PHẬT PHÁP VÀ TƯƠNG
ĐỐI LUẬN
---------------------------------------------------
(Trích trong Phật Pháp Tại Nguyên
Tử Thời Đại.
Đại Thừa Tùng Thư D119)
Tác Giả: Cư sĩ VÔ HƯ
Dịch Giả: THÍCH THẮNG HOAN
Nguyên tử giải
phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh
của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
Hôm nay ở đây chỉ thảo luận Chất Năng (vật chất và năng lực) là loại lẫn nhau chuyển biến có quan
hệ mật thiết với Tương Đối Luận, và đem chỗ khác nhau và giống nhau
của Phật Pháp so cùng với Tương Đối Luận.
Trở về trước
rất xa có vô số nguyên tử năng giải phóng, Đại Học Gia Ái Nhân Tư
Thản (Einstein) khoảng năm 1905 đã phát biểu sáng tỏ công thức đơn
giản Chất Năng lẫn nhau chuyển biến. Công Thức là: E = MC2. E là đại biểu Năng Lượng, M là đại biểu Chất Lượng,
C là đại biểu Vận Tốc Ánh Sáng. Vận Tốc Ánh Sáng thì cực đại,
Thừa Số riêng của nó đương nhiên đã là lớn, tức là nói: Chất
lượng cực tiểu có thể chuyển thành năng lượng cực đại. Công Thức
đây là căn cứ nơi nguyên lý của Tương Đối Luận suy diễn thành lập.
Tánh chính xác của nó đã do nguyên tử năng giải phóng dành cho sự chứng
thật. Nhân đây Tương Đối Luận bị các giới Khoa Học nhất trí nhận cho
là vũ khí sắc bén vạch trần sự huyền bí của vũ trụ đối với nhân
loại!
Chỗ yếu của đề chính để thảo luận là
bao nhiêu khái niệm cơ bản của Tương Đối Luận so cùng nơi trong Phật
Pháp sử dụng riêng một phương thức nào tiêu biểu để diễn đạt. Rốt
cuộc lại trình bày: Theo Phật Pháp, Tương Đối Luận thì có thể cho là
thật chứng và thật chứng đây cuối cùng triệt để có thể giải quyết
xong vấn đề chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Không giống Khoa Học,
mặc dù tìm được công thức số học, nhưng phải tiến thêm một bước nữa
dùng bốn độ không gian đây đem chứng minh thật tướng thì hợp lý hơn.
1.-Chất Năng Tương Đối:
Như chỗ tường thuật
của tiết mục trước, vật chất cùng năng lực có khả năng lẫn nhau
chuyển biến, nhưng vật chất thì trơ trọi còn năng lực thì trừu tượng,
những thứ khái niệm này đã thành quá khứ. Vật chất cùng năng lực
tuyệt đối không phải là hai thứ đơn thể (Entity) riêng biệt hoàn
toàn không đồng nhau, mà có thể nói là hai mặt của một thể. Vật
chất có thể nói là trạng thái cô động đậm đặc của “Năng”. Ở điều
kiện thích hợp xuống chất có thể biến thành năng và năng có thể
biến thành chất. Đây cũng là sự thật của Khoa Học chứng minh.
Nơi Phật Pháp,
Duy Thức Luận nói: Vật chất chủ yếu là đối tượng cảm giác, như
sắc, thinh, hương, vị, xúc..v..v….. phải nương theo các thứ điều kiện
mới có thể hiện khởi. Trong điều kiện chủ yếu của nó là chủng tử
sắc pháp trong Thức thứ tám của ngã nhân (Thức thứ tám trong Tâm
Lý Học hiện tại gọi là Tiềm Ý Thức), Chủng tử thật là một thứ năng
lực ở trong tiềm năng, chủng tử sắc pháp sanh hiện hành cũng có thể
cho là “Năng lực biến vật chất”. Ngược lại, hiện tượng cảm giác
sanh khởi đồng thời liền trở lại huân vào Thức thứ tám kiến thành
tiềm năng. Đây cũng có thể cho là “Vật chất chuyển thành năng
lực”. Hai thứ quá trình đây ở trong Duy Thức gọi là “Chủng sanh hiện”
và “Hiện sanh chủng”. Đó chẳng qua là căn cứ nơi phương pháp tư tưởng
tập quán của ngã nhân mà nói. Kỳ thật, sắc, thinh, hương..v..v….
