LƯỢC
THUẬT
KHƠNG
SANH KHƠNG DIỆT
(Bất
Sanh Bất Diệt)
Tác
giả:
Cư
sĩ Lý Nhất Quang
Việt
dịch:
Thích
Thắng Hoan
Trước
khi thảo luận vấn đề Khơng Sanh Khơng Diệt,
đầu tiên nương theo “Pháp Hữu
Vi” chúng ta bàn đến vấn đề Cĩ Sanh Cĩ Diệt
để so sánh thì dễ bắt tay vào. Con người chúng
ta trong một thời kỳ sanh mạng kể từ khi
sanh ra cho đến khi chết, nếu dùng trí tuệ của
nhãn quang trầm tư quán sát kỹ thì mới biết rõ ràng
cĩ con đường sanh diệt biến hố liên tục từng
sát na, khơng cĩ một thời khắc nào đình chỉ lưu
lại khơng biến chuyển. Nếu như cĩ khoảng một
sát na dừng lại, thì ở trên lý luận
từ rày về sau dù bất cứ lý do gì đều khơng
thể khiến nĩ tiếp tục tái diễn chuyển biến
trở lại.
Thứ đạo lý này, nếu
sử dụng tế bào mới của Sanh Vật Học
hiện đại đã trình bày trao đổi để
suy luận thì cũng cĩ thể đạt đến kết
luận của sự trầm tư quán sát. Tế bào là do tế
bào cũ phân rẽ sản sanh tế bào mới (như
Đồ Hình (1),(2),(3),(4) biểu thị).
ĐỒ
HÌNH (1) (2) (3) (4) BIỂU THỊ:
(1)
(2)
(3)
(4)
Đồ Hình (1): Tế bào cũ
sau khi phân rẽ liền tiêu diệt gọi là “Diệt”.
Đồ Hình (4): Sau khi phân rẽ,
hai tế bào mới phát sanh gọi là “Sanh”.
Hiện nay các nhà
Sanh Vật Học cũng chỉ thảo luận đến
đây là chấm dứt. Nhưng vấn đề “Sát
na sanh diệt” đây chúng ta khơng phải chỉ quán sát trong
tưởng tượng mà tất nhiên cần phải nối
tiếp quán sát sâu vào then nữa. Trước hết xem
Đồ Hình (1) biến làm tế bào (2), bộ phận tế
bào cũ biến hố lõm xuống (Như Đồ Hình (2) cĩ A ở trong biểu thị); Nguyên nhân biến
hố như thế nào để phát khởi tế bào mới?
Đây là sự biến hố rất nhỏ phát
khởi khắp nơi trong bản thân tế bào cũ để
sanh ra hiện tượng lõm xuống. Sự biến
hố khắp nơi trong bản thân của tế bào cũ cũng
gọi là “Sanh Diệt”! Nếu như bảo tái diễn
truy cứu chiều sâu một lớp nữa thì nhất định
cĩ vi tế của vi tế sanh diệt
biến hố liên tục phát khởi khắp nơi trong bản
thấn tế bào cũ! Thứ hiện tượng đây
tiếp diễn nghiên cứu thảo luận đến chỗ
tột cùng thì vi tế của vi tế
sanh diệt biến hố liên tục vĩnh viễn khơng cĩ bờ
bến chấm dứt. Chỉ tốt nhất ở trên lý
tưởng, chúng ta tạo một kết thúc rằng: ở
trong thời gian sát na cĩ hiện tượng
cực vi phát khởi sanh diệt liên tục khắp nơi.
