QUAN NIỆM SỬ HỌC CỦA DUY THỨC
Người
giảng:Pháp Sư PHÁP PHẢNG
Người dịch
: THÍCH THẮNG HOAN
Tịnh Thất Viên Hạnh
PL
1554 – TL 2010
LỜI GIỚI THIỆU |
Biên khảo về sử học Phật Giáo
là một công trìnhto lớn, đòi hỏi đầu tư vào rất nhiều công phu
nghiêncứu, nhất là nghiên cứu sự tiến trình Phật Giáo thờitiền
sử. Trong thời kỳ tiền sử, sử học Phật Giáo cótính cách biên sử
không được nhất quán, thí dụ nhưngày đản sanh, ngày xuất gia, ngày
thành đạo, ngàynhập niết bàn của Đức Phật Thích Ca trong sử họccó
nhiều kinh luận nói khác nhau không đồng nhất,về phương diện này
dường như đức Phật không quantâm đến, cho nên sau này người viết
sử ghi lại cuộcđời Đức Phật Thích Ca theo sự trí nhớ mập mờ
củamình. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, những kinhđiển của ngài
chỉ dạy không thấy đề cập đến đến sửhọc, có lẽ ngài chú trọng
truyền bá chánh pháp màngài đã chứng ngộ để cứu độ chúng sanh
sớm thoátkhỏi mọi sự khổ đau của |
cuộc
đời trần ai hơn là lýluận triết học trên lãnh vực tư tưởng không
lợi íchthiết thực, do đó ngài không bàn đến sử học thế gianđương
thời. Hơn nữa các đệ tử của ngài lúc bấy giờđặt trọn niềm tin
nơi ngài những đức tánh cao quýmà ngài đã đạt được như:• Ngài là
một chứng nhân của các bậc ThánhĐức giác ngộ và giải thoát.•
Những lời dạy của ngài là chân lý thực nghiệmtối thượng.• Chỉ
cần hành trì theo những lời chỉ dẫn củangài để sớm được chứng đắc
như ngài màkhông cần suy luận và diễn dịch chân giả,đúng sai.Theo
Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm, chương 6,phần đầu chia lịch sử Phật
Giáo thành 3 thời kỳ:chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. “Thời
kỳChánh Pháp gồm có 500 năm kể từ khi Như Lai diệtđộ, y theo giáo
pháp tu hành thì chứng quả. Thời kỳTượng Pháp gồm có 1000 năm kể
từ sau 500 năm củaChánh Pháp. Thời kỳ này tuy có người tu nhưng
ítngười chứng đắc. Thời kỳ Mạt Pháp kể từ sau 1000năm của Tượng
Pháp trở đi. Thời kỳ này tuy có ngườilãnh thọ giáo pháp nhưng
không có người tu chứng.”Cũng theo kinh luận này giải thích: thời
lỳ ChánhPháp là thời kỳ Đức Tin Kiên Cố, thời kỳ TượngPháp là
thời kỳ Nghị Luận Kiên Cố, thời kỳ MạtPháp là thời kỳ Đấu Tranh
Kiên Cố.Theo những dữ kiện trên, Sử Học Phật Giáo cóthể được
quan tâm nghiên cứu vào thời kỳ Nghị LuậnKiên Cố của thời Tượng
Pháp, nguyên vì trong thờikỳ này, những tư tưởng và triết học của
Phật Giáo thiđua phát triển đa dạng. Sử học Phật Giáo kể từ
ĐứcPhật Thích Ca thành đạo cho đến thời kỳ Sử Học ThếGiới được
đề cao trong văn học nhân loại, mặc dù cótánh cách Biên Sử, nhưng
Tư Tưởng Sử của PhậtGiáo trong tiến trình phát triển cho đến ngày
nay cóthể nói là đồng nhất cùng một mục đích của ĐứcPhật Thích Ca
chủ trương từ ban đầu không có chútnào mâu thuẩn lẫn nhau lý
tưởng và thăng tiến theonhịp độ văn minh của nhân loại mà không
sai lậptrường tôn giáo. Đó là điều đặc sắc của Phật Giáotrong sự
thăng hóa tư tưởng sử có hệ thống.Người nghiên cứu sử học Phật
Giáo nếu muốnlàm sáng tỏ bản sắc sử học Phật Giáo, nhất là
minhđịnh rõ ràng và cụ thể những móc câu tiến trình tưtưởng sử
Phật Giáo kể từ khi Đức Phật Thích Ca rađời cho đến ngày nay một
cách dung thông nhấtquán, phải có kiến thức khoa học, có khả năng
tổnghợp toàn diện mọi học thuyết, phải có trí tuệ thẩmđịnh và
phân loại quan điểm tất cả mọi khuynh |
hướngtư
tưởng của các hệ phái qua các thời đại thì mớixứng đáng là một
sử gia lưu danh kim cổ và nhữngtác phẩm đó mới giúp ích cho những
hậu học saunày. Tôi nhơn đọc một tác phẩm “DUY THỨC SỬQUAN DỮ KỲ
TRIẾT HỌC” của tác giả Pháp SưPháp Phảng, nhận thấy Pháp Sư thật
xứng đáng làmột sử gia như đã đánh giá ở trên. Pháp Sư
khôngnhững là một sử gia thông bác mà còn là một triếtgia và duy
thức gia đáng phục, đúng ra là một duythức gia chuyên nghiệp,
nguyên vì ngài đứng trên lậptrường Duy Thức Học để minh định sử
học và triếthọc. Pháp Sư chẳng những làm sáng tỏ bản sắc sửhọc
Phật Giáo mà còn thẩm định cụ thể lập trườngcủa Đức Phật Thích Ca
qua các kinh luận của PhậtĐà để lại và còn phê phán cụ thể
những đặc sắc tưtưởng của các Bộ Phái Ấn Độ, của các Tông
PháiTrung Hoa trên lãnh vực sử học và triết học. Chúngta đọc đến
tác phẩm nói trên của Pháp Sư như nắmvững bản đồ của rừng hoa
văn hóa tư tưởng vạn năngcủa Phật Giáo. Các đọc giả muốn biết
khả năngthông bác của Pháp Sư xin đọc những tác phẩm củangười sẽ
rõ.Tôi nhận thấy tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUANDỮ KỲ TRIẾT HỌC” của
Pháp Sư rất có giá trị liềnmạo muội xin dịch tác phẩm này ra tiếng
Việt để làmtài liệu. Tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲTRIẾT HỌC”
gồm có hai phần: Phần Sử Học vàPhần Triết Học. “Duy Thức Sử Quan”
thì thuộc vềphần sử học và “Dữ Kỳ Triết Học” thì thuộc về
phầntriết học. Tôi chia hai phần này dịch thành hai quyểnkhác nhau:
quyển “Duy Thức Sử Quan” và quyển “DữKỳ Triết Học”. Nhan đề “Duy
Thức Sử Quan”: chữSử là sử học và chữ Quan là quan niệm. Từ đó
“DuyThức Sử Quan” tôi dịch là “Quan Niệm Về Sử HọcCủa Duy Thức”.
Còn nhan đề “Dữ Kỳ Triết Học”:chữ “Dữ” là thuộc về giới từ,
nghĩa là “Và” và chữ“Kỳ” là đại danh từ chỉ cho “Duy Thức và Quan
”.Cũng từ đó “Dữ Kỳ Triết Học” tôi dịch là “QuanNiệm Về Triết
Học Của Duy Thức”Với mục đích làm phong phú cho nền văn họcPhật
Giáo về Tông Phái Duy Thức, nội dung haiquyển sách nói trên trong
tác phẩm “ DUY THỨC SỬQUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” tôi dịch theo lối thoátvăn
mà không lệ thuộc quá nhiều văn phạm TrungQuốc nhằm lấy ý tưởng
hay đẹp trong đó để cốnghiến quý đọc giả quan tâm đến Pháp Tướng
DuyThức Học. Trong khi dịch, những chỗ nào tối nghĩatôi có thêm vào
một số lời văn của dịch giả để làm |
rõnghĩa
mà không sai ý tứ của tác giả miễn làm saođọc giả dễ tiếp nhận
giá trị của tư tưởng. Tôi dịchmặc dù lối văn không hay lời không
đẻo gọt cho cóhoa mỹ, nhưng bước ban đầu với ý nguyện giới thiệuđến
quý đọc giả bốn phương những tư tưởng cao thâmcủa Phật Giáo, nhất
là tư tưởng học thuyết Duy Thứcmà người Trung Hoa tiếp nhận hiện
đang nằm gọntrong Văn Học Trung Quốc. Tôi hy vọng sau này cónhiều
dịch giả tiếp nối dịch lại để bổ túc thêm chođược phong phú hơn.
Tôi dịch hai tác phẩm vừa phânloại trên của tác giả Pháp Sư Pháp
Phản nhất địnhcó nhiều chỗ thiếu sót và sai trái kính xin quý đọc
giảbốn phương nhận thấy xin chỉ bảo cho. Thành thậtcảm ơn quý vị. |
THÍCH THẮNG HOAN |
|
QUAN NIỆM SỬ HỌC CỦA DUY THỨC |
******* |
Người giảng: Pháp Sư PHÁP PHẢNG |
Người dịch : THẮNG HOAN |
Cốt Truyện Hành Đạo Của Pháp Sư Pháp Phảng |
Lời tường thuật của ngài Ấn Thuận Pháp Sư
húy là Pháp Phảng, con của một nhànông ở Tỉnh Hình thuộc huyện Hà
Bắc, sanh tạiThanh Quang năm 30 ( Tây lịch 1904 ). Thuở nhỏ,Pháp Sư tỵ
nạn hạn hán đến Bắc Kinh, vào học nơiPháp Nguyên Tự Nghĩa Học.
Pháp Sư cảm niệm ânđức từ bi tế độ của Phật Môn, cho nên đến
năm DânQuốc thứ 10, y chỉ nơi ngài Nam Nhạc là vị đạo caođức trọng
để xuất gia. Năm sau, Phật Học Viện bắtđầu sáng lập nơi Võ Xương,
Pháp Sư nghe tin liềnđến xin nhập học và kết bạn với Nam Tham,
đồngthời đích thân nương tựa hai năm nơi Đại Sư TháiHư. Pháp Sư được
chuyển vào Học Viện Tạng Văn ởBắc Kinh, sau đó theo phái đoàn đi
Ấn Độ và lưu lạiTây Tạng để học Phật Pháp. Nửa chừng, Pháp Sư
bỏhẳn ý định tham cầu học Mật Tạng; nguyên vì ở đâyPháp Sư gặp
rất nhiều nghịch duyên cho nên liền trởvề Võ Xương. Pháp Sư |
tự tu nơi Võ
Viện được vàinăm. Sự học của Pháp Sư ngày càng thăng tiến,
rấtgiỏi về Duy Thức Câu Xá và được đại chúng quýtrọng.Mùa thu
năm thứ 19, Pháp Sư nhận chức GiáoThọ nơi Viện Giáo Lý Bạch Lâm
ở Bắc Bình vàkiêm chức Thư Ký nơi Thế Giới Phật Học UyểnThiết Bị.
Ở đây Pháp Sư giảng A Tỳ Đạt Ma Câu XáLuận nổi bật và các học
viên khen ngợi Pháp Sư vôcùng! Năm thứ 918, sự biến động nổi lên,
Đại SưThái Hư triệu Pháp Sư về Võ Xương nhậm chức ChủNhiệm Thế
Giới Phật Học Uyển Đồ Thư Quán ( ThếGiới Phật Học Uyển Đồ Thư Quán
tức là Võ Việnđã được cải tổ ). Các Biên Tập Viên Hải Triều
Âmtrong Uyển Đồ Thư Quán hưởng ứng theo sự chỉ đạocủa phong trào
tuyên dương cách mạng canh tânPhật Giáo; cũng trong thời gian này,
phong tràonghiên cứu Phật Học đầu tiên ra đời. Sau đó, BiênTập
Viên Hải Triều Âm tất cả ba lần thành lập vàrốt cuộc bị gián
đoạn năm năm. Nơi Uyển Đồ ThưQuán, Đại Sư Thái Hư đã từng thiết
lập Khoa Dự Bịvà Bộ Nghiên Cứu, trong Bộ đó Pháp Sư đóng địa vịchủ
trì. Vả lại, trong thời gian qua, Hội Phật GiáoChánh Tín ở Hán Khẩu
tùy cơ chỉ đạo. Võ Viện làTrung Tâm Giáo Dục Tăng Đoàn của Đại Sư
TháiHư và sử dụng cơ quan ngôn luận Hải Triều Âm đểquảng bá khắp
nơi. Trong thời gian 56 năm, Pháp Sưchính thực là người trung kiên
của sơn môn, trướcsau đều chủ trì mọi việc! Khi quân kháng chiến
nổidậy, để thích ứng với thời thế, các bậc tôn túc họcgiả pháp
hữu ước hẹn cùng nhau vào Tứ Xuyên đểchủ trì Hán Tạng Giáo Lý
Viện Giáo Vụ. Ở đâytrong thời gian 23 năm, Pháp Sư tích cực đóng
gópcông lao đặc thù nhất.Từ khi Đại Sư Thái Hư được quốc tế phỏng
vấncho đến nay, Pháp Sư được Bộ Giáo Dục đồng ý đềcử đi phó hội
ở Tích Lan để hoằng truyền Đại Thừa.Sau đó, Pháp Sư sang Miến Điện
và mục đích đểthích ứng với thời chiến, Pháp Sư lưu lại đó hơn
mộtnăm. Đến tháng 2 năm thứ 32, Pháp Sư từ Tây An (Thiểm Tây ) đi
Ấn Độ; sau thời gian qua lại nơi ĐạiHọc Quốc Tế của Ấn Độ và Học
Viện Trí Nghiêmcủa Tích Lan, Pháp Sư vốn là người cựu học của ATỳ
Đàm, cho nên việc đầu tiên mong cầu được thọgiáo A Tỳ Đàm của
Tích Lan. Để thích nghi với tìnhthế địa phương, Pháp Sư ẩn nhẫn làm
những côngviệc tầm thường, mỗi mỗi đều tùy thuận theo sựphân
biệt và nói năng của họ. Tây An dự trù thiếtlập Viện Tam Tạng
Pali nhằm để |
trao đổi Lưu
HọcTăng với nhau giữa Tích Lan và Trung Quốc, mọiviệc đều do Pháp
Sư chỉ đạo cả. Mùa xuân năm thứ36, Đại Sư Thái Hư viên tịch. Pháp
Sư cảm niệm sựnghiệp lâu đời của Đại Sư Thái Hư nơi Võ Viện vàsợ
kế hoạch mới của Viện Pali không có người quảnlý, liền sang Mã
Lai Á để trở về Hương Cảng. Khiđến nơi, Pháp Sư thấy tận mắt nhục
thân của Đại SưThái Hư vừa được chuẩn bị đem hỏa táng và tứchúng
đều tỏ lòng tôn sùng. Mùa hạ năm sau, PhápSư về Thượng Hải đảnh
lễ Xá Lợi của Đại Sư TháiHư được phụng thờ nơi chùa Tuyết Đậu,
nơi đâyPháp Sư được đề cử làm chủ chùa. Pháp Sư lại trởvề Võ
Viện để tiếp tục khai giảng Phật Pháp. Mùaxuân năm thứ 38, nơi
Trường Sa, Pháp Sư khai PhápHội Bát Nhã; đồng thời nhận trụ trì
chùa Đại Vị Sơnở Hồ Nam. Mặc dù quốc sự mỗi ngày mỗi phức
tạp,không thể ổn định trật tự, tuy nhiên các nơi đều tiếpđãi Pháp
Sư rất trọng hậu! Tiếp theo từ mùa hạ đếnmùa đông, Pháp Sư giơ cao
tích trượng đến HươngCảng. Nhờ năm lần khai giảng Pháp Hội, Pháp
Sưhóa độ mọi người rất đông. Ngoài ra Pháp Sư cònxuất bản và
phát hành dịch phẩm A Tỳ Đạt MaNhiếp Nghĩa Luận. Ngay lúc đó, Pháp
Sư nhận lờimời viếng thăm Đại Học Tích Lan. Trọng tâmchuyến đi Tích
Lan này, Pháp Sư chủ yếu giảng PhậtHọc Trung Quốc và lưu lại đây
được hai năm. Khinhàn rỗi, Pháp Sư lại du hóa Mã Lai Á và Xiêm
La,nơi hổ trợ rất đắc lực việc ấn hành Thái Hư Đại SưToàn Thư.
Pháp Sư bị áp huyết quá cao nhưng nhờsức lực tráng kiện cho nên
Pháp Sư chỉ cảm thườngthôi, không đáng lo ngại. Nhưng đến ngày mùng
3tháng 10, Pháp Sư bị máu đầy não, không bao lâu thìtịch. Pháp Sư
sống chỉ có 48 tuổi (nếu tính theo TâyLịch, Pháp Sư chỉ có 46 tuổi
)!Than ôi! Pháp Sư rất giỏi tiếng Anh, tiếng Nhật,tiếng Pali, chuyên
nghiên cứu Pháp Tướng và tinhthông cả thế học, pháp môn nào cũng
giỏi cả! Hằngnăm Pháp Sư đi du hóa Đông Nam Á cho nên PhậtGiáo nơi
này ngày càng hưng thịnh. Phiên dịch đểtruyền đạo phía nam rồi phát
huy nơi trung thổ, PhápSư thật xứng đáng là vị kế thừa chí nguyện
của ĐạiSư Thái Hư và làm sáng tỏ sự nghiệp của người! Đãbiết rằng
chúng sanh phước mỏng, nên voi chúa đãđi nhưng tại sao voi con lại
cũng đi theo? Hạnhnguyện hoằng đạo của Pháp Sư chưa được đền
đáp,kẻ thức giả thật rất đau |
thương. Xin
kính cẩn tườngthuật sơ lược hành trạng của người để ghi nhớ
muônđời. |
Ấn Thận |
LỜI MỞ ĐẦU |
của Pháp Sư Pháp Phảng |
Mùa hạ năm qua ( 1949 ), tôi từ Ấn Độ sangNam
Dương rồi trở về nước, xa cách tổ quốc ròng rãtám năm, những
tưởng sự nghiệp văn hóa Phật Giáotrong nước tùy duyên đã tổ chức
được một ít, khôngngờ đến tháng 10, trong thời gian đó, nội chiến
phátkhởi từ Đông Bắc và Hoa Bắc tràn lan kéo dài đếnLưu Thành ở
Trường Giang. Vì không biết ứng biếntrong cuộc chiến tranh có tầm cở
lớn nên tháng 2năm đó, tôi đã lìa khỏi Phật Học Viện Võ Xương
vàđi đến Trường Sa, mặc dù tâm tôi rất ái mộ Thế GiớiPhật Học
Uyển Đồ Thư Quán. Đúng ra tôi định sẽtrở về Võ Xương vào tháng 4
hay tháng 5, nhưngthời thế không cho phép nên tôi nhất định đến
sinhhoạt theo lối dây chuyền tại Vân Nam. Lúc ởTrường Sa, tôi đầu
tiên trụ nơi Tịnh Xá Long VươngCung Hoa Nghiêm, sau lại dời đến
Thuyền Sơn HọcXã ở Hồ Nam. Tại đây, mỗi tối tôi với ông
XãTrưởng Chu Dật ( Mộc Nhai ) họp mặt với các tiênsinh bạn của
ông Xã Trưởng như Hướng Khải Nhiên,Lưu Ước Chân, Đàm Vân Sơn, Vương
Trọng Hậu,Liễu Mẫn Tuyền, Chu Trưởng Tùng; ngoài ra còn cócác
Pháp Sư như Ngộ Tánh, Đại Định, Tự Trí cùngnhau luận đạo, và dạy
học. Tình hình ở đây lúc bấygiờ rất thái bình, an vui, đầm ấm,
không biết trongnhân gian còn có vị thuốc nổ nào nữa chăng!Thời
gian như đá lửa, như điện chớp, chốn BátNhã đã trở về quá khứ!
Cuối tháng 4, tôi lại đếnThành Liễu Dương, nơi chùa Lục Dung,
chuyên mônquét tháp hơn mười ngày. Các chùa cổ tích như TăngDu
Quang Hiếu, Hải Tràng, Đại Phật lúc xưa lànhững Đạo Tràng trang
nghiêm, nhưng ngày nay trởthành công viên, chuồng ngựa, thật rất
đau thương!Một ngày nọ tôi tưởng nhớ đến chùa Bạch Vân lànơi mà
Đại Sư Thái Hư đã từng dừng chân nên sángsớm liền đi lễ bái,
nhưng khi đến ngoại thành ngheĐạo Kỷ nói cổ tự đó không còn tông
tích, hình bóngBạch Vân |
đã về dĩ
vãng! Tôi liền quay trở lại.Đầu tháng 5, tôi đến Hương Cảng gặp
lại bạnhọc tên là Kỷ Văn Quân chuyên nghề thầy cúng,tiếp đón
nồng hậu, cho ở nơi Bảo Liên Hậu Viện.Để kết duyên với nhóm thầy
cúng nói trên, tôi giảngPhẩm Quy Y Tam Bảo trong Kinh Đại Thừa Lý
ThúLục Ba La Mật. Sau đó vài tháng, tôi đi khắp HươngCảng, đến nơi
Sơn Giáo Khu, tâm tôi rất ái mộ ĐạiTự Sơn. Trong thời gian tháng 6
ở Đại Bộ Khư, haiPháp Sư Từ Tường và Quả Viên thỉnh tôi giảng
bộluận Duy Thức Tam Thập Tụng. Tháng 7, hai cư sĩĐông Liên Giác
Uyển Vương Học Nhơn và LâmLăng Chân cũng thỉnh tôi giảng bộ luận
này. Nhữngbài giảng của tôi trước và sau đều do Huỳnh BổnChân
cùng với Nghi Mô ghi lại thành tài liệu. Nhữngtài liệu đây được
đa số thính chúng đem đi ấn hànhđể cho thỉnh, sau đó được tu chính
trở thành quyểnsách.Mười năm gần đây, tôi rất ít xem đọc sách
Phậtthuộc loại văn Trung Quốc, đặc biệc là kinh luậnthuộc Phật
Học Đại Thừa. Mục đích của tôi chỉ diễngiảng riêng bộ luận Duy
Thức Tam Thập Tụng,nhằm để khai thị cho bậc sơ học, giúp cho họ
kếtduyên với Phật Pháp nên tôi hoàn toàn không giảnggiải học
thuật hay tư tưởng. Còn phần đông các ĐạiPháp Sư mỗi khi giảng
giải Phật Pháp đều không cógiở kinh sách ra để tham khảo, chỉ trình
bày theo kýức cho nên thường đi ra ngoài vấn đề chính. Trongquá
khứ, tiếng nói Phật Pháp trở thành vĩ đại vàrộng lớn là do tư
trào hiện đại quan hệ với Phật Học.Lối giảng giải Phật Pháp của
các Đại Pháp Sư khôngkhảo cứu kinh sách nói trên cũng có thể cho
là loạiHuyền Đàm kiểu mới --- hiện tượng đó xưa nayđược thấy nhan
nhản trong nhân gian, một vị ĐạiPháp Sư mỗi khi giảng kinh đều lên
ngồi trên PhápTòa cao, trước sau nói vòng quanh toàn là một
thứnghĩa lý mầu nhiệm cao thâm nào đâu. Thính giả sơcơ bắt đầu nghe
giảng chẳng có cảm nhận được sựhứng thú nào, cho đến chính tôi
ngồi nghe kinh cũnghoàn toàn không có chút hoan hỷ lối trình bày
nghĩalý mầu nhiệm cao thâm khó hiểu kia. Hai cách diễngiảng nói
trên chẳng qua một bên có điểm thêm vàotánh chất lịch sử cũng như
tánh chất học thuật để sosánh và để nghiên cứu, nhờ đó thính
chúng nghepháp không cảm thấy mệt mỏi cũng như không cảmthấy chán
nản.Khi bắt đầu giảng giải, vị Pháp Sư nên quan tâmnhững kẻ sơ học
khiến cho họ dễ dàng lãnh hội, vìthế đối với những thuật ngữ
chuyên môn không |
nêntrình bày
sai trái cũng như đừng giải thích phản lạinguyên ý trong kinh, đồng
thời sử dụng rất nhiềuhọc thuật hiện đại nhằm để chứng minh.
Trong Biênthứ II, phần Tự Luận ở Chương I cho đến phần thứlớp Thức
Năng Biến của Tiết 4 trong Chương IIIcũng như phần Tự Ngôn của
Chương III. IV, V, VI làtôi viết thêm vào. Ngoài ra các bộ phận
khác đều làghi chép nguyên bản có hơi cải cách và quy định lạimà
thôi.Đại khái, bất cứ học thuyết hay tư tưởng nào đềucó lịch sử
bối cảnh và phát triển của nó; Phật Họccũng như thế, cho đến học
phái Duy Thức của PhậtHọc thì lại càng không ngoại lệ. Hơn nữa,
chúng tanên nhớ rằng Trí Đạo là một thứ học thuyết ảnhhưởng như
thế nào đối với sự sinh hoạt tư tưởng củanhân loại, hoặc giả nói
cách khác, một thứ họcthuyết đối với nhân sanh có giá trị hay
không là tấtnhiên phải căn cứ nơi lịch sử để nghiên cứu, nguyênvì
lịch sử là thứ phản ảnh tư tưởng sinh hoạt củanhân loại. Chúng ta
nhận thấy một thứ học thuyếtnào nơi quá khứ phát sanh trên lịch
sử đã ảnh hưởnghoàn toàn rộng lớn thì có thể nói Trí Đạo của
họcthuyết đó thật có giá trị. Học phái Duy Thức trong500 năm, từ
thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 7 là mộthọc thuật trong tư tưởng
giới ở Ấn Độ và lại rất cóthế lực không nhỏ. Điều đó cho thấy
học phái DuyThức trên lịch sử triết học Ấn Độ thật xứng đáng
làmột thứ học thuyết của thời đại mới, nói ngược lại,ngài Thế
Thân kiến tạo một thứ tư tưởng hoàn toànmới mẻ; ngài Chân Đế,
ngài Huyền Trang, ngàiKhuy Cơ đem học phái này truyền vào Trung
Quốcvà học phái này ảnh hưởng cũng như phát sanh vôcùng rộng lớn
trên lịch sử Phật Học Trung Quốc vàothế kỷ 672, đây là sự thật
lịch sử không thể nào hoàinghi được.Ngôn từ Duy Thức Học hoặc gọi
là Du Già DuyThức Học Phái, nói bao quát chính là tư tưởng
củathuyết Nhất Thế Hữu Bộ, nguyên do Duy Thức Họclà học thuyết
được phát sanh từ trong học thuyết củaHữu Bộ và tư tưởng của ngài
Di Lặc và ngài VôTrước cũng đều nền tảng nơi tư tưởng Hữu
Bộ.Những tư tưởng trọng yếu đã được tìm thấy trongDuy Thúc Học như
tư tưởng A Lại Da Thức và MạtNa Thức, tư tưởng Viên Thành Thật
Tánh, PhápTánh Thân Độ, Tự Tánh Niết Bàn, Nghiệp Quả LưuChuyễn,
..v..v.... ; lại thêm học thuyết Nghiệp vàGiải Thoát trong Cộng
Đồng của sáu phái Triết HọcẤn Độ cũng nên tham cứu, cho đến tư
tưởng PhạmNgã trong triết học của phái Phệ Đàn Đa cũng phảiam |
tường; sau
đó mới có thể tri đạo được cội nguồncủa tư tưởng Duy Thức
Học.Triết Học của Duy Thức là triết học “Hữu”, vìDuy Thức Học chủ
trương tất cả pháp đều quan hệthông qua “Thức” để tồn tại. Chân
lý thì có thậtthuộc Viên Thành và sự tướng thì có giả giống
nhưhuyễn. Triết Học Duy Thức là triết học thuộc loại“Biến”, vì Duy
Thức Học chủ trương tất cả pháp hữuvi ------ vũ trụ vạn hữu đều do
thức Biến. Chữ Biếnlà chuyển biến, là hoạt động, là phi thường,
chỉ cầntri đạo bất động thì không có thể “Chuyển” và cũngkhông có
thể “Biến”, cho nên Biến tất nhiên cầnphải Động. Lại nữa, tất cả
pháp hữu vi trong DuyThức Học cũng gọi là “Hành” và Hành ở đây
chínhlà ý nghĩa của chữ Biến, như năm Uẩn của các pháphữu vi thì
sát na sanh diệt, biến động không dứt. Từý nghĩa này, các pháp
hữu vi được gọi là Phi Thườngvà cũng vì phi thường cho nên không
có tự tánh; cácpháp hữu vi vì không có tự tánh nên gọi là
Không; tựtánh vốn đã không thì không có Ngã. Nhờ đã ngộnhập
được lý vô ngã và chứng được Nhị KhôngChân Như thì đạt được hai
quả Chuyển Y của DuyThức Học.Cảnh giới thực hiện của Trí Vô Phân
Biệt đãđược trình bày nơi Du Già Duy Thức Học ------ “TựTánh của
Thắng Nghĩa thì lìa ngôn ngữ, giả sử đềcập đến tự tánh thì tất cả
đều bình đẳng, cho nênthường gọi cảnh gới đó là Tối Đệ Nhất, là
bờ mé sởtri của Chân Như vô thượng. Tất cả chánh pháp nàynếu như
dùng lối tư duy để chọn lựa, lẽ tất nhiênđều bị thối lui, không
thể vượt qua được”. Cảnh giới lìa ngôn ngữ đề cập trong đây chính
là Chánh QuánVô Sở Đắc và Tánh Không Chân Như của học pháiTrung
Quán chủ trương, cũng chính là Thật TướngBát Nhã của Thiên Đài,
Sự Sự Vô Ngại Pháp Giớicủa Hiền Thủ, Kiến Tự Bổn Tánh của
Thiền Tông.Từ đó cho thấy, chúng ta cần phải giải thích rõ
chỗchứng đắc nơi Phật Pháp của các tông phái chủtrương, những thứ
cảnh giới chân lý của tánh tuyệtđối này thì đều giống nhau, không
có thứ nào caothứ nào thấp, chỉ khác nhau ở phương pháp thuyếtminh
mà thôi. Căn cứ nơi thuyết minh lý tánh cùngvới sự tướng đặc
thù, Duy Thức lẽ dĩ nhiên là mộthọc phái trình bày có mạch lạc,
có ngăn nắp; cònTrung Quán và Thiền Tông thì thuyết minh trực
tiếpnên quá đơn giản. Ngoài chân lý của tánh tuyệt đốinày còn
có sự tướng đặc thù của tương đối. DuyThức thì đặc biệt thiên
trọng thuyết minh sự tồn tạicủa các pháp thuộc tánh tương đối; |
ngược lại,
TrungQuán và Thiền Tông thì đặc biệt thiên trọng thuyếtminh Chân
Như Tánh Không của tánh tuyệt đối. Chođến phương pháp sử dụng để
tu chứng, ngoại trừ lýdo quan hệ cá tánh, hoặc có chỗ khác nhau,
nhưngcảnh giới tu chứng của họ thì lại hoàn toàn giốngnhau. Nhơn
đây, trong Phật Giáo, không luận nói lýtánh hay nói thực hành,
tất cả tuy không giống nhauvề đường hướng nhưng đều cùng về một
chỗ.Quyển sách này nhờ sự hỗ trợ của các bạn đạonhư Vương Học
Nhơn, Lâm Nghiêm Chân, TừTường, Quả Viên đem tài năng ra xuất bản
mauchóng; lại nhờ bạn già Pháp Sư Đại Tỉnh đề tựa bìamặt; sau khi
cho in nhờ Nghi Mô phụ trách kiểmsoát lại, ngoài ra còn hai vị Pháp
Sư Diễn Bồi vàTục Minh giúp đỡ, tôi vô cùng cảm động và nhớ
mãitất cả ân nghĩa này.Phật lịch 2493, tháng giêng, năm 1950.