đương thể tức là năng lực, nương nơi nhân duyên (điều kiện) thành
tựu mà hiện khởi, lại nương nơi nhân duyên không thành tựu mà ẩn
mất, một pháp là như thế, tất cả pháp cũng là như thế. Không phải
đặc chất cùng năng nương nhau (tức Tương Đối) lẫn nhau biến hiện, mà
ở đây tất cả pháp đều cũng nương nhau lẫn nhau biến hiện. Suy luận
nghĩa rộng để nói, vạn pháp đối đãi nhau để tồn tại, căn cứ nơi thuật ngữ của Phật Pháp để
nói: “Chư pháp chúng duyên sanh”. Chúng duyên ở nơi lý luận chính là
vô lượng điều kiện, mặc dù ở nơi thực dụng, điều kiện chủ yếu của
ngã và nhân là chỉ có thể tính toán so lường trong mức độ giới hạn
để hiện thấy.
2.- Động Tịnh Tương Đối:
Lực Học của
Ngươu Đốn cho rằng khái niệm là chọn vật thể động thì thường động,
tịnh thì thường tịnh làm cơ sở. Quan niệm đây xem như rất hợp lý, nhưng
nếu nghiên cứu vào sâu một bước, không gian của vũ trụ thật tế tìm kiếm không ra
một vật xuất hiện tuyệt đối bất động. Nói ngược lại cũng không tìm
đến một vật thể tuyệt đối chuyển động. Căn cứ nơi Tương Đối Luận
trình bày: động cùng tịnh chỉ là so sách ở tương đối thì mới có ý
nghĩa. Tương Đối Luận phát hiện trước, Khoa Học Gia từng phí tổn tận
tâm cơ mật mới tìm ra một toạ độ tuyệt đối bất động, liền đem trắc nghiệm
xác định vận động của vật thể không gian vũ trụ. Có một số Khoa
Học Gia giả định có một “Dĩ Thái” (Ether) của tuyệt đối bất động, bảo
rằng khắp vũ trụ không chỗ bất tại, vật thể của chúng nó đều vận
động ở trong “Dĩ Thái”. Giả định đây phải bằng thực nghiệm để chứng
minh, nhưng mà không có một thực nghiệm “Dĩ Thái” tồn tại để có thể
chứng minh. Cho đến mặt đời của Tương Đối Luận bao hàm có khái niệm
“Dĩ Thái” của tánh thần bí mới giúp đả phá được vỡ nát. Tương Đối
Luận thuyết minh rằng: Tất cả động tịnh đều là chỗ tồn tại của
Tương Đối, nói rằng một vật chất tuyệt đối động hoặc tuyệt đối tịnh
đều giống nhau không có ý nghĩa. Chúng ta cũng mỗi nhu cầu giả lập
một điểm tuyệt đối bất động để làm tọa độ, mà có thể căn cứ nơi
một điểm toạ độ tùy ý giả lập của chúng ta để tiện lợi thuyết
minh vật thể vận động ở trong một hệ thống này.
Thời kỳ đầu
thế kỷ 17, có Khoa Học Gia Bốc Lỗ Nã (G. Bruno) nhân sáng tạo học
thuyết Địa Cầu Tự Động (Tự chuyển), bị Giáo Hội đương thời tự cho là
dị đoan liền đem ông ra giết chết! Đại Khoa Học Gia Gia Lý Lôi Oa
(Galileo) cũng phát minh cho rằng Địa Cầu là một hành tinh mặt Trời,
cũng gặp tận cùng gian nan, gần như đi đến chung cuộc là sống bị giam
cấm. Nếu như dùng Tương Đối Luận giải thích, thuyết mặt Trời đi vòng
quanh Địa Cầu, hoặc thuyết Địa Cầu đi vòng quanh mặt Trời, đều không
ai là không đồng ý. Nhưng nếu như chấp chặt một thuyết nào cho là
đúng thì đều thuộc về sai lệch. Chẳng qua chúng ta cho mặt Trời là
trung tâm mà trình bày Địa Cầu vận hành chung quanh mặt Trời thì người
sanh tồn nơi Địa Cầu có thể tính toán hoặc giải thích sự vận động
của Thiên Thể, so sánh dùng Địa Cầu làm trung tâm trình bày điểm
phương tiện. Cuối cùng thuyết minh: tất cả tranh biện đều thuộc về
hý luận cả.