Từ đĩ chúng ta hiện tại đã nắm được
vấn đề “Sát Na Sanh Diệt” chuyển biến trên vật
chất cực vi. Trước tiên chúng
ta thảo luận hai vấn đề “Sát Na” và “Cực Vi”,
nếu như phủ định
sự thành lập thảo luận hai vấn đề này thì
vấn đề “Sanh Điệt” lại quyết định
cũng cĩ thể phủ định luơn cả sự kiến
lập của nĩ. Cịn nếu thảo luận hai vấn
đề “Sát Na” và “Cực Vi” thì trong đây
chúng ta lại cĩ vấn đề “Khĩ Phá” rất thú vị
trong việc giải đáp hai điều trên. Nay xin trích
trong “Trung Quán Luận Tụng Thích Ký” của Pháp sư Ấn
Thận giảng, trang 20 giải thích rằng:
“Khĩ phá, khơng phải là một
nan đề dù cho sự việc đã hồn tất, cái khĩ
đối với anh ở chỗ là người khác, người
khác cũng cĩ thể dùng sự việc đĩ để phản
vấn anh, anh tự mình nĩi như thế nào thì người
khác cũng cĩ thể rập khuơn theo để vấn nạn
anh. Tình hình đây ở trong các phái Đại
Thừa và Tiểu Thừa đã khơng phải thường
chứng minh sao. Tỷ như học giả Duy Thức
đả phá ngoại sắc (Chú thích 1) khơng cĩ cực vi thật tại, chính là nĩi: cực vi thật
tại của anh chấp đã cĩ phân chia sáu phương hướng
(Chú thích 2); đã cĩ sáu phương hướng được
phân chia sao lại cho là hồn tồn khơng cĩ phân chia? Nếu sáu phương
hướng cĩ thể phân chia thì làm sao cho là cực vi sắc được? Cịn nếu như khơng
cĩ sáu phương hướng phân chia thì làm sao cho là cực
vi sắc được? Nĩ đã phá được
quan niệm cực vi của ngoại sắc
chính là đã kiến lập được “Chỉ cĩ sát na,
sát na biến hiện của nội tâm mà thơi”. Nhưng chúng
ta cũng dùng phương pháp lý luận đồng dạng
trên để quan tâm can thiệp đến nội tâm của
người khác, như trong một niệm (một sát na) của anh (Chú thích 3) tâm anh cĩ phân biệt
trước sau hay khơng? Nếu như nĩi cĩ phân biệt thì cái
nào khơng phải là sát na; nếu nĩi khơng cĩ phân biệt, thì tâm
sát na sanh diệt khơng cĩ phân biệt đây thuộc về
đồng thời
hay khác thời? Nếu đồng thời thì nĩ
lại mâu thuẩn khơng thơng; nếu khác thời, trước
sanh sau diệt thì sao lại bảo là khơng cĩ phân biệt sát
na?”
Cĩ thể thấy
thời gian “Sát na” và “Cực vi” của vật chất trên
lý luận thì khơng thể thành lập. Chúng ta lại suy
luận một lần nữa, nguyên vì “Cực vi” và “Sát na” đã
khơng thể thành lập, cho nên sự sanh diệt của tế
bào thiếp theo cũng khơng thể thành lập; dĩ nhiên sự
sanh diệt của tế bào đã khơng thể thành lập
thì sự sanh tử của nhân sanh nhơn đây cũng khơng
thể thành lập, cho nên gọi là “Khơng Sanh Khơng Diệt”.
Những thứ lập
luận trên chỉ là sử dụng suy luận gián tiếp,
trong đĩ chúng ta cĩ thể dùng lý luận chỗ đồng
dạng, lợi dụng những thứ này áp dụng song
quan luận trực tiếp để đả phá vấn
đề “Sanh Diệt”. Như thế vấn đề “Sanh” của
anh nĩi chính là trong đĩ đã phủ nhận vấn đề
“Khơng”, như hơm nay vừa mới “Cĩ” sao gọi là “Sanh”? Hơn nữa hơm qua đã “Cĩ” hơm nay lại “Cĩ” cũng
sao gọi là “Sanh”? Cịn nếu như hơm
qua “Khơng” hơm nay lại “Cĩ” thì khả năng như thế nào?
Khác nào mùa xuân khơng cĩ giống lúa thì làm sao mùa thu
cĩ thâu hoạch được? Cái “Cĩ” hơm nay là
từ chỗ nào đến? Cịn nếu bảo
rằng cái “Cĩ” của hơm qua hơm nay lại “Cĩ” gọi là
“Sanh” thì khơng đúng. Như bột mì (Cĩ hơm qua) làm thành
bánh mì (Cĩ hơm nay) thì khơng thể bảo là sanh được!