Viếtxong nơi lầu Minh Thường của Thuyên Loan LộcGiả Uyển ở Hương
Cảng. |
CHƯƠNG I |
HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC NGÀY NAY |
Trước Kỷ Nguyên 500 năm, Phật Học được phát
sanh nơiẤn Độ. Đến một thế kỷ trước trước Kỷ Nguyên 1, trong
thờigian Tần Hán cai trị, Phật Học mới bắt đầu lần lược truyềnvào
Trung Quốc. Đến nay, Phật Học tồn tại trên đất TrungQuốc đã có hai
ngàn năm lịch sử. Trong thời gian tại TrungQuốc, Phật Học cũng có
lúc thịnh và cũng có lúc suy.Nguyên nhân chung của Trung Quốc, là
vì nền văn hóadân tộc rất khoan dung thâm hậu, nên có thể thâu
nạp nềnvăn hóa ngoại lai. Phật Giáo sở dĩ trở thành một bộ phận
vănhóa Trung Quốc là do Văn Học Sử Trung Quốc tiếp nhận ánhsáng
rực rỡ của Phật Giáo, một thứ ánh sáng đặc biệt và ánhsáng đó
trực tiếp kế thừa mãi đến ngày nay.Hôm nay tôi giảng bộ luận Duy
Thức Tam Thập Tụng.Duy Thức là một trong các Tông Phái. Đối với
Tông DuyThức, các học giả cũng nên hiểu biết đại khái về tình
huốngcủa một thứ đạo lý này. Nhơn đây, trước hết, tôi xin trình bàytóm
lược tình huống Phật Giáo Trung Quốc ngày nay.Về phương diện nghiên
cứu Phật Học, gần 40 năm nay,yếu điểm cơ bản là nghiên cứu tình
hình Phật Học của Trung1 Hai Ngàn Năm Văn Hóa Trung Ấn của Ấn Độ
hoặc của Pagchi (Sư Giácnguyệt)Quốc ( Chỗ này |
không thể
bỏ qua sự tường thuật về chế độtăng chúng tự viện và phương thức
sinh hoạt của họ ).Còn sự nghiên cứu giáo lý Phật Giáo, đối với
các TôngPhái, có hiện tượng hưng thịnh. Nhưng có một điều là
tìnhhình nghiên cứu giáo lý Phật Giáo lại chịu ảnh hưởng đến
sựchuyển biến về chỉnh lý xã hội và về văn hóa tư tưởng củaTrung
Quốc.Lúc đầu, vào thời kỳ Thanh mạt ( cuối nhà Thanh ), các sĩphu
đứng lên cách mạng dân tộc như ngài Chương Thái Viêmvận động thay
đổi phép tắc. Còn các ngài Khang Hữu Vi,Lương Khải Siêu, Đàm Tự
Đồng, ..v..v... lại đề xướng nghiêncứu Phật Giáo. Trong lúc đó,
các học sinh du học Nhật Bảnvà các chí sĩ đã chết tại Nhật Bản
cũng đều nghiên cứu PhậtHọc.Gần đây, sự phát triển Phật Học đối
với Trung Quốc cóthể nói là nguyên nhân chính yếu. Lý do xã hội
đương thờiđang chuyển biến, đang cách mạng. Cho nên các giới PhậtGiáo
xem như cũng đang chuyển biến theo để cùng thích ứngvới sự phát sanh
cách mạng cơ giới. Nhân đó, phong trào vậnđộng Tân Học Phật đã
được thành công gần 40 năm nay 2.Tại Trung Quốc, trong thời kỳ Phật
Học hưng thạnh, mườiTông Phái đã được thành lập, nhưng hiện tại
chỉ có tám TôngPhái Đại Thừa còn lưu hành. Nếu căn cứ nơi lịch sử
nghiêncứu Phật Giáo Trung Quốc, chúng ta không thể tách rời
mườiTông Phái để nghiên cứu Phật Học. Chúng ta phải y cứ nơi2 Đại
Sư Thái Hư khi chịu ảnh hưởng tân học, liền đề xướng Phật GiáoCách
Mạng Luận, chủ trương Cách Mạng Giáo Lý, Cách Mạng Giáo Chếvà
Cách Mạng Giáo Sản.tinh yếu trong mười Tông Phái nói trên để thuyết
minh hiệntrạng nghiên cứu Phật Học ngày nay |
.I.- CÂU XÁ TÔNG: |
Từ đời Đường trở về sau, có thể nói, không
có một ngườinào thành công trong sự nghiên cứu Phật Học. Đến Dân
Quốcnăm thứ 9, trong thời gian mười năm, có một vị cư sĩ tên làHy
Thanh mở đầu phong trào nghiên cứu A Tỳ Đạt Ma CâuXá Luận Quang Ký
và sáng tác quyển Quán Câu Xá LuậnLý. Tác phẩm này được in trong
Nguyệt San Hải Triều Âm.Sau này, Hải Triều Âm thường đăng tải những
tác phẩm vănchương nghiên cứu về luận Câu Xá của các ngài Trương
HóaThanh, ..v..v.....Năm Dân Quốc năm thứ 11, Phật Học Viện Võ
Xương tổchức khóa học |
về bộ môn
Trung Đính ( Trung Học về mônHiệu Đính ), trong đó có bộ môn về Câu
Xá. Môn học CâuXá này đều do Giáo Thọ Sử Nhất Như chuyên trách.
Ngàiphiên dịch và giảng nghĩa tác phẩm Câu Xá Luận Thích củamột
người Nhật trước tác. Những học giả về môn học này rấtcảm kích
và hứng thú.Về sau cư sĩ Trương Hóa Thanh kế thừa Sử Nhất Nhưgiảng
về Câu Xá. Đối với học sinh nghiên cứu, Cư sĩ TrươngHóa Thanh
thường cho ra đề án yếu nghĩa trong Câu Xá làmmôn học thuật diễn
giảng. Ngàn năm tuyệt học, từ đây, trênlộ trình phục hưng có thể
nói Phật Giáo tiến triển rất nhanh.Đương thời, Học Tăng của Phật
Học Viện Võ Xươngphần đông đều ưa thích môn học về luận Thành Duy
Thức vàít người nghiên cứu về luận Câu Xá. Những học giả chuyêntâm
về môn luận Câu Xá chính là Pháp Phảng, ngài là mộttrong hai ba
người nổi tiếng. Ngài gia công ghi chú rõ ràng,trong đó gồm sớ
giải những lời quí báu từng câu trong luậnCâu Xá. Ngài rất tâm
đắc với môn luận Câu Xá.Lúc bấy giờ, Nội Học Viện Nam Kinh đứng
ra kiểm giáo,cho in tác phẩm Ghi Chú và Sớ Giải về Câu Xá của
ngàiPháp Phảng, đồng thời Âu Dương Tiệm đề tựa. Pháp Phảnglà một
học giả có công rất lớn trong việc nghiên cứu mônluận Câu Xá
nói trên.Vào năm Dân Quốc thứ 18, tại Võ Xương, Pháp Sư PhápPhảng
giảng toàn bộ Câu Xá Tụng. Năm 1920, tại Bắc BìnhThế Giới Phật
Học Uyển Giáo Lý Viện ( Chùa Bạch Lâm )và tại Nữ Tử Phật Học Viện,
Pháp Sư giảng toàn bộ Câu XáTụng, đồng thời ngài biên tập những
lời chú thích về Câu XáTụng. Bản thảo chú thích Câu Xá Tụng của
ngài đã mấttrong thời kỳ kháng chiến.Trong thời gian 27 năm tại
Viện Trùng Khánh Hán TạngGiáo Lý, suốt hai năm, ngài giảng luận
Câu Xá và hơn nữa,Pháp Sư còn biên soạn môn học Phê Phán Luận
Câu Xá. Saunày Phật Học Viện các nơi đều có người tiếp tục giảng
CâuXá Tụng và cũng có người sáng tác thành luận văn. Đến
nay,đối với vấn đề nghiên cứu Tông Câu Xá, nhiều người lần
hồiquy tụ và phát khởi phong trào nhiều nơi, tất cả đều đi đếnkết
quả rất hoàn hảo. |
II.- THÀNH THẬT TÔNG: |
Từ thời Dân
Quốc đến nay, người nghiên cứu về bộ luậnnày có thể nói là
không có. Chỉ có Đại Sư Duy Hư đã từngsáng tác quyển Thành Thật
Luận Cương Yếu và tác phẩmnày được Hải Triều Âm ấn hành. Ngoài
ra, cho đến bây giờ,chưa thấy một người nào nghiên cứu và đọc
tụng bộ luận nóitrên. Thật đáng tiếc cho điều thiếu sót này! |
III.- THIỀN TÔNG: |
Tông này cuối đời Thanh còn có chút sinh khí,
như ở KimSơn thuộc Trấn Giang có Thượng Tọa Đại Định, ..v..v....,
ởchùa Cao Mân thuộc Dương Châu có ngài Nguyệt Lãng,..v..v..., ở
Thiên Đồng có Ký Thiền Bát Chỉ Đầu Đà, có HòaThượng Tịnh Tâm, ở
Thiên Ninh có Thiền Sư Dã Khai, ởDương Châu có Hòa Thượng Văn Hy (
Tây Khôn ). Các vị ấyhọc hạnh rất uyên thâm. Họ đều là những
bậc danh tượngmột thời.Trước năm Dân Quốc thứ 10, ở chùa Quy
Nguyên thuộcHán Dương có ngài Tu Thủ Tọa và Hòa Thượng Xương
Hồngđối với các việc trong Tông Môn đều có cơ tỏ ngộ. Hai vị
nóitrên đều là bậc danh đức ở Giang Hạ. Từ ngày Bắc Phạt đếnnay,
Tông này rất suy yếu, trở nên im hơi lặng tiếng.Ngày nay, Thiền Sư
Hư Vân chủ trì chùa Hoa Nam vàchùa Vân Môn là một vị Thiền Sư có
thành quả to lớn đángkể đương thời của Thiền Tông. Người ta thường
nghe ThiềnSư tu hành rất thâm hậu và có kẻ cho rằng Thiền Sư vì
bịbệnh nên không bồi dưỡng cho kẻ hậu học để Tông Mônđược nổi
tiếng.Ngoài ra có một người giúp cho thanh danh của ThiềnTông hưng
thạnh chính là vị Thượng Tọa Trụ Trì chùa CaoMân. Ngài được toàn
quốc khen tặng là người mô phạm của26Thiền Lâm. Ngài tự mình công
phu rất thâm hậu. Chỉ vì saukhi Bắc Phạt, ngài cho vấn đề kháng
chiến là trước hết. Dođó, ngài quá bận rộn công việc đi xin cây
đá và tự mìnhkhông có thì giờ nhàn rỗi để chăm lo hướng
thượng.Thế nên xét lại, phong độ của Tông Phái một khi suy
yếunghiêng đỗ thì khó bề chấn chỉnh trở lại được. |
IV.- TỊNH ĐỘ TÔNG: |
Tịnh Độ Tông
hiện nay là một Tông Phái hưng thịnh nhất.Nguyên do, môn học thuật
về triết lý của Tông này rất đơngiản và phương pháp tu tập của
Tông này thì cũng rất dễdàng. Cho nên Tín Đồ Phật Giáo khắp nơi
có thể nói mườingười đã hết chín người tu theo Tông Tịnh Độ.Năm
Dân Quốc thứ 10 trở về trước, núi Hồng Loa thuộcBắc Kinh là nơi
chuyên lo hoằng truyền Tông này và cũngnhờ đó mà Tông Tịnh Độ
ảnh hưởng khắp cả nước. Sau khiBắc Phạt, Pháp Sư Ấn Quang là người
nỗ lực phát huy TôngTịnh Độ và đồng thời Pháp Sư lại còn trọng
dụng nghi lễ củanhà Nho.Năm Dân Quốc thứ 20 trở về sau, Pháp Sư
Ấn Quang lạithành lập và trực tiếp chỉ đạo Đạo Tràng Tịnh Độ ở
núi LinhNham thuộc Tô Châu. Pháp Sư mặc dù có để lại tác phẩmVăn
Sao Hành Thế ( Án văn ghi lại công trình độ thế củangài ), nhưng
trong đó vẫn khuyến khích mọi người chuyêntâm niệm Phật. Pháp Sư
là người rất quý trọng sự thực hànhhơn. Pháp Sư chỉ độ cho những
người có tâm thành và khôngbao giờ dạy cho những kẻ chỉ lo học
giáo lý hơn mà không27chuyên cần trong việc niệm Phật. Theo quan
niệm của PhápSư, vấn đề học hỏi giáo lý chỉ là sự vay mượn có
tánh cáchtạm bợ và không đem lại những lợi ích nào cho người
tuhành.Còn vấn đề xiển dương triết lý học thuật của Tông TịnhĐộ,
Pháp Sư Ấn Quang không thể sánh với các bậc cao hiềnthuộc đời nhà
Minh và nhà Thanh 3. Nhờ đức học của PhápSư Ấn Quang, phong trào
nghiên cứu học Phật về giáo lýTông Tịnh Độ được thành lập và
nhờ những phong trào nóitrên hổ trợ, sự phát triển Phật Giáo
càng ngày càng thêmrộng lớn.Pháp Sư Ấn Quang đặc biệt đề xướng
cõi Tịnh Độ ở TâyPhương. Đại Sư Thái Hư lại đề xướng cõi Tịnh Độ
ở ĐâuXuất và cõi Tịnh Độ ở nhân gian4. Cả hai hướng đi của
haingài đều thành công tốt đẹp. |
V.- THIÊN ĐÀI TÔNG: |
Thiên Đài Tông thì lại hưng thịnh vào cuối
thời nhàThanh và đầu năm Dân Quốc. Như ở chùa Ninh Ba Quan,Pháp Sư
Đế Nhàn tận lực đề xướng phát huy Tông Thiên Đàivà thiết lập
Học Xá để giáo dục kẻ hậu học.3 Ngài Liên Trì, ngài Ngẫu Ích,
ngài viên Trung Làng thì thuộc về nhàMinh. Còn ngài Tiệt Lưu Tĩnh Am
và ngài Bành Tế Thanh thì thuộc vềnhà Am và ngài Bành Tế Thanh thì
|
thuộc về
nhà Thanh..4 Bài tựa Tứ Tông Tam Yếu của Đại Sư Sâm Khán luận về
vấn đề kiếnthiết Tịnh Độ Nhân Gian và những sách Phật Pháp luận
về Chủ NghĩaHóa Tịnh Độ.28Ở núi Nam Nhạc thuộc Hồ Nam có Pháp Sư
Mặc Am vàPháp Sư Không Dã. Ở chùa Pháp Nguyên thuộc Bắc Bình
cóPháp Sư Đạo Giai. Các vị nói trên đều giảng giáo lý TôngThiên
Đài.Ngày nay, những vị trong môn phái Đế Nhàn, như ở núiThiên Đài
có Pháp Sư Tịnh Quán, ở Quảng Đông có Pháp SưHiển Từ, Pháp Sư Hải
Nhơn, ..v..v.... và ở chùa Pháp Tạngthuộc Thượng Hải có Pháp Sư
Hưng Từ, ở Kim Sơn có PhápSư Nhơn Sơn, ở Hoa Bắc có Pháp Sư Thúc Hư,
..v..v.... Cácvị nói trên cũng đều hoằng truyền giáo lý Tông Thiên
Đài.Ở Phật Học Viện Võ Xương có các ngài như Chi Phong,Đàm Huyền đều
nghiên cứu thâm sâu học thuyết Tông ThiênĐài. Các ngài còn trước
thuật giáo nghĩa Tông này để phổbiến trong nhân gian. |
VI.- HIỀN THỦ TÔNG: |
Năm đầu Dân Quốc, ở Thượng Hải có Pháp Sư
NguyệtHà thiết lập Đại Học Hoa Nghiêm để hoằng truyền giáonghĩa
Tông Hiền Thủ. Nhân vật của môn phái này một thờiảnh hưởng khắp
thiên hạ. Những người xuất sắc như là ngàiTrì Tùng, ngài Thường
Tinh, ngài Từ Chu và ngài Trí Quangở Tiêu Sơn,..v..v.... Các vị vừa
kể đều là những học giảnghiên cứu Tông này. Đối với Tông Hiền
Thủ, các vị đều cótâm chứng đắc và còn trước thuật giáo nghĩa để
hoằng truyềntrong nhân gian. Trong các vị nói trên, ngài Trì Tùng và
ngàiThường Tinh là hai nhân vật xuất sắc nhất và thành côngnhất. |
VII.- TAM LUẬN TÔNG: |
29Từ đời Đường và đời Tống đến nay, Tam Luận
Tôngkhông được mấy ai nghiên cứu đến. Mãi đến năm đầu DânQuốc,
cư sĩ Lưu Ngọc Tử mới sáng tác quyển Tam LuậnTông Lược Thuyết để
phát huy. Còn cư sĩ Trương Hóa Thanhthì rất tinh thông về luận học,
nhất là cư sĩ chuyên nghiệp vềmôn học Tam Luận Tông. Cư sĩ thường
giảng Tam LuậnTông tại Phật Học Viện Võ Xương.Những năm gần đây,
Pháp Sư Ấn Thuận gia công cổ võmôn học Trung Quán của Long |
Thọ và Pháp
Sư cho ra tácphẩm Trung Quán Kim Luận.Tam Luận Tông là một Tông
Phái rất có giá trị và có hệthống về mặt nghiên cứu. Vả lại,
Tông này có rất nhiều bậcanh tuấn hậu học và cũng là nơi xứng
đáng cho người thamcứu.Đồng thời, Pháp Sư Pháp Tôn chuyên dịch các
kinh sáchTây Tạng thuộc hệ phái Trung Quán ra chữ Hán như các
sáchBồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Biện Liễu Nghĩa Bất LiễuNghĩa,
đều được thấy trong Trung Quán.Còn ngài Nguyệt Xứng thì dịch quyển
Nhập Trung Luậnvà thường giảng quyển Nhập Trung Luận này cho những
nơinhư Thành Đô, Trùng Khánh..v..v....Tam Luận Tông sở dĩ được trùng
hưng một cách huyhoàng và cảnh giới của Tông Môn càng thêm rực
rỡ là nhờcông lao của ngài Nguyệt Xứng. Có thể nói ngài
NguyệtXứng là người có công rất lớn trong công việc phục hưngTông
này. |
VIII.- LUẬT TÔNG: |
Luật Tông được thành lập vào thời đại nhà
Thanh. Ngườihọc Luật Tông để thấm nhuần thì ít. Tăng chúng trong
cảnước đều thọ giới pháp bằng cách mặc nhiên không cần phảihiểu
và cách thọ giới thì đặt nặng vấn đề hình sắc.Năm Dân Quốc thứ
10 trở về sau, Luật Sư Hoằng Nhất vàLuật Sư Tịnh Nghiêm ở Hà Nam,
đối với Luật học cả hai đềunghiên cứu rất tinh thông và hai vị nỗ
lực truyền bá LuậtTông.Đặc biệt nhất là Luật Sư Hoằng Nhất. Khi chưa
xuất giatu hành ngài là một Văn Học danh tiếng, là một nhà
ÂmNhạc tài ba và cũng là một nhà Mỹ Thuật về Hý Kịch xuấtsắc.
Cho nên từ khi xuất gia trở về sau, ngài có khả nănghướng dẫn các
bậc Văn Nhân, Chí Sĩ đều quy hướng về PhậtGiáo rất đông. Ngoài hai
vị trên đây, còn có Pháp Sư TừChâu, ngài cũng nỗ lực đề xướng
giới luật.Có thể nói trong Luật Tông, chùa Bảo Hoa Sơn Luật lànơi
nổi tiếng nhất khắp cả nước. Mỗi năm, hai mùa xuân thu,chùa này
đều mở Giới Đàn để truyền Đại Giới. Rất tiếc chùanày chỉ chuyên
về khoa văn tụng niệm mà thôi. Đối với Luậthọc, chùa này không
có một người nào học luật cả. Vấn đềgiác ngộ, thật đáng tiếc
cho họ! |
IX.- MẬT TÔNG: |
Từ đời
Đường và đời Tống trở về sau, tuyệt học của MậtTông thật là
xứng đáng trong thế gian và cho đến hiện nay,Mật Tông vẫn còn
thạnh hành.31Năm Dân Quốc thứ 9, Nguyệt San Mật Tông Hải TriềuÂm
hoằng truyền Mật Tông rất hữu hiệu. Sau đó có các ngàinhư Đại
Dũng, Trì Tùng, Hiển Ấm,..v..v.... xuất ngoại du họcNhật Bản. Sau
khi về nước, các vị đều đề xướng Tông này.Học giả tham dự rất
đông, tạo nên tiếng vang rất lớn cho MậtTông.Ở Quảng Đông, lại
có Mạn Thù Yết Đế và cư sĩ VươngHoằng Nguyện, hai vị cũng đều
hoằng truyền Đông Mật(Mật Tông ở Quảng Đông). Hai vị đã dịch thuật
và trước tácvề Mật Tông rất nhiều nhằm để phục hưng Đông Mật.Kể
từ năm Dân Quốc thứ 20 trở về trước, Hệ Phái MậtTông có thể
nói vang tiếng một thời, uy tín lừng lẫy khắp nơi.Trong thời gian
nói trên, khoảng năm Dân Quốc thứ 14 và 15trở về sau, Mật Giáo
Tây Tạng lần hồi truyền sang QuảngĐông. Các vị như ngài Đại Dũng,
ngài Pháp Tôn, ..v..v.... đidu học giáo pháp Mật Giáo Tây Tạng.
Đặc biệt nhất trong sốnày, ngài Pháp Tôn từng tự dịch rất nhiều
kinh sách của MậtGiáo Tây Tạng. Hơn nữa, trong thời gian nói trên,
có các vịĐại Lạt Ma Ban Thiền, ..v..v.... lại đem thế lực và địa
vịchánh trị truyền vào Trung Quốc.Từ khi Mật Giáo Tây Tạng thạnh
hành ở Trung Quốc trởvề sau, Mật Tông Quảng Đông mặc nhiên vắng
tiếng. Có thểnói, các vị Lạt Ma Tây Tạng chiến thắng hơn các thầy
NhậtBản. |
X.- DUY THỨC TÔNG: |
Từ năm Dân Quốc đến nay, người đầu tiên đề
xướng DuyThức Tông chính là cư sĩ Dương Văn Hội ( Nhơn Sơn ). Cư sĩlà
một nhân vật có công rất lớn trong việc phục hưng PhậtHọc Trung
Quốc cận đại. Cư sĩ thường giao hảo với NamĐiều Văn Hùng là một
học giả nổi tiếng của Nhật Bản.Dương Tiên Sinh chịu ảnh hưởng rất
lớn với Nam Điều.Đời Đường, các nhân sĩ chú sớ tư tưởng Duy Thức
Tôngrất nhiều và tư tưởng Tông này được truyền sang Nhật Bản
từđó. Rồi về sau, tư tưởng Duy Thức Tông được mang từ NhậtBản
phục hồi trở lại Trung Quốc. Tại Trung Quốc, các tácphẩm thuộc Duy
Thức Tông được các nhân sĩ kiểm tra và ấnhành để phổ biến. Công
đức của các vị ấy thật vô lượng.Sau đó, Duy Thức Tông có các vị
như Mai Hoa Hi, ÂuDương Cảnh Vô, Lưu Châu |
Nguyên,
Trương Khắc Thành,Hàn Thanh Tịnh, Đường Đại Viên, Lữ Chừng, Cảnh
XươngCực, Vương Ân Dương, Khâu Hy Vận, Trì Tùng, ThườngTinh, Hội
Giác, Pháp Phảng, Pháp Tôn, Chi Phong, ẤnThuận, Mặc Thiền, Đàm
Huyền,..v..v.... Các vị nói trên đềulà người nghiên cứu tinh thông
về Duy Thức Học. Trongnhững vị trên đây, có vị chuyên về nghệ
thuật cổ điển, có vịchuyên về khảo cứu, có vị chuyên phát huy
đường hướng tânluận, có vị chuyên nghiên cứu lịch sử. Mỗi vị đều
có sởtrường riêng và mỗi vị đều có trước thuật để phổ biến
trongnhân gian. Về phương diện nghiên cứu Phật Học, Duy ThứcTông là
một Tông Phái rất thạnh hành. |
XI.- ĐẠI SƯ THÁI HƯ VÀ PHẬT HỌC NGÀYNAY: |
Trong 40 năm nay, Đại Sư Thái Hư là lãnh tụ
phong tràophục hưng Phật Giáo Trung Quốc. Ngài bình đẳng đề
xướnghọc phái của tám Tông lớn. Trong tám Tông phái lớn này,ngài
chỉnh lý chỗ kiến giải đặc thù riêng biệt về Phật Họctừng Tông
Phái. Nguyên do, theo ngài, đối với tám TôngPhái, mỗi Tông Phái
luôn luôn đề xướng chỗ kiến giải đặcbiệt của Tông mình và tùy
duyên hoằng dương để phát huythêm được rộng lớn. Cho nên Học
Thuyết của mỗi Tông Pháinhất định phải có trước thuật để giảng
giải.Sau khi chỉnh lý Phật Học riêng biệt từng Tông Phái một,tám
Tông Phái nói trên nhận thấy nội dung đều có chỗ quánthông với
nhau. Phần quán thông giống nhau của mỗi TôngPhái như Tam Thừa Cộng
Pháp ( Giáo pháp dung thôngchung cả ba Thừa ), Ngũ Thừa Cộng Pháp (
Giáo pháp dungthông cả năm Thừa ) và Đại Thừa Bất Cộng Pháp (
GiáoPháp đặc biệt dành riêng cho Đại Thừa và Giáo Pháp nàykhông
dung thông với ba Thừa hay năm Thừa ).Còn vấn đề phê phán sự dung
thông về ba Thời, ba Hệ vàba Tông của Phật Giáo Ấn Độ đều là tư
tưởng của tiền nhânchưa thấy phát huy. Tư tưởng của tiền nhân sở
dĩ chưa đượcphát huy là do từ trước tới nay chưa có người nào đứng
ra lậpthành Tông Phái.Ngày nay xét chung mười Tông Phái, Thiền
Tông, LuậtTông và Thành Thật Tông thì rất suy yếu. Nguyên do
baTông này rất ít người nghiên cứu. Còn Câu Xá Tông, ThiênĐài
Tông, Tam Luận Tông và Hiền Thủ Tông thì chỉ suy yếuphân nửa. Mặc
dù nhiều người nghiên cứu Thiên Đài |
Tôngvà Hiền
Thủ Tông, nhưng phương pháp trình bày của haiTông này thì quá xưa
cũ. Trái lại, ba Tông Phái như Tịnh ĐộTông, Mật Tông và Duy Thức
Tông thì rất hưng thịnh |
.XII.- NGHIÊN CỨU THEO XU THẾ MỚI: |
Ở đây danh nghĩa Theo Xu Thế Mới chính là ngày
nayphong trào nghiên cứu Phật Học Tạng Văn đều dựa theo vănPali và
văn Anh Nhật. Trước kia, những người nghiên cứuPhật Học Tạng Văn
gồm có: ngài Lữ Chừng, ngài Thang TrụTâm.Năm Dân Quốc thứ 13,
nhà cách mạng Đại Sư Thái Hưcùng với đệ tử Đại Dũng thiết lập
Học Hiệu Tạng Văn PhậtGiáo tại Bắc Kinh. Sau 14 năm tham dự tỗ
chức Tạng HọcPháp Đoàn, các giới học Phật rất thích nghiên cứu
văn TâyTạng. Mười năm sau đó, các ngài như Pháp Tôn, NghiêmĐịnh,
Thang Trụ Tâm, Lữ Chừng..v..v.... dịch kinh luận thuộcvăn Tây Tạng
gồm có mười loại và nghiên cứu Phật Học HánTạng cũng bắt đầu
phổ cập khắp nơi.Ngoài ra, các ngài như Mặc Thiền, Đàm Huyền,
ChiPhong, Lữ Chừng, ..v..v.... cũng nghiên cứu Phật Học NhậtVăn.
Riêng ngài Chi Phong lại chủ trì phiên dịch Đại TạngKinh Nam Truyền
của Nhật Bản dịch ( tức là Nhật Bản dịchTam Tạng thuộc văn Pali ).
Còn các vị nghiên cứu Phật Họccả văn Phạn, văn Pali, văn Anh gồm
có: ngài Pháp Phảng,ngài Ba Trụ ( tức ngài Pháp Chu ), ngài Bạch
Huệ, ..v..v....Riêng ngài Pháp Phảng và ngài Ba Trụ đều phiên dịch
PhậtHọc từ văn Pali.Những dữ kiện trên cho thấy Phật Học Trung
Quốc rất nỗlực nghiên cứu theo xu hướng Phật Học thế giới. |
CHƯƠNG II |
TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠIXEM DUY THỨC HỌCI.-
TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG THỜI ĐẠIVà PHẬT HỌC |
Duy Thức Học đối với trào lưu tư tưởng hiện
đại như thếnào?Nguyên nhân, Phật Giáo tồn tại trong thế gian thì
khôngthể ly khai các pháp của thế gian. Phật Giáo cùng thế
giannhất định phải phát sanh quan hệ. Cho thấy Phật Giáo rấtthích
hợp những nhu cầu thiết yếu của thế gian và có khảnăng đứng vững
trên thế gian.Thí |
dụ: Trong
thế gian, chùa miếu được thiết lập đều cóngười xuất gia, đều có
người hoằng pháp, chứng tỏ Phật Giáocùng thế gian có sự quan hệ
mật thiết với nhau. Những biểutượng còn cho thấy Phật Giáo rất
thích hợp với nhu cầu nhânsinh trong thế gian, như là Phật Giáo có
địa vị cũng như cótác dụng trong xã hội.Quả như Phật Giáo đối với
nhân loại nếu không có chútlợi ích nào thì nhân loại trong thế
gian không cần đến PhậtGiáo. Phật Giáo nếu như thế gian không cần
đến hoặc giảPhật Giáo không chút mảy may lợi ích nào cho nhân thế
thìsớm đã bị tiêu diệt từ lâu.Song sự thật lại chẳng như thế!