Trong Phật Pháp
đối với vấn đề động tịnh tương đối giảng giải rất là phổ biến, như
Kinh Viên Giác nói: “Mây bay trăng chạy, thuyền đi bờ chuyển.”, tức
là thuyết minh khoảng cách của mọi vật động tịnh tương đối. Lại nữa
trong Lục Tổ Đàn Kinh có cho ra công án: “Pháp sư Trị Ấn Tông giảng
kinh Niết Bàn, lúc đó có gió thổi phướng động, một vị Tăng bảo
rằng gió động, một vị Tăng khác bảo rằng phướng động. Hai người
tranh luận không thôi. Huệ Năng (tức Lục Tổ) tiến tới nói rằng:
không phải là gió động, cũng không phải là phướng động, chính tâm
các ông bị động!” Đây là nói: tâm có chấp trước (tức là tâm động)
liền sanh ra tướng của gió và phướng, tâm không chấp trước (không
chấp thật có gió và phướng) liền không tranh luận về sự động tịnh
của gió và phướng. Đây lại tiến sâu thêm một lớp nữa để thuyết
minh tâm và cảnh (tức tâm và vật) tương đối để tồn tại chính là kẻ
đã giác ngộ được thật tướng bằng thể nghiệm và sau đó mới trình
bày. Họ cũng là đã hoàn toàn thật chứng cảnh giới của Tương Đối
Luận.
Lại nữa vào
thời Ngũ Đại có vị Hoà Thượng Bố Đại xuất ra một bài kệ rằng: “Không
thủ bả sừ đầu, bộ hành kỵ thủy ngưu, nhơn tại kiều thượng tẩu, kiều
lưu thủy bất lưu.” (Tạm dịch: Tay
không đi cuốc đất, bộ hành cỡi
trâu nước, người trên cầu chạy nhanh, nước dưới cầu không chảy). Bài
Kệ đây hiển bày thể chứng phong cảnh tự tại của cảnh giới tương
đối. Hai câu cuối rõ ràng nói ra lời siêu việt thường thấy hoàn
cảnh tương đối nơi thế tục (Người thì động nhưng cầu thì tịnh, hoặc
nước thì động cầu thì tịnh..v..v...... hiện tượng đây thường thấy).
Bài kệ đây cũng có thể xem so sánh đạo lý hổ tương cùng với Địa
Cầu đi vòng quanh mặt trời và mặt Trời đi vòng quanh Địa Cầu đã
tường thuật ở trên.
3.- Thời Không Tương Đối:
Căn cứ học thuyết Tương Đối Luận,
chúng ta trong thường thức có cảm giác không gian cũng có cảm giác
thời gian, đây chỉ là thuần túy chủ quan phân ly riêng (thời không
phân ly). Không gian cùng thời gian tách riêng ra đều là suy xét tương
đối, chúng nó đối với mỗi một quan sát thì không giống nhau. Căn cứ
nguyên lý này, nhà Đại Số Học Đức Quốc Minh Kha Tư Cơ (Herman
Minkowski) phát triển thành giả thuyết (Continuum) là Thời Không Liên
Tục Khu (Thời gian không gian liên tục khu biệt) và dùng
phương thức số học tiêu biểu diễn đạt nguyên lý tương đối. Quan niệm
Thời Không Liên Tục Khu cũng tức là quan niệm thật tướng vũ trụ
của Tứ Độ Không Gian (4th Dimentional).
Ba Nạp Đặc (L.
Barnett) ở trong một quyển sách (Vũ trụ cùng Ái Nhân Tư Thản) trình
bày: “Ông không cần dùng Thời (thời gian) Không (không gian) Liên
Tục Khu Biệt đó chẳng qua là hư cấu trên kỷ thuật toán, thế giới
này thực tại đã là Thời Không Liên Tục Khu Biệt. Tất cả chân thật
tồn tại ở trong không gian thời gian, hai thứ đây không thể phân
chia. Tất cả sự đo lường của thời gian, giây (đồng hồ), phút, giờ,
ngày, tháng, năm..v..v…. đều là Địa Cầu nằm trong không gian đối với sự
đo lường của vị trí mặt Trời, mặt Trăng, hành tinh..v..v…. Giống nhau,
chúng ta tính toán kinh độ cùng vĩ độ của vị trí ở trên địa cầu là
sử dụng phút cùng giây để đo lường; mà cần chỗ tinh vi khi tính
toán, chúng ta nhất định phải hiểu rõ ngày nào trong năm, giờ nào
trong ngày..v..v…..” thời gian và không gian nương tựa lẫn nhau mà
thành lập là có thể thấy được.