Giống lứa ở mùa xuân, thâu hoạch ở mùa thu cũng là đạo lý giống nhau. Sở dĩ nĩi “Cĩ” của hơm qua, hơm nay lại “Cĩ”
thì cái “Cĩ” đĩ mới thực sự được gọi
là Khơng Sanh. Hỏi rằng: đã Khơng Sanh thì Diệt
phải như thế nào? Đáp rằng: cũng đã Khơng
Diệt, tại sao thế? Giả sử nếu
hạt lúa ngàn năm trước đã diệt thì làm sao cĩ
hạt lúa ngày nay? Vì thế mới nĩi là
Khơng Diệt. Đã cho là Khơng Diệt mới
nhận chân được đạo lý “Khơng Sanh Khơng Diệt”.
Nguyên do nhằm phá trừ mê chấp
“Sanh Tử” của nhân gian để phát sanh tín tâm cứu cánh,
ngoại trừ Phật Pháp ra, khơng cĩ đạo lý nào triệt
để cĩ khả năng này! Cho nên học
Phật mới cĩ thể phá trừ đam mê “Sanh Tử” của
nhân gian, ngộ đặng cảnh giới vơ sanh.
Sau cùng dùng Chứng
Đạo Ca của Đại sư Vĩnh Gia để
kết thúc. Chứng Đạo Ca như là: “Bao nhiêu lần
sanh, bao nhiêu lần tử, sanh tử ung dung khơng ngừng yên.
Từ khi đốn ngộ lý vơ sanh, nơi các vinh nhục
nào cĩ buồn vui?”.
CHÚ
THÍCH:
*- Chú Thích 1:
vật chất
*- Chú Thích 2:
Sáu phương là chỉ cho đơng, nam, tây, bắc, trên, dưới;
sáu phương
là
ý chỉ sự phân chia của khơng gian.
*- Chú thích 3: một niệm tâm là chỉ cho thời
gian một sát na.
(Haỉ Hồ
Âm Nguyệt San, ngày 01 tháng 6 năm Nguyên Tải Dân Quốc
thứ 58).
QUÁN TƯƠNG
ĐỐI
KHƠNG SANH KHƠNG DIỆT:
(Bất
Sanh Bất Diệt)
Tác giả: Cư
sĩ Lý Nhất Quang
Việt dịch:
Thích Thắng Hoan
Trung Luận nĩi rằng: “Khơng
sanh cũng khơng diệt,....... cĩ thể nĩi
là nhân duyên, khéo diệt các hý luận.” Người đời
thường nĩi: “Từ xưa đến nay ai lại khơng
chết?” Bất luận là đế vương,
quý tộc, bình dân, cho đến phàm phu, buơn bán, tơi tớ,
đều hồn tồn khơng thốt khỏi cửa “Tử”.
Cho nên cĩ người nĩi rằng: “Trước mặt chỉ
cĩ cửa “Tử” là mọi người đều bình
đẳng”. Đã cĩ tử tất nhiên phải cĩ sanh;
đây là một việc rất rõ ràng. Vấn đề
“Sanh” “Lão” “Bịnh” “Tử” của nhân sanh, cùng vấn đề
“Thành” “Trưởng” “Hoại” “Khơng” của vật chất
và luơn luơn niệm niệm đến vấn đề sự
biến thuyên “Sanh” “Trụ” “Dị” “Diệt” vân vân của
tinh thần, một khắc (15 phút) cũng chưa đình
chỉ lưu lại. Như thế làm sao lại nĩi: “Khơng
sanh cũng khơng diệt”? Chúng ta bình thường bảo rằng:
“Đây sanh kia diệt” là do nhân duyên tụ hợp nhau lại
mà sanh và nhân duyên phân tán thì diệt, đĩ đều là “Hí Luận”.
“Hí Luận” là thế nào? “Hí Luận” tức
là tương đương với ý tứ “Mảy may khơng
ý nghĩa”. Cũng tức là người đời thường
nĩi “Sanh” “Diệt” đều là mảy may khơng ý nghĩa. Tại sao thế? Trước hết dùng thí
dụ của “Tương Đối Luận” để
thuyết minh: Thơng thường người đời hay
nĩi “Bên Trái” hoặc “Bên Phải” cũng là khơng cĩ ý nghĩa. Sao lại biết được? Xin xem
Đồ Hình (1):
Đồ
Hình (1):
Nếu anh nĩi
nhà cửa đây ở bên phải của con đường.