Khác hẳn, Phật Giáo sở dĩđược tồn tại trong những quốc gia không
giống nhau là nhờcác chủng tộc những nơi đó lưu truyền trong nhân
gian và bảotồn cho đến ngày nay. Vả lại Phật Giáo có số tín đồ
rộng lớnủng hộ. Điều đó chứng tỏ Phật Giáo chắc chắn có giá trị
đểtồn tại. Đã là có giá trị, Phật Giáo có thể dùng để
hoằngdương nơi thế gian. Nhưng học thuyết Phật Giáo có địa vị nhưthế
nào đối với Trào Lưu Tư Tưởng của xã hội hiện đại?Học thuyết
Phật Giáo đối với Trào Lưu Tư Tưởng của xãhội hiện đại đều được
chú ý đến. Duy Thức Học là một đạihọc phái Đại Thừa Phật Giáo,
gần ba mươi năm nay ảnhhưởng rất lớn các giới tư tưởng, được họ
chú ý cho là quantrọng cần phải nghiên cứu và quán sát.Sở dĩ gọi
là Trào Lưu Tư Tưởng Hiện Đại là chỉ cho thếkỷ 19 trở về sau, nghĩa
là thời đại Văn Nghệ Tây PhươngPhục Hưng từ thế kỷ 19 đến thời
đại Khoa Học Vận Độngcủa thế kỷ 20. Tư tưởng của một thời đại có
khả năng thànhhình một thứ năng lực vận động nên gọi là Trào Lưu
TưTưởng Thời Đại.Ở Âu Châu, thời đại Văn Nghệ Phục Hưng trở về
trướcchính là thời đại Tôn Giáo Đặc Quyền và cũng gọi là thời
đạihắc ám. Lúc bấy giờ mọi người đều mê tín tôn giáo, choThần
Quyền cao hơn thế gian và nhân loại trở thành một thứcảnh ngộ tối
tăm không có mặt trời. Văn Nghệ Phục Hưngchính là Khoa Học xương
minh. Nhờ nghiên cứu khoa học,Văn Nghệ Phục Hưng đả phá toàn diện
Thần Quyền và tẩychay sự mê hoặc của Thượng Đế Vạn Năng. Từ đó,
ánh sángrực rỡ của nền văn minh Khoa Học cận đại phát sanh.
Ngàynay, nhân vì Khoa Học phát minh được Nguyên Tử Năng chonên có
người gọi ngày nay là thời đại Nguyên Tử Năng vàcũng có thể cho
là thời đại Khoa Học hoàn toàn phát đạt.Tại Ấn Độ, trước kia có
Trào Lưu Tư Tưởng của Bà |
LaMôn Giáo,
kế đến có Trào Lưu Tư Tưởng của sáu phái TriếtHọc, về sau lại có
Trào Lưu Tư Tưởng của Phật Giáo.Riêng Phật Giáo có Trào Lưu Tư
Tưởng Tiểu Thừa, ĐạiThừa, Hiển Giáo và Mật Giáo. Sau cùng, Trào Lưu
Tư TưởngẤn Độ Giáo lại phục hưng trở về nguyên thể.Theo như Trung
Quốc Văn Hóa Phát Đạt Sử ghi rằng:Chúng ta trước kia có cái học
Chư Tử của Tiền Tần, có KinhHọc của Hán Triều, có Phật Học của
Tùy Đường, có Lý Họccủa Tống Minh, có Khảo Cứ Học của thời đại
nhà Thanh5vàcó Khoa Học ngày nay. Những dữ kiện nêu trên cũng có
thểđại biểu cho Trào Lưu Tư Tưởng của mỗi thời đại.5 Được thấy
trong “Lương Nhậm Công Thanh Đại Học Thuật Khái Luận”,trang 2, Thương
Vụ xuất bản.Từ cuối Nhà Thanh và đầu năm Dân Quốc đến nay,
TưTưởng nước ta vận động tạo thành trào lưu được gọi là NămMươi Tư
Vận Động. Năm Mươi Tư Vận Động bao gồm nhiềuphương diện:1) Phương
Diện Chánh Trị là đấu tranh giành độc lập,bình đẳng và tự do.2)
Phương Diện Xã Hội là cần thoát ly tất cả chế độphong kiến bất
hợp pháp và sự ràng buộc của lễ giáo.3) Phương Diện Văn Học Tư
Tưởng là tranh thủ ngôn ngữBạch Thoại Đại Chúng, tranh thủ Trí
Thức Khoa Học, đảđảo lối văn theo kiểu Văn Ngôn của Khổng Gia
Điếm và tẩychay tất cả tư tưởng mê tín của Phong Kiến.Nhờ sự cố
gắng của cuộc vận động này, tinh thần KhángNhật được thể hiện và
sự Bắc Phạt được thành công hoàntoàn.Hiện nay Trung Quốc lại có
một thứ tư tưởng gọi là HồngLưu Đại Triều. Tư Tưởng này phát khởi
từ nơi Bành Bái, ảnhhưởng rất rộng lớn, ảnh hưởng cả Trung Quốc
và lan ra cácvùng Á Châu. Tư Tưởng này thuộc loại Chủ Nghĩa Duy
Vật,Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa Tân Dân Chủ. Tư Tưởng nàytrước kia
nhờ tiếp nhận bối cảnh Khoa Học và Triết Học TâyPhương mới có
thể phát huy thành quả ngày nay.Tóm lại, Trào Lưu Tư Tưởng Hiện
Đại có thể phân làmhai điểm: Một thứ là Khoa Học và một thứ là
Triết Học.Trước hết, vấn đề Khoa Học được trình bày như sau: |
II.- KHOA HỌC VÀ PHẬT HỌC: |
A.- TÁNH CHẤT KHOA HỌC VÀ PHẬT
HỌC: |
1)- TÁNH CHẤT KHOA HỌC: |
Thế nào là
Khoa Học? Hoặc nói cách khác, Tánh chất Khoa Học như thế nào?Vấn
đề trên thật khó trình bày cho rõ ràng. Các nhà Khoa Học đối với
vấn đề này, mỗi người đều có Luận Thuyết riêng và xét cho cùng
họ không đồng nhất quan niệm. Nay xin đềcử tổng quát một số Luận
Thuyết như sau: |
a].- LUẬN THUYẾT SỐ VÀ LƯỢNG: |
Có người nói rằng: “Khoa Học chính là nhờ
phạm trù đolường rồi sau đó toan tính tưởng tượng ra mô hình thế
giới.....Chúng ta lẽ đương nhiên cho Khoa Học quan sát rất đúng tiêu
chuẩn và chính xác. Nhưng thật ra họ chẳng qua dựa theo tiêu chuẩn
số và lượng mà tiến hành tư tưởng”.Cũng có người cho rằng: Khoa
Học thực sự chỉ là một thứ phương pháp phân tích mà thôi, là
phương pháp dùng để nghiên cứu hoặc quan sát vạn hữu vũ trụ. Thứ
phương pháp này phải dùng đến công cụ và thứ công cụ đó không
ngoài số và lượng. Các nhà Khoa Học sử dụng phương pháp số và
lượng đây đi phân loại bằng cách chia chẻ tổng thể mỗi cá thể
của vạn hữu ra từng phần riêng biệt để quan sát. Vì thế, người ta
bảo rằng: Khoa Học trong đó không ngoài số và lượng qua sự trắc
nghiệm bằng cách phân loại và đo đạt,..v..v...., Khoa Học là một
danh xưng đều chỉ cho những khái niệm này. Nếu như không có những
khái niệm trên,Khoa Học hoàn toàn không có mặt. b]- LUẬN THUYẾT
QUAN HỆ: |
Giáo Thọ Trương Đông Tôn, trong một quyển
sách nói vềtư tưỡng và xã hội có trình bày những khái niệm này (
số vàlượng,..v..v....) . Ngài cho rằng: Khoa Học chỉ giải thích
nghĩahẹp và có tiùnh cách vụn vặt. Các nhà Khoa Học nói: “Nhânđây
chúng ta chủ trương rằng trên những cốt tủy này ( lượngvà số,
cùng phân loại và đo đạt,..v.. v... ), thực sự có một loạikhái
niệm căn bản nguyên thỉ hiện hữu và tiềm ẩn mà ngườita gọi là “
Quan Hệ”, hoặc gọi là “ Trật tự của quan hệ”.Chúng ta đề xướng
vấn đề Quan Hệ nói trên, khả dĩ Vật LýHọc, Thiên Văn
Học,..v..v.... chắc chắn có thể bao quát ởtrong. Không phải chỉ có
số học mới được xem như đại biểucho Khoa Học. Lý do Số Học thì
không hoàn toàn mười phầnthỏa đáng hết mười...” |
c]- LUẬN
THUYẾT TOÀN THỂ và BỘ PHẬN: |
Trương Quân quan niệm rằng: “Cho đến vấn đề
Quan HệKhái Niệm đúng là một cá thể nằm trong hợp thể, cũng
nhưsự việc gì có thể phân tích thì sự việc đó có thể đạt được
kếtquả và những kết quả này không luận có điều kiện nhiều hayít
mà những điều kiện trên chính là Quan Hệ vậy. Chúng ta,một khi đề
cập đến Quan Hệ thì lẽ tất nhiên khái niệm đượcsự liên quan giữa
“ Toàn Thể ” và “ Bộ Phận ”,..v..v....Chúng ta có thể khẳng định
rằng: phàm điều gì có thể phântích thì tất nhiên trong đó có Quan
Hệ mà người ta thường gọilà “Nhân Quả Quan Hệ”. “Tóm lại, vấn đề
Quan Hệ giả sử không dự trù thiết lậpquan niệm trước thì tất cả
mọi việc đều không biết tiến hànhtừ đâu”. |
d]- QUAN HỆ CÓ NGUỒN GỐC: |
“Vấn đề Quan Hệ Khái Niệm thì sẳn có nguồn
gốc từ trước và vấn đề này không phải do thành lập bởi quy
định.Ngoài những khái niệm này ra, như Trật Tự, Kết Cấu, Tương
Tục,..v..v..... không một điều nào là chẳng cùng với vấn đề Quan
Hệ Khái Niệm kết hợp lẫn nhau để cùng sanh khởi.Theo Khoa Học,
không gian và thời gian chỉ là bộ phận của trật tự mà thôi. Tất
nhiên những sự việc trên phải nhờ đến trắc nghiệm và đo đạt để
quy định. Nhưng sự trắc nghiệm vàđo đạt nếu như tách rời vấn đề
Quan Hệ Khái Niệm ra thì hoàn toàn không biết chút nào về sự chi
phối ở bên trong bóng tối. Những dữ kiện vừa trình bày ở trên
đều là định nghĩa củaKhoa Học. |
2)- TÁNH CHẤT PHẬT HỌC: |
Giờ đây chúng ta hãy xét qua lãnh vực Phật
Học:a]- Những luận thuyết của các nhà Khoa Học được việndẫn ở
trên có thể xem như định nghĩa rất rõ ràng; hoặc nóicách khác,
tánh chất của Khoa Học là Quan Hệ. Quan Hệ cóthể bao gồm tất cả
Khoa Học. Hai chữ Quan Hệ đây theo6 “Tư Tưởng và Xã Hội” của Trương
Đông Tôn, Chương 2, Trang 30 đến 218.Duy Thức Học gọi là Nhân Duyên
hoặc gọi là Duyên. Phậtnói: Tất cả pháp đều do nhân duyên sanh,
đều do duyên khởi,đồng thời cũng do duyên diệt. Tương tợ như thế,
Khoa Họcnói: tất cả pháp |
đều do quan
hệ mà sanh, do quan hệ mà trụvà cũng do quan hệ mà diệt. Quan Hệ
bao gồm tất cả KhoaHọc cũng giống như Nhân Duyên bao gồm tất cả
pháp. Cụthể hơn, nguyên tắc Duy Thức giải thích: Nhãn Thức mỗi
khikhái niệm một điều gì phải nhờ đến chín thứ Duyên ( QuanHệ )
mới phát sanh nhận thức, Nhĩ Thức phải nhờ đến támthứ Duyên mới
phát sanh nhận thức,..v..v.... Phật Học trìnhbày vấn đề “ Duyên ”,
tóm lược thì có 4 thứ Duyên và giảithích rộng thì có 24 thứ Duyên
( Tham khảo bộ A Tỳ Đạt MaNhiếp Nghĩa Luận của tôi dịch ).b]- Tiếp
theo, đề cập đến Quan Hệ là chỉ cho một cá thểnằm trong hợp thể.
Khái niệm vấn đề Nhân Duyên chính làkhái niệm thể tổng hợp mà Phật
Học thường gọi “ NhânDuyên Tổng Tướng ” ( nằm trong hợp thể ).
Trong tướngchung ( tổng tướng ) có tướng riêng ( biệt tướng ) là
nói quanhệ nằm trong hợp thể bao gồm rất nhiều điều kiện.
Họcthuyết Nhân Duyên trong đó nhất định có tướng chung ( tổngtướng
) và tướng riêng ( biệt tướng ). Chữ Nhân ở đây theoPhật Học trình
bày: chọn lấy một pháp nào thì trong đó baogồm tất cả pháp, nghĩa
là trong một pháp đã có tất cả phápvà trong tất cả pháp đã có
một pháp mà mình đã chọn lấy.Đó là ý nghĩa “ Sự sự vô ngại” (
Sự sự vô ngại nghĩa là muônsự muôn vật tác dụng quan hệ không bị
ngăn ngại với nhau ).Trong một pháp đã có tất cả pháp và trong
tất cả pháp đã cómột pháp cũng giống như quan hệ có toàn thể và
bộ phận, hailối giải thích tuy khác nhau nhưng đều cũng là một loại
vớinhau. Danh từ không giống nhau chẳng qua chỉ là phù hiệunhằm đại
biểu cho khái niệm vấn đề trên mà thôi. ThuyếtQuan Hệ của Khoa
Học và thuyết Nhân Duyên của DuyThức Học cả hai đều hoàn toàn
không khác nhau. Cho nênDuy Thức Học ( hoặc Phật Học ) thì rất thích
hợp với KhoaHọc.c]- Lại nữa, một sự kiện đáng chú ý là “Vấn đề
có thểphân tích thì tất nhiên trong đó bao hàm có Quan Hệ mà
phổthông thường gọi là Nhân Quả”. Như câu “Nhân duyên sởsanh
pháp” ( Nhân duyên là nơi sanh ra các pháp ) giải thích:Phàm một
pháp sanh khởi thì nhất định có rất nhiều thứ nhânduyên. Những
nhân duyên đây có thể phân tích. Trung giancủa nhân duyên chính là
tánh chất của nhân quả. Đức Phậtđầu tiên giác ngộ những thứ quan
hệ này. Những thứ quan hệnày bao hàm các pháp nhân duyên của
tánh chất nhân quả.Đức Phật nói: “Cái này có thì cái kia có, cái
này sanh thì |
cáikia sanh,
vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyêndanh sắc,..v..v....”
Đây là quy tắc sanh khởi vạn pháp. Quytắc nhân duyên này là
thuyết minh Nhân Quả Quan Hệ vàcũng là quy tắc cơ bản của Phật
Học.Hơn nữa, Trương Quân nói: “Vấn đề Quan Hệ Khái Niệmnếu như
chẳng có trước thì tất cả đều hoàn toàn không cópháp để tiến
hành” Còn Phật Học giải thích: Tất cả đều donhân duyên sanh; lìa
nhân duyên ra, các pháp không thểsanh. Đức Phật nói: “Nếu cho
rằng, thật sự có một pháp vượtra ngoài nhân duyên, đó là Ngoại
Đạo nói”. Tất cả phápkhông chỉ do nhân duyên sanh khởi mà lại còn
do nhânduyên hoại diệt. Nhân duyên nếu như không có thì tất
cảpháp không thể sanh khởi.Giả sử có người hỏi: Nhân Duyên như
thế nào? Trả lời:Tất cả pháp đều là nhân duyên. Đúng như thế,
tất cả kháiniệm đều phát sanh từ một thứ Quan Hệ Khái Niệm. Cuối
cùng, chúng ta có thể hỏi: Vấn đề Quan Hệ Khái Niệm nhưthế nào?
Trả lời: Quan Hệ đều là tất cả Khái Niệm.d]- Thứ đến, Khế Kinh
nói: “Như Lai ra đời hoặc khôngra đời đều là Pháp Tánh duyên khởi
thường trụ.” Đoạn kinhtrên trình bày “Vấn Đề Quan Hệ Khái Niệm đã
có từ vô thỉ,không phải thiết lập bởi quy định. Điều đáng chú ý
là VấnĐề Quan Hệ không phải hiện hữu riêng biệt ngoài vạn
vật”.Đây là nói về tánh duyên khởi và tánh duyên khởi này từ
xưađến nay vẫn hiện hữu như thế. Đức Phật tuy chứng được vàthuyết
minh tánh duyên khởi, nhưng đức Phật không phải quyđịnh nên. Tánh
Duyên Khởi không phải “có pháp thể riêngbiệt gọi là Duyên Khởi
và tánh này cũng không phải thườngtrụ, thanh tịnh và sáng suốt”7.
Cho nên Tăng Nhứt A Hàm(quyển 26) nói rằng: “Muốn khiến hư không
trở thành đất cátvà muốn đất cát trở thành hư không nên trói
buộc chúng vàoDuyên làm căn bản. Duyên đây không bị hư hoại.”Hôm
nay chúng ta hãy đề cập đến chữ Duyên của tất cảduyên khởi. Chữ
Duyên của tánh duyên khởi, trong các kinh7 Câu Xá Luận, quyển 9, trang
17 nói rằng: “Có thuyết cho rằng: DuyênKhởi là pháp vô vi, do Khế
Kinh nói: Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đờiđều là Pháp Tánh duyên
khởi thường trụ. Nguyên lý này nếu là Như ThịÝ thì có thể đúng
và nếu là Biệt Ý thì không thể đúng! Như Thị Ý thì nhưthế nào và
Biệt Ý thì như thế nào mà nói là co thể đúng và không có
thểđúng? Nếu ý nói, Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, nghĩa là
hành giảthường duyên vô minh, |
..v..v…. để
hiện khởi, mà không phải duyên phápnào khác, hoặc không duyên
pháp nào cả, nên cho là thường trụ, là nóiNhư Thị Ý, về nguyên
lý thì có thể đúng. Còn như ý nói, Duyên khởi cópháp thể riên
biệt, thường trụ, thanh tịnh, sáng suốt, nay là Biệt Ý, là NhưThị
Ý, về nguyên lý thì không đúng. Tại sao thế? Bởi vì một pháp
mỗikhi thành hình phải hội đủ các tướng cùng duyên khởi và không
mộttướng riêng biệt nào tự nó có thể tồn tại, nên gọi là Tướng
Vô Thường.Điều này có thể đúng với nguyên lý.”luận của Tiểu
Thừa Hữu Bộ trình bày có bốn loại: NhânDuyên, Sở Duyên Duyên,
Đẳng Vô Gián Duyên, và TăngThượng Duyên. Trong các kinh luận của
Đại Thừa Duy ThứcTông thì giải thích 4 Duyên trên một cách rõ
ràng, như LuậnThành Duy Thức căn cứ nơi 4 Duyên đây và cộng thêm
15chỗ nương tựa ( 15 Y Xứ ) thành lập 10 loại Nhân ( ThànhDuy Thức
Luận quyển 7 và 8 ). Mười loại Nhân của LuậnThành Duy Thức giải
thích cũng đồng nghĩa với chữ Duyên.Còn các kinh luận Nam Truyền
Thượng Tọa Bộ thì trình bàycó 24 loại Duyên ( Nam Truyền A Tỳ Đạt
Ma Nhiếp NghĩaLuận, Phẩm thứ 9 ). 24 loại Duyên này cũng là tên
riêng vàtướng riêng của Nhân Duyên mà thôi. Những thứ Duyên
vànhững thứ Nhân vừa phân loại đối với vấn đề Quan Hệ củaKhoa
Học chính là Khái Niệm không hai và không khác, nhưkhái niệm trật
tự, khái niệm kết cấu, khái niệm tươngtục,..v..v..... Chữ Nhân đây
như chúng ta đã biết, thời đại cổxưa gọi là Nhân Duyên và thời
đại ngày nay gọi là Quan Hệ.Nhân Duyên và Quan Hệ chỉ khác nhau ở
danh từ mà thôi.Với những dữ kiện đã giải thích, chúng ta có thể
đặt vấnđề: Khoa Học thì như thế nào? Trả lời: Khoa Học là Quan
HệHọc. Còn Phật Học thì như thế nào? Trả lời: Phật Học làNhân
Duyên Học hay Nhân Quả Học. Những người khôngnghiên cứu Phật Học,
ai cũng đều biết Phật Giáo là đạo bànvề nhân quả. Từ đó, chúng
ta có thể ý niệm rằng Khoa Họccũng giảng về nhân quả. Trong Phật
Học, không luận TiểuThừa và Đại Thừa, tất cả học phái đều giảng
đạo lý NhânDuyên và Nhân Quả. Một trong tất cả học phái nói
trên,Pháp Tướng Duy Thức Học là học phái giảng về đạo lý
NhânDuyên và Nhân Quả rất tinh tường và thông suốt. |
B.- SỰ PHÂN TÍCH CỦA KHOA HỌC VÀ
SỰ PHÂN BIỆT CỦA PHẬT HỌC: |
Sự phân tích
là phương pháp giảng giải có mạch lạc, cólớp lang mà Khoa Học gọi
là Phương Pháp Diễn Dịch. Ngườihọc Khoa Học đều biết đạo lý của
Khoa Học rất coi trọng sựphân tích. Nguyên tắc căn bản của Khoa
Học như trước đãtrình bày, nào là Số, Lượng, Phân Loại, Đo
Đạt,..v..v...... vànhững nguyên tắc này cũng là bản thể của Khoa
Học. Hoặcnói cách khác, phương pháp của Khoa Học chính là phân
tíchvề mục tiêu tác dụng giữa cá thể và cộng đồng trong các
bộmôn. Các nhà Khoa Học không luận nghiên cứu một sự thểnào,
hoặc phân tích và khảo nghiệm một thứ vật thể nào,cũng như trắc
nghiệm và đo lường một loại địa hình hay vậtthể nào, điều cốt yếu
là phải y cứ một cách xác thực nơi bảnthân của những sự thể hay
những vật thể đó, đồng thời sửdụng một thứ công thức và dụng
cụ để phân tích những sự thểhay những vật thể nói trên. Các nhà
Khoa Học mỗi khi phântích những sự thể hay những vật thể đều thường
sử dụngnhiều phương cách, có khi dùng phương pháp số học để
phântích hay để đo đạt, có khi dùng phương pháp phân loại haytrắc
nghiệm, hoặc dùng phương pháp ghi chép để lưu lại vàsau đó, họ mới
cân nhắc rồi đi đến kết luận là tìm ra đượchiện trạng chân thật
của sự thể hay của vật thể mà họ phântích. Từ đó, họ gặt hái
được khái niệm, một thứ kết quả màthường gọi là Tri Thức Khoa
Học.Bên Pháp Tướng Duy Thức Học cũng rất quý trọng sựphân tích.
Phương pháp phân tích để nghiên cứu của PhápTướng Duy Thức Học
cũng giống như phương pháp của KhoaHọc.Thí dụ như Sắc Pháp của Duy
Thức Học, Anh Văn dịch làForm, thì thuộc về vật chất. Đối với Sắc
Pháp, Duy Thức Họcxưa nay đều chỉ có một thứ định nghĩa: Sắc nghĩa
là đối đãivà ngăn ngại. Phàm những gì có đối đãi và ngăn ngại
đềuđược gọi là Sắc ( Vật chất ). Vì thế, Duy Thức Học xưa kiaphân
chia Sắc thành hai loại: một là Hữu Đối Sắc ( Sắc cóđối đãi ) và
hai là Vô Đối Sắc ( Sắc không đối đãi ).Hữu Đối Sắc cũng phân
làm hai loại: một là Ngũ Căn Sắc( Sắc thuộc hệ thống năm căn )
và hai là Ngũ Trần Sắc ( Sắcthuộc hệ thống năm trần ).Vô Đối
Sắc được phân làm năm loại: một là Cực Vi Sắc (Sắc rất nhỏ như
vi trần ), hai là Cực Hánh Sắc ( Sắc rất xakhông thể thấy ), ba là
Định Sở Sanh Sắc ( Sắc do thiền địnhsanh ra ), bốn là Thọ Sở Dẫn
Sắc ( Sắc do thọ giới sanh ra ),năm là Biến Kế Sở Chấp Sắc ( Sắc
do Ý Thức phân biệtvọng chấp sanh ra ). Nay xin liệt |
kê đồ biểu
dưới đây8 đểchứng minh:8 Trong Pháp Tướng Duy Thức Học.Sắc Cảnh,
một trong năm Trần vừa liệt kê nếu như tiếptục phân tích thêm nữa
liền trở thành Cực Vi rất nhỏ và đemmột phần của Cực Vi rất nhỏ
này lại tiếp tục phân tích thêmnữa..v..v.... liền trở thành trạng
thái hoàn toàn Không.Phương pháp phân tích nêu trên Phật Học gọi
là Tích KhôngQuán.Xem xong đồ biểu trên, chúng ta khả dĩ có thể
biếtphương pháp phân tích của Duy Thức Học đối với PhápTướng ( Sự
vật ) thật là tinh tế, trình bày hệ thống rất mạchlạc, phân loại
cá biệt cùng số lượng rất phân minh và thôngsuốt. Phương pháp
phân tích của Duy Thức Học nói trên, bấtcứ nhà Khoa Học nào cũng
đều khâm phục và cũng cho làhợp với Khoa Học. Đối với Duy Thức
Học, phương phápphân tích rất là trọng yếu và phàm người nào
nghiên cứu DuyThức Học không thể không chú ý. Chúng |
ta khi giải
thích mỗimột pháp, tổng quát có “các môn phân biệt” từng khoa.
“Cácmôn phân biệt” đây chính là phương pháp phân tích củaKhoa Học.
Những phương pháp phân tích này, nơi luận CâuXá thì rất tinh vi và
sâu xa. Nếu so sánh với Khoa Học,phương pháp phân tích của luận Câu
Xá thì hoàn toàn tinh tếvà thâm sâu hơn. Vì lý do đó, nhà Bác Học
Hồ Thích khiếnphải đọc lại và tận dụng cân não tối đa mới giác
ngộ được.Người ta cho rằng Pháp Tướng Duy Thức Học của Phật
Giáolà “một bộ phận triết học phiền tỏa”. Tôi tưởng Hồ Tiên
Sinhlà một nhà Triết Học hơn là một nhà Khoa Học |
.C.- KINH NGHIỆM VỚI TÁNH CẢNH VÀ
HIỆN CẢNH: |
Khoa Học thì có Khoa Học Xã Hội và Khoa Học
TựNhiên. Sự nghiên cứu của Khoa Học Tự Nhiên có hai cách:một là
đặc biệt chú trọng đối tượng của hiện thật và hai làphương pháp
của kinh nghiệm. Nhờ đó, Khoa Học Tự Nhiênmới có thể đạt đến tri
thức chân thật của Khoa Học. Loại đốitượng của hiện thật nơi Khoa
Học Tự Nhiên chính là TánhCảnh ( Cảnh giới của hiện thật ) trong
ba cảnh giới của DuyThức. Các loại đối tượng của Khoa Học nghiên
cứu đều làvật thể thật tại có tánh hiện thật và những vật thể
thật tại nàymắt chúng ta thấy được, tai chúng ta nghe được, mũi
chúng tangửi được, lưỡi chúng ta nếm được và tay chúng ta sờ
móđược. Những vật thể thật tại đó đã được Duy Thức Học nóiqua.
Chữ Tánh nơi Tánh Cảnh của năm Thức quan sát chínhlà ý tưởng của
thực tại. Tri Thức của phương pháp Khoa Họcđạt đến gọi là Tiêu
Chuẩn của hiện thật, cũng giống như TriThức của Duy Thức Học đạt
đến gọi là “Lượng”. Chữ“Lượng” của Duy Thức Học cùng nghĩa với
Tiêu Chuẩn củachân thật nơi Khoa Học. Hiện Lượng Trí trong ba Lượng
Tríchính là Tri Thức của hiện thật. Chữ Lượng tức là Tri Thứcvà
Tri Thức của hiện thật gọi là Hiện Lượng Trí. Hiện LượngTrí quyết
định không phải là huyễn tưởng, không phải làphỏng đoán và lại
cũng không phải là tưởng tượng. Ngoài racác nhà Khoa Học đều chú
trọng đến Giả Thiết. Nguyên vìđối với chân tướng của một sự vật
nào đó không có chân trícủa hiện thật, không có thời gian khảo
sát một cách minhbạch, các nhà Khoa Học không dám đoán mò ( Nhà
KhoaHọc rất sợ võ đoán ) và cũng không quyết định thiết |
lập luậncứ
bừa bãi. Lý do họ không dám tự tin, cho nên đối vớinhững cảnh
nói trên họ không thể quyết định xác thực vàthường dùng Giả
Thiết để tiến tới từng bước một trong sựnghiên cứu và khảo
nghiệm. Hoặc giả có người dùng phươngpháp này đi suy cứu vấn đề
khác. Thái độ của Giả Thiết cũngrất thích hợp với Tỷ Lượng Trí
của Duy Thức Học. Tỷ LượngTrí là nghĩa của suy cứu và so sánh, tức
là Nhân Minh Học. |
D.- LA TẬP [ LUẬN LÝ ] VÀ NHÂN
MINH HỌC: |
La Tập chính là Luận Lý Học trong Khoa Học.
Có ngườinói, thứ sự vật nào đó hoặc thứ lý luận nào đó nếu như
phốihợp với La Tập đều được tính là chân thật, là chính xác.Ngược
lại, thứ sự vật đó, thứ lý luận đó nếu như không phốihợp với La
Tập thì không thể cho là chân thật và cũng khôngthể cho là chính
xác. La Tập xưa nay là thảo luận Mệnh Đề,một thứ mệnh đề chỉ có
hai Khái Niệm. Hai loại Khái Niệmđây rất quan hệ với nhau để thành
hình Mệnh Đề. NhânMinh gọi mệnh đề là “Lập Tông”. Sở dĩ có người
nói La Tậpchỉ bảo đảm sự quan hệ nơi hình thức. Phương pháp suy
lýcủa La Tập áp dụng chính là phương pháp Tam Đoạn Luậnvà cũng
chính là “Tỷ Lượng” trong ba chi của Nhân Minh.Hơn nữa có người nói,
La Tập không thể cho là một thứ KhoaHọc độc lập và nó chỉ là một
thứ phương pháp của Khoa Học.Nhân Minh trong Phật Học tựu trung cũng
giống như La Tậpcủa Khoa Học. Nhân Minh Học ở Ấn Độ rất phát đạt,
khôngchỉ có giá trị cho riêng Phật Giáo và còn hữu dụng đến
cáchọc phái khác. Duy Thức Học của Phật Giáo tất cả đều
thànhlập theo hình thức Nhân Minh. Thành Duy Thức Luận và cáckinh
luận khác của Duy Thức Tông hoàn toàn áp dụngphương thức Nhân Minh
để xây dựng học thuyết, để viếtthành sách. Cho nên, phàm người
nào nghiên cứu Duy Thức,trước hết phải nghiên cứu Nhân Minh Học,
nguyên vì NhânMinh là công cụ rất cần thiết trong sự nghiên cứu
Duy Thức.Người đọc Thành Duy Thức Luận,..v..v.... nếu như khôngthông
suốt phương thức Nhân Minh thì mặc dù có tinh thôngđi chăng nữa
cũng không thể giải thích rõ ràng nghĩa thâmsâu của nó. Thành Duy
Thức Luận là một bộ sách thuộc họcphái Trung Quán, cũng giống như
Chưởng Trân Luận củangài Thanh Biện,..v..v....., tất cả |
đều sử dụng
phương thứcNhân Minh Luận.Tại Ấn Độ, Học Phái Đại Thừa Không Hữu
thạnh hànhmột thời, họ thường tập trung học giả tại một Học
Đường đểcùng nhau tranh luận. Phương thức tranh luận của họ đều ápdụng
phương thức Nhân Minh Luận. Thứ phương thức này,ngày nay trong các
Tự Viện của Mông Tạng vẫn còn tiếp tụctiến hành. Do đó, chúng ta
biết được đạo lý của Phật Học,đặc biệt Duy Thức Học là học
thuyết rất thích hợp với LaTập. |
III.- TRIẾT HỌC VÀ DUY THỨC HỌC: |
Theo Triết Học giải thích, ý nghĩa danh từ
Triết Học làtìm cầu sự hiểu biết, tìm cầu trí tuệ. Tìm cầu trí tuệ
là truycứu để tìm ra chân lý nhận thức. Những học thuyết truy
cứuvề chân lý của vũ trụ và nhân sinh đều được gọi là Triết
Học.Triết Học vừa trình bày còn có tên nữa là Hình Nhi ThượngHọc.