Chúng ta hiện
tại xem lại trong Phật Pháp thuyết minh không gian và thời gian như
thế nào. Phật Pháp nói rằng: Thời gian thì không thể ly khai “Pháp”
mà có riêng được. Trung Luận nói rằng: “Nhân vật cố hữu thời, ly
vật hà hữu thời?” (Nghĩa là nguyên
nhân vật chất cố nhiên phải có thời gian, ly khai vật chất làm sao
có thời gian?). Đây tức là nói thời gian là căn cứ nơi sự biến
động tương đối của tồn tại cụ thể mà phát khởi khái niệm. Ly khai
sự tồn tại của cụ thể tức là chứng tỏ thật thể thời gian không
còn thường trụ bất biến. Tất cả pháp đều ở trong dòng chuyển biết
không ngừng, sự biến động của tất cả pháp đây lại hiện khởi tướng
thời gian. Kết luận: thời gian là không tự tánh (tức là tánh tương
đối).
Phật Pháp trình
bày, không gian cùng vật chất tương đối mà tồn tại. “Nhân sắc cố
hữu vô sắc xứ, vô sắc xứ danh hư không tướng” (Tạm dịch: do sắc cho nên có chỗ không có sắc, chỗ không có
sắc danh xưng là không tướng). Chữ “Sắc” tức là tướng..v..v...... đối
với “Vật chất” thì có tánh ngăn ngại, không gian thì không có tánh
ngăn ngại, nhưng do không gian không ngăn ngại cho nên không có sắc
pháp làm ngăn ngại, nghĩa là không có pháp hiển hiện. Không có
pháp hiển hiện tức là không có sắc pháp, làm gì không tướng có
thể tìm được của chỗ không có sắc? Vật chất và không gian tồn tại
tương đối, nơi trong Phật Pháp đúng là nói rất rõ ràng, rất triệt
để.
Tất cả pháp
tồn tại tương đối, Phật Pháp dùng “Chúng duyên sở sanh” làm phương
tiện để thuyết minh. (Chúng duyên
sở sanh, nghĩa là các duyên là chỗ để sanh ra các pháp). Chữ
Duyên tức là chỉ cho điều kiện (Condition). Sự sanh ra của tất cả
pháp dựa trong các đều kiện với hình thức sát na sanh khởi và sát na
tiêu diệt. Nếu căn cứ phương diện thời gian, mặc dù pháp trước và
pháp sau liên tục tương tợ nhau, nhưng pháp trước đã không phải pháp
sau. Nếu căn cứ phương diện không gian, mỗi pháp nương nơi các điều
kiện để sanh khởi thì không thể tồn tại đơn độc, tức là không có “Tự
Tánh” quyết định. Cho nên thời gian ly khai hoàn toàn nhân tố mà
tưởng tượng pháp gì tồn tại (chiếm hữu không gian) là không phù hợp
chân tướng. Căn cứ duyên sanh quan, tất cả pháp không tự tánh (tức
là không tánh chất đích thật tồn tại độc lập), khi duyên sanh đều
sử dụng giả tướng ảo ảnh. Vì không tự tánh cho nên không “ Thật
Có”, vì có sử dụng giả tướng ảo ảnh cho nên chẳng “ Thật Không”,
đây là lối quan niệm trong Phật Pháp, cũng tức là thật tướng của
tất cả pháp khi không phân chia thời gian và không gian. Thật tướng
đây so cùng quan niệm phù hợp giống như mấu chốt bốn gốc độ không
gian thời gian của Số Học.
Rất lâu xa đến
nay, Phật Pháp đã phát giác ra rằng, Kinh Nghiệm Chủ Quan Của Ngã Nhân
là căn cứ quan điểm chia tách không gian thời gian để nhận thức nhân
sanh vũ trụ, do đó thấy ngược lại liền sản sanh thế gian tướng chủ
quan của ngã nhân. Do nơi đà tác dụng của quan điểm đây, vấn đề ngã
nhân liền khiến hiểu rõ hoàn toàn tất cả pháp tướng đối với đạo
lý tồn tại cuối cùng không có pháp, lập tức thấy ngược lại, nghĩa
là thấy được gốc rễ ngã nhân đây bị phá trừ. Cần phải trải qua
rèn luyện mới có thể đem chủ quan hiểu lầm của ngã nhân sửa chữa
cho ngay chánh trở lại để thấy được thật tướng chân thật. Có thể
nói thật chứng cứu cánh của tánh tương đối cũng tương hợp với bốn
độ không gian thời gian. Phật Pháp gọi là giác ngộ tự tánh, thấy
thấu triệt thật tướng các pháp.