Đĩ cũng là mảy may khơng cĩ ý nghĩa; Là thế nào? Anh đang lúc từ nơi quốc kỳ chạy
thẳng hướng về gốc cây, thế thì nhà cửa
ở bên phải của anh; nếu anh đang lúc từ nơi
gốc cây chạy thẳng hướng về quốc kỳ
thì nhà cửa ở bên trái của anh. Chỗ hiển
nhiên cần bàn đến là “Bên Trái’ hoặc “Bên Phải” của
con đường, nghĩa là anh ở đây tương
đối cần phải suy xét chỗ gọi “Bên Trái” hoặc
“Bên Phải” của một phương hướng nào đĩ
được bàn đến. Như thế sự
trình bày “Bên Trái” hoặc “Bên Phải” thì mới cĩ ý nghĩa.
Giả sử cĩ người hỏi vấn đề như
trên rằng: “Nhà cửa đây ở một bên con đường
nào------ bên trái hay bên phải?” Chỉ cĩ trả lời rằng:
“khơng bên trái cũng khơng bên phải!”
Giống nhau như trên, người
đời thường chỉ chỗ “Trên” hoặc chỗ
“Dưới” cũng là khơng cĩ ý nghĩa: Khi nhân loại chưa
phát hiện địa cầu hình trịn, tất cả đều
cho mặt của địa cầu là bằng phẳng, bất
cứ một điểm nào trên mặt địa cầu
đều là mặt phẳng cả, đều là “ Đường Thẳng Đứng” như
nhau. Chỗ chỉ cho “Trên” hoặc cho “Dưới”
ở đây đều là thuộc về tánh tuyệt đối.
Nhưng mà ngay sau khi nhân loại biết rõ hình
thể địa cầu là hình trịn, trên địa cầu
khơng giống địa điểm, vả lại cũng
khơng cĩ mặt phẳng “Đường Thẳng Đứng”.
Chỗ chỉ cho “Trên” hoặc cho “Dưới” của địa
cầu lại cũng hồn tồn khơng cĩ ý nghĩa! Hãy xem Đồ
Hình (2):
Đồ
Hình (2)
Trên
Dưới
Nếu dùng Đồ Hình (2) tồn
bộ địa cầu làm tiêu chuẩn, câu trả lời
của chúng ta tốt nhất chỉ nĩi rằng: “Khơng trên cũng
khơng dưới!” Lý đây sẽ dùng sự thật rất
gần để trình bày: Sau khi Phi Thuyền Khơng Gian đổ
bộ lên nguyệt cầu (mặt trăng) thì tình hình của
địa cầu ngược lại, căn cứ theo lập trường của Đồ Hình
(3) mà quán sát;
Đồ
Hình (3):
Theo Đồ
Hình (3) sẽ khiến chúng ta nghi vấn: “Xét cho cùng nguyệt
cầu thì ở “Trên” mặt hay ở “Dưới” mặt
của địa cầu?” Con người trong Phi Thuyền
Khơng Gian nếu đứng nửa chừng thì khơng cách nào
phân biệt được “Trên” và “Dưới” của địa
cầu, tức là khơng cĩ thể phân chia được địa
cầu phía nào “Trên” phía nào “Dưới”. Tình hình đĩ giống
nhau nơi Đồ Hình (4)
Đồ
Hình (4):
Quỹ đạo Hoả Tinh
Quỹ đạo Địa
Cầu
Vị trí Địa Cầu
khi
Khi Phi Thuyền phĩng lên
Thủy
Thủ Phi Thuyền
Vị trí Hoả Tinh
Khi Phi Thuyền phĩng lên
Thuỷ Thủ Phi Thuyền Vị trí Hoả
Tinh
Khi
Phi Thuyền gặp được
Theo Đồ
Hình (4), “Thủy Thủ” là đấu hiệu trong Phi Thuyền
Khơng Gian để quan sát Hoả Tinh, lúc đĩ Mặt Trời,
Địa Cầu và các Hành Tinh khác cũng khơng thể phân
biệt được cái nào “Trên” cái nào “Dưới”. Khi chúng ta đứng trên địa cầu, “Mặt
Trời, Nguyệt Cầu, các Hành Tinh đều là ở trên
đầu chúng ta”, đây là thiên kinh địa nghĩa.