Hình Nhi Thượng Học là học thuyết tìm cầu nguyên lýthâm sâu của
vũ trụ và nhân sinh. Nguyên lý thâm sâu ở đâykhông phải là hiện
tượng khách quan mà nó chính là bản thểcủa sự thật. Cũng từ
Triết Học Hình Nhi Thượng này, hai hệphái Bản Thể Luận và Tri Thức
Luận được xuất hiện.Triết Học tây phương gồm có các hệ phái khác
nhau nhưDuy Tâm Luận hoặc gọi là Quan Niệm Luận, Duy Vật Luận,Tâm
Vật Nhị Nguyên Luận,..v..v..... Riêng Duy Tâm Luậncũng có rất nhiều
hệ phái riêng biệt và họ không thể ngồichung với nhau để thảo
luận mọi vấn đề. Nhưng hôm nay,chúng ta chỉ đề cập đến Duy Tâm
Luận và Duy Vật Luận màthôi. Chữ Tâm ở đây có nghĩa là nhận
thức của chúng ta, làmột thứ quan niệm. Quan niệm chính là “ Hình
tướng”,..v..v.... hoặc một thứ hình ảnh và cũng gọi là lý tánh.
Giờđây một vài quan niệm xin được trình bày sơ lược như sau: |
A.- TỐ PHÁC THẬT TẠI LUẬN: |
Triết Học tại Trung Quốc có học thuyết Vô
Cực và TháiCực. Học thuyết này cũng chủ trương tương tợ như Tố PhácThật
Tại Luận. Họ cho rằng con mắt và lỗ tai là chỗ thấy vànghe, chính
chúng nó có thể tiếp nhận được sự vật thật tại vànhờ đó chúng
ta mới có thể hiểu biết thật thể phù hợp với sựvật, như nặng
nhẹ, dầy mỏng, lớn nhỏ, vuông tròn đều làtánh chất thật tại của
sự vật. Những tánh |
chất thật
tại này đãcó sẵn từ nơi sự vật và những thứ đó không phải mang
đến từbên ngoài. Những tánh chất thật tại nơi sự vật đây mặc
dùkhông lìa khỏi phạm vi của Tâm Thức. Tâm Thức của chúngta dù
có nhận thức hoặc không nhận thức về chúng nó, nhưngnhững tánh
chất thật tại nói trên vẫn tồi tại nơi sự vật. TâmThức chẳng qua
căn cứ nơi hình thức của sự vật để hiểu biếtvề sự vật mà
thôi.Chỗ kiến giải của Thật Tại Luận này được phân làm hailoại:
Nhất Nguyên Luận và Đa Nguyên Luận. Nhất NguyênLuận cho rằng thật
thể của sự vật chỉ do một nguyên nhânsanh ra và Đa Nguyên Luận cho
rằng thật thể của sự vật đềudo nhiều nguyên nhân sanh ra. Những
luận thuyết trên nếu sosánh với luận lý của Duy Thức thì chỉ có
giá trị chân thật nơisự thành quả trong thế gian. Còn căn cứ nơi
nguyên tắc tất cảpháp đều do Duy Thức biến hiện, học thuyết của
những pháinày đều bị phủ định. |
B.- CHỦ QUAN DUY TÂM LUẬN: |
Phái này chủ trương chỉ có Tâm chủ quan của
tri giác màkhông có tất cả ngoại vật, nghĩa là tất cả ngoại vật
chỉ doquan niệm nhận thức của chúng ta từ nơi Ý Thức và khôngthể
có ngoài Ý Thức. Cho nên phái này phủ định sự tồn tạicủa tất cả
ngoại vật và theo họ quan niệm, sự tồn tại của tấtcả ngoại vật
đều là ảnh tử từ nơi Tâm chủ quan biến hiện.Như đặc tánh của các
pháp thế gian theo các Khoa TriếtHọc,..v..v.... các Đạo Đức Nhân
Luân,..v..v..... cũng như cácNhân Cách Huân Tập,..v..v..... tất cả
đều bị phủ định. Chỗluận thuyết của phái này nếu đem so sánh với
học thuyếtNgoại Cảnh Phi Hữu ( Ngoại cảnh không phải có ) của
DuyThức thì xem qua có hơi giống nhau. Nhưng xét cho kỹ, thậtra chủ
trương của hai phái này đều hoàn toàn khác nhau. DuyThức thì không
phủ định sự tồn tại của ngoại vật giống như sựphủ định của Chủ
Quan Duy Tâm Luận. Duy Thức sở dĩ chủtrương rằng ngoại cảnh không
thật có là trình bày ngoại vậtkhông thể lìa khỏi sự quan hệ của
Tâm Thức, nghĩa là trìnhbày cảnh vật bên ngoài hoàn toàn không có
thể tánh chânthật. Cảnh vật bên ngoài chỉ có giả tướng của nhân
duyên kếtthành mà thôi. |
C.- KHÁCH QUAN DUY TÂM LUẬN: |
Phái này cho
rằng vạn hữu vũ trụ đều là khách quan tồntại của Tâm cộng đồng
nhân loại trong thế gian. Các pháptuy muôn hình ngàn tướng không
giống nhau, nhưng tất cảđều là biểu hiện của tâm lý cộng đồng
nhân loại. Tâm lýcộng đồng là một thứ Ý Thức của cộng đồng mà
học pháiHách Cách Nhĩ gọi là Quan Niệm Luận. Nếu công nhận rằngÝ
Thức chúng ta là nguồn gốc quan niệm của sự vật, là bảnthể của
sự vật thì Tâm cộng đồng nơi mỗi cá nhân chỉ hiệnhữu một phần mà
nó không phải là toàn thể của tâm lý chúngta. Hơn nữa Tâm cộng
đồng đây không thể chứng minh cũnggiống như một vị “ Thần ” không
thể chứng minh. Tâm cộngđồng không thể chứng minh là chỉ cho Ý
Thức cộng đồng vàÝ Thức này chính là vạn năng. Học thuyết Hoán
Cú Thoạicho rằng Phái Hách Cách Nhĩ dùng phương pháp biện chứngđể
đả phá “ Nhất Thần Luận ”, gán cho Tâm Cộng Đồnglà Quan Niệm
Luận! Tâm cộng đồng hay Ý Thức cộng đồngnếu cho là ông chủ sáng
tạo ra vạn hữu9thì học thuyết đâyrất tương phản với học thuyết Duy
Thức của Phật Giáo.9 Pháp Tướng Duy Thức Học Khái Luận. |
D.- CƠ GIỚI DUY VẬT LUẬN: |
Phái này cùng với phái Duy Tâm đã nói ở
trước đều thuộcvề loại tương đối. Nguyên vì vật và tâm mà hai
phái trìnhbày cũng là tương đối. Vật thì có hình thể có hạn lượng
vàTâm thì không có hình thể, không có hạn lượng. Vật thìchiếm một
khoảng không gian gồm tất cả toàn diện của tựnhiên giới, là đối
tượng của Khoa Học Tự Nhiên, nên gọichung là vật. Hiện tượng sai
biệt của tất cả thế gian đều là doquan hệ lẫn nhau của mọi vật
sáng tạo nên. Do đó bản thể vũtrụ là vật chất, không phải là
Duy Tâm, mà lại cũng khôngphải là Thượng Đế. Lịch sử diễn biến
của nhân sinh cũng làsự diễn biết của Duy Vật Luận. Nhờ sự diễn
biến này, TriếtHọc Sản Sanh của Duy Vật Sử Quan được thành lập.
Lịch sửdiễn biến của nhân loại đều lấy kinh tế làm bối cảnh. Nhưvậy,
thế nào là kinh tế?Bản thân của kinh tế đều là vật chất hoặc
gọi là sinh hoạtvật chất. Đó là điểm xuất phát Tư Bản Luận của
Mã KhắcTư. Cho nên từ xưa đến nay, tất cả sự diễn biến của lịch
sửnhân loại đều là Duy Vật Luận. Hơn nữa, các học giả DuyVật cận
đại cũng đều cho rằng, Ý Thức của nhân loại đều làdo phản ảnh
của vật chất sanh ra. Sự |
hoạt động
của Ý Thứcchính là sự hoạt động của Đại Não và Đại Não nếu
nhưkhông hoạt động phản ảnh thì Ý Thức hoàn toàn không có,cho nên
nói Đại Não là nơi quyết định sự tồn tại của Ý Thức.Đại Não thì
thuộc về vật chất và có khả năng hoạt động, dođó phái Cơ Giới
Duy Vật Luận chủ trương tất cả đều là DuyVật và quan niệm cho Tâm
chẳng qua là điều kiện của vậtchất mà thôi.Thứ Duy Vật này có
một điều khuyết điểm là chỉ gomgóp những diễn biến để thành lập
Định Mệnh Luận, nguyênvì vạn vật nương nhau sanh khởi trong định luật
nhân quả làmđiều kiện xác định. Định Mệnh Luận giả như thành lập
theophương thức nói trên nếu đem so với Duy Thức Học thì cóchỗ giải
thích không được thông suốt. Và có một điểm quantrọng, phái Duy
Vật Luận đều phủ định luật nhân quả củanghiệp thiện ác, cho nên
phái này giải thích cũng khôngđược thông suốt. |
E.- TÂM VẬT NHỊ NGUYÊN LUẬN: |
Tâm thì ở bên trong là phần nhận thức của
chúng ta vàvật thì ở bên ngoài là chỉ cho tất cả toàn diện của
tự nhiên.Phái Tâm Vật Nhị Nguyên Luận chủ trương rằng, tất
cảngoại cảnh đều là đối tượng của Ý Thức chúng ta. Ngoạicảnh thì
thuộc về vật và Ý Thức của chúng ta thì thuộc vềtâm. Khi chúng ta
xem thấy một đóa hoa, Ý Thức lúc đó liềnkhởi lên quan niệm ( hoặc
khái niệm ) về một loại hoa. Sựkhởi lên quan niệm đó của Ý Thức
thì thuộc về tâm. Cònquan niệm về đóa hoa kia là căn cứ nơi toan
diện của đóahoa bên ngoài để sanh khởi thì thuộc về vật. Sự nhận
thứccủa chúng ta là hiểu biết toàn diện của đóa hoa và sự
hiểubiết đây về đóa hoa được phát sanh từ nơi quan niệm. Chúngta
sở dĩ đề cập đến ngoại vật và nội tâm là nói lên sự quan hệlẫn
nhau không thể phân ly của chúng. Một học phái căn cứnơi sự quan
hệ lẫn nhau giữa ngoại vật và nội tâm để thànhlập chủ thuyết
Tâm Vật Nhị Nguyên Luận. Tâm Vật NhịNguyên Luận là trình bày bổn
nguyên của vạn pháp, là bảnthể của vũ trụ. Lối lý luận của
phái này so với học thuyết SắcTâm Huân Tập Hổ Tương ( Sắc và Tâm
quan hệ lẫn nhautrong sự huân tập ) của Tiểu Thừa Kinh Lượng Bộ thì
hơigiống nhau. Sắc Tâm hổ tương làm nhân là thuộc về ChủngTử
Luận.Tâm Vật Nhị Nguyên Luận |
chỉ căn cứ
nơi Khoa Học TựNhiên và Sinh Lý Học để giải thích. Theo họ, chúng
ta nhậnthức một ngoại vật nào, như một đóa hoa chẳng hạn, là
phảinhờ đến bản thân của đóa hoa đó và cũng phải nhờ đến quanhệ
của quang tuyến,..v..v.... đem ảnh tử của đóa hoa nói trênvào trong
Nhãn Cầu. Ảnh tử của đóa hoa trong Nhãn Cầuliền xuyên qua Nhãn Mô
để đến nơi Thần Kinh con mắt vàấn vào nơi con mắt. Ngay lúc đó, Ý
Thức khởi lên sự nhậnthức (quan niệm) về đóa hoa ảnh tử được ấn
vào nơi con mắt.Tiếp theo Thần Kinh con mắt lại đem sự nhận thức về
đóahoa của Ý Thức truyền đến ( hoặc cung cấp để báo cáo )Thần
Kinh Đại Não. Nơi đây, sự nhận thức về đóa hoa của ÝThức trình tự
hoàn thành. Ý Thức tạo ra hoặc truyền xuấtquan niệm về một loại
hoa là thuộc về Tâm. Còn Thần Kinhcon mắttruyền vào Đại Não sự
nhận thức về đóa hoa của Ý Thứckhông một mảy may nghi vấn là
thuộc về tánh chất của CơGiới. Riêng vấn đề sự tác dụng của đóa
hoa nói trên như thếnào sau khi vào trong Trung Khu Đại Não để có
thể dẫn phátmột loại khái niệm của Ý Thức? Cho đến ngày nay chưa
thấycác nhà Khoa Học và các học giả Nhị Nguyên Luận giảithích10.
Sự biến hiện tất cả vạn pháp của Duy Thức giải thíchthì hoàn toàn
không giống như lối giải thích ở đây của TâmVật Nhị Nguyên Luận. |
F.- PHẬT GIÁO DUY THỨC DUYÊN KHỞI LUẬN: |
10 Phật Pháp Tĩnh Yếu của Vương Quý Đồng.Duy
Thức Học của Phật Giáo và các Triết Học vừa đềcập ở trên thì
hoàn toàn không giống nhau. Hệ thống luận lýcủa Duy Thức sau này
sẽ theo thứ lớp tường thuật. Trong đâyxin trình bày tổng quát một
vấn đề. Kinh nói: “Vạn pháp duythức, ba cõi duy tâm, tất cả đều do
tâm tạo”. Căn cứ nơi lờinói này, người ta vội cho rằng Duy Thức
chủ trương không cóngoại cảnh. Thật ra Duy Thức đối với thế giới
và sự vật ngoạicảnh đều không phủ định sự tồn tại của chúng.
Theo DuyThức, sự sanh khởi vạn pháp trong thế gian đều bị ảnh
hưởngrất lớn năng lực của Tâm Thức. Nhưng không thể cho rằng
sựsanh khởi vạn pháp duy nhất chỉ có Tâm Thức sáng tạo. TâmThức
chẳng qua là một cái vòng trọng yếu, một cái vòng cónăng lực
của nhân duyên trong sự sanh khởi vạn pháp màthôi. Nếu cho rằng
Tâm Thức là yếu tố chính trong sự |
sanhsản các
pháp thì Tâm Thức của chúng ta phải nhờ vào cácquan hệ ( Duyên )
như căn, cảnh, ánh sáng,..v..v..... thuộc vậtchất để sanh khởi.
Luận thuyết trên đây thuộc về NhịNguyên Luận và Đa Nguyên Luận.
Nhưng thực tế cho thấyThức và Cảnh không thể tách rời nhau, từ đó
nói rằng ngoàiThức không có cảnh và Thức đóng vai trò thù thắng
nên gọilà Duy Thức. Duy Thức xem trọng đạo lý Duyên Sanh, chonên
tuyệt đối không chủ trương chỉ có Thức tồn tại và phủđịnh sự tồn
tại của tất cả khách quan. Học thuyết của DuyThức có thể cho là
Tâm Cảnh Hợp Nhất Luận.Trong các học thuyết được xem qua ở trên,
Phật Học, đặcbiệt Duy Thức Học là môn học lý trí và nó không phải
làTông Giáo. Duy Thức Học, nếu như cho là Tông Giáo thìthuộc về
Tông Giáo lý trí và nhất định không phải là TôngGiáo mê tín. Duy
Thức Học, Triết Học và Khoa Học đều rấttương đắc với nhau. Duy
Thức Học có thể sửa chữa sự sai lầmcủa tư tưởng, có thể cải
chính những lý luận xuyên tạc. Chonên người nghiên cứu Duy Thức
Học không chỉ phát dươngPhật Học và còn xương minh khoa Triết Học
càng thêmthăng tiến. Vì nguyên nhân đó, gần bốn mươi năm nay,
cácgiới học thuật rất chú ý đến Duy Thức Học của Phật Học. |
CHƯƠNG III |
LỊCH SỬ PHẬT HỌC TRUNG QUỐC XEM DUY THỨC HỌC |
I.- QUAN NIỆM KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ
PHẬT HỌC TRUNG QUỐC: |
Căn cứ trên phương diện Phật Học Đại Thừa,
Duy ThứcHọc tại Trung Quốc là một tông phái vô cùng quan
trọng,tông phái rất chú trọng về lý học và cũng rất quan hệ với
cáctông phái khác trên lãnh vực lý học. Ở đây, chúng ta nên
bắtđầu từ nơi sự thật về lịch sử của Phật Học Trung Quốc
đểnghiên cứu Duy Thức Học, nghĩa là chúng ta phải căn cứtổng quát
về quá trình phát triển của Phật Học Trung Quốcđể tìm hiểu Duy
Thức Học. |
A.- QUAN NIỆM KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TỪ
ĐỜI ĐƯỜNG TRỞ VỀ TRƯỚC: |
Các học giả
cận đại có nhiều thuyết khác nhau về niênđại Phật Giáo truyền
vào Trung Quốc. Chung quy họ đều chorằng, niên đại Phật Giáo truyền
vào Trung Quốc là vàokhoảng năm Vĩnh Bình thứ 10 đời Đông Hán.
Phật Giáo phátxuất từ Ấn Độ, xuyên qua Tây Vực và truyền vào
TrungQuốc. Phật Giáo trong thời kỳ này được xem là một thứ vănhóa
ngoại lai, mặc dù các nhà truyền giáo chỉ chú trọng về sựphiên
dịch mà thôi. Các nhà phiên dịch của Phật Giáo khaimở đầu tiên kể
từ cuối nhà Hán gồm có An Thế Cao, ChiLâu Ca Sấm ( họ đến Lạc
Dương vào Kỷ Nguyên 167 TâyLịch ). Đến thời Tam Quốc, lại có thêm
các nhà phiên dịchnhư Chi Khiêm, Khương Tăng Hội, Duy Kỳ
Nan,..v..v.... Cáckinh điển được phiên dịch trong thời kỳ này là Lục
Độ TậpKinh, Pháp Cú Kinh,..v..v..... Sự nghiệp phiên dịch của
PhậtGiáo dần dần chiếm địa vị phát triển. Quốc gia tuy ở thời
kỳchiến loạn, nhưng nhân dân trong nước từ từ tiếp nhận PhậtGiáo
mới đến một cách an lạc.Ở thời Tây Tấn, tuy quốc gia vừa mới ổn
định, nhưng họcphong của Phật Giáo đã đứng vững trong thời Tam
Quốc.Phật Giáo đã được triều đình và nhân dân tín ngưỡng theo.Các
cao tăng Tây Vực nối gót nhau đến Trung Quốc tiếp tụcgiới thiệu
món ăn tinh thần mới. Cho nên kể từ đây trở vềtrước, sự nghiệp
phiên dịch rất thạnh hành. Các dịch giả đángkể nhất của thời Tây Tấn
như ngài Trúc Pháp Hộ, người TâyVực đến Trường An và Lạc Dương (
năm 366 Tây lịch ). Cáckinh do ngài phiên dịch từ chữ Phạn ra chữ
Hán gồm có: KinhQuang Tán, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Thập Địa, Kinh
ĐạiAi, Kinh Bát Nê Hoàn,..v..v..... Còn ngài Trúc Pháp Lan dịchKinh
Bát Nhã,..v..v...Đến thời Đông Tấn, Phật Giáo sở dĩ được hoằng
truyềnrộng lớn là nhờ các Đại Đức người Tây Vực đến Trường
Ankhai mở, như ngài Phật Đồ Trừng giảng Thiền Học, ngài CưuMa La
Thập giảng Kinh Bát Nhã, ngài Tăng Già Đề Bà dịchTỳ Đàm. Đáng kể
nhất, các cao tăng của người Đông Tấnxuất hiện như Di Thiên Thích
Đạo An người thấy xa hiểurộng, Pháp sư Huệ Viễn tổ sáng lập phái
Tịnh Độ và bốn nhàTriết Học uyên thâm của phái La Thập là ngài
Đạo Sinh,ngài Tăng Triệu, ngài Đạo Dung và ngài Tăng Duệ.Sự phiên
dịch của Phật Giáo trong thời kỳ này gồm cóKinh Luận của Tiểu
Thừa và Đại Thừa. Toàn bộ ba Tạng củaTiểu Thừa chỉ dịch xong A
Hàm, Luật Bộ và ThànhThật,..v..v..... Nhưng ba Tạng Kinh Luận của
Đại Thừa |
thì đãdịch
Thiền Học, Pháp Hoa, Kim Cang, Bát Nhã, TamLuận,..v..v..... Cho thấy
Kinh Luận của Tiểu Thừa và ĐạiThừa xem qua thật là phong phú vượt
bực chưa từng có. Cũngtrong thời kỳ này, ngài Đạo An đề xướng
Luật Học áp dụngcho Thiền Học để đại chúng hành trì. Ngoài ra,
ngài La Thậpvà các đệ tử của ngài hoằng dương Tam Luận, Bát
Nhã,Thành Thật. Riêng Học Thuật Trung Quán vừa mới thành lậptông
phái tại Trung Quốc. Hơn nữa, Pháp Hoa của ngài LaThập lại nhờ các
bậc cao tăng như: Huệ Văn, Huệ Tư, TríGiả tuyên dương thành tông
phái. Học phong của những hệphái nói trên rất thạnh hành tại Kinh
Lạc Gian nơi GiangBắc.Còn ở Giang Nam, ngài Tuệ Viễn lại căn cứ nơi
Tông BátNhã để phát huy Tông Tịnh Độ. Ngài Tăng Già Đề Bà
dịchthuật và hoằng truyền A Tỳ Đàm. Có thể nói phong tràonghiên
cứu Phật Học trong thời kỳ này càng thên thạnh hànhvà vượt bực
hy hữu. Hơn nữa lại có một người đặc biệt thậtđáng đề cao trên
hết, đó chính là lưu học sinh Pháp Hiển.Ngài Pháp Hiển là người
duy nhất của Trung Quốc, đã thànhcông một cách vẻ vang tại Ấn Độ
trong thời gian du học.Ngài chẳng những có công không nhỏ đối với
Phật GiáoTrung Quốc và Ấn Độ, đồng thời cũng đem lại cho TrungQuốc
một khích lệ hết sức to lớn trong việc công tác thámhiểm Tây
Phương cận đại.Kế đến là Phật Giáo trong thời đại Nam Bắc Triều.
Trướchết trong thời Nam Triều, các vị tăng Tây Vực từ phươngđông
đến rất nhiều, như ngài Đàm Ma Mật Đa người nướcKế Tân, ngài Cương
Lương Da Xá, ngài Cầu Na Bạt Ma,ngài Tăng Già Bạt Ma, ngài Bồ Đề
Đạt Ma, ngài Tam TạngChân Đế,..v..v.... Trong số này chỉ có hai ngài
có công rất lớntrong việc phát huy hai tư tưởng Thiền và Duy Thức
nổi tiếnglà ngài Bồ Đề Đạt Ma người kiến lập Thiền Tông và
ngàiTam Tạng Chân Đế người đầu tiên truyền dịch và thiết lậpCâu
Xá Tông. Lúc bấy giờ, danh tăng của Nam Triều gồmcó: ngài Huệ
Văn, ngài Huệ Tư, ngài Trí Giả,..v..v..... kiếnlập Chỉ Quán và sáng
lập Thiên Đài Tông ( Thiên Thai Tông). Ngài Huệ Khả,..v..v.....
truyền thừa Thiền Tông. Học giảChân Đế thiết lập Nhiếp Luận Tông
( về sau Tông này mởđầu cho Duy Thức Tông ). Ngoài ra, Ngài Huệ
Quán và ngàiTạ Linh Vận lại thiết lập Niết Bàn Tông. Sự thạnh
hànhnghĩa học của Lưỡng Tấn thì vẫn bất diệt trong thời đại
này.Tiếp theo trong thời Bắc Triều, ngài Đàm Vô Sấm ( năm412 ) |
dịch Kinh Đại
Niết Bàn, Kinh Kim Quang Minh, KinhLăng Nghiêm,..v..v..... Ngài Bồ Đề
Lưu Chi ( năm 508 ), ngàiPhật Đà Phiến Đa ( năm 525 ), ngài Lặc Na
Bạt Đề ( 508 )cùng nhau dịch Thập Địa Kinh Luận và Duy Thức Luận
củangài Vô Trước và ngài Thế Thân. Những kinh luận này vềsau
được truyền đến đất Bắc. Kế tiếp ngài Huệ Quangnghiên cứu Luật
Tứ Phần và thành lập Luật Tông ( HoàngSử, Dương Sử và Tông Phái
Nguyên Lưu ).Theo Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc, kể từ bắt đầu
dunhập cho đến thời Nam Bắc Triều, 600 năm đó có thể cho làthời
đại tiếp nhận Phật Giáo. Thứ đến thời đại Tùy Đườngđược gọi là
thời đại Phật Giáo dung hóa. Đặc biệt hơn, thờiđại Tống Minh mới
chính là thời đại Phật Giáo chân chánh.Phật Giáo trong thời đại
này trở thành một thứ huyết mạchcủa văn hóa Trung Quốc không thể
phân ly.Riêng Duy Thức Học trong thời kỳ Phật Giáo du nhậpTrung
Quốc, nghĩa là trong khoảng 500 năm đầu, trước ngàiChân Đế, thành
thật mà nói không có dấu vết nào cả của mộthọc phái. Nguyên do
những điển tích thành lập Pháp TướngDuy Thức Học hoàn toàn không
thấy ghi lại.Mãi đến thời Tùy Đường, Phật Giáo gồm có 8 Tông và
10Phái bao hàm Đại Thừa và Tiểu Thừa, Hiển Giáo và MậtGiáo cùng
nhau phát triển. Ánh hoa rực rỡ chưa đủ để chứngminh cho sự thạnh
hành của Phật Giáo Trung Quốc. Kể từđây Phật Giáo có thể nói
thừa sức sống đi lên sau này. |
B.- QUAN NIỆM KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁOTỪ
ĐỜI ĐƯỜNG TRỞ VỀ SAU: |
Phật học Trung Quốc từ đời Đường trở về sau,
bao quáttất cả gồm có bốn phái ( Thiền, Tịnh, Giáo, Luật ), hoặc
nămphái ( Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, Mật ). Tăng chúng của đại đasố
Tự Viện trong thời kỳ này chẳng tham thiền thì niệm Phật,chẳng
niệm Phật thì tham thiền và vấn đề tông phái không ởtrong phạm vi
hứng thú của họ. Vấn đề “ Giáo Tông ” củathời nhà Đường thì bao
gồm cả bốn Tông như: Thiên Đài( Thiên Thai ), Hiền Thủ ( Hoa Nghiêm
), Tam Luận và DuyThức. Còn hai Tông như: Câu Xá và Thành Thật của
TiểuThừa thì cũng có công đức lớn trong việc cùng lúc thi
đuanghiên cứu.Từ thời nhà Tống trở về sau ( gồm bốn triều đại:
Tống,Nguyên, Minh, Thanh ), Trung Quốc giảng “ Giáo Tông |
”đều sử
dụng Thiên Đài Tông ( Thiên Thai Tông ) và HiềnThủ Tông ( Hoa
Nghiêm Tông ) làm chủ yếu. Nhưng TamLuận Tông, Duy Thức Tông, Câu
Xá Tông,..v..v..... thì khôngcó người quan tâm đến11. Riêng hai Tông
Tam Luận và DuyThức tại Hội Xương, đã bị pháp nạn của Võ Tông đời
Đườnghủy diệt hết những tài liệu chú sớ về điển tích. Đã không
cònđiển tích chân thật và lại không có nhân tài truyền thừa
đểphục hưng, hai Tông này trở nên mai một.Mặt khác, Thiên Đài
Tông và Hiền Thủ Tông thì chútrọng nơi giáo quán hơn, nghĩa là
giáo lý đặt nặng nơi sự thựchành quán chiếu nhiều hơn. Trái lại,
Tam Luận Tông và DuyThức Tông thì chú trọng nơi giáo lý. Phương
pháp quán hạnhcủa Thiên Đài Tông và Hiền Thủ Tông mặc dù không
kinhđiển nhưng còn có thể truyền thừa. Ở đây giáo lý của TamLuận
Tông và Duy Thức Tông nếu như không điển tích thìdiệu lý khó liễu
tri. Hơn nữa, học thuyết của hai Tông ThiênĐài và Hiền Thủ thì rất
gần với tư tưởng của Lão Trang. Chothấy, những vị sáng lập hai Tông
Thiên Đài và Hiền Thủ đềucăn cứ nơi tư tưởng phát triển của
người Trung Quốc, lẽ dĩnhiên, sản phẩm tư tưởng dung hợp của Trung
Ấn dễ cho11 Cuối nhà Minh và nhà Thanh, học phái Duy Thức tuy có
người giảnggiải, như ngài Linh Phong, Ngẫu Ích có trước tác Thành
Duy Thức LuậnTâm Yếu. Còn thời nhà Thanh, các ngài như: Thiệu
Giác, Trí Tố, ..v..v….cũng có trước tác Thành Duy Thức Luận Âm
Hưởng Bồ Di, ..v..v…. Nhưngrốt cuộc học phái này chỉ ảnh hưởng thư
thớt vài nơi, that là thiếu sótđáng tiếc.người Trung Quốc tiếp
nhận. Đã vậy, căn cứ nơi địa dư thànhlập tông phái, hai Tông Thiên
Đài và Hiền Thủ đều được xâydựng nơi Trung Thổ. Còn hai Tông Tam
Luận và Duy Thứcđều phát nguồn từ Ấn Độ lại được mang vào Trung
Quốctrong lúc tư tưởng của người Trung Quốc chưa tiếp nhận vàdung
hóa. Cho nên sau pháp nạn tại Hội Xương, một khikhông còn điển tích
và cũng không còn ai kế thừa, thành thửsở học của hai Tông này
trở nên bị mai một luôn. Đặc biệthơn hai Tông Thiên Đài và Hiền
Thủ thì không giống tình thếnhư hai Tông Tam Luận và Duy Thức. “
Giáo Học ” của haiTông này vẫn còn truyền thừa từ đời Triệu và
đời Tống trởvề sau.Thiên Đài Tông thì dùng Kinh Pháp Hoa làm chủ
yếu vàHiền Thủ Tông thì dùng Kinh Hoa Nghiêm làm chủ yếu.Trong
khoảng thời gian từ đời Tống cho đến cuối đời Thanhvà đầu |
Dân Quốc,
người Trung Quốc nghiên cứu Phật Học,ngoại trừ hai Tông Tịnh Độ và
Thiền, đều học tập giáo nghĩacác tông phái, nhất là 19 nhân vật
nghiên cứu Thiên ĐàiTông và Hiền Thủ Tông. Đáng chú ý nhất,
ngoài hai loạiKinh chủ yếu là Kinh Pháp Hoa và Kinh Hoa Nghiêm,
ngườicủa hai Tông Thiên Đài và Hiền Thủ đều giảng giải các
Kinhkhác như: Kinh Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Duy Ma,Kinh Viên
Giác, Kinh Kim Cang, Kinh Phạm Võng, Kinh DiĐà, Luật Tứ
Phần,..v..v.... Họ lại còn trình bày điển tích tôngyếu về giáo nghi
( nghi thức giáo lý ) của bốn phái ( Thiền,Tịnh, Giáo, Luật ) hoặc
giáo nghi của năm phái ( Thiền,Tịnh, Giáo, Luật, Mật). Nếu như trừ
những kinh điển này ra,họ đâu còn có chi để giảng giải và văn
chương giảng giảinhững kinh điển trên của họ đều có khắc bản để
lưu lại.Những Tự Viện của Giáo Tông sở dĩ gọi là Giảng Tự
nhằmđể phân biệt với Thiền Tự và Luật Tự. Giảng Tự nghĩa
lànhững cơ sở mà Giáo Tông thường sử dụng để giảng thuyếtnhững
kinh giáo.Đề cập đến Tam Luận Tông và Duy Thức Tông tại TrungQuốc,
mãi đến đầu năm Dân Quốc, hai Tông này mới đượchồi sinh. Những
kinh luận chú sớ về hai Tông này cũng đượcmang từ Nhật Bản về
Trung Quốc làm tài liệu nghiên cứu.Nhờ đó các học giả danh tiếng
của Trung Quốc mới đổ xônghiên cứu đến. Sự phục hưng của hai Tông
Tam Luận vàDuy Thức tại Trung Quốc không ngoài 340 năm gần đây
màthôi!Kinh căn bản của Duy Thức Học gồm sáu loại, nhưngtrong đó
Kinh Giải Thâm Mật là quan trọng nhất. Kinh nàycăn cứ nơi năm
Pháp, ba Tự Tánh, tám Thức và hai Vô Ngãlàm tông yếu. Riêng Tam
Luận Tông thì gồm có những bộluận căn bản như: Trung Luận, Bách
Luận, Thập Nhị MônLuận,..v..v..... Hơn nữa Tông này lại còn tham
khảo thêm ĐạiTrí Độ Luận để bổ sung giáo nghĩa, thường gọi là Tứ
Luận.Tam Luận Tông thì căn cứ trên nghĩa Không sâu thẩm củaKinh
Bát Nhã làm tông yếu.Ngoài bốn tông phái như: Thiền, Tịnh, Giáo,
Luật đãđược nêu ở trước, Trung Quốc còn có thêm một tông phái
nữalà Mật Tông. Mật Tông thì chuyên nghiên cứu giáo lý bí
mật.Tông này thường y cứ theo các Kinh như: Kinh Đại Nhật,Kinh Tô
Tất Địa, Kinh Kim Cang Đỉnh làm tông yếu. MậtTông có hai đại bộ
môn: Giáo Tướng và Sự Tướng. GiáoTướng nghĩa là căn cứ nơi sự
tướng của Tông này để nghiêncứu giáo lý. Sự Tướng của tông này
là |
kiến lập
Đàn Tràng đểtu trì tất cả nghi thức của Tam Mật. Tất cả nghi thức
đều làtượng trưng chân lý vạn hữu của giáo tướng giải thích.