Thời gian và
không gian ở trong Phật Pháp cùng với Tương Đối Luận thì giống nhau,
thuyết minh là sản vật (giả phân vị) của chủ quan đều hoàn toàn nói
rằng đem chúng nó phân chia ra chỉ là một thứ khán pháp (giả lập)
phương tiện. Tức là Phật Pháp không đồng với Khoa Học: Phật Pháp tìm
ra đây là sự hiểu biết sai lầm của chủ quan, liền từ bắt tay uốn
nắn chủ quan chân chánh, tiến thêm một bước, dẫn đạo con người làm
thế nào trừ khử chủ quan để thể chứng được thật tướng. Giải quyết
mâu thuẫn cùng mê hoặc của tri thức và đau khổ phiền muộn cùng
phiền não trên tình ý, những vấn đề đây so với phạm vi của Khoa Học
thì hoàn toàn không thể sánh kịp.
4.- Tất Cả Tương Đối:
Chất năng, động
tịnh cùng thời gian và không gian là khái niệm cơ bản nhất của tất
cả hiện tượng sự lý trong vũ trụ. Chúng nó dĩ nhiên đều là tương
đối, bất cứ nghi vấn khác trong vũ trụ tất cả đều là tương đối.
Trên sự thật dĩ nhiên chắc chắn cũng là như thế. Tất cả sắc tướng
như hình sắc khác nhau, lớn nhỏ, sáng tối, đẹp xấu..v..v…..; tất cả
âm thanh cao thấp, thầm kín phô bày, tĩnh lặng xao động..v..v…..; tất
cả cảm giác như lạnh nóng, nhẹ nặng, cứng mềm..v..v…..; tất cả hình
thái chuyển động như động tĩnh, mau lẹ chậm chạp..v..v….. ; cho đến
tất cả khái niệm như thời gian không gian, có không, đoạn thường,
chủ khách, cho đến tương đối tuyệt đối..v..v….. nói chung lại tất cả
thấy nghe hiểu biết đều không lìa khỏi tánh tương đối, cho nên gọi
là tất cả tương đối. Khoa Học cùng Phật Học có thể nói khác đường
nhưng cùng về một chỗ. Kết luận đây giống nhau!
5.- Dư
Luận:
Tương Đối Luận có
thể nói là nguyên tắc luận lý rất thành quả mà thế gian đã chứng
thật. Do bắt đầu phân tích quan sát hiện tượng, tổng hợp tánh phổ
biến của nó, phát hiện tất cả tương đối trong vũ trụ, tướng trạng
chân thật đây lại không ở trong phạm trù ý nghĩ bàn bạc nhân ngã, chỉ
có thể bày tỏ ở trong phương thức số học của bốn gốc độ không gian
thời gian. Nói ngược lại, kết luận đây đối với lời nói con người
giống nhau ở chỗ là tìm cầu chân lý, là tánh tiêu cực, đều dễ
dàng giúp cho Thần Giáo có cơ hội nói rằng: Khoa Học đã không còn
phương pháp triệt để thuyết minh thật tướng của nhân sanh vũ trụ, đó
cũng đủ chứng minh dựa vào trí tuệ của nhân loại, thật tướng của
nhân sanh vũ trụ là không còn phương pháp để tìm cầu đạt đến. Cho
nên, các Khoa Học Gia liền khiến không ít cũng sẽ tin tưởng Thượng
Đế sáng tạo vạn vật…….. Có một
số người đã biết rõ đây không hạp với La Tập (Logic: Luận Lý Học),
nhưng cũng rất khó phản bác nó.
Phật Pháp lại
thuyết minh rất rõ ràng! Tôi và mọi người sở dĩ không thấy được tánh tương đối (tức là
thật tánh của tất cả pháp) của tất cả pháp, nhân vì sự nhận thức
của tôi và mọi người tác dụng (bao gồm Minh Liễu Ý Thức và Tiềm Ý
Thức) nhận lấy thành kiến chủ quan và tánh mù quán quấy rối, cho
nên liền khiến sự hiểu biết tánh tương đối của các pháp cũng xem
như không rõ ràng thật tướng của các pháp đó. Nhưng chủ quan thành
kiến và tánh mù quán lại có thể lợi dụng tánh tương đối để phá
trừ. Phá trừ xong rồi sau đó liền có khả năng thể chứng được chỗ thật
tướng các pháp rõ ràng minh bạch. Người thể chứng thật tướng (không
phải là Thần) gọi là Giác Giả. Cho nên căn cứ vào phương pháp của
Giác Giả đi huấn luyện chính mình và mọi người có cơ hội thể chứng
được thật tướng mà trở thành Giác Giả.