Quan niệm đây vững chắc khơng thể
phá được. Một khi bay vào khơng gian, quan niệm
vững chắc khơng thể phá được đây liền
bị đả phá ngay.
Chúng ta khi biết rõ thí dụ
trong “Tương Đối Luận” thì từ đây về
sau đối với quan điểm “Khơng Sanh cũng Khơng
Diệt” lại cĩ một khái niệm và sau đĩ cĩ thể
lý giải sâu thêm một bước. Giả sử hiểu
biết vấn đề “Sanh” và “Diệt” của chúng ta một
khi cĩ thể mở rộng thêm thì lập tức bị loại
bỏ cũng giống như loại bỏ quan niệm vấn
đề “Trên” và “Dưới” sau khi con người trong phi
thuyền khơng gian bay ra khỏi địa cầu.
Trên thực
tế, chúng ta theo tập quán thường ngày hay nĩi đến
vấn đề “Sanh” và “Diệt”, cũng khơng khác nào thường
hay đề cập đến “Thời Gian” và “Khơng Gian” nào
đĩ làm tánh tương đối để nương tựa
vững chắc, mặc dù chúng ta đã phát giác ra được
vấn đề “Sanh” và “Diệt” này mảy may khơng cĩ ý nghĩa!
Chúng ta đề cập đến vấn đề “Sanh”
và “Diệt”, nếu so sánh thí dụ trong “Tương Đối
Luận” thì
gặp nhiều phức tạp, mà lại cịn cố tình làm
chỗ nương tựa tồn tại cho tình ý. Thế nên
một khi Phật Pháp nĩi đến vấn đề “Khơng
sanh cũng khơng diệt” thì sẽ khiến cho một số
người trở nên kinh ngạc! Nguyên vì so
sánh Thể (tọa độ) của vấn đề sanh
diệt thì thật tại khơng dễ gì đả phá nổi
và cũng khơng phải cặp mắt người thường
cĩ thể thấy rõ được. Đĩ là lý do vấn
đề “Khơng sanh cũng khơng diệt”đây cần phải
sử dụng đến một thứ tỷ giảo phức
tạp của thí dụ trong Tương Đối Luận
để thuyết minh; chính trong quyển sách căn bản
Tương Đối Luận Nhập Mơn nĩi rằng: Trong
Luận Văn “Luận Nhân Loại Đích Lý Giải Lực”
của trứ danh Triết Học Gia Lạc Khắc diễn
tả về Đạo như sau: “Một con cờ phụ
đặt ở trong bàn cờ chúng ta lúc đầu mở
rộng trên vị trí, chúng ta nĩi con cờ đều ở
trên nguyên vị khơng cĩ di động. Cĩ thể
bàn cờ ở nơi lúc nĩi đã từ một phịng dọn
đến một phịng khác....... nếu như bàn cờ mở
rộng ở trong khoang thuyền khơng cĩ di động.
Tuy nhiên một chiếc thuyền đang chạy,
chúng ta lại nĩi bàn cờ lúc đầu vẫn ở bản
xứ. Giả sử chiếc thuyền
và lục địa lân cận bên cạnh bảo trì khơng biến
động, chúng ta lại nĩi chiếc thuyền đây đứng
ở nguyên chỗ chưa di động, mặc dù địa
cầu cũng cĩ thể đã hồn tồn di chuyển qua một
vịng. Do đĩ nếu như đối với vật
thể cĩ khoảng cách so sánh tương đối xa thì lại
nĩi, con cờ, bàn cờ và chiếc thuyền hồn tồn đều
đã thay đổi vị trí.” Từ một đoạn văn
đây, chúng ta cũng cĩ thể đem vấn đề
“Sanh” và “Diệt” tạo nên rất nhiều đại số
chung của phương hướng và vận động,
sau đĩ lại quy nạp thành một thứ di động
của tánh phương hướng riêng: thí dụ như sự
di động “Sanh” và “Diệt” của con Bươm Bướm
------ sanh mạng đầu tiên chỉ là một cái trứng,
sau đĩ biến thành Ấu Trùng, tự Ấu Trùng nhả
tơ để thành con nhộng, con nhộng sẽ bị
bể ra liền thành con bươm bướm! Như thế
sanh mạng liền tượng hình một kẻ lữ hành
nơi trên lộ trình khác, trải qua thắng cảnh hồn
tồn khơng giống nhau, đi qua từ cửa ải này đến
cửa ải khác liền hố thành kiểu vận động
phương hướng đơn độc. Nhân đây
chúng ta đem sự “Sanh” “Diệt” của con Bươm Bướm
cĩ thể phân thành các thứ nhận xét khơng giống nhau: nĩi
rằng con Bươm Bướm đã trải qua bốn
lần kiểu “Sanh” “Tử”, nguyên vì trứng của nĩ chết
liền sanh ra Ấu Trùng, Ấu Trùng chết liền sanh ra
con Nhộng, sau khi con Nhộng chết lại sanh ra con Bươm
Bướm, đây khơng phải rõ ràng là cĩ bốn lần kiểu
“Sanh” “Tử” hay sao? Chỉ cần dùng tồn bộ sanh mạng
con Bươm Bướm nhận xét thì con Bươm Bướm
mãi mãi chưa bị diệt. Nguyên nhân so sánh Thể
(tọa độ) thì khơng giống nhau, đối với
chỗ ý nghĩa nhất định “Sanh” và “Tử” cũng
hồn tồn khác nhau.