MậtTông rất thạnh hành trong thời đại nhà Đường cũng như nhàTống
và sau đó thì mất chân truyền.Người đời Đường đã chú sớ tất cả
nghi thức Bí Bổn củaMật Tông và những nghi thức này đều bị thất
truyền từ nơiNhật Bản. Do đó, sở học của Mật Tông nơi Trung Quốc
khởiđầu từ nhà Thanh và nhà Minh cho đến sau này đều bị maimột
luôn12. Tông này chỉ còn lưu lại nghi thức Du Già DiễmKhẩu và Mông
Sơn Thí Thực,..v..v..... để cho các sư ứng phóbiểu diễn hát xướng.
Mật Tông cũng thuộc về “ Giáo Tông ”,nguyên vì chủ yếu của Tông
này là chú trọng sự thông đạtnơi Giáo Tướng. Nhưng Giáo Tướng
không rõ ràng thì SựTướng không thể truyền thọ. Vả lại, vấn đề
truyền thừa cáchtu trì sủa Sự Tướng lại chú trọng vị sư thừa kế
và miệng củavị sư đó trực tiếp trao truyền giáo chỉ. Đây cũng là
pháp mônhành trì và pháp môn này do người tu chứng chỉ huy.Từ đây
trở về trước, tám tông phái đại thừa như: Thiền,Tịnh, Luật, Mật ,
Thiên Đài, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thứcđã được trình bày qua và
ngoài tám tông phái đây, Phật HọcTrung Quốc còn có hai học phái
nữa là Câu Xá Tông vàThành Thật Tông. Kể từ đời Đường cho đến
sau này, PhậtGiáo Trung Quốc bình thường không thấy ai bàn đến hai
tôngphái trên13. Tại bởi Câu Xá và Thành Thật là hai tông
pháicủa Tiểu Thừa và cũng thuộc về “ Giáo Tông ”. Các giớiPhật
Học Trung Quốc từ xưa đến nay đều thiên trọng về ĐạiThừa và quan
niệm khinh thường Tiểu Thừa. Đây là sự ngộ12 Ba triều đại Nguyên
Minh và Thanh, Lạt Ma Giáo của Tây Tạng tuy cótruyền vào Trung
Quốc, nhưng chỉ ở cung đình. Giáo phái này chỉ lưutruyền cho người
Mãn, người Mông thuộc giai cấp thống trị và đối vớiquãng đai quần
chúng người Hán thì không có ảnh hưởng đến.13 Câu Xá Quang Ký Tự
của Âu Dương Tiệm trình bày: “Câu Xá xưng làHọc Phái mà không xưng
là Tông Phái”.nhận sai lầm. Ngày nay chúng ta cũng nên bỏ đi quan
niệmsai lầm đó. Đúng hơn Phật Giáo Tiểu Thừa mới thật sự làPhật
Giáo căn bản của nguyên thỉ. Giáo nghĩa của Phật Giáonày mới chính
thật nơi miệng Đức Phật Thích Ca Mâu Niđích thân nói ra. Thế nên
giáo nghĩa của hai tông Câu Xá vàThành Thật một lần nữa cũng xin
được chiếu cố để tườngthuật lại một cách tỉ mỉ hơn.Hai Tông |
phái Tiểu
Thừa và tám Tông phái Đại Thừacộng chung lại thành mười Tông
phái của Phật Giáo TrungQuốc. So sánh với Học phái Duy Thức, mười
Tông phái nóitrên có quan hệ mật thiết như thế nào? Lẽ dĩ nhiên
trên tinhthần dung thông và hổ trợ lẫn nhau của Phật Giáo, Học
pháiDuy Thức nhất định quan hệ mật thiết với mười Tông pháinói
trên, nhưng không phải quan hệ nhau với tánh cách đốilập như nước
và lửa. Huống chi Học phái Duy Thức là nguồnsuối tư tưởng học
thuyết của những Tông Phái nói trên vàcũng là căn nguyên của
Phật nói. Người nghiên cứu Phật Họccũng nên đặc biệt chú ý đến
sự kiến giải của Học phái DuyThức. Người nghiên cứu không nên khư
khư giữ nếp cũ, phânngành, định loại và cũng không nên đóng khung
sự quan hệ,bài xích sự hổ tương, phân loại sông ngòi để uống
nước.Chúng ta nên biết rằng đạo lý lượng nước sông ngòi tuy
khácnhau trạng thái, nhưng chung quy đều chảy về biển cả. Nếuhiểu
rõ điểm này, chúng ta nhận biết giữa các Tông pháiPhật Học Trung
Quốc đều có sự hổ trợ lẫn nhau để thành lập,hổ trợ lẫn nhau để
phát minh và hổ trợ một cách bình đẳngkhông có vấn đề cao thấp (
tôi không tán thành tác phongphán giáo Tiểu Thừa và Đại Thừa vừa
kể ). Học phái DuyThức chính là một trong tất cả Phật Pháp, lẽ tự
nhiên cũng rấtquan hệ mật thiết với mười Tông phái nói trên. |
II.- DUY THỨC HỌC VÀ CÁC TÔNG PHÁI: |
Trước hết chúng ta đề cập Duy Thức Học quan
hệ với haihọc phái Tiểu Thừa và sau đó sẽ so sánh Duy Thức Học
quanhệ đến các tông phái Đại Thừa. |
A.- DUY THỨC HỌC VÀ CÂU XÁ: |
Câu Xá là tên của một bộ luận và nguồn
gốc của tên nàygọi cho đủ là A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. A Tỳ Đạt
Ma CâuXá Luận Trung Hoa dịch là Đối Pháp Tạng Luận ( Luận vềđối
tượng Pháp Tạng ). Nội dung của Câu Xá Luận nhằmthuyết minh Nhân
Không Pháp Hữu làm tông chỉ. Bộ luậnnày rất quý trọng nơi việc
nghiên cứu Phật Học. Ngườinghiên cứu Phật Học, trước hết phải
học tập Câu Xá Luận.Câu Xá Luận vừa là đầu mối, vừa là cơ sở,
mà cũng vừa làphương pháp nhập môn, là tuần tự của sự chứng
nghiệm, củasự tín giải một cách rõ ràng và cụ |
thể. Kinh
luận thường nói,học Phật và tu hành là để đoạn trừ phiền não và
cắt đứt sanhtử. Nội dung bộ luận này đều căn cứ trên các bộ Kinh
AHàm, các bộ Luật và nhất là các bộ Luận của phái Hữu Bộđể
thành lập. Câu Xá Luận trình bày vấn đề đoạn trừ phiềnnão và
cắt đứt sanh tử rất có mạch lạc. Người sơ cơ học tậpPhật Pháp,
nếu như không chịu nghiên cứu bộ luận này đểkhai mở đầu tiên mà
lại đi tham học giáo lý Đại Thừa thìngười đó rốt cuộc thiếu hẳn
căn bản tư tưởng, nguyên vì giáolý Đại Thừa đều căn cứ nơi Tiểu Thừa
để thành tập. Nóichung, giáo lý trong các kinh luận của Tiểu Thừa
thì trìnhbày rất rõ ràng và ngược lại giáo lý trong các kinh luận
củaĐại Thừa thì phần nhiều trình bày quá tổng quát. Yếu nghĩacủa
ba Tạng Kinh Tiểu Thừa đều hàm chứa trong bộ luậnnày. Câu Xá Luận
không những chỉ thuyết minh rốt ráo củaPhật Pháp mà lại còn trình
bày rõ ràng một loại triết học tônggiáo của Ấn Độ. Tại Ấn Độ,
bộ luận này được gọi là ThôngMinh Luận. Vào thời Lương và thời
Trần, thuộc Kỷ Nguyên548, ngài Chân Đế đến Trung Quốc14dịch Câu Xá
Luận.Ngài là người nghiên cứu và chứng đắc kim chỉ nam của ATỳ
Đàm. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang dịch các bộ luậnmới gọi là Tân
Luận. Sự nghiệp nghiên cứu của ngài HuyềnTrang rất thạnh hành một
thời và ngài trước tác rất nhiều tácphẩm. Những tác phẩm của
ngài có tiếng tâm như là PhổQuang Ký, Pháp Bảo Lưu, Viên Huy Tụng
Sớ,..v..v..... Vềsau, sự sùng thượng Đại Thừa và việc chú sớ bị
thất truyền làlý do cũng tại không có người nghiên cứu đến. Phải
nên biếtrõ, Duy Thức Học và Câu Xá Học rất quan hệ với nhau
nhưmáu thịt và xương cốt. Sự quan hệ giữa Duy Thức Học vàCâu Xá
Học tóm lược có hai điểm chính sau đây: |
1)- Pháp Tướng Của Câu Xá Là Chỗ Nương
TựaCủa Duy Thức: |
Tất cả pháp tướng của Duy Thức Học thuyết
minh đãđược nói rõ trong Câu Xá. Như danh số tất cả pháp tướng
của75 pháp, của 5 ngôi vị đoạn trừ phiền não và tu hành
chứngquả..v..v.... đã được Câu Xá Luận sáng tác, chỉ định và
giảithích tường tận để lưu truyền cho đời sau. Duy Thức Luậnđều căn
cứ nơi đó mà lược giải. Tác giả của Duy Thức NhịThập Luận và Duy
Thức Tam Thập Luận chính là ngài ThếThân. Tác giả của Câu Xá
Luận cũng là ngài Thế Thân.Ngài Thế Thân |
đầu tiên tu
học ba tạng Kinh của Tiểu Thừavà thành quả của sự tu học này,
ngài sáng tác bộ Câu XáLuận. Về sau ngài nhận thấy học lý của
Tiểu Thừa thì chưahoàn toàn cứu cánh. Tiến thêm một bước nữa,
ngài nghiêncứu Phật Pháp của Đại Thừa và kết quả của sự nghiên
cứu14 Than cứu “Thang Sử”, phần thứ 2, chương thứ 28, trang 855, niên
lịchcủa Chân Đế.này, ngài sáng tác bộ Duy Thức Luận. Câu Xá Luận
thì gồmcó 5 ngôi vị và 75 pháp. Nhưng Duy Thức Luận thì gồm có
5ngôi vị và 100 pháp. Ngoài 75 pháp tướng của Tiểu Thừa,Duy Thức
Luận chỉ thêm có 25 pháp mà thôi. Ngoại trừ 25pháp nói trên, đại
cương tổ chức của Duy Thức Luận thì hoàntoàn giống với Câu Xá
Luận. Duy Thức Luận chỉ có khác vớiCâu Xá Luận ở chỗ là hiển
bày chân lý pháp tướng một cáchsáng tỏ. Người nghiên cứu Phật
Học, trước hết nên nghiêncứu Câu Xá Luận và sau đó mới nghiên
cứu Duy Thức Luận. |
2)- Duy Thức Đả Phá Học Lý Của Câu Xá: |
Học lý của Câu Xá Luận thuyết minh phần lớn
là chịuảnh hưởng chỗ kiến giải về học lý của Nhứt Thiết Hữu Bộ
vàcủa Kinh Bộ. Như học thuyết: “Ba đời có thật” (Tam thế thậthữu),
“Pháp thì có ngã thì không” ( Pháp hữu ngã không ),“Ba Khoa đều có
thật” ( Ba Khoa là 5 Uẩn, 12 Xứ, 18 Giới )và “Có Thân Trung Hữu (
có Thân Trung Ấm ),..v..v....” DuyThức đều phê bình những học thuyết
này. Thành Duy ThứcLuận, quyển thứ nhất phê bình những học thuyết
nói trên cholà Tiểu Thừa và có chỗ không cứu cánh viên mãn.
Nóichung, căn cứ nơi sự lý luận của Duy Thức, Câu Xá thuyếtminh
có chỗ sai lầm, cho nên người học Phật nếu như khôngnghiên cứu
Câu Xá Luận thì không biết chỗ phê bình củaDuy Thức như thế nào.
Tục ngữ nói rằng: “Biết ta biết ngườitrăm chiến trăm thắng”. Đây
cũng vậy, người nghiên cứuDuy Thức Học lẽ tất nhiên, trước hết
phải tham cứu giáonghĩa của Câu Xá Luận. |
B.- DUY THỨC HỌC VÀ THÀNH THẬT
HỌC: |
Thành Thật cũng là tên của một bộ luận.
Tác giả của bộluận này là Ha Lê Bạt Ma, người Trung Ấn. Nội dung
của bộThành Thật Luận bàn về Lý Không và Lý |
Không này so
vớihọc thuyết Tánh Không Duyên Khởi của Tam Luận thì khônggiống
nhau. Tương truyền rằng, chỗ thuyết minh lý không nơibộ Thành Thật
Luận của hệ phái Kinh Bộ trước tác chỉ nóilên được nghĩa Thiên
Không của Tiểu Thừa. Đến đời DiêuTần, ngài La Thập dịch bộ luận
này thành chữ Hán để lưutruyền về sau. Bộ luận này đã được nhiều
người truyền bá vàtu tập15. Các học giả sở dĩ một thời chuyên về
Thành ThậtLuận là để thành lập một tông phái và họ đã hoàn
thành mộthọc phái. Sự hoàn thành học phái của tông Thành Thật
đượcthấy chú sớ rất nhiều trong Kinh Lục gồm 24 loại. Thế nênbiết
rằng Tông này rất thạnh hành một thời16. Từ đấy trongPhật Học,
Thành Thật Luận thật là trọng yếu. Bộ luận này kểtừ ngài La
Thập trở về sau có người phê phán cho là ĐạiThừa và có người
phê phán cho là Tiểu Thừa. Trong sửtruyện, sự tranh luận vấn đề
trên có hơi nhiều. Điển hình như“ các học giả từ ngài Trí Nghỉ Kiết
Tạng trở về trước đều choThành Thật Luận là bộ Luận của Đại
Thừa, cho đến một ítnhân vật như ngài Tăng Nhu Huệ và thứ nữa như
ba đại PhápSư của nhà Lương đều không cho Thành Thật Luận là
TiểuThừa. Cho đến các học giả Tam Luận nhìn các học giả ThànhThật
Luận cho là những bậc thầy của Đại Thừa Thành ThậtLuận. Nhưng đến
ngài Kiết Tạng ( học giả của Tam Luận ) ởtrong Tam Luận Huyền
Nghĩa, ngài dùng Thập Nghĩa chứngminh bộ Thành Thật Luận là Tiểu
Thừa. Thêm nữa ngài TríNghỉ Huệ Viễn cũng cho bộ Thành Thật Luận
là Tiểu Thừa.Từ đó các bộ luận được san định nhằm để minh định
những15 Kết Tạng Tam Luận Huyền Nghĩa nói rằng: “Xưa ngài La Thập
phiêndịch Thành Thật Luận Cảnh và ra lệnh cho Tăng Duệ giảng
giải”.16 Được thấy trong “Thang Dụng Đồng Phật Sử”, chương 18, trang
721.loại nào là thuộc về luận của Tiểu Thừa”17. Thành ThậtLuận
sở dĩ bị ghép vào loại Thiểu Thừa là do không có ngườitrước thuật
mà ở đây không phải do các học giả Tam Luậnphê bình và thêm nữa
đời sau Thành Thật Luận lại không cóngười nghiên cứu đến.Lý
Không của Thành Thật Luận, theo quan điểm củaThành Duy Thức Luận
thì thuộc về loại Thiên Không và nókhông phải là cái Không thuộc
Trung Đạo cứu cánh. TôngThành Thật cùng với Duy Thức quan hệ hơi
ít. Học thuyếtNhị Đế: có và không, sanh và diệt, một và
khác,..v..v.... củaThành Thật Luận nếu căn cứ nơi rốt |
ráo Trung
Đạo thì cũngcó thể giống như giáo nghĩa Tam Tánh và Nhị
Đế,..v..v....của Duy Thức Luận. Hai bên có thể quan hệ với nhau để
phátminh. Như Trí Tạng Thành Thật Luận Sớ giải thích rằng:“Trung Đạo
Nhị Đế sao gọi là vật được? Trung Đạo Nhị Đếdo các pháp sanh khởi
thì chưa khế hợp với Pháp Tánh. Đãchưa khế hợp với Pháp Tánh, cái
có của Trung Đạo Nhị Đếlẽ dĩ nhiên là thuộc về Vọng Có và cái
Vọng Có này do cáiKhông thành lập, cho nên nó cũng thuộc về Tục
Đế.” ( Thấytrong Hoàng Sử ). Tư tưởng đây rất gần nhau với thuyết
YTha Khởi Tánh ( Vạn pháp hiện có là do hư vọng phân biệtsanh )
của Duy Thức. Thể của hư vọng là vô tướng, tức làthuộc về loại
Biến Kế Sở Chấp Tánh. Còn cho rằng “VôTướng tức là chân” thì
cũng giống như thuyết Viên ThànhThật Tánh của Duy Thức. Hơn nữa cho
rằng: “Chơn và tục thìđồng với trung đạo. Chân Đế thì vô tướng vì
nó không phảicó ( phi hữu ) và không phải không ( phi vô ), cho
nên nóchính là Trung Đạo Chơn Đế. Còn Tục Đế thì thuộc về nhângiả
tạo, nghĩa là Tức Nhân ( đích thực là nhân ) thì khôngphải Tức Quả
( không phải đích thực là quả ) nên gọi là17 Được thấy trong
“Hoàng Sám Hoa Phật Sử”, tiết 11, trang 120.không phải có ( phi hữu
). Nhưng Nhân đây không thể khôngtạo ra Quả nên gọi là không phải
không ( phi vô). Học thuyếtkhông phải có ( phi hữu ) và không phải
không ( phi vô )chính là Trung Đạo Tục Đế.” Nguyên lý Trung Đạo
Chân Đếcủa Thành Thật Luận so sánh thì không khác với Trung ĐạoTam
Tánh của Duy Thức Luận |
.C.- DUY THỨC HỌC VÀ THIỀN HỌC: |
Thiền Tông là cốt tủy của Phật Học Trung
Quốc. Đại sưThái Hư đã nói: “Tánh chất đặc biệt của Phật Học
TrungQuốc thì ở nơi Thiền Tông.”18 Thiền Học Trung Quốc bắtđầu từ
nơi ngài An Thế Cao của nhà Hán. Mãi đến đời Tấnvà đời Tống,
ngài La Thập và ngài Bồ Đề Lưu Chi mới dịchcác sách thuộc về yếu
chỉ của pháp Thiền. Pháp Thiền từ đâylần lần thạnh hành. Nguyên
do, Phật pháp vốn xem trọng ởnơi tu chứng và coi thường ở nơi học
lý. Trong sự tu chứng,pháp Thiền đương nhiên là công phu bậc nhất.
Pháp Thiền thìthuộc về Tâm Học Tăng Thượng trong ba môn học
TăngThượng. Nắm lấy vấn đề xét tâm tu chứng chính |
là một
trongba môn học vô lậu. Vì thế các cao tăng của Tây Vực khi
đếnTrung Quốc đều trao truyền pháp Thiền. Đến đời Lưu Tống(khoảng
năm 470 – 475), ngài Bồ Đề Đạt Ma, người Nam ẤnĐộ đến Trung Quốc
tự mình truyền thọ Thiền Học cho hậuthế. Thiền Học Trung Quốc từ
đó phát sanh một loại Thiềnbiến hóa19. Từ Bồ Đề Đạt Ma trở về
trước, Thiền Tông TrungQuốc không có kiến lập hệ phái truyền thừa
chánh thống và18 Thấy trong “Thái Hư Đại Sư Toàn Thư”, Trung Quốc
Phật Học, chương2, tiết 1, trang 11.19 Cùng đồng với “Thái Hư Đại Sư
Toàn Thư” ở trước, tiết 2 gồm có:Y Giáo Tu Tâm Thiền, Phân An Ban
Thiền, Ngũ Môn Thiền,Niệm Phật Thiền, Thật Tướng Thiền. Tiết 2
còn có: Ngộ TâmThành Phật Thiền, đây tức là Thiền từ Bồ Đề Đạt
Ma trở về sau.khi đến ngài Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc trở về
sau,Thiền Tông Trung Quốc mới có kiến lập lịch sử truyền thừa,đồng
thời cũng có quy định rõ ràng phương pháp dụng côngtu tập. Ngài Bồ
Đề Đạt Ma trụ nơi Thiếu Lâm Tự tại TrungNguyên, trải qua chín năm
diện bích, tự mình tu chứng, tựmình truyền thọ học đồ ( đệ tử ).
Nhờ vậy Thiền Tông TrungQuốc tôn vinh ngài Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ.
Chúng ta cũngnên cần biết đạo lý của Thiền Tông Trung Quốc. Pháp
Thiềnkể từ Bồ Đề Đạt Ma trở về trước thì có sử dụng Kinh
Giáo.Đến ngài Lục Tổ Huệ Năng trở về sau, Thiền Tông TrungQuốc
phần lớn không căn cứ trên Kinh Giáo, không lập văntự và đơn độc
tham cứu một câu thoại đầu hoặc một loại côngán để tâm trực chỉ
tự ngộ bổn tánh. Cho nên pháp Thiền nàyđược gọi là Giáo Ngoại
Biệt Truyền của Kiến Tánh ThànhPhật, hoặc gọi là Siêu Giáo Đốn
Ngộ Thiền mà cũng gọi làTổ Sư Thiền. Theo họ quan niệm, Văn Học
chỉ là một loạidây leo rễ má và Kinh Giáo cũng chỉ là một thứ
giày cỏ ráchnát, tất cả đều là vật chướng ngại của sự trực ngộ
bổn tánh.Mãi đến đệ tử đời thứ hai ( Mã Tổ ) của Lục Tổ Huệ
Năngtrở về sau, Thiền Học Trung Quốc lại trở thành một thứThiền
hoàn toàn vượt ra ngoài Phật và vượt ra ngoài Tổ,nghĩa là thứ
Thiền không có Phật và không có Tổ. Thiền nàyđược gọi là Thiền
Siêu Phật Tổ. Đây cũng là tinh thần củaThiền Học Trung Quốc. Cảnh
giới của Thiền Học Siêu PhậtSiêu Tổ đạt đến là Đăng Phong Tạo
Cực ( Lên đỉnh núi tạodựng Thế Giới Cực Lạc ).Ngài Bồ Đề Đạt Ma
dùng Kinh Giáo để làm căn cứ. KinhGiáo mà ngài mang đến là một
bộ |
kinh Lăng
Già gồm bốnquyển.( Kinh Lăng Già có bốn người dịch:• Ngài Đàm Vô
Sấm thời Bắc Lương dịch 4 quyển.• Ngài Cầu Na Bạt Đà La thời Lưu
Tống dịch 4 quyển.• Ngài Bồ Đề Lưu Chi thời Bắc Ngụy dịch 10 quyển.•
Ngài Thật Xoa Nan Đà thời Đường dịch 7 quyển.Kinh Lăng Già mà ngài
Bồ Đề Đạt Ma truyền thừa chínhlà bộ kinh của người dịch thứ
hai.)Kinh Lăng Già nói trên là bộ kinh duy nhất của ThiềnTông làm
tông chỉ, nghĩa làThiền Tông căn cứ kinh điển nàyđể ấn tâm. Hành
giả tham cứu kinh điển Lăng Già để ngộđược chỗ kiến giải của mình
có chính xác cùng không, nghĩalà hành giả đem chỗ kiến giải của
mình so sánh với giáo lýcủa kinh này xem có hợp với nhau không để
xác định tiêuchuẩn. Có thể nói, Thiền Tông kể từ Bồ Đề Đạt Ma,
tổ thứnhất tiến thẳng một mạch đến Hoằng Nhẫn, tổ thứ năm
đềutruyền thừa kinh Lăng Già. Đương thời, kinh Lăng Già rấtthạnh
hành nơi phương Bắc ( Trường Giang là thuộc vềphương bắc ) và đã
kiến lập được một tông phái gọi là LăngGià Tông. Như Tăng Truyện
nói rằng: “ Thiền sư sơ tổ ĐạtMa đem bốn quyển Lăng Già trao truyền
cho Huệ Khả vànói rằng: ta xem đất Hán chỉ có kinh này, các bậc
nhân giảnên y cứ theo đó thực hành, tự nhiên sẽ được đạt đạo.”
Lạinữa, ngài Huệ Khả mỗi khi thuyết pháp đều nói rằng: “
Bốnquyển kinh này lưu truyền cho đời sau sẽ biến thành danhtướng,
như thế đáng thương hại vậy!” Chưa hết, tư chấttruyền thừa kinh Lăng
Già của thiền sư Pháp Xung được thấytrong Pháp Xung Truyện. Nguyên
vì thiền sư Pháp Xunghoằng pháp tại bắc phương chuyên xử dụng mạng
mạch giabảo của kinh Lăng Già. Cho nên Lăng Già Tông ở đây
đượcgọi là Nam Thiên Trúc Nhất Thừa Tông. Trong Pháp XungTruyện
nói rằng: “Xung vì áo điển của Lăng Già say mênghiên cứu lâu
ngày, theo đuổi, phỏng vấn các vị sở tại,không sợ hiểm nguy, gặp
được đồ đệ của Khả Sư, gia cônghọc tập kinh này, Xung liền y chỉ
nơi sư để tu học, thường đảkích Đại Sư (thầy của Xung) rồi bỏ đồ
chúng ra đi. Xung thahồ giảng dạy khắp nơi, tức là liên tục giảng
Lăng Già hơn 30lần. Sau đó Xung lại gặp được chính Khả Sư và đích thânnhận
người làm giáo thọ. Xung căn cứ nơi Nam Thiên TrúcNhất Thừa Tông
giảng giải Lăng Già cả trăm lần.”20 NamThiên Trúc Nhất Thừa Tông
sở dĩ thành danh là do KinhLăng Già và kinh này được mang đến từ
Nam Ấn Độ. KinhLăng Già là bộ kinh chính |
do đức Phật
giảng tại núi Lăng Giàthuộc Nam Ấn Độ. Như Kinh nói: “ Ta vì các
chúng sanh diệttrừ các phiền não, biết được căn tánh ưu khuyết
của họ và vìhọ mà nói pháp môn độ thoát. Các pháp mỗi mỗi được
phátsanh không phải được thành lập ngoài nguồn gốc phiền não.Pháp
ta nói tuy Nhất Thừa, nhưng chính là Đại Thừa vậy.”Đời nhà Đường,
vị thầy giảng dạy kinh Lăng Già chính làthiền sư Tịnh Giác và trong
truyện Pháp Xung, Thiền sư cũngcó giảng đến Pháp Thoại này. Pháp
truyền thừa của kinhLăng Già là truyền thẳng và truyền đến Ngũ
Tổ. Ngũ Tổtruyền pháp cho Thần Tú cũng là truyền kinh Lăng
Già.Nhưng Ngũ Tổ khi truyền pháp cho Huệ Năng thì lại truyềnkinh Kim
Cang mà không truyền kinh Lăng Già. Tại sao NgũTổ không truyền kinh
Lăng Già mà lại truyền kinh KimCang? Lý do là, Lục Tổ trước kia khi
chưa đến Đông Sơn họcpháp, một hôm nhơn nghe người tụng kinh Kim Cang
đến chỗthích hợp thì tỏ ngộ. Khi đến Hoàng Mai, Lục Tổ tự
mìnhthường tụng kinh Kim Cang làm căn bản. Tổ Hoằng Nhẫnchưa từng
chỉ dạy cho Huệ Năng về tâm yếu của kinh LăngGià. Cho nên Ngũ Tổ
liền đem tâm pháp nơi chỗ sở ngộ củaHuệ Năng trao truyền cho Lục
Tổ. Đó là loại tùy cơ thuyết20 Đều thấy trong “Lăng Già Tông
Khảo” của Hồ Thích (Hồ Thích LuậnCận Trước, trên tập 1, trang
198).giáo của Ngũ Tổ. Tất cả học chúng của Ngũ Tổ kể luôn
cảLục Tổ Huệ Năng mỗi khi cùng nhau học pháp đều tôn vinhThần Tú
lên ngôi vị Thủ Tọa. Như thế tư cách của Thần Túthì cao hơn Huệ
Năng. Chỉ vì chỗ ngộ đạo của Thần Tú thuộcvề cảnh giới Lăng Già
là cảnh giới tiệm giáo mà không phảilà cảnh giới đốn giáo. Điều
đáng chú ý, Thần Tú không phảikhông bằng Lục Tổ về chỗ đốn ngộ
thâm sâu. Lẽ đươngnhiên Thần Tú cũng thấu rõ lý đốn ngộ và họ
cũng đã trảiqua sự đốn ngộ đó rồi. Lúc bấy giờ ( đương nhiên
Thần Túcùng Huệ Năng đều ở chung một chùa ), Thần Tú lại
chútrọng đến sự tu tập nhiều hơn. Nếu như so sánh với nhau vềsự tu
tập, công phu của Lục Tổ thì tiến bộ hơn Thần Tú mộtbậc. Về sau Thần
Tú thì hoằng hóa ở phương bắc và sử dụngkinh Lăng Già làm tông
yếu. Sự thành công của Thần Tú là “hai lần làm Pháp Vương ở Bắc
Kinh và làm Quốc Sư ba đờivua.” Các môn hạ của Thần Tú gồm có
các ngài như: PhổTế, Nghĩa Phước, Huyền Trách,..v..v.... Lại nữa, “
Thần Tútiếp tục lãnh chúng, thọ ân huệ sự tôn sùng của cung đình
|
vàsự tôn
vinh của toàn quốc.” Do nhân duyên đó, các Thiềnnhân trong thiên
hạ đều tấp nập đến chỗ của Thần Tú đểnương tựa. “ Đông Sơn Pháp
Môn ”21tôn vinh Thần Tú là Tổthứ sáu và Phổ Tịch là Tổ thứ bảy.