Hiện tại phân
làm ba đoạn để lược thuật Phật Pháp lợi dụng nguyên lý tương đối
như thế nào, đi uốn nắn chủ quan ngộ nhận của ngã nhân để kết thúc
bài giảng này.
a.- Đối Cơ Thuyết Pháp:
Giác Giả chứng
ngộ thấu suốt thật tướng các pháp, một phương diện thấy thấu suốt
là các duyên chỗ sanh ra, tướng và dụng của giả huyễn nương nhau,
bảo dưỡng nhau (tức là trong một pháp có tất cả pháp, trong tất cả
pháp có một pháp, quy luật đây đã giảng ở trước), riêng một phương diện cũng do các duyên
sanh ra, chứng ngộ thấu suốt thể tánh của các pháp hoàn toàn là
không, đều không có tự tánh. Tướng và dụng cùng thể tánh đây đều
là sinh động đanh đá, bốn gốc độ không gian, khi là không thì cảnh
giới không bị chia cắt. Lãnh vực ý thức của chủ quan thành kiến lúc
đó hoàn toàn chan hoà xa lìa ngã nhân. Đã thế không thể trở thành
đối tượng của Ý Thức, cũng tức là không có một pháp nào phát
xuất từ các ngôn ngữ văn tự. Lợi dụng nguyên lý tương đối đem uốn
nắn chân chánh chủ quan ngộ nhận của ngã nhân. Ngôn ngữ văn tự
giả lập quan hệ cùng với thật tướng so sánh giống như nhà cửa phòng
ốc quan hệ cùng với hoạ đồ. Hoặc người thật quan hệ cùng với bức
hình (thấy rõ ở trước đã giảng qua). Giả lập chỉ là giả lập, đều
không phải chân thật, giả thuyết của Khoa Học lập riêng cũng là
phương tiện để thuyết minh. Nhưng như các Khoa Học Gia nếu quan hệ
không biết đạo lý “Giả” cùng “Chân”, tức là không có một pháp
hiện bày cho nên khiến chấp giả làm chân mà sanh ra ngộ nhận. Xin
chú ý, những điều thuyết minh trên đây cũng là giả lập, không cần
phải chấp trước.
Giác Giả dùng ngôn
ngữ văn tự giả lập như thế nào để thuyết pháp? Đáp rằng: chỉ có
thể nhắm vào sự ngộ nhận và giải sai của đối phương và dựa theo
khả năng chỗ có của đối phương dùng ngôn ngữ văn tự để giải rõ
dành cho sự sửa chữa chân chánh, dành cho sự thuyết minh. Thí dụ như
người mê muội đường đi, mê muội phương đông cho là phương tây, chỉ có
thể bảo cho người khác phương hướng ngược lại là phương tây. Như chấp
ngã nhân cho là thật có một cái “Ngã” độc lập tự tại, bậc Giác
Giả chỉ có nương nơi sự hiểu biết về ngã nhân mà thuyết minh cái
“Ngã” đích thực là không tồn tại. Giả như không nhắm vào sự ngộ
nhận của đối phương để trình bày thì sự tác dụng của thuyết pháp
lại không phát sanh. Lại như không căn cứ nơi chỗ hiểu biết của đối
phương để giảng giải thì đối phương không thể hiểu rõ, sự tác dụng
của thuyết pháp cũng không phát sanh.
Cho nên thường nói: “Thuyết pháp không đối cơ, cũng giống như
chuyện phiếm.”
Chính tự thân
Giác Giả nói, thể tánh của tất cả pháp quan hệ giả tướng, huyễn
dụng trong mỗi mỗi pháp đều là thấu suốt không sai trái. Ở nơi tình
hình đây có thể tưởng tượng nó thật là không có phương pháp để mở
miệng, trừ phi căn cứ nơi phương diện bất giác mà nói. Cũng như một người tinh thông ngôn ngữ quốc tế, thấy người đối
phương Trung Quốc có thể nói tiếng Trung Quốc, thấy người đối phương
Anh Quốc có thể nói tiếng Anh Quốc, tuỳ cơ cảm ứng, thích hợp chỗ
tốt. Nhưng thử hỏi đối phương như không thể mở miệng thì họ nên nói
như thế nào?
