thức Thứ Bảy
Chủng
Tử Năng Duyên Thức Thứ Bảy.
|
VIII.-
KỆ HỒI HƯỚNG:
(Vì muốn
phổ biến cho nên kẻ ra vốn in ấn biếu tặng
và người thọ trì đọc tụng triển vọng
phổ biến khắp nơi)
Nguyện đem
cơng đức này, tiêu trừ hiện túc nghiệp,
Tăng trưởng
các phước huệ, viên thành thắng thiện căn,
Nơi cĩ kiếp
đao binh, và cùng đĩi kém cả,
Thảy
đều tiêu trừ hết, hồ bình được an khương,
Tất cả
kẻ ra vốn, triển vọng người lưu thơng,
Tổ Tiên được
siêu thăng, tất cả đều an lạc,
Thường
giĩ hồ mưa thuận, nhân dân tất khương ninh,
Pháp giới
các hàm linh, đồng chứng vơ thượng đạo.
Tái Bản tháng 9 năm
Trung Hoa Dân Quốc 82.
Việt dịch
xong ngày 05 tháng 08 năm 2014