Còn Huệ Năng thì đi vềphương nam, sử dụng kinh Kim Cang Vô Tướng làm
phápmôn đốn ngộ để xiển dương Tâm Yếu. Tất cả mọi giới tạiĐại
Giang Nam đều quy hướng về tông môn của ngài. Đệ tửcủa Huệ Năng
là Thần Hội. Thần Hội đến phương bắc hoằngdương đại sự. Trong Đại
Hội Vô Giá, Thần Hội thẳng taycông kích toàn bộ phương pháp truyền
thừa của dòng Phổ Tế,cho phương pháp truyền thừa của họ là phi
pháp và phương21 Kinh Lăng Già có nghĩa của “Tông Thông Thuyết
Thông”. Tông Thôngnghĩa là thấy được Pháp Tánh và Thuyết Tông
nghĩa là thấu rõ PhápTướng.pháp đó không phải là chánh tông.
Thần Hội luôn luôn đềcao y pháp của Thiều Châu. Lúc bấy giờ Thần
Tú đã viêntịch và môn đồ của Phổ Tế đã già nua. Tông tượng của
LăngGià thì không bằng thế lực hoạt bát lớn lao của Thần Hội.Lăng
Già Tâm Tông chung cuộc lần lần bị mai một. Ngượclại, sự hoằng
dương kinh Kim Cang từ từ chiếm địa vị ưu thếkhắp cả nước. Thế nên
Kinh Giáo của Thiền Tông lúc bấygiờ là kinh Kim Cang thay thế kinh
Lăng Già. Huệ Năng nhờthế lực của Thần Hội mới được chánh thức
trở thành Đại TổSư thứ sáu. Toàn bộ pháp môn truyền thừa của
kinh Lăng Giàbị thay thế bởi pháp môn truyền thừa của kinh Kim Cang
vàlối truyền thừa này được trao truyền cho đến ngày nay. Vềsau,
các Thiền nhân căn cứ nơi Tông Lăng Già xem lại thìnhận thấy toàn
bộ pháp môn truyền thừa của Huệ Năng đềulà pháp môn biên soạn
cả.Còn sự biến hóa của Thiền Tông như thế nào? Đó là sựchuyển
biến tư tưởng nơi Phật Học và sự chuyển biến này đãđạt được đến
cứu cánh. Nguyên nhân áo nghĩa của kinh LăngGià và kinh Kim Cang thì
hoàn toàn khác nhau. Điểm bấtđồng của hai bộ kinh nói trên có thể
là do một thời kỳ nào đóđã tìm được căn cứ. Nhân đây, xin tuần
tự trình bày nội dungcủa hai bộ kinh: Kinh Lăng Già thì chuyên giảng
về PhápTướng Duy Thức và kinh Kim Cang thì chuyên giảng về VôTướng
Tánh Không. Nhưng tông chỉ của Lăng Già Tông vàThiền Tông đều chủ
trương minh tâm kiến tánh thì ý nghĩacủa hai tông phái này rất khế
hợp với nhau. Đại ý toàn bộkinh Lăng Già mặc dù cũng thuyết minh
Pháp Tánh ChânNhư, nhưng nếu như |
ly khai Tứ
Cú thì tuyệt đối sai lầm trămphần trăm. Có thể khẳng định, kinh
Lăng Già quá thiên trọngvề sự trình bày cụ thể các mặt như “ năm
Pháp, ba Tự Tánh,tám Thức, hai Vô Ngã.” Điểm rõ ràng nhất là kinh
Lăng Giàhoàn toàn chú trọng nơi phương diện Pháp Tướng và theokinh
này, nhờ Pháp Tướng mới có thể tiến sâu vào PhápTánh. Đó là
tông chỉ của kinh Lăng Già và tông chỉ này thìthuộc về Tiệm Giáo
mà không phải là Đốn Giáo [21] . Cònchủ trương của kinh Kim Cang là
trình bày Pháp Tánh vàcũng là mục tiêu chính yếu của Thiền Tông.
Pháp Tướng thìchú trọng nơi sự phân tích và sự phân tích của Pháp
Tướngđều khởi điểm từ chỗ phức tạp nhất của các pháp để tìm ra
sựmạch lạc của chúng. Hồ Thích là một học giả danh tiếng củaTrung
Quốc nói rằng: “ Duy Thức Học Trung Quốc là bộphận triết học phức
tạp.” Duy Thức Học tận lực phân tích khảnăng của sự vật hy vọng
có thể minh tâm kiến tánh. Do đó,kinh Kim Cang cũng bắt đầu từ
Tánh Không Duyên Khởi đểphát huy Pháp Tánh ( Chân Như ) và kinh
Lăng Già cũngkhởi điểm từ Pháp Tướng Duyên Sanh trên để Minh
Tâm.Nếu như so sánh cả hai bên, kinh Lăng Già và kinh KimCang thì
hoàn toàn không giống nhau. Pháp Tánh thì lìa nóinăng và cũng
không lo nghĩ đến chỗ đạt đạo. Cho nên tôngchỉ của Tổ Sư Thiền là
chú trọng nơi tu chứng, cứ một lòngtham cứu thì tương lai một ngày
nào đó rốt cuộc sẽ được khaingộ. Vì chủ trương như thế của Tổ Sư
Thiền, cho nên cácThiền khách lúc bấy giờ không ham muốn học
nhiều về PhápTướng phiền toái của kinh Lăng Già, mà ở đây họ chỉ
ưathích Pháp Tánh đơn giản trực tiếp của kinh Kim Cang. Theohọ, tham
cứu về nguyên lý, Ý Thức nắm lấy bổn tâm thì mớicó thể chứng
đắc Bổn Tánh. Đây là nguyên nhân chủ yếukhiến cho kinh Kim Cang
thay thế cho kinh Lăng Già.Như trước đã trình bày, lịch sử của Thiền
Tông thì đãphát triển và biến hóa. Một cách nói thẳng, Thiền
Tông kể từHuệ Năng trở về sau thì hoàn toàn không lập văn tự và
chủtrương không cần phải nghiên cứu ba tạng giáo lý, chỉ cần
sửdụng Thiền Quán để xem câu Thoại Đầu như thế nào là đủrồi.
Nhưng trên thực tế, lối chủ trương này xét ra thì khôngphải đơn
giản. Vấn đề không đơn giản ở đây được nhận địnhtrên hai phương
diện như sau:1)- Căn cứ về triết lý, Thiền Tông quan niệm “ Minh
TâmKiến Tánh và Kiến Tánh Thành Phật ” là quan trọng trênhết.
Vấn đề Minh |
Tâm được
giải thích như sau:• Minh Tâm: chữ Tâm ở đây là chỉ cho tám Thức
TâmPháp và 51 Tâm Sở Pháp mà Duy Thức thường trìnhbày. Ngoài chữ
Tâm theo Duy Thức còn có nghĩakhác là chỉ cho tất cả pháp tướng do
tám Thức TâmPháp và 51 Tâm Sở Pháp biến hiện. Chữ Minh đi theochữ
Tâm có nghĩa là thông suốt một cách tường tận tấtcả cảnh giới do
Tâm Pháp và Tâm Sở Pháp biến hiệnra.* Kiến Tánh: chữ Tánh của
Kiến Tánh tức là chỉ choThật Tánh của Duy Thức màcũng gọi là
Chân Như.Thiền Tông cho rằng, Kiến Tánh là thành Phật. Còn DuyThức
thì cho rằng, Ngộ Nhập được Thật Tánh của Duy Thứclà có thể thành
Phật. Theo Phật Học, người nào nếu nhưkhông có Minh Tâm thì không
thấy được Tánh và họ nếumuốn thấy được Tánh thì trước hết phải
Minh Tâm. Cho nênĐàn Kinh có câu: “ Người nào nếu như biết được
bổn Tâmcủa mình và thấy được bổn Tánh của mình thì người đó
làPhật, là bậc Đại Trượng Phu và cũng là thầy của cõi trời,
củacõi người.”22Nơi Duy Thức,22 Thấy trong “Đàn Kinh”.người nào nếu
như không thấy được Tánh Viên Thành Thậtthì không thể hiểu biết
rõ ràng Tánh Y Tha Khởi là một loạidung hợp, ngăn che và như
huyễn. Cho nên DuyThức chủ trương, thông suốt Duy Thức Tướng để
chứng nhậpDuy Thức Tánh làm mục đích. Theo họ, ai không thông
suốtDuy Thức Tướng thì người đó không thể ngộ nhập được DuyThức
Tánh và cũng không thể thành Phật. Nhất trí theonguyên lý này, Duy
Thức và Thiền Tông có chỗ khác nhauvề phương pháp tu tập.2)- Căn
cứ theo giáo nghĩa, Duy Thức và Thiền Tông cónhững điểm tương đồng
như sau: |
a>Giáo Nghĩa của Bồ Đề Đạt Ma: |
Tục Cao TăngTruyện có ghi cương yếu tổng quát
về Giáo Nghĩa của Bồ ĐềĐạt Ma như: “ An tâm như thế nghĩa là quán
vào vách vậy,phát hạnh như thế nghĩa là bốn pháp vậy. Thuận theo
vật nhưthế là giáo dục và hộ trì thức hiềm nghi. Phương tiện như
thếlà giáo dục khiến không cho chấp trước. Lẽ tất nhiên đi
vàogiáo lý thì có nhiều đường lối, nhưng cốt yếu chỉ có hai
thứgọi là Lý và Hành.” Lý nghĩa là sáng suốt về giáo lý vàHành
nghĩa là sự khởi hành. Như nói: “ Mượn giáo lý để ngộđược tông
chỉ, tin sâu thì bao hàm chân tánh cùng nhau |
phátsanh,
khách trần thì luôn luôn làm chướng ngại. Hãy xả cáingụy để trở
về cái chân. Nếu nghi ngờ thì trụ vào vách đểquán, quán đến khi
không còn thấy mình và người, quán thấyphàm và thánh đều bình
đẳng như nhau, hãy an trụ kiên cốkhông cho thay đổi, không nên chạy
theo lời dạy của kẻkhác. Với đạo lý thâm sâu mầu nhiệm hãy vắng
lặng vô vi,như thế gọi là vào lý vậy. Người thực hành vào lý
phải tu tậpbốn hạnh và vạn hạnh. Bốn Hạnh gồm có: Báo Oán
Hạnh,Tùy Duyên Hạnh, Danh Vô Sở Cầu Hạnh, Danh Xưng PhápHạnh, tức
là lý tánh thanh tịnh vậy.”23Bốn Quán Hạnh nàycủa Thiền Tông nếu
như so sánh thì không khác với KhiểnTướng Chứng Tánh trong Ngũ
Trùng Quán của Duy Thức. |
b> Kinh Lăng Già: |
“Năm Pháp, ba Tự Tánh, támThức, hai Vô Ngã”,
nguyên lý của mỗi loại đều có hệ thốngnơi Duy Thức Học. Vả lại
kinh Lăng Già là loại kinh giáotrước tiên của Thiền Tông, cũng là
một trong sáu loại kinhcủa Duy Thức nương tựa để phát triển. Cho
nên Duy Thức vàKinh Lăng Già quan hệ với nhau rất mật thiết( giống
như Pháp Hoa của Thiên Đài Tông, như Hoa Nghiêmcủa Hiền Thủ Tông ).
|
c> Từ Huệ Năng Trở Về Sau: |
Kinh Kim Cang đượcsử dụng ấn tâm. Chỗ thuyết
minh của kinh Kim Cang là PhápTánh. Pháp Tánh chính là Như Như trong
năm Pháp, chính làViên Thành Thật Tánh trong ba Tánh và cũng chính
là haiVô Ngã Tánh. “Ưng Vô Sở Trụ” của kinh Kim Cang chính làthật
không có chỗ chứng đắc, nói chung thì giống nhau vớiPháp Tánh. |
d> Đàn Kinh Của Lục Tổ: |
Đàn Kinh của Lục Tổ làgiáo điển căn bản
của Thiền Tông sau này. Người tu Thiềnsau này chủ trương mắng Phật
chửi Tổ, cầm Đàn Kinh cũnggiống như ném đồ vật. Họ nói rằng,
Thiền Tông không giảnggiáo lý, không lập văn tự, những cảnh giới
mà họ chứng ngộchẳng qua là như thế. Nhưng cũng do lời nói này,
tất cảThiền Khách trong thiên hạ đều bị mù lòa từ ngàn năm
nay.Đàn Kinh nói rằng: |
“Bản tánh
của Đại Viên Cảnh Trí thìthanh tịnh, bản tâm của Bình Đẳng Tánh Trí
thì không bệnhhoạn, bản tánh của Diệu Quan Sát Trí thì không có
công đức,23 Thấy trong “Lăng Già Tông Khảo và Tục Cao Tăng
Truyện”.Thành Sở Tác Trí thì đồng với Đại Viên Cảnh Trí. Quả
củatám Thức do nhờ chuyển y nên trở thành bốn Trí và chỉchuyển
danh ngôn không thật tánh của Thức. Hôm nay chỗchuyển y nếu như
không lưu tình, chứng tỏ chỗ thiền định NaGià mãi mãi hưng thịnh”.Sáu
câu trong bài Tụng ở trước là trình bày tám Thứcchuyển thành Trí
và hai câu Tụng sau là nói về Thiền. Kinhnói thêm rằng: “Như trên
nói chuyển tám Thức thành trí,nghĩa là giáo lý giải thích: chuyển
năm Thức trước thànhThành Sở Tác Trí, chuyển Thức thứ sáu thành
Diệu Quan SátTrí, chuyển Thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí,
chuyểnThức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Nhưng chuyển Thứcthứ
sáu và Thức thứ bảy là chuyển trong cái nhân, cònchuyển năm Thức
trước và Thức thứ tám là chuyển trên cáiquả. đúng ra chỉ chuyển
cái tên của Thức, nhưng không phảichuyển cái thể của Thức vậy”. (
thấy trong Lục Tổ Đàn Kinh). Trong đây, sự chuyển Thức thành Trí chính
là công phu củaminh tâm và kiến tánh. Ngoài ra kinh này còn nói
đến đạo lýcủa ba Thân không cần phải dẫn dụ cụ thể để làm chi.
Nhưthế, ai nói là Thiền Tông không lập văn tự, không trọng
giáonghĩa? Do đó nên biết Duy Thức Học và Thiền Tông quan hệgiống
nhau. |
D.- DUY THỨC HỌC VÀ TỊNH ĐỘ TÔNG:
|
Tịnh Độ Tông là một tông phái thuộc tín
ngưỡng dân gianvà tông phái này có thế lực rất lớn tại Trung
Quốc. Từ xưađến nay tông phái Tịnh Độ hoằng truyền không dứt. Tịnh
ĐộTông được thành lập vào thời đại nhà Tấn và hiển đạt nhất
từkhi ngài Huệ Viễn ( 334 – 416 ) thành lập Hội Liên Xã tại LôSơn.
Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc có thể nói khởi điểm từđó. Ngài Huệ
Viễn nhơn sự loạn lạc tại Tương Dương cùngvới ngài Đạo An mang đồ
chúng tỵ nạn tại Lô Sơn và liềnchấn hưng lại Phật Học Nam Triều.
Ngài Huệ Viễn khôngnhững có địa vị trong Phật Giáo mà danh tiếng
về đạo đức vàvăn chương của ngài có ảnh hưởng rộng lớn trong
giới họcthuật đương thời. Tại Lô Sơn, ngài một mặt tự mình |
nghiêncứu
kinh giáo và đặc biệt là đề xướng học thuật Tỳ Đàm24.24 Được
thấy trong “Thang Sử”, chương 11 trang 365.Hơn nữa ngài cũng thông
suốt ba Tạng Kinh của Tiểu Thừavà Bát Nhã. Ngoài ra, ngài lại còn
đề xướng niệm Phật. Cácbậc cao hiền ẩn sĩ đương thời như Lưu Quý
Thị,..v..v.... cùngvới các bậc xuất gia như Pháp Sư Phổ Tế,..v..v....
gồm tất cảlà mười tám người cùng theo ngài chia nhau thiết lập
từng xãNiệm Phật, gọi là Tịnh Độ Liên Xã. Tại Lô Sơn, mười tám
vịnày được gọi là Thập Bát Hiền và họ chuyên môn xiểndương Thiền
Niệm Phật. Tịnh Độ Tông kể từ ngày thành lậptrở về sau, nhờ Pháp
sư La Thập dịch kinh A Di Đà, cho nênngười ta theo và hành trì lại
càng hưng thạnh.Đến thời Triệu Tống, Tịnh Độ Tông và Thiền Tông
bàixích lẫn nhau như nước với lửa và không thể tha thứ cho
nhauđược. Người tham thiền thì không chấp nhận niệm Phật vàngười
niệm Phật cũng không hứa khả tham thiền. Thiền Tôngcó ra Thiền
Quy: “Người nào nếu như niệm Phật một câu thìbị phạt gánh nước rửa
Thiền Đường và phải súc miệng bangày”. Cho thấy, tình hình nghiêm
trọng giữa Thiền và Tịnhkhông thể dung hòa với nhau được.Lúc bấy
giờ, Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ đề xướng“Thiền Tịnh Song Tu” và
dùng Tịnh Độ đánh vào môn đìnhcủa Thiền Tông. Thiền sư chủ trương,
cốt yếu của ngườiniệm Phật là tham thiền và cốt yếu của người
tham thiền làniệm Phật. Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ lúc bấy giờ
rất cótiếng tăm và cũng vì chủ trương Thiền Tịnh Song Tu cho nênmôn
nhơn tín đồ theo Thiền sư rất đông25. Theo Thiền sư,25 “Trung Quốc
Phật Học”, trang 194 nói rằng: “ Từ Vĩnh Minh Diên Tho ïtrở về
trước, Thiền Tông của Phật Giáo Trung Quốc diễn tiến đến Ngũ Gia
Tông Phái thì hưng khởi tột đỉnh; Pháp Nhãn là tông phái sáng lập
sau cùng trong Ngũ Gia mà Vĩnh Minh Diên Thọ là đệ tử truyền thừa
thứba và cũng là người chót hết của Pháp Nhãn Tông. Nguyên vì
Thiền dungthông bên Giáo Luật, nghĩa là các vị Thiền sư thời bấy
giờ đem giáomình và mọi người đều là Thiền giả cũng nên cấp
thiết thựchành niệm Phật. Thiền Tịnh Song Tu có bốn khoa đơn
giảnlàm phương châm và trong bốn khoa này, hai câu rất có danhtiếng
là: “Có Thiền có Tịnh Độ, dụ như cọp mọc sừng”26.Người tu hành
nếu thực tập tăng cường thêm tín niệm và giảithoát. Nhờ sự đề
xướng của Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ,Thiền Tịnh Song Tu được truyền |
thừa liên
tục cho đến ngàynay. Cũng vì lý do trên, Thiền Tông Trung Quốc có
thể nóitrở thành một thứ Thiền biến hóa ( Tham cứu chú thích
25).Người học niệm Phật đều căn cứ theo lời giải thích của Di Đà
Tịnh Độ: nên đọc Tịnh Độ Tam Kinh và nên xem các bộluận trước tác
có liên quan đến Tịnh Độ Tông. Tịnh Độ Tôngchọn Tín, Nguyện, Hạnh
làm căn bản và áp dụng Trì DanhNiệm Phật làm bí quyết cần thiết
cho việc tu tập, nguyên vìTrì Danh Niệm Phật là pháp môn đơn giản
dễ thực hành.Người bạn Ngô Duyên Hoàn thường hỏi: “Tín ngưỡng
chorằng, ngoài thế giới Ta Bà này có thế giới Cực Lạc tồn tại
vàtrong đó có đức Phật A Di Đà. Như vậy đâu chẳng phải làngoài
Tâm có Pháp hay sao và nó sẽ tương phản với DuyThức?” Lại hỏi
thêm: “Người niệm Phật quyết định tínngưỡng có cái ngã của Phật
để niệm và có cái ngã đễ vãngnghĩa của Luật Tông áp dụng vào
Thiền Tịnh để tu hành, cho nên môn đồcủa họ đều theo Tịnh Độ Tông
cả. Khi đến Pháp Nhãn Tông, Thiền Tôngbị thất truyền.”26 Vĩnh Minh
Thọ Thiền Tịnh Tứ Khoa Giản Kệ nói rằng: “Có Thiền màkhông Tịnh
Độ, mười người thì hết chín người lãng phí thời gian, âm cảnhbổnh
hiện ra trước mặt, nháy mắt bọn họ bị đọa theo âm cảnh kia;
khôngThiền nhưng có Tịnh Độ, vạn người tu thì vạn người vãng sanh,
mặc dùchỉ thấy được Phật A Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ? Có Thiền
và có TịnhĐộ, cũng như con cọp mọc thêm sừng, hiện thế là thầy
của mọi người,còn tương lai thì làm Phật Tổ. Không Thiền và cũng
không Tịnh Độ, cũngnhư nằm trên giường sắt nóng và ôm cột đồng
nóng, muôn kiếp và ngànlần sanh ra, luôn luôn mất hẳn chỗ nương
tựa.”93sanh Tây Phương, như vậy đâu chẳng là có ngã chấp
haysao?”Đáp rằng: “Tông này có cái nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ”. Cổnhân
nói rằng: “Sanh thì quyết định sanh, nhưng đi thì thậtchẳng có đi.” Di
Đà ở đây tức là chỉ cho Tự Tánh Di Đà, CựcLạc Quốc Độ cũng chẳng
lìa nơi tâm mà có. Vô Lượng ThọPhật Kinh lại nói: Cực Lạc Quốc
Độ là do bốn mươi tám lờinguyện của đức Phật A Di Đà tạo thành.
Trong đây tâmnguyện tức là chỉ cho Tâm và nhờ tâm nguyện nên mới
đượcthành tựu tức là chỉ cho duy tâm tạo nên. Đúng thế, TâyPhương
Tịnh Độ chính là do mọi người trong Tây PhươngTịnh Độ cùng nhau tạo
dựng và nó không thể có ngoài tâm,cho nên lý này không tương
phản với Duy Thức. Lại nữangười niệm Phật phải biết rằng, đức |
Phật A Di Đà
đã phátbốn mươi tám lời nguyện và nhờ nương nơi những lời
nguyệnđó tu hành nên mới thành tựu được Cực Lạc Tịnh Độ.Kết
luận, Tây Phương Tịnh Độ là do tám Thức thanh tịnhcủa Phật và của
các Bồ Tát, ..v..v.... cùng nhau biến hiện.Người niệm Phật cầu về
Tây Phương Tịnh Độ tất nhiên cũngphải có tâm lực của Tín, Hạnh,
Nguyện hòa hợp với bốnmươi tám lời nguyện của đức Phật A Di Đà
thì mới có thểvãng sanh và hưởng thọ được những điều khoái lạc
nơi cõi DiĐà Tịnh Độ kia. Người niệm Phật không thể đơn phương
chỉnương tựa nơi năng lực của đức Phật A Di Đà mà tự mìnhđược
hưởng thụ những hiện quả ở cõi đó. Ngoài ra, ngườiniệm Phật cũng
phải thông suốt tất cả giáo nghĩa của ĐạiThừa và của Tiểu Thừa,
như ngài Phổ Hiền của Hoa Nghiêm,như Đại Thế Chí của Lăng
Nghiêm,..v..v.... các Đại Bồ Tátđều hồi hướng về Tịnh Độ. Các bậc
Đại Tông Sư ở TrungQuốc là những kẻ phát nguyện vãng sanh đều minh
giải giáonghĩa thâm sâu, giác ngộ lý vô ngã, viễn ly các chướng
ngại94chấp trước và được vãng sanh. Họ sở dĩ nói có ngã chính
làgiả thuyết để cho thích hợp tùy theo chỗ tình cảm của chúngsanh,
nhưng không phải chấp trước cho là có thật ngã. Vả lạitrong Kinh
Quán Vô Lượng Thọ ( Thập Lục Quán Kinh ),hành giả phải tu mười
sáu pháp quán, quán đến khi nào ThếGiới Cực Lạc hiện ra trước
mắt là thành công và chừng đóhành giả sẽ được vãng sanh. Vấn đề
quán tưởng về mười sáupháp nói trên trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ
cũng là thểhiện lực lượng của Tâm! Nhân đây, hai chữ Duy Tâm
trongcâu “Nhứt thiết Duy Tâm” tức là chỉ cho nghĩa của Duy Thứcvậy.