Trong Kinh Kim
Cang, Phật hỏi Tu Bồ Đề rằng: “Như lai có thuyết pháp chăng?” Tu Bồ
Đề đáp: “Như tôi giải nghĩa chỗ Phật thuyết pháp, không có định pháp
gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (ý tức là Vô Thượng Chánh Giác),
cũng không có định pháp Như Lai có thể thuyết pháp. Tại sao thế? Chỗ
thuyết pháp của Như Lai đều không thể tiếp thu, không thể nói….” Chỗ
đây trình bày rõ nguyên lý lợi dụng tương đối, đạo lý phương tiện
đối cơ thuyết pháp.
Người tu học
Phật Pháp đối với nguyên lý đối cơ thuyết pháp lại không thể không
biết. Kinh của Phật thuyết so cùng với các bộ Luận của các bậc chưa giác ngộ nói đều khác
nhau ở chỗ là có thời gian, có địa điểm, có hội chúng và có nhân
duyên mà ứng cơ thuyết pháp. Khi ở nơi đối cơ vừa đúng chỗ thì thành
tựu công đức thù thắng, đáng được tán dương. Nhưng Tuyệt đối không
thể dùng đây đè kia, cho Tông của mình là tối thắng (Đây thì khá
tốt), mà đi hủy báng pháp kia (Đây thì không hợp lý). Pháp kia thì
tự có đối cơ của pháp kia, phá hoại phương tiện của pháp kia thì bị
tội lỗi không nhẹ!
Như trên đã
nói, ngã và nhân hiểu lầm về phương diện tri thức (hiểu lầm về
phương diện lý tánh) nhu cầu đối cơ thuyết pháp. Ngã và nhân còn
hiểu lầm về phương diện lý tánh, khoảng cách của mỗi người mặc dù
ngàn sai muôn khác, nhưng cũng có chỗ tương tợ, chỗ cộng đồng. Thí
dụ như một giống người đều có thật “Ngã”, có thật “Pháp”. Đối với
chấp trước đây, những bậc giác ngộ thì nói đạo lý mỗi mỗi đều
“Ngã Không”, “Pháp Không”. Nguyên nhân “Ngã” và “Pháp” là một loại kiến chấp.
Cho nên “Ngã Không” “Pháp Không” cũng trở thành một thứ chân lý
của Phật Pháp. Căn cứ nơi thường thức, kẻ chấp Chất Năng (vật chất
và năng lực) hoặc kẻ chấp Thời Không cả hai giống nhau đều cho là đơn
độc tuyệt đối tồn tại, thế nên Tương Đối Luận cùng “Trung Luận” của
Tánh Không Duyên Sanh cũng có thể trở thành chân lý phổ biến.
b.- Khám Bệnh Cho Thuốc:
Ngoài sự hiểu
lầm của phương diện tri thức, Ngã và nhân còn có hiểu lầm về phương
diện tình ý. Nhân vì không hiểu rõ tánh duyên sanh của các pháp và
chúng nó không có tự tánh, chấp bên trong có “Ngã” tồn tại, chỗ
mù quáng là mong muốn nó có thể thường trụ và chấp bên ngoài có
“Pháp” độc lập, phát khởi các thứ hành vi thương ghét. Hiểu lầm về
phương diện tình ý là nương nơi sự hiểu lầm của tri thức mà phát
khởi, nhưng nhân vì thế lực của sự hiểu lầm rất lớn, lại không thể
riêng dựa vào thế lực của lý trí để có thể khắc phục. Các bậc
giác ngộ trước kia ngoại trừ sử dụng nguyên lý tương đối nói trên
để thuyết minh, lại còn thyiết lập các thứ phương pháp đối trị, đi
uốn nắn hành vi sai lầm của phương diện tình ý. Hiểu lầm của phương
diện tình ý đem so sánh với cụ thể, tánh chất và trình độ của nó
thì ngàn sai muôn khác đối với con người. Nhân đây phương pháp đối
trị của phương diện sự tướng cũng trở thành ngàn sai muôn khác, chỗ
gọi là “Pháp môn vô lượng”.