Vấn đề
“Sanh” và “Tử” của nhân sanh thì cũng như thế.
Nhân sanh cĩ ba thời kỳ sanh diệt: một là sát na sanh diệt, hai là nhất kỳ sanh diệt
và ba là cứu cánh sanh diệt. Cái gì sát na
sanh diệt? Sát na sanh diệt cũng như
tế bào luơn luơn tách rời sanh ra tế bào mới, mỗi
phút tế bào tàn tạ già cũ, khơng cĩ sát na gián đoạn
lưu lại về sau. Nếu như cĩ một sát na gián đoạn lưu lại khơng biến
thì sau đĩ ở nơi lý luận lại khơng cĩ lý do nối
tiếp biến hố về sau, gọi là sát na hồn tồn sanh diệt.
Nhưng ở đây chỗ biến động của từng
sát na này đến sát na kia khiến thân
thể con người ở nơi chỗ đổi thay
khơng ngừng. Ở trong sinh hoạt thường ngày, luơn
luơn trong chỗ khơng biết, do từ ấu thơ mà trở
thành tráng niên, do từ tráng niên mà trở thành già cả, do tử
già cả mà trở thành chết mất được gọi
là Nhất Kỳ Sanh Diệt. Sát na sanh diệt
đây ở nơi thời gian bảy tuổi nắm lấy
hết thảy tế bào tồn thân chuyển hố đổi
thay, cho nên nĩ bảy năm trước cùng với nĩ của
năm nay sớm đã thay đổi hồn tồn một con người.
Chính hiện tượng chuyển hố đổi thay của
con Bươm Bướm, thốt khỏi một con lại hứng
lấy một con. Xác thịt của con người cũng
giống như nhà cũ chọn vào nhà mới một thứ.
Giả sử chúng ta đem thời gian của tánh tương
đối bám trụ vào trên một điểm nào được
chỉ định, chọn bảy tuổi của con người
làm nhất kỳ, cũng cĩ thể bảo rằng bảy
tuổi trước kia của họ sớm đã hồn tồn
“chết” mất! Năm nay họ mới “Sanh” ra lần nữa;
căn cứ theo đây mà nĩi cĩ cái gì khơng
thể? Nếu đem thời gian suy rộng ra cĩ thể một
số người sử dụng một đời nhân
sanh làm một tọa độ chung, nào đương
nhiên khơng thể bảo rằng chỗ thân thể thay đổi
của thời gian bảy tuổi, lại chọn làm chỗ
chết mất của một con người, như thế
lại hồn tồn khơng cĩ ý nghĩa! Lý do giống nhau, nào cứu
cánh của sự sanh diệt chính là sanh mạng một đời
của nhân sanh hồn tồn kết thúc, tiếp theo
lại thọ sanh một sanh mạng mới, hết sanh rồi
tại tử, hết tử rồi lại sanh, sanh sanh tử
tử liên tục khơng gián đoạn. Cũng
như làn sĩng của biển cả, từng đợt nhấp
nhơ nối tiếp nhau. Nếu như dùng
một làn sĩng trước và một làn sĩng sau để nhận
xét, gọi là hiện tượng một làn sĩng “Sanh” và một
làn sĩng “Diệt”. Cịn như dùng tồn bộ
biển cả mà nĩi đều tồn tại chưa cĩ
“Sanh” và chưa cĩ “Diệt”. Sanh mạng của con người
lưu chuyển cũng giống như thế. Giả sử
đứng trên lãnh vực bào thai mà nĩi, bào thai tượng
hình gọi là “Sanh”, bào thai xuất ra gọi là “Diệt”; nếu
dùng tồn bộ sanh mạng lưu chuyển mà quán sát thì vĩnh
viễn khơng gián đoạn và cĩ thể nĩi là khơng “Sanh” “Diệt”;
gọi là cứu cánh sanh diệt, cũng tức là “Khơng sanh
cũng khơng diệt”.