Thế nên Tịnh Độ Di Đà theo nghĩa Duy Thức thì khôngthể có ngoài
tâm. Hơn nữa hai chữ Tịnh Độ trong câu “Vãngsanh Tịnh Độ” không nhứt
định là chỉ cho Tịnh Độ TâyPhương Cực Lạc, nguyên vì cõi Phật trong
mười phương đềugọi là Tịnh Độ cả. Duy Thức Học nói: Mỗi Đức Phật
có bathân và ba cõi, riêng ba cõi đây cũng gọi là Tịnh Độ. Tỷ
như,cõi của Đức Phật Dược Sư ở hướng đông và cõi của ngài DiLặc
ở Đâu Xuất cũng đều gọi là Tịnh Độ. Người học giáo lýDuy Thức
xưa nay phát tâm Đại Thừa đều nguyện sanh lênNội Viện của ngài Di
Lặc để chờ ngài tùy duyên tái sanh.Thế nên nghĩa của Tịnh Độ cũng
là tông chỉ của Duy Thức. |
E.- DUY THỨC HỌC VÀ LUẬT TÔNG: |
Chiếu theo
Phật Pháp, giới luật không nên lập tông pháiriêng, nguyên vì
không luận học Thiền, học Tịnh, học Giáo,không luận tăng già hay
thế tục, mọi người phàm là tín đồquy y Phật Pháp đều phải hiểu
rõ và hành trì giới luật. GiớiLuật là con đường đạo để làm
người, làm bậc siêu nhân vàcũng là để kiến lập Đại Từ Điển căn
bản của Phật Pháp. GiớiLuật không nên thiên lệch và phải nên
phổ biến tuân hành.Chỉ tại vào thời triều đại nhà Đường, Luật Sư
Đạo Tuyên ởnúi Chung Nham là người đạo đức, văn chương, trì luật
nổi95tiếng, có thể động đến thiên địa và cảm đến quỷ thần.27
Ngàinghiên cứu tinh thông luật học và dựa trên Tứ Phần LuậtTạng
chánh thức thành lập Luật Tông. Nổi bật hơn hết, LuậtSư Đạo Tuyên
là người thành công lớn nhất trong Phật GiáoSử Trung Quốc. Thật
ra, người đầu tiên hoằng dương Luật TứPhần chính là Luật Sư Trí
Thủ. Luật Sư Đạo Tuyên là đệ tửkế thừa. Đồng thời với Đạo
Tuyên, hai Luật Sư là Tướng BộPháp Lệ và Đông Tháp Hoài Tố cũng
hoằng truyền LuậtTạng. Cho nên người đời thường gọi Đạo Tuyên,
Pháp Lệ vàHoài Tố là ba Luật Gia đời Đường. Trong ba Luật Gia
này,chỉ Nam Sơn Luật của Đạo Tuyên nhờ lý do đặc biệt truyềnbá
không dừng.28 Ngài Đạo Tuyên nghiên cứu về Luật Họctinh tế và phi
thường, đồng thời trước tác sách cổ về LuậtTông gồm có năm Đại Bộ.29
Điểm đặc biệt của ngài ĐạoTuyên trong sự nghiên cứu tinh tế và
phi thường về Luật Họcnhư:“Thứ nhất, ngài kiến lập Hóa Giáo và
Chế Giáo ( cũnggọi là Hóa Giáo và Hành Giáo ):”“ |
a>- Hóa Giáo:
|
nghĩa là ngài dựa theo các kinh luận ĐạiThừa
và Tiểu Thừa, trong đó gồm có bốn bộ A Hàm,..v..v.....để chú thích
Pháp Môn Định Huệ.”27 Truyền thuyết cho rằng ngài Đạo Tuyên được
người và trời cảm mếnđến cúng dường ( Trích trong “Thiên Nhân Cảm
Thông Lục” ).28 Được thấy trong “Phật Giáo Các Tông Phái Nguyên
Lưu” ( thấy trong“Thái Hư Đại Sư Toàn Thư”, trang 805.29 Năm Đại Bộ:
1) Hành Sự Sao, 3 quyển2) Giới Sớ, 4 quyển.3) Nghiệp Sở, 4 quyển4)
Thích Ni Nghĩa Sao, 3 quyển5) Tỳ Kheo Ni Sao, 3 quyển.96“ |
b>-Chế Giáo:
|
nghĩa là
ngài cũng dựa theo các LuậtGiáo của Đại Thừa và Tiểu Thừa, trong
đó có Tứ PhầnLuật,..v..v..... để chú thích Pháp Môn Giới
Học.”“Ngày nay, Tông Bộ này tức là Luật Tạng Giáo, lấy Giớilàm
Tông, hành giới trong sạch và tu tập địng huệ. Theo LuậtSư Đạo
Tuyên, trước hết phải hành trì Giới Luật để cấm chếnghiệp tội
bên ngoài và sau đó phát huy Định Huệ để đoạndiệt phiền não bên
trong. Ngài chế định giới luật là vì đạomà không phải vì phước đức
thế gian. Thánh đạo của baThừa chỉ lấy giới luật làm căn bản và
giới luật là di giáo mộtthời của đức Như Lai nhằm mục đích phán
xét và nhiếp hóachúng sanh.”“Thứ hai, nhơn cơ hội này, Luật Sư Đạo
Tuyên dung hợpcả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Chỉ một bộ Luật Tứ Phần,
ngàiHuệ Quang cho là Đại Thừa, nhưng ngài Pháp Lệ và ngàiHuyền
Uẩn lại bảo là Tiểu Thừa. Riêng Nam Sơn Luật SưĐạo Tuyên nói
rằng, Giáo Nghĩa của bộ Luật Tứ Phần thìthông cả Đại Thừa. Cho
nên trong Nghiệp Sớ, ngài lập ranăm nghĩa để phân định sự dung
thông nói trên...” ( Thamcứu chú thích 15 ).Lại nữa, trong Sớ ngài
nói: Người thọ giới cốt yếu là đắcGiới Thể. Khi đắc Giới Thể,
người thọ giới mới đủ đạo lực đểtăng trưởng thiện pháp, để tu
tập Định Huệ. Nhưng Giới Thểđây nếu như không nghe được bằng tai,
không thấy đượcbằng mắt thì rốt ráo nó như thế nào?Thành Thật
Luận của Tiểu Thừa nói: Giới Thể là mộtloại pháp không phải sắc
và không phải tâm. Còn Hữu Bộnói: Giới Thể thì thuộc về Vô Biểu
Sắc, tức là Thọ Sở Dẫn97Sắc trong mười một Sắc Pháp của Duy Thức
Luận diễn giải.Nguyên nhân loại Sắc Pháp này không thể chỉ bày,
vì mắtkhông thể nhìn thấy, tai không thể nghe tiếng và nó đượcphát
sanh từ nơi thọ giới, nên gọi là Thọ Sở Dẫn Sắc GiớiThể. Người
khi thọ giới, sau bốn lần bạch pháp Yết Ma củađại đức Tăng Chúng
thì nhận được một thứ ấn tượng sâu sắcnơi tâm. Ấn Tượng này khi
đã thành một thứ tư lương trongtâm liền có năng lực khiến người
thọ trì giữ giới không phạmvà ấn tượng tư lương đó được gọi là
Giới Thể. Người thọ giới,một khi phạm giới thì giới thể bị phá
hoại. Giới Thể đâythuộc về loại Sắc Pháp, mắt không thể nhìn
thấy, tai khôngthể nghe tiếng và cũng không thể chỉ bày, nên gọi
là VôBiểu Sắc Giới Thể. Ngài Luật Sư Đạo Tuyên căn cứ nơi
ĐạiThừa Duy Thức Học cho Giới Thể của Thọ Sở Dẫn Sắc nóitrên
đồng nghĩa với Thọ Huân |
Trì Chủng
của Thức A Lại Da,nghĩa là Giới Thể của Thọ Sở Dẫn Sắc này tức
là một thứchủng tử chân tịnh được tàng trử trong Thức A Lại Da
thứtám. Nhờ chứa nhóm dần dần chủng tử chân tịnh này, GiớiThể
tiến hành tẩy trừ những điều ác, phát triển những điềuthiện và
khiến phát sanh hạt giống vô lậu. Qua sự giải thíchtrên đây, ý
nghĩa Giới Thể của Luật Tông cũng chính là ýnghĩa chủng tử của Duy
Thức và ý nghĩa này rất là thâm sâu.Vì ý nghĩa quan hệ với Duy
Thức Học qua sự trình bày trên,Luật Tông trở thành một tông phái
hoàn toàn thuộc ĐạiThừa. |
F.- DUY THỨC HỌC VÀ THIÊN ĐÀI
TÔNG: |
Thiên Đài là tên của một ngọn núi. Nguyên
do, Đại sư TríGiả đời nhà Tùy an trú nơi núi Thiên Đài hoằng dương
GiáoNghĩa của Thiền sư Huệ Tư và đồng thời kiến lập một họcphái
Giáo Quán gọi là Thiên Đài Tông. Tông Thiên Đài98thuyết minh bản
tánh đầy đủ ba ngàn lý, nên cũng gọi làTánh Cụ Tông. Đầu tiên
Tông Thiên Đài do hai ngài, một làngài Tuệ Văn đời Bắc Tề, hai là
ngài Huệ Tư Nam Nhạc đờinhà Tùy, hai vị cùng nhau khai sáng. Đại sư
Trí Giả đệ tử củaThiền sư Huệ Tư là người tổng hợp những giáo
nghĩa của haingài nói trên, cùng lúc căn cứ nơi Kinh Pháp Hoa, Kinh
NiếtBàn và Luận Đại Trí Độ thiết lập thành tông phái. Đại sưTống
Y Nhơn nói: “Giáo nghĩa chính yếu của Tông ThiênĐài thường sử dụng
như là, căn cứ nơi Kinh Pháp Hoa làmcốt tủy của tông phái, chọn
Luận Trí Độ làm kim chỉ nam, ynơi Đại Kinh ( Kinh Đại Niết Bàn ) để
hộ trì hệ phái, nươngtheo Đại Phẩm ( Kinh Đại Phẩm Bát Nhã ) làm
phương phápquán chiếu, tất cả không ngoài mục đích dẫn dắt mọi
giớităng trưởng tín tâm, dẫn các Kinh để trợ lực, thường lấy
cáctâm làm kinh, lấy các pháp làm tơ dệt, tổ chức thành bộ
pháisiêu quần, vượt ra ngoài các tông phái khác”. [30] Bao
nhiêucâu giải thích trên cũng đủ nói lên tổng quát về cương
yếucủa Tông Thiên Đài. Cương yếu của Tông Thiên Đài thìkhông đồng
quan điểm với các tông phái khác. Địa vị củaTông Thiên Đài sở dĩ
được tồn tại là nhờ nương nơi lý tánhcủa các kinh luận nói trên.
Ngoại trừ Kinh Pháp Hoa đíchthực là yếu tố cốt cán duy nhất của
Tông Thiên Đài phát huy. |
1.- Địa Vị Duy
Thức Trong Phán Giáo: |
Tông Thiên Đài sử dụng 5 Thời và 8 Giáo để
phê phántoàn bộ Phật Pháp. Xin trình bày sơ lược qua một vài quan
hệvới Duy Thức của Tông Thiên Đài . Vấn đề Hóa Pháp TứGiáo là
một trong những giáo nghĩa của Tông Thiên Đàiđược đề cập trước
hết. Hóa Pháp Tứ Giáo gồm có bốn lãnhvực như là Tạng Giáo,
Thông Giáo, Biệt Giáo và Viên Giáo.99 |
a>- Tạng Giáo: |
Tạng Giáo cũng gọi là Tam Tạng Giáo. Hạnh
Quả củaTạng Giáo sở dĩ được kiến lập là căn cứ nơi Phẩm
HiềnThánh của Câu Xá30để phân vị. Lý do, Tạng Giáo phần lớnđều
giảng pháp thuộc Tiểu Thừa, như Kinh A Hàm nói vềpháp quả của
Thinh Văn và Duyên Giác. Thêm nữa, PhẩmHiền Thánh của Luận Câu
Xá thường trình bày thứ bậc thuộcHạnh Quả của sự đoạn hoặc chứng
chơn. Năm ngôi vị củaPháp Tướng Duy Thức, nếu như so sánh với Phẩm
HiềnThánh của Luận Câu Xá, tuy Hạnh Quả không giống nhau,nhưng
cũng không khác nhau về danh vị. Vả lại trong KiếnĐạo, Cảnh Tướng
Duyên An Lập Đế Thập Lục Tâm..v..v.....cũng đều căn cứ nơi Phẩm
Hiền Thánh của Luận Câu Xá đểthiết lập, thường gọi là Pháp Môn
Tứ Hướng Tứ Quả..v..v.... |
.b>- Thông Giáo: |
“Thông nghĩa là giống nhau. Ba Thừa bẩm tánh
thì giốngnhau. Giáo nghĩa đây thuyết minh nhân duyên tức là
không,nguyên lý của bốn chân đế là vô sanh, là pháp môn sơ
cấpcủa Ma Ha Diễn ( Đại Thừa ). Thật sự, bậc Bồ Tát đều
thôngsuốt cả Nhị Thừa”31Từ nơi nguyên lý trên, Thông Giáo làgiáo
lý dung thông chung cho cả ba Thừa, hoặc giáo lý cócông dụng làm
lợi ích chung cho những người trong ba Thừa,như A Hàm, Bát Nhã và Bồ
Tát Hạnh đều thuộc về ThôngGiáo cả. |
c>- Biệt Giáo: |
Biệt Giáo
là giáo lý không quan hệ với Nhị Thừa. Nhưnói: “Biệt tức là không
chung cùng, nghĩa là người nói pháp30 Được thấy trong “Phật Giáo
Các Tông Phái Nguyên Lưu”31 Được thấy trong “Thiên Đài Tứ Giáo Nghi
và Hoa Nghiêm Giáo NghĩaChương”, quyển 2.100không quan hệ chút nào
đến ba Thừa”. “Giáo lý Biệt Giáo làgiáo lý thuyết minh giả danh
của nhân duyên và nguyên lývô lượng của bốn chân đế.” Biệt Giáo
ở đây là chỉ trình bàyđịa vị thứ bậc tu hành của Bồ Tát Thừa trở
lên, gồm nói rõ 52ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh. 52 ngôi vị như
là Thập Tín,Trập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
ĐẳngGiác và Diệu Giác. Hạng Thinh Văn đối với giáo lý BiệtGiáo
của Bồ Tát Thừa thì hoàn toàn không biết đến, giốngnhư người đui
và điếc. Những địa vị thứ bậc tu hành của BồTát Thừa trên đây,
bên Duy Thức lại căn cứ nơi Kinh HoaNghiêm làm chỗ nương tựa để
thành lập. |
d>- Viên Giáo: |
Chữ Viên nghĩa là không biến đổi. Đây là
giáo lý tối caocủa Tông Thiên Đài. “Viên Giáo chính là thuyết minh
rõràng và đầy đủ sự lý không biến đổi, không sai khác về vấnđề
không thể nghĩ bàn của Nhân Duyên và Trung Đạo củaNhị Đế. Giáo lý
của Viên Giáo chỉ trừ những bậc lợi căn tốithượng mới có thể
thông đạt đến”.32Như Kinh nói: “Tất cảchúng sanh đều có Phật Tánh,
chúng sanh và chư Phật thật sựkhông phải là hai, nhiễm và tịnh đều
viên dung với nhau mộtcách tự tại.” Từ đó cho thấy, thể tánh của
các pháp thì đầy đủđạo lý viên dung. Còn giáo nghĩa của Duy Thức
lại căn cứnơi thâm mật của ba Thời Giáo nói trên để phê phán,
cho nêncũng tương đương với Thông Giáo của Tông này, nghĩa làgiáo
nghĩa của Duy Thức sử dụng Thông Giáo để trình bàyba Thừa. Kinh
Giải Thâm Mật nói rằng: Kinh Hoa Nghiêm làbộ kinh phát huy chỉ thú
của tất cả Thừa. Thiền Tông thì cũng thuộc về loại Biệt Giáo.
Kinh Hoa Nghiêm lại dùng32 Được thấy trong “Thiên Đài Tứ Giáo Nghi
và Hoa Nghiêm Sớ Sao”,quyển 3, trang 77.101Biệt Giáo để trình bày Viên
Giáo. Riêng Kinh Pháp Hoa thì hoàn toàn thuộc về Viên Giáo. |
2.- Tam Quán, Tam Đế và Tam Tánh, Nhị ĐếCủa
Duy Thức: |
Học lý đặc
biệt của Tông Thiên Đài là Nhứt Tâm Tam Quán. Nhứt Tâm Tam Quán
nghĩa là tùy theo một niệm độngnào, hoặc tùy theo Tâm duyên một
pháp nào, Tâm ngay lúcđó không lìa đương niệm. Mỗi lần nhứt Tâm
thì phải đầy đủTam Quán ( ba pháp quán ) ở trong. Tam Quán gồm
có:Không Quán, Giả Quán và Trung Đạo Quán. Mỗi một phápđều có
thể vận dụng ba pháp quán nói trên để quán sát. Chỉcốt yếu ở
chỗ, Tâm khi khởi lên một niệm thì phải thể hiệncùng lúc gồm đủ
cả ba pháp quán này. Trung Luận nói:“Nhân duyên là nơi để sanh ra
các pháp, ta nói các pháp tứclà nói không, cũng gọi là giả danh,
cũng gọi là nghĩa trungđạo.”33 Nhứt Tâm Tam Quán chính là tư tưởng
thâm áo củaTông Thiên Đài. Ngày nay, Tam Quán theo phổ thôngthường
gọi là ba thứ nhận thức. Mỗi một pháp đều có ba nhậnthức về
phương diện Không, Giả và Trung Đạo. Nếu như dựatheo ba pháp quán
nói trên, ba Đế cũng được giải thích nhưsau: mỗi một pháp đều có
đủ ba Đế. Ba Đế gồm có: “TụcĐế, Chân Đế và Trung Đế.” Quán các
pháp đều không (Không Quán ) là chỉ cho Chân Đế. Quán các pháp
đều giảhợp ( Giả Quán ) là chỉ cho Tục Đế. Còn quán Không và
Giảkhông hai (Không Giả bất nhị quán), nghĩa là quán thật tướngcủa
các pháp thuộc loại Chân ( Không ) và quán thật tướngcủa các
pháp thuộc loại Tục ( Giả ), cả hai đều viên dung vớinhau một cách
không ngăn ngại, nên gọi là Trung Đế. Những33 Được thấy trong
“Trung Luận Tụng”.102pháp quán này cần nên quán với lập trường
khách quan thìmới thể hiện được diệu nghĩa của Trung Đạo.Tam Quán
và Tam Đế vừa trình bày, nếu như phối hợpvới Duy Thức thì có thể
dung thông không ngăn ngại nhau.Sự dung thông này được so sánh qua
hình thức bản đồ tiêubiểu sau đây:103Theo phương diện Chân Đế,
những pháp thuộc về BiếnKế Sở Chấp Tánh thì hoàn toàn không có
thật thể, nên quánsát chúng nó đều thuộc về loại Không. Theo
phương diệnTục Đế, những pháp thuộc về Y Tha Khởi Tánh do bởi
nhânduyên sanh, nên quán sát chúng nó đều thuộc về loại Giả
Có.Nếu đứng trên lập trường Chân và Giả không hai, thật tướngcủa
các pháp thuộc về Viên Thành Thật Tánh, nên quán sátchúng nó
đều là Trung Đạo. Người nào thông suốt được lý lẽ này thì có thể
đạt đến chỗ dung thông một cách không ngăn ngại vậy. |
3.- Một
Niệm Ba Ngàn và Muôn Pháp DuyThức: |
Một niệm ( nhứt tâm ) nghĩa là chỉ có một
thứ tâmniệm, hoặc chúng ta chỉ phát khởi một thứ Ý Thức.
TôngThiên Đài giải thích chỉ trong một tâm niệm thì có đầy đủcả ba
ngàn chư pháp và ba ngàn chư pháp không lìa khỏi mộttâm niệm này.
Ba ngàn nghĩa là trong mười ( 10 ) Pháp Giới (4 bậc Thánh và 6 bậc
Phàm ), mỗi một pháo giới đều có chín( 9 ) cõi ở trong. Nếu như
tính luôn Thế Giới Chân Như làmột cõi trong 9 cõi, tất cả hợp lại
thành 100 Pháp Giới ( 10 x10 = 100 Pháp Giới ). Hơn nữa, mỗi một
Pháp Giới đều thểhiện mười Như Thị ( 10 Như Thị ). Như Thị nghĩa là
Như ThịTướng ( hình tướng như thế ), Như Thị Tánh ( tánh chất nhưthế
), Như Thị Thể ( bản thể như thế ), Như Thị Lực (năng lực như thế ),
Như Thị Tác ( sự tác dụng như thế ), NhưThị Nhân ( nguyên nhân như
thế ), Như Thị Duyên ( quan hệnhư thế ), Như Thị Quả ( kết quả như
thế ), Như Thị Báo (báo ứng như thế ), Như Thị Bổn Mạt Cứu Cánh (
gốc và ngọnđến cứu cánh đều cũng như thế ),..v..v.... Mỗi một
Pháp Giớiđều có 10 Như Thị và tính chung 100 Pháp Giới thì có
1.000Như Thị. Thêm nữa, mỗi một Như Thị thì bao gồm ba phần:Chánh Báo
( chúng sanh ), Y Báo ( quốc độ ) và năm Ấm. Từđó, một ngàn ( |
1000 ) Như Thị
thì bao hàm ba ngàn Pháp (3000 Pháp ) ở trong, thường gọi là Ba Ngàn
Chư Pháp. BaNgàn Chư Pháp và một trăm Pháp Giới đều có đủ trong
mọâtniệm. Những thứ đạo lý này cùng với đạo lý Vạn Pháp DuyThức
thì đồng xướng lên một điệu như nhau. Kinh HoaNghiêm nói: “Người nào
muốn biết rõ tất cả chư Phật trong105ba đời, nên quán thể thánh
của pháp giới thì ngộ được hếtthảy đều do tâm tạo.” Nói chung, Duy
Tâm của Duy Thức vàNhứt Tâm của Tông Thiên Đài, cả hai đều giống
nhau khôngkhác. |
4.- Tánh Cụ và A Lại Da Duyên Khởi: |
Pháp Môn Tánh Cụ của Tông Thiên Đài giảng
là “MộtNiệm Ba Ngàn, Một Tâm Ba Quán, Một Pháp Ba Đế, tất
cảkhông lìa khỏi Tánh. Tánh ở đây là chỉ cho Thể Tánh. ThểTánh
của tất cả pháp vốn sẵn có nên gọi là Tánh Cụ. PhápMôn Tánh
Cụ so sánh với thuyết Chủng Tử của tất cả phápvốn sẵn có của
Duy Thức chủ trương thìnghĩa tương tợ với nhau. Như thuyết Như Lai Tạng
DuyênKhởi của Tánh Cụ giải thích thì cũng giống với thuyết A LạiDa
Duyên Khởi của Duy Thức thành lập. Chủng Tử của tấtcả pháp đều
chứa trong Thức A Lại Da thì cũng giống như Lýcủa tất cả pháp là
Tánh Cụ, nếu như phân tích thì cả hai đềudung thông với nhau. Như Lai
Tạng của Chân Như thườngnương nơi mê và ngộ. Như Lai Tạng nếu như
nương nơi mêthì bị sanh tử và nếu như nương nơi ngộ thì chứng quả
NiếtBàn. Đặc điểm huân tập của Thức A Lại Da thì cũng có hailoại,
một loại lưu chuyển và một loại hoàn diệt, nghĩa là từvô thỉ đến
nay, tất cả chủng tử của các pháp huân tập trongThức A Lại Da
cũng có hai loại, một loại thuộc về nhiễm vàmột loại thuộc về
tịnh. Thức A Lại Da nếu như huân tậpnhững chủng tử thuộc loại
nhiễm thì bị lưu chuyển trongphiền não sanh tử, còn nếu như huân tập
những chủng tửthuộc loại tịnh thì được hoàn diệt để thành Bồ Đề
Niết Bàn.Tông Thiên Đài dùng thuyết Tánh Cụ thì cũng giống nhưDuy
Thức dùng thuyết Chủng Tử. Thuyết Chân Như của106Tông Thiên Đài
tức là thuyết Thật Tánh của Duy Thức, cảhai hoàn toàn không khác
nhau. |
5.- Lục Tức và Duy Thức Vị: |
Tông Thiên
Đài ngoài vấn đề giảng giải hệ thống HạnhVị của Tứ Giáo lại còn
trình bày riêng về thuyết Lục Tức.Lục Tức nghĩa là sáu ngôi vị tu
chứng của Bồ Tát, từ phàmphu đến quả Phật. Lục Tức của Tông
Thiên Đài so sánh vớinăm ngôi vị Hạnh Quả của Duy Thức thì giống
nhau. Sư sosánh này được trình bày như sau:*> Thứ nhất, ngôi vị
“Lý Tức” và ngôi vị “Danh Tự Tức”thì cũng giống như “Tự Tánh Niết
Bàn” của Duy Thức vàcũng chính là “Chủng Tánh Sẵn Co”ù của phàm
phu.*> Thứ hai, ngôi vị “Quán Hạnh Tức” thì cũng giống như“Tư Lương
Vị” của Duy Thức.*> Thứ ba, ngôi vị “Tương Tợ Tức” thì cũng giống
như“Gia Hạnh Vị” của Duy Thức.*> Thứ tư, ngôi vị “Phần Chứng Tức”
thì cũng giống như“Thông Đạt Vị” và “Tu Tập Vị” của Duy Thức.
“PhầnChứng Tức” nghĩa là phần chứng của Thập Địa.*> Thứ năm,
ngôi vị “Cứu Cánh Tức” thì cũng giống như“Cứu Cánh Vị” của Duy
Thức. “Cứu Cánh Vị” là ngôi vị tuchứng của Bồ Tát đã đạt đến hai
quả Chuyển Y và tất cả đềuđược viên mãn. |
G.- DUY THỨC HỌC VÀ HIỀN THỦ TÔNG: |
Hiền Thủ Tông cũng được gọi là Hoa Nghiêm
Tông. Đầutiên, Hiền Thủ Tông là tên của người dùng để đặt danh
hiệucho một tông phái. Về sau, Tông này được thay thế tên củamột
bộ Kinh. Đại sư Hiền Thủ nguyên tên là Pháp Tạng,người cùng thời
với ngài Huyền Trang. Tông Hiền Thủ do haingài, một là ngài Đỗ Thuận,
hai là ngài Trí Nghiễm cùngnhau khai sáng. Tông này truyền đến ngài
Hiền Thủ thì mớiđược hoàn thành. Cho nên người đời thường gọi là
Hiền ThủTông để kỷ niệm tên ngài. Về sau có Đại sư Trừng
Quán,pháp hiệu Thanh Lương phát huy tư tưởng của Tông HiềnThủ qua
tác phẩm bộ Hoa Nghiêm Sớ Sao do ngài sáng tác.Do đó có chỗ gọi
Tông Hiền Thủ là Thanh Lương Tông.Tông Hiền Thủ thiết lập Năm
Thời Giáo để phê phán toànbộ thời đại Phật Giáo. Năm Thời Giáo
gồm có: Tiểu Giáo,Thỉ Giáo, Chung Giáo, Đốn Giáo và Viên Giáo. |
1)- Tiểu Giáo:
|
là giảng
kinh A Hàm của TiểuThừa,..v..v.... thuộc về Tạng Giáo của Tông
Thiên Đài. |
2)- Thỉ Giáo: |
cũng gọi
là Phần Giáo. Thỉ Giáo gồm cóDuy Thức và Bát Nhã. Phần Giáo nghĩa
là “Chọn Thời Giáothứ hai và thứ ba của Thâm Mật đều cho là
thuộc định tánhNhị Thừa không thể thành Phật, nay hợp chung nhau lại
gọilà Nhất Phần Giáo. Nhất Phần Giáo là giáo lý thấp nhất
củaĐại Thừa nên gọi là Sơ và cũng vì có người không thể
thànhPhật nên gọi là Phần.” Vấn đề Có và Không của Thỉ Giáocũng
chính là giáo lý của Bát Nhã. Còn sự tướng của ThỉGiáo cũng gọi
là Pháp Tướng Giáo. |
3)- Chung Giáo:
|
cũng gọi là Thật Giáo. Chung Giáo gồmcó các
kinh như Lăng Già, Mật Nghiêm,..v..v..... Chung Giáo108nghĩa là “Định
Tánh Nhị Thừa, nếu như không có tánh XiểnĐề thì lẽ tất nhiên có
thể thành Phật, và nhơn đó mới nói đếngiáo lý rốt ráo của Đại
Thừa, nên gọi là Chung Giáo. Giáo lýChung Giáo nhờ hợp với thật
lý nên gọi là Thật.” |
4)- Đốn Giáo:
|
“Một niệm không sanh tức gọi là Phật.”Từ
câu đó Đốn Giáo nghĩa là lời nói tuyệt đối, lời nói hiểnbày lý
tánh tuyệt đối và lý tánh đây không phải căn cứ nơiđịa vị thứ
bậc nên gọi là Đốn. Đốn Giáo gồm có Thiền Tôngở trong |
.5)- Viên Giáo:
|
“Thuyết minh một đơn vị tức là nói đếntất cả
đơn vị và nói đến tất cả đơn vị tức là trong đó bao gồmcó một đơn
vị.” Viên Giáo trong đó có kinh Hoa Nghiêm.Viên Giáo nghĩa là “căn
cứ nơi Pháp Giới của ngài Phổ Hiền,lưới Đế Châu của Trời Đế
Thích giăng mắc khắp chốn cùngnơi, nhiều lớp trùng trùng điệp
điệp, chủ và bạn đầy đủ ởtrong, nên gọi là Viên Giáo.”34Trong
đây để thích ứng với triđạo, Đại sư Hiền Thủ liền lấy tánh chất
giáo nghĩa của DuyThức |
để thành
lập mười Tông. Mười Tông của Hiền Thủ vàtám Tông của Duy Thức
phối hợp như thế nào hãy xem quabản đồ tiêu biểu sau đây sẽ rõ. |
|
a]- Mười Tông của Hiền Thủ và tám Tông
củaDuy Thức: |
Trong “Hoa Nghiêm Sớ Sao”, quyển 4, bàn luận
về 5 Thời Giáo phần nhiều dẫn chứng các văn. |
Sự kiến lập mười Tông và tám Tông là một
phương phápphê phán Phật Học và còn là một đặc điểm lập luận sơ.trường
của các Tông. Giáo nghĩa của mười Tông ở đây khôngcó thì giờ để
giải thích. |
Đại sư Hiền Thủ là người cùng thời với ngài
HuyềnTrang và ngài Khuy Cơ. Đầu tiên, Đại sư Hiền Thủ tham dựvào
hội trường phiên dịch của ngài Huyền Trang với nhiệmvụ là kiểm
chứng giáo nghĩa của các Kinh. Về sau, vì ý kiếnkhông hợp nhau nên
Đại Sư ra ngoài tự mình chuyên lohoằng dương giáo nghĩa của Kinh Hoa
Nghiêm. Đại Sưkhông những phát huy giáo nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm
màlại còn kế thừa và phát huy quang đại học thuyết của ĐỗThuận
và của Trí Nghiễm. Chẳng những thế, Đại Sư cũng cónhận thức về
học thuyết của Duy Thức. Xưa nay, các triết giaDuy Thức phê phán
thời đại Phật Giáo ở Ấn Độ chỉ |
có támTông.
Đại sư Hiền Thủ lại căn cứ nơi Tông Duy Thức thứ támdiễn giải và
chuyển hóa thành ba Tông. Cộng thêm ba Tôngchuyển hóa từ nơi Duy
Thức, Đại sư Hiền Thủ lập thànhmười Tông. Giáo nghĩa mười Tông
phái này được thấy giảithích trong Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa
Chương. |
b]- Học Giả Hiền Thủ phần đông thực tập
DuyThức: |
Năm Giáo Nghĩa của Tông Hiền Thủ và bốn
Giáo Nghĩacủa Tông Thiên Đài đều là tinh hoa của Phật Giáo
TrungQuốc. Các học giả thuộc gia phả của Tông Thiên Đài trải
quacác thời đại, đa số đều căn cứ theo và tùy thuộc vào giáonghĩa
của Kinh Pháp Hoa, của Kinh Bát Nhã, của Luận TríĐộ, ngoài ra rất
ít người đề cập đến danh loại của PhápTướng Duy Thức. Còn các học
giả của Tông Hiền Thủ, kể từngài Pháp Tạng trở về sau và cho
đến cận đại, đều nghiêncứu thâm sâu Pháp Tướng Duy Thức. Chúng ta
thử đọc các112trước thuật của các Tổ, của các Đại Đức trở xuống
thuộcTông Hiền Thủ đều nhận thấy các ngài rộng bàn rất có
mạchlạc và rất có thứ tự về nguyên lý của Pháp Tướng Duy
Thức.Chúng ta có thể nhận thấy rằng Tông Thiên Đài thì rất gầnvới
Pháp Tánh của Bát Nhã, còn Tông Hiền Thủ thì rất gầnvới Pháp
Tướng của Duy Thức.Ngoài ra, Kinh Hoa Nghiêm cũng là một trong sáu
bộkinh của Duy Thức được dùng làm tông chỉ. Kinh này nói:“Ba cõi
đều do tâm tạo” và lại nói: “Tâm cũng như họa sĩ vẽlên vạn pháp
trong thế gian”. Những tư tưởng này đều là yếunghĩa của Duy Thức.