Pháp môn tuy
nhiều, nhưng nguyên lý thì chỉ có một, tức là theo bệnh cho thuốc. Sự
hiểu lầm của ngã và nhân giống như người bệnh, bậc giác ngộ đối
với họ mà nói một pháp môn thích hợp tỷ như vị thuốc. Vị thuốc nhằm
để trị bệnh, bệnh đã hết thì vị thuốc đó cũng không cần dùng trở
lại. Đây đủ chứng minh là không lìa khỏi nguyên lý tương đối. Kinh
Kim Cang nói: “Này các Tỳ Kheo, nên biết pháp ta thuyết minh, dụ như
chiếc bè, pháp đây còn phải bỏ, hà huống phi pháp.” Ý đây nói:
những pháp của bậc giác ngộ thuyết minh là khiến kẻ chưa giác ngộ
được giác ngộ là chiếc bè tốt dùng để vượt qua sóng gió của biển
cả, khi đến được bờ bên kia chiếc bè đây cũng nên hủy bỏ. “Pháp”
có thể khiến người được giác ngộ còn phải xả bỏ hà huống là
những “Pháp” khác? Đây có thấy Phật Pháp chính là Tương Đối Luận
triệt để.
Các thứ hành
vi sai lầm bên ngoài của ngã nhân, Phật Pháp dùng giới luật để đối
trị; trên các thứ tri thức bên trong của ngã nhân, hiểu lầm trên
tình ý, Phật Pháp dùng các thứ quán hạnh để điều phục. Thí dụ như đối
với tham dục trầm trọng dạy tu quán bất tịnh để đối trị, đối với
tâm sân hận trầm trọng dạy tu quán từ bi để đối trị, đối với tâm
nhiều tán loạn dạy tu quán sổ tức để đối trị, đối với ngu muội
không rõ lý dạy tu quán nhân duyên để đối trị, đối với nghiệp
chướng nặng nề dạy tu quán niệm Phật để đối trị. Các thứ phương
tiện đây đều là pháp dược để trị bệnh mà thôi.
c.- Đạo Lý Trung Nguyên:
Nguyên Lý Tương
Đối như trên đã tường thuật, nhưng ở giai đoạn thực thi thì phải đúng
chỗ, tức là phải Nguyên Lý Trung Đạo.
Nơi tánh chất,
tất cả pháp đã là tương đối thì không nên chấp có hai bên (Ngôn
ngữ hiện đại gọi là Lưỡng Cực = Polarity). Thí dụ như đối với người
chấp “Có” thì nên nói “Không”, nhưng đối với người chấp “Không” thì
nên nói “Có”. Không chấp hai đầu “Có” và “Không” tứa là thành Trung
Đạo. Lục Tổ Đàn Kinh nói rằng: “Nếu có người hỏi ông về nghĩa, nếu
hỏi “Có” thì đem “Không” mà đối lại, nều hỏi “Không” thì đem “Có” mà
đối lại, nếu hỏi “Phàm” thì đem “Thánh” mà đối lại, nếu hỏi “Thánh”
thì đem “Phàm” mà đối lại, hai lối làm nhân cho nhau liền sanh ra nghĩa
Trung Đạo.”
Ở nơi trình độ,
khi rèn luyện hành vi hoặc tu tập quán hạnh, cũng không thể chạy
theo cực đoan. Cho nên giáo pháp của Phật Đà phương diện duy nhất là
phản đối chủ nghĩa hưởng lạc của Thuận Thế Ngoại Đạo đương thời và
cũng phương diện duy nhất là phản đối chủ nghĩa khổ hạnh cực đoan.
Cho là hai khuynh hướng đây đều không phải Trung Đạo, ở trong Tứ Thập
Nhị Chương có câu thí dụ: “Giây đờn buông thả thì không kêu, giây
đờn căng thẳng thì bị đứt, giây đờn trung bình không buông thả và
không căng thẳng thì các âm thanh vang dội khắp nơi.”
Tóm lại,
Nguyên Lý Tương Đối khi đã chứng đến thì sinh động linh hoạt, thật
tướng không thể hình dung. Chờ đến khi gặp duyên ứng cơ thì lại khẳng
định, đến được Trung Đạo chỗ tốt thích hợp. Vũ trụ các pháp thật
tánh là như thế, ngoại trừ căn cứ nơi giả thuyết phương tiện của
Nguyên Lý Tương Đối này, đặc biệt không có pháp nào khác có thể
trình bày rõ. Bài giảng này trình bày cũng xin hiểu như thế.
(Giảng nơi Hương Cảng Tam Luân Phật Học Xả, ngày 13
tháng 3 năm 1965)