“Tương Đối Luận”
báo cho chúng ta biết rằng: “Khơng cần tìm kiếm tọa
độ tuyệt đối khơng biến động ở
trong vũ trụ. Vũ trụ là khơng gian khơng ngừng nghỉ:
Tinh Cầu,
Tinh Vân, Thiên Hà cho đến chỗ cĩ hệ thống dẫn
lực địa chấn to lớn khơng ngừng nghỉ rất
xa trong khơng gian. Nhưng sự vận hành của
chúng nĩ chỉ cĩ thể chính chúng nĩ quan hệ tương
đối lại gia thêm để thuyết minh, nguyên vì
trong hư khơng đã khơng phương hướng và cũng
khơng giới hạn”. Lại nĩi rằng: “Ly khai hồn tồn
hệ thống đối chiếu, chính là khơng cĩ thời hạn
cố định, ly khai hồn tồn hệ thống đối
chiếu, đích xác là khơng cĩ
“Đồng Thời” và cũng khơng cĩ “Hiện Tại”.” Ở
trong khái niệm của hai vấn đề thời gian và
khơng gian đây, chúng ta đối với trong Phật Pháp
quan niệm “Khơng sanh cũng khơng diệt” thì cũng cĩ thể
phỏng theo khái niệm đã thấm
nhuần chỗ gọi Thời Khơng của “Tương
Đối Luận. Do bởi chúng ta đã quán sát đến
sát na sanh diệt, mở rộng đến nhất kỳ
sanh diệt của nhân sanh, lại do sanh diệt của nhất
kỳ suy rộng đến cứu cánh sanh diệt, cũng
chính là đem thời gian kéo dài đến lâu xa khơng hạn
định và đem khơng gian mở rộng đến bao
la khơng giới hạn. Đã khơng thời hạn cố định,
cũng khơng giới hạn phương hướng, lúc này
lại nĩi đến “Sanh” “Diệt”, cũng tìm khơng đặng
Thể đối chiếu; đã khơng toạ độ cố
định, làm sao cĩ thể cho là cĩ sanh cĩ diệt được? Đã nĩi rằng “Sanh” “Diệt”
cùng với thí dụ bên “Trái” bên “Phải” của “Tương
Đối Luận” giống nhau khơng cĩ ý nghĩa, nguyên vì mục
tiêu của một chữ “Khơng” ở trong Phật Pháp lại
biểu hiện minh bạch ý nghĩa khơng sanh lại cũng
khơng diệt, cho nên mới gọi là “Khơng sanh cũng khơng diệt!”
Trong Phật Pháp thường nĩi:
“Pháp hữu vi thì cĩ sanh cĩ diệt; pháp vơ vi thì khơng sanh khơng
diệt.” Chúng ta cĩ thể dùng chỗ giống nhau đây quán
sát đến Tương Đối Luận Nhập Mơn,
trong đĩ nĩi rằng: “Lý luận của Ái Nhân Tư Thản
cùng học thuyết của Ngưu Đốn cả hai
đều phủ nhận; họ bảo khơng cĩ chỗ nào
bàn đến “Chuyển động tuyệt đối”. Một
vật thể ở trong Khơng phát sanh quan niệm chuyển
động tuyệt đối là mảy may khơng cĩ ý nghĩa.”
Cũng cĩ thể nĩi: “Pháp Hữu Vi” chỉ là ở nơi tánh
tương đối dùng thêm để giải rõ vấn
đề “Sanh” “Diệt” mà phổ thơng thường quan niệm,
đấy chỉ hồn tồn bám trụ nơi một toạ
độ trên khái niệm cho là bất động, vấn
đề trên xem như đối đãi nhau. Nhưng thực tế vĩnh viễn tìm khơng
đến được tọa độ cĩ một cố
định chân thật. Ngay khi ơng đem anh A định
làm tọa độ thì chính bản thân anh A lại dùng anh B
làm tọa độ và anh B lại dùng anh C làm tọa độ
khác, những tọa độ
đây vĩnh viễn khơng dừng nơi cảnh. Cho nên Pháp Vơ Vi thì lại thuộc về tánh tuyệt
đối. Đã vậy một vật thể ở
trong Khơng phát sanh quan niệm vận động tuyệt
đối là mảy may khơng cĩ ý nghĩa, như thế “Sanh
diệt” chính là một thứ hiện tượng rất
nhiều trong vận động mà thơi. Nguyên nhân “Sanh” và “Diệt”
ở trong quan niệm tuyệt đối cũng là mảy
may khơng cĩ nghĩa như nhau! Cho nên “Ở trong
pháp vơ vi cũng giống nhau là tìm hồn tồn khơng thấy được
cĩ vấn đề sanh và diệt!”
Con mắt chúng ta khi thấy sản
sanh bình hoa là do khối đất chế tạo, trước
hết dùng toạ độ khối đất làm cố định
mới hiển hiện ra bình hoa. Trên thực tế, khối
đất là do vi trần cơ động
lại hợp thành, nguyên nhân khối đất đều
khơng phải tọa độ cố định, mà vi trần
cũng khơng phải là cố định. Nguyên do vạn hữu
trong vũ trụ đều nương nhân gá duyên mà sanh sản,
duyên tụ thì sanh mà duyên tán thì diệt. Khi sanh
là tổ hợp của nhân duyên, thật ra khơng cĩ vấn
đề “Sanh”; khi ở nơi diệt chỉ là nhân duyên
phân tán, do đĩ cũng chưa phải gọi là diệt.
Cho nên mới bảo rằng: “Khơng sanh cũng khơng diệt!”.
Từ nơi quán sát đây: vạn
sự vạn vật trong vũ trụ khơng cĩ một việc
nào khơng phải là tương đối. Đã
là tương đối thì nhất định phải tương
phản. Ở nơi khơng gian thì nĩi cĩ đơng
tây, nam bắc, thượng hạ, tả hữu, lớn
nhỏ, dài ngắn, vuơng trịn. Ở nơi
thời gian thì nĩi cĩ xưa nay, đi lại, ngày đêm, lạnh
nĩng. Ở nơi tinh thần thì nĩi cĩ khổ
vui, mừng giận, thương ghét, phải trái, thiện
ác, chánh tà, niệm niệm thuyên biến sanh diệt. Chúng ta vĩnh viễn ở trong thế giới tương
đối này, nhất cử nhất động đều
hồn tồn thọ nhận luật tương đối đây
mà thành hiện tượng mâu thuẩn chỗ gọi là phải
trái, một phút cũng khơng thốt ly khỏi. Nhân đây liền sanh thành thứ quan niệm lầm
lẫn, từ đĩ trình bày khơng dứt cảnh tượng
nào là ưu bi khổ não của “Sanh Lão Bệnh Tử”.
Nhưng ngay khi khổ não đến hãm hại,
mọi người đều khơng muốn nhận chịu,
cho nên liền tìm cách giải quyết tránh khỏi. Chỉ
cĩ người học Phật vốn đã tu dưỡng
thì mới cĩ thể đem hết thảy những thứ quan
niệm “Sanh” và “Diệt” tương đối mâu thuẫn
đây lìa bỏ tất cả. Chỉ cần nương cậy
vào tâm thanh tịnh “Khơng Sanh Khơng Diệt” sẵn cĩ, kiềm
chế hồn tồn tri kiến mâu thuẫn tương đối
đây, đi theo quốc lộ thanh tịnh
thể hiện ra.
(Nguyệt
San Bồ Đề Thọ, kỳ thứ 22 năm Nguyên Tải
Dân Quốc 58)