Lại nữa, Bồ Tát Hạnh của Duy Thứcchủ trương là y cứ nơi Phẩm Thập
Địa ( hoặc Thập ĐịaLuận ) của Kinh Hoa Nghiêm để thành lập. Chẳng
những thế,Tông Thiên Đài thì có Tánh Cụ Pháp Môn, còn Tông
HiềnThủ thì lại nương nơi Phẩm Tánh Khởi của Kinh Hoa Nghiêmđể giải
nghĩa “ Tâm mỗi khi phát khởi một pháp giới tánhnào thì cũng đầy
đủ cả mười đức ở trong”. Từ ý nghĩa đó,Tông Hiền Thủ thành lập
Tánh Khởi Pháp Môn ( ThậpHuyền Duyên Khởi hoặc Pháp Giới Duyên
Khởi ). Những lờigiải thích đây của Tông Hiền Thủ nếu như so sánh
với lýthuyết Pháp Tướng Duyên Khởi của Duy Thức thì cũng dungthông
với nhau. Thanh Lương Sớ Sao nói: “Lành thay ChânGiới, vạn pháp là
tài sản đầu tiên của người”. Chân Giới tứclà chỉ cho vạn pháp. Ở
đây, chủng loại các pháp |
trong
phápgiới, nếu như nhận thức về thể chung thì tất cả đều từ nơiTâm
nói trên sanh ra cả. |
c]- Duy Thức Học của Hiền Thủ: |
Ngài Hiền Thủ căn cứ nơi các kinh luận như Du
Già, TạpTập, Thâm Mật, Lương Nhiếp Luận,..v..v.... trước thuật
nhiều113bộ luận để bàn rộng về Duy Thức. Như Nhất Thừa GiáoNghĩa
Chương, quyển 9, giải thích rõ các giáo lý nói về sự saibiệt trong
mười môn: |
1)- Chỗ Nương Tựa của Tâm Thức: |
căn cứ nơi Kinh GiảiThâm Mật,..v..v..... giải
thích tám Tâm Thức và ý nghĩa huântập của A Lại Da. |
2)- Nghĩa Sai Biệt của Chủng Tánh: |
căn cứ nơi
HiểnDương, Du Già, Lương Nhiếp Luận,..v..v.... nói về ý nghĩaVốn Sẵn
Có, nói về ý nghĩa Huân Tập Thành Chủng Tử, nóivề ý nghĩa Năm
Thứ Chủng Tánh. |
3)- Hạnh Vị Sai Biệt: |
căn cứ nơi Lương Nhiếp Luận, DuGià,..v..v...
nói về Sự Chọn Lựa... cho đến môn thứ 6. |
4)- Nghĩa Phần Đoạn Hoặc Đầy Đủ |
( Môn thứ 6
): căncứ nơi Câu Xá, Du Già, Tạp Tập làm luận chứng.... và
còncác môn khác nữa.Nghĩa tổng quát của mười môn có chỗ bàn
luận đến đềulà dẫn dụ từ nơi các bộ luận của Du Già và Duy
Thức. Ở đâychúng tôi không thể tường thuật đầy đủ chi tiết, các
học giảcó thể tự mình thâm cứu thêm thì sẽ thấy được diệu
nghĩachân thật muôn trùng của nó.114115 |
H.- DUY THỨC HỌC VÀ TAM LUẬN
TÔNG: |
Tam Luận
Tông cũng gọi là Tứ Luận Tông hoặc gọi làPhá Tướng Tông. Chữ
Tướng ở đây là chỉ cho Pháp Tướng.Phá Tướng nghĩa là phá trừ sự
chấp trước đối với các PhápTướng. Phá Tướng còn có nghĩa khác
nữa là đối với chỗkhông liễu nghĩa nơi giáo lý của Pháp Tướng Duy
Thức thêmý tứ phê phán vào. Tam Luận là căn cứ nơi “Vô Sở Đắc”
và“Duyên Khởi Tánh Không” của các bộ Kinh Bát Nhã đểthành lập
tông phái. Tông Tam Luận không lập một pháp nàocả, nhằm mục đích
đả phá toàn bộ quan niệm CÓ vàKHÔNG để hiển bày chân lý TRUNG
ĐẠO DUYÊN KHỞI.Nguyên do, Tông này thuyết minh ý nghĩa Duyên Khởi
tức làTánh Không, Tánh Không tức là Trung Đạo và Trung Đạocũng
tức là nghĩa Bát Nhã. Bát Nhã là Huệ Vô Phân Biệt vàcũng gọi
là Trí Vô Sở Đắc. Hành giả một khi quán sát cầnphải sử dụng Huệ
Vô Phân Biệt để nhận thức tánh khôngphân biệt hiện tiền của các
pháp. Cho nên Đại Sư Thái Hưgọi Tông này là Pháp Tánh Không Huệ
Tông. Giáo lý củaTông Tam Luận chủ trương so với học thuyết của
Duy Thức,cả hai lập trường không giống nhau và quan điểm cũng
khácnhau. Cho nên trong hai Tông này, mỗi học phái có chỗ saibiệt
nhau của nó. Như học thuyết Trung Đạo Nhị Đế, vì lậptrường không
giống nhau, cho nên mỗi mỗi kỳ thị nhau vàmỗi mỗi phủ nhận nhau.
Điều đặc biệt, nghĩa Trung Đạo củaDuyên Khởi tức là Tánh Không nơi
Tông Tam Luận cùng vớinghĩa Trung Đạo của Viễn Ly Nhị Biên nơi Duy
Thức mặc dùsai biệt nhau, nhưng cũng có chỗ dung thông với nhau.
Vấnđề trên đây sau này sẽ thuật lại, hôm nay trước hết xin
trìnhbày giáo nghĩa củaTông Tam Luận:116 |
1.- Giáo Nghĩa Tam Luận Tông: |
a)- Phán Nhiếp Phật Pháp ( Phê phán về Phật
Pháp) |
Phật Pháp của Tông Tam Luận có thể chia làm
ba điểm: |
*> Bánh xe pháp căn bản của Tông này là
hướng về KinhHoa Nghiêm. |
*> Bánh xe pháp chi nhánh của Tông này là
giảng KinhA Hàm và Kinh Bát Nhã. |
*> Bánh xe
pháp thay thế chi nhánh quy về căn bản củaTông này là giảng Kinh
Pháp Hoa.35Duy Thức và Bát Nhã đều thuộc về bánh xe pháp chinhánh,
nhằm phát huy giáo nghĩa thâm mật của Kinh LăngGià và Bát Nhã. |
b)- Phá Tà Hiển Chánh ( Đả phá tà pháp để
hiển bàychánh pháp ) |
Tông chỉ căn bản của Tông Tam Luận là “Phá
Tà hiểnchánh”. Về phương diện phá tà, Tông này chủ trương: một
làđả phá quan niệm chấp trước của ngoại đạo cho rằng có ngãthật
và pháp thật. Như Bách Luận chính là bộ luận đả phá sựchấp trước
của ngoại đạo cho rằng có Thiên Thần,..v..v.... vàcũng đả phá sự
chấp trước một bên của Tiểu Thừa. Hai là đả phá quan niệm chấp
trước của Tiểu Thừa cho rằng có ngãpháp thật sự, đặc biệt đối với
sự chấp trước về thật pháp của Hữu Bộ và của Đại Thừa Duy Thức.
Như Trung Luận chính là bộ luận đả phá sự chấp một bên của Tiểu
Thừa và của ngoại đạo |
(35 Phật Giáo Các Tông Phái Nguyên Lưu).. |
Ba là đả phá quan niệm chấp trước về
ThiênKhông của Thành Thật Luận. Cái Không của Thành ThậtLuận quan
niệm không giống như cái Không tròn đầy và biếnkhắp pháp giới
của Tam Luận chủ trương. Cho nên cáiKhông của Thành Thật Luận được
gọi là Thiên Không. Phátà pháp để hiển bày chánh pháp là yếu
chỉ của Tông TamLuận. Về phương diện hiển bày chánh pháp, giáo
nghĩa củaTông này cũng phân làm ba loại: |
1>- Nghĩa Vô Sở Đắc: |
( ý nghĩa
không có chỗ chứng đắc)Nghĩa lý toàn bộ Kinh Bát Nhã từ xưa đến
nay đều nằmtrong phương pháp quy nạp cho nên mang ý nghĩa Vô SởĐắc.
“Vô Sở Đắc” tức là yếu chỉ nói rằng không có một phápnào được
thiết lập cả. Đặc biệt nơi pháp Huệ Học TánhKhông của Phật Pháp
nếu như có chỗ chứng đắc thì khôngphải cứu cánh. Vì lý do đó, Kinh
Bát Nhã nói: Vô Đắc ChánhQuán. Chữ Quán nghĩa là quán sát hoặc
là nhận thức. Trí BátNhã sử dụng để quán chiếu pháp không thì pháp
khôngkhông có tự tánh để chứng đắc. Trí Bát Nhã hiểu biết |
chínhxác như
thế gọi là Vô Đắc Chánh Quán. Nhờ Chánh Quáncủa Trí Vô Đắc, sự
kiến chấp đối với Phật Pháp và Phi PhậtPháp thì mới có khả năng
phê bình và phán đoán thêm nữa.Vả lại Chánh Quán của Trí Vô Đắc
là thuộc về loại Trí cănbản, cho nên có thể chứng trực tiếp được
Nhị Không ChânNhư. Nhị Không Chân Như nghĩa là cảnh giới năng và
sở, cảhai đều không còn nữa. Cũng nhờ Chánh Quán của Trí Vô
SởĐắc, Đạo Bồ Đề mới có thể chứng đắc và Chân Như ThậtTướng
mới có thể hiển bày. Cho nên Tâm Kinh nói rằng: “Vìkhông có chỗ
chứng đắc, các vị Bồ Tát nhờ nương theo BátNhã Ba La Mật Đa, cho
nên Tâm không bị chướng ngại. Tâmvì không bị chướng ngại nên không
có sợ hãi, xa lìa mọi118mộng tưởng điên đảo, đạt đến Niết Bàn
tuyệt đối. Các đứcPhật trong ba đời cũng do nương nhờ Bát Nhã Ba La
Mật Đađều được chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.Ý nghĩa
đây đã được Kinh Bát Nhã giải thích rất sâu rộng. |
2>-Nghĩa Duyên Khởi Tánh Không: |
( ý nghĩa tánh duyên khởi đều không )Kinh Bát
Nhã đặc biệt thuyết minh nghĩa “Vô Sở Đắc” làmục đích chỉ cho những
gì không có chỗ chứng đắc? TheoKinh Bát Nhã, Duyên Khởi Tánh Không
đích thực là một loạichú thích cho vấn đề không có chỗ chứng đắc.
Đại ý TamLuận của ngài Long Thọ đặc biệt là thuyết minh TánhKhông,
cho nên sử dụng ý nghĩa “Vô Sở Đắc” trong Bát Nhãđể giải thích
vấn đề Duyên Khởi Tánh Không. Như bài Tụngcủa Trung Luận nói
rằng: “Các pháp đều do nhân duyênsanh, ta nói tức là không”. Ý
nghĩa chữ “Không” là không cóchỗ chứng đắc. Còn ý nghĩa của hai
chữ “Nhân Duyên” làđiều kiện hoặc quan hệ. Chẳng hạn, một giống
nào đó đãquan hệ thì sau này có thể sanh ra phẩm vật của giống
đó.Vạn hữu vũ trụ, Chúng sanh và Phật pháp, tất cả đều do
nhânduyên sanh, cho nên nói đến duyên sanh cũng là nói đến
hiệntượng giới. Hiện tượng giới đã là duyên sanh thì không có
tựtánh và không có tự tánh nên gọi là không, đã là không
thìkhông có chỗ chứng đắc. Không có chỗ chứng đắc tức làduyên
sanh, duyên sanh tức là tánh không, tánh không tức làtrung đạo,
trung đạo tức là bát nhã chánh quán, bát nhãchánh quán tức là
duyên khởi của |
không tự
tánh. Đây là ýnghĩa thâm sâu về cái Không của Bát Nhã Tam Luận36
vàcũng là đặc điểm của Tam Luận thuyết minh.36 Thập Nhị Môn Luận
Tự nói rằng: “Thâm nghĩa phần lớn đều gọi làKhông” |
3>- Nghĩa Tục Hữu Chân Không: |
( ý nghĩa Tục Đế thì có và Chân Đế thì không
)Thuyết Nhị Đế giải thích: Thế Tục Đế thì chủ trương rằngCó và
Thắng Nghĩa Đế thì chủ trương rằng Không. Thế TụcĐế và Thắng Nghĩa
Đế, cả hai đều nương nhau để hiển bày.Như Trung Luận nói rằng: “Chư
Phật nương nơi Nhị Đế vìchúng sanh mà thuyết pháp: một là dùng Thế
Tục Đế và hailà dùng Đệ Nhất Nghĩa Đế. Người nào nếu như không
thấuhiểu, lại phân biệt nơi Nhị Đế thì đối với chỗ thâm sâu
củaPhật Pháp hoàn toàn không biết được nghĩa chân thật”. TrungLuận
lại nói tiếp: “Nếu như không nương nơi Tục Đế thìkhông thể ngộ
được Đệ Nhất Nghĩa Đế và nếu như khôngngộ được Đệ Nhất Nghĩa Đế
thì không chứng được NiếtBàn”. Tông Tam Luận thuyết minh vấn đề
Không nhằm mụcđích đối trị sự chấp Có của thế gian mà ở đây
không phảiquan niệm phủ định. Có người nói: Phật Pháp chủ
trươngKhông là hoàn toàn phủ nhận tất cả. Đúng ra, đây là một
sựngộ nhận. Phải biết rằng tất cả pháp trong thế gian theo sựhiểu
biết thông thường đều cho là tồn tại. Tất cả pháp đã tồntại thì
nhất định phải sự thật. Tam Luận Bát Nhã cũng khôngphủ nhận sự
thật. Sự thật nếu như vượt ra ngoài đạo lý thườngthức hoặc tìm cầu
nơi lý Chân Như ( Đệ Nhất Nghĩa Đế ) đãnói ở trên để thật chứng
thì không thể phủ định cho rằng tấtcả đều không hoàn toàn. Theo
quan niệm triết học, vấn đềCó là thuộc về Hình Nhi Hạ của thế
tục và vấn đề Không làthuộc về Hình Nhi Thượng của thắng nghĩa,
cả hai hoàn toànkhác nhau về quan điểm. Nếu căn cứ nơi bản thân
của sự vậtmà nói, Duyên Khởi Tánh Không là nghĩa hoạt động,
lànghĩa chuyển biến, không phải quan niệm cái Khônbg chếtcứng. Cho
nên bài Tụng trong Tam Luận nói rằng: “Do có120nghĩa Không cho nên
tất cả pháp đều được thành lập”. NghĩaKhông nếu như chẳng có thì
tất cả pháp không thể thành lập.Bài Tụng trong Tam Luận lại nói
tiếp: “Các pháp đều donhân duyên sanh, cho nên ta mới nói là
không; các pháp cũnglà giả danh và cũng là nghĩa trung |
đạo. Chưa
từng có mộtpháp nào không từ nhân duyên sanh, cho nên tất cả
phápthảy đều là không”. Vấn đề Trung Không và Trung Đạotrong bài
Tụng nói trên đều thuộc về Đệ Nhất Nghĩa Đế vàcũng thuộc về Lý
Tánh. Còn các pháp do nhân duyên sanhvà giả danh đều thuộc về Thế
Tục Đế và cũng thuộc về HiệnThật.Thứ hai, hai mặt của một pháp
không thể phân ly nên gọilà “Sắc tức là không, không tức là
sắc, sắc chẳng kháckhông, không chẳng khác sắc”. Vạn pháp không
thể thiênchấp một mặt. Ý nghĩa Không của Tông Tam Luận đượcthiết
lập trên các pháp Có và Nhân Duyên. Nếu như hoàntoàn ly khai vấn
đề Có và Nhân Duyên, ý nghĩa Không củaTông Tam Luận không biết
căn cứ vào đâu để thiết lập. Vấnđề này được trình bày rất rõ
ràng trong các bài Tụng của TamLuận. |
2.- Tam Luận và Duy Thức |
Căn cứ nơi nguyên lý không có chỗ chức đắc
( vô sở đắc )của Bát Nhã để bàn về Duy Thức, hai lập trường Duy
Thứcvà Tam Luận đều có chỗ dung thông với nhau. Đối tượng củaDuy
Thức đả phá là không có chỗ chứng đắc về Năng và Sởcủa hai
chấp thủ, nghĩa là không có Ngã ( năng thủ ) của chủquan và không
có Pháp ( sở thủ ) của khách quan để chứngđắc. Còn Tam Luận thì
cũng đả phá hai lối chấp thủ này đểhiển bày về nguyên lý Không
của học thuyết không có chỗ121chứng đắc ( vô sở đắc ). Duy Thức
và Tam Luận, cả hai đềucùng đả phá duy nhất chỉ có một mục tiêu
mà thôi. Chẳngqua điểm sai biệt của hai Tông là: Duy Thức thì đả
phá tậncùng quan niệm Có của những sự vật có thể chỉ bày
được,nghĩa là đả phá hư vọng phân biệt Thức Thể ( Y Tha KhởiTánh )
cho là có của Nhị Thủ Sở Y; nơi Tam Luận thì đả phátậm cùng cho
rằng không có sự vật nào tồn tại cả, nghĩa là đảphá luôn cả
tánh y tha khởi cũng cho là không. Điểm tranhluận của hai tông
phái, Duy Thức và Tam Luận là ở chỗ đó.Còn vấn đề “Chánh Trí và
Như Như ”: Chánh Trí tức làtrí không phân biệt. Trí này theo quan
niệm Duy Thức cho làCó ( khi thân chứng chân như, Trí này thì hiện
tiền ); NhưNhư tức là chân như ( vả lại Chân Như thì không phân
biệt vàChánh Trí có khả năng chứng đắc thì cũng không phân
biệt,chúng đều bình đẳng không có hai, nên gọi là Như Như ).Chánh
Trí và Như Như, cả hai lìa ngôn ngữ và chúng |
đềuthuộc về
Đệ Nhất Nghĩa Đế. Duy Thức và Như Như là thậtcó, là diệu hữu; còn
Tam Luận lại cho là Không. Tam Luậnmặc dù quan niệm Đệ Nhất Nghĩa
Đế là không, nhưng xétcho cùng khi kiến lập Đệ Nhất Nghĩa Đế cũng
có thể chorằng Chánh Trí và Như Như không ngăn ngại cái Có
củaduyên khởi. Sự lý luận của chúng ta ở trước có những
kháiniệm được liệt kê như sau: |
1)- Nơi Thuyết Quan Hệ Tương Phản: |
Tánh và Tướng,Không và Có đều đối lập nhau.
Do đó Duy Thức và TamLuận nhân đây trở thành hai lập trường đối
nghịch với nhau. |
2)- Nơi Thuyết Quan Hệ Tương Thành: |
Chỗ đả phá củaTam Luận cũng là chỗ đả phá
của Duy Thức. Chân Đế TánhKhông của Tam Luận hiển bày cũng là
chỗ chứng đắc của122Trí không phân biệt nơi Duy Thức, cả hai đều
thể hiệnnguyên lý Nhị Không. |
3)- Kinh Bát Nhã
|
nói rộng Pháp Tướng là để hiển bàyPháp
Tánh; còn các học giả Pháp Tướng thuộc hệ phái DiLặc thì cũng
giải thích Bát Nhã. Do đó, chủ trương của haiphái có thể phối hợp
với nhau ( tương thành ), chẳng quaquan điểm của hai bên thì không
giống nhau mà thôi.Chúng ta xem ra từ nơi đạo lý tương phản và tương
thànhcó thể nhận định: Tông Tam Luận chỉ nhằm đả phá sự chấptrước
cho nên chú trọng phương pháp lý luận; bên Duy Thứcthì cũng giống
như Tông Tam Luận, cho nên đa phần đều sửdụng Nhân Minh Luận. Như
Duy Thức Tụng nói: “Do có chỗchứng đắc, cho nên không phải thật
sự an trụ vào Duy Thức”.Còn Tam Luận nói: “Nếu chấp thật có Duy
Thức Tánh cũnglà chấp trước”. Trong tâm giả như còn có chỗ chứng đắc,
đócũng là một thứ chấp trước. Tâm không phân biệt có thểchứng
được Chân Như thì Thật Tánh Duy Thức cũng có thểchứng được. Nhưng
Thật Tánh Duy Thức nếu là giả danh thìĐệ Nhất Nghĩa Đế của Tam
Luận cũng không khác. Tự TánhY Tha Khởi đối với Tục Đế của Tam
Luận thì thuộc về loạiCó. Cho nên Nhị Không của Duy Thức tức là
Tánh Khôngcủa |
Tam Luận. Duy
Thức mặc dù nói Nhị Không, nhưngkhông ngoài mục đích hiển bày cái
Có của Chân Như ( cùngvới Tánh Không chẳng giống nhau ). Đây chính
là cứu cánhcủa lý tánh vậy.Theo thuyết Đạo Lý của Duyên Khởi
Tánh Không, KinhKim Cang trình bày: “Không chấp lấy nơi tướng, ở
trạng tháinhư như không động. Tại sao thế? Tất cả pháp hữu vi
nhưgiấc mộng, như bọt nước, như sương móc, như điện chớp, phảinên
quán như thế”. Bồ Tát khi tu hạnh bát nhã cốt yếu ở chỗ123“Không
nên chấp lấy pháp tướng và cũng không nên chấplấy không phải
pháp tướng”, đó là thể hiện pháp quán ChânĐế. Tất cả cảnh giới
duyên sanh đều là có như huyễn; câu“Phải nên quán như thế” là
thuyết minh nguyên lý không nênquán Tục Đế ( Y tha khởi ) cũng là
không. Còn câu PhápTướng và Không Phải Pháp Tướng cũng là giải
thích vấn đềNhị Đế. Không chấp lấy có Nhị Đế thì mới có thể chứng
đắcmột cách triệt để cảnh giới Chân và Tục không hai. Vấn đềnày
Duy Thức và Tam Luận, hai tông phái đều giống nhau.Nhờ có Tục nên
mới chứng được Chân cũng là điểm dungthông với nhau của các tông
phái tu hành.Thành Duy Thức Luận giải thích: “Trí không phân biệt
đãchứng được Chân Như thì Trí Hậu Đắc mới có thể liễu ngộđược
các pháp thuộc tánh Y Tha Khởi đều là nhưhuyễn,..v..v..... Nếu
chẳng biết như thật rằng, các chúngduyên phát khởi là do tự Tâm
và các Tâm Sở hư vọng phânbiệt biến hiện; sự biến hiện chúng
duyên của tự Tâm và cácTâm Sở khác nào sự việc như huyễn, như
ngọn lửa dâng cao,như cảnh trí trong mộng, như hiện tượng trong gương,
nhưmàu sắc lộng lẫy, tiếng vang trong động, mặt trăng dướinước,
tất cả do biến hóa kết thành, chúng tợ như có, nhưngthực sự không
phải có”. Vấn đề này của Thành Duy ThứcLuận giải thích so với Kinh
Kim Cang đã nói ở trước: “Tất cảpháp hữu vi cũng như cảnh giả
trong mộng, cũng như bọtnước trên sông” đều là giống nhau. Chân Đế
là một phươngdiện và Tục Đế là một phương diện: “không nên chấp
lấy nơitướng, phải ở trạng thái như như bất động” phải là Trí
khôngphân biệt thì mới chứng được cảnh giới Chân Như. Ở nơi
TụcĐế, Duy Thức và Tam Luận, hai tông phái này lại giống nhauở
chỗ là quán các pháp hữu vi duyên sanh đều như huyễn.Còn ở nơi
Chân Đế, chỗ chứng đắc của hai tông phái nói trênthì cũng không
khác nhau quan điểm. Nhưng chỗ bất đồng là124do các luận sư sau |
này giải
thích nghĩa tướng đều hoàn toànđi thật quá xa. Chúng ta hãy xem lý
luận của hai Luận Sưthuộc hai tông phái nói trên như sau: |
a>- Chưởng Trân Luận của ngài Thanh Biện
giải thích: |
“Chân Tánh của hữu vi là không, vì do nhân
duyên sanh chonên đều như huyễn. Còn vô vi thì đã tiêu diệt vì
không cònsanh khởi và nó không thật thể giống như hoa đớm giữa
hưkhông”.37 |
b>- Đại Thừa Quảng Bách Luận của ngài Hộ
Pháp giảithích: |
“Các pháp
hữu vi đều do nhân duyên sanh, cho nênkhông khác các sự việc như
huyễn, vì không có thật thể. Còncác pháp vô vi cũng không thật
có, vì chúng không có sanhra, thí dụ như lông rùa”.38 |
Hai đoạn văn đây, trừ lập trường Không của
ngài ThanhBiện và ngoài hai chữ “Chân Tánh” ra, thì lý luận của
haingười đều giống nhau. Vả lại, Tam Luận cũng thuyết minh lýDuy
Tâm và Duy Thức, như: “Nguyên vì tư tưởng của BátNhã đến rốt ráo
cũng trình bày rõ về Nhứt Tâm, tức là chỉcho Tự Tánh Thanh Tịnh
Tâm. Về sau, tư tưởng Đại Thừacủa Pháp Hoa, của Hoa
Nghiêm,..v..v.... phần nhiều đều nóirõ ý này.” Đại Trí Độ Luận,
quyển 29 nói rằng: “Ba cõiđều do Tâm tạo ra”. Đại Thừa Nhị Thập
Tụng nói rằng:“Tâm như người thợ vẽ, tự vẽ hình tượng Dạ Xoa, vẽ
rồi lạisợ hãi”. Tâm như người thợ vẽ này so với thí dụ Tâm
nhưngười thợ vẽ của Hoa Nghiêm thì cũng đồng minh với lý giảicủa
Duy Thức. |
(37 “Chưởng Trân Luận”, quyển 1, trang 1.38 “Quảng
Bách Luận Thích”.) |
I.- DUY THỨC HỌC VÀ MẬT TÔNG: |
Mật Tông cũng gọi là Chân Ngôn Tông. Chân
Ngôn tứclà lời nói chân thật. Hiện tại Mật Tông thường dùng Chú
Ngữđể truyền thừa cho nhau. Trọng tâm của Tông này là tu hànhtheo
những điều bí mật nên gọi là Mật Tông. Các tông pháiđã nói ở
trước gọi là Hiển Giáo và Tông này gọi là Mật Giáo.Học lý của
Mật Tông xem lại thì bao quát cả Hiển Giáo. MậtGiáo truyền thừa
mặc dù rất lâu, nhưng mãi đến khi nhàĐường khai nguyên thì mới
được kiến lập thành tông |
phái.Mật
Tông khi ở Ấn Độ có các ngài như Thiện Vô Úy, NhấtHạnh, Kim Cang
Trí, Bất Không, bốn vị trước sau đến TrungQuốc hoằng dương Mật Tông.
Thiện Vô Úy truyền cho Đạisư Huệ Quả. Lúc bấy giờ, Kim Cang Trí,
Thiện Vô Úy và BấtKhông đều được gọi là ba đại sĩ khai nguyên
Mật Tông. Đốivới Mật Tông, các kinh điển và nghi quỹ đều được
phiên dịchvà trước thuật. Các bậc tiền nhân thì thật không ai sánh
kịp.Có thể nói, Mật Tông từ đời Đường trở về sau truyền thừahoàn
toàn tuyệt diệu. Nghi Quỹ Bí Bổn Mật Tông của đờiĐường chú sớ
đều bị thất truyền nơi Nhật Bản. Khi đến đờiTống, Mật Tông tuy
cũng được phiên dịch và truyền thừa,nhưng giáo nghĩa của bổn Tông
ở trên thì không có kiến lậpđược gì. Kinh điển cốt yếu của Mật
Tông gồm có ba bộ làKinh Đại Nhật, Kinh Kim Cang Đỉnh và Kinh Tô
Tất Địa.Còn yếu nghĩa của Mật Tông thì có những điểm như sau: |
1)- GIÁO TƯỚNG VÀ SỰ TƯỚNG: |
Giáo Tướng tức là giáo lý. Người học Mật
Tông trước hếtphải học giáo lý. Đặc biệt sự truyền thọ Mật Tông
của NhậtBản là trước hết họ dạy các học giả thực tập giáo lý
DuyThức, Tam Luận và sau đó mới truyền thọ sự tướng của
Mật126Tông. Cũng tương tợ như thế, người Tây Tạng học MậtTông,
trước hết phải qua giai đoạn kiểm tra phẩm cách ngườiTây Tạng và
sau đó mới đưa vào Viện Mật Thừa39 . Đâycũng là một hình thức
giáo dục. Sự Tướng tức là Nghi Quỹ vàcũng có thể nói là Phật
Pháp tượng trưng. Tất cả hình tướngtác pháp hành sự của Mật Tông
đều là tượng trưng, tức lànhững pháp sự đó đại biểu cho một thứ
gì khác ở ngoài vũtrụ, như Kim Cang Xử và Mạn Đà La ( đại biểu
cảnh giới củachúng sanh hoặc cảnh giới của chư Phật ), đều là vật
tượngtrưng, đặc biệt bao hàm một thứ Mật Ý tồn tại ở trong.
MậtTông cốt yếu ở chỗ là vị Pháp Sư phải đích thân dùng miệngđể
truyền thọ. Có người cho rằng Mật Tông cao hơn HiểnGiáo, nhưng kỳ
thật cả hai đều giống nhau. Nói chung MậtTông và Hiển Giáo đều
phải tu chứng thì mới thành công.Còn Mật Tông và Duy Thức thì quan
hệ như thế nào? |
Sự Tướng
Đều Do Duy Tâm Biến Hiện: sự tướng thìhoàn toàn lệ thuộc nơi Tâm.
Tất cả pháp biểu hiện sự tướngcó thể nói là do Tâm Thức biến
hiện. Thí dụ như Mạn Đà Lađều trông cậy vào sự tác dụng của tâm
lực. Người Mật Tôngquán tất cả đồng tiền rất nhỏ trong một mâm
tròn biến thànhthế giới và quán một chén nhỏ ba cạnh biến thành
ba đạo sĩ.Lại nữa, lời mở đầu của văn Mông Sơn nói rằng: “Nếu
ngườinào muốn biết rõ tất cả Phật ba đời nên quán thể tánh
củapháp giới, tất cả đều do Tâm tạo”. Ý này nếu như không
biếtrõ bảy hạt cơm của Mông Sơn có công dụng như thế nào thìthật
đáng tiếc! Cho nên tất cả sự làm phép của Mật Tông đềucó ý
nghĩa như thế. |
2)- SÁU ĐẠI DUYÊN KHỞI VÀ SẮC TÂM: |
(39 “Pháp Tôn Hiện Đại Tây Tạng”). |
Kinh Lăng
Nghiêm thì giảng Bảy Đại Duyên Khởi. CònMật Tông thì giảng Sáu Đại
Duyên Khởi. Sáu Đại DuyênKhởi gồm có đất, nước, gió, lửa, không
gian và tâm thức.Phật pháp và chúng sanh pháp, tất cả sự tướng
đều do sáuĐại này làm duyên khởi. Trong sáu Đại trên, năm Đại
thìthuộc về Sắc Pháp và một Đại sau cùng thì thuộc về TâmPháp.
Cho nên sáu Đại Duyên Khởi cũng gọi là Sắc TâmDuyên Khởi. Duy
Thức thì giảng A Lại Da Duyên Khởi, chỉdo một Tâm Thể sanh khởi hai
phần Kiến và Tướng. Sự tácdụng chuyển biết của A Lại Da là duyên
khởi hổ tương, nghĩalà Sắc thì do Tâm Thức duyên khởi và Sắc thì
cũng năngsanh ra Tâm Thức. |
3)- BA MẬT QUÁN VÀ BA NGHIỆP: |
Tam Mật nghĩa là ba Mật. Ba Mật gồm có ba thứ
chủnghĩa gọi là Thân Mật, Khẩu Mật và Ý Mật. Thân Mật thìchú
trọng nơi kết Thủ Ấn, như chọn Phật A Di Đà làm bổntôn để tu thì
kết Di Đà Ấn. Di Đà Ấn là tượng trưng xem bảnthân của ta chính là
Phật A Di Đà và hào quang chiếu tỏakhông mập mờ. Kết Thủ Ấn của
Mật Tông không khác sựlàm quan chức của thế tục, sao lại có Thủ
Ấn cũng như chínhmình sao lại có thứ quan chức.Khẩu Mật là miệng
niệm Chân Ngôn, tượng trưng xemnhư không phải lời nói của phàm phu
và chính là ngôn ngữcủa Phật A |
Di Đà. Ý
Mật là hiện bày chữ của hạt giống, nhưchữ “A” là đại biểu cho
hạt giống hoặc Phật Tánh của Phật ADi Đà và tượng trưng xem Tâm
của ta chính là Tâm của PhậtA Di Đà. Nhờ phương pháp tượng trưng này,
ba nghiệp củachính bản thân hành giả nhờ ba thứ bí mật tượng trưng
nóitrên có thể cùng với ba nghiệp của bổn tôn Phật A Di Đà
kếthợp làm một để thành tựu Đại Pháp. Phương pháp đây là
một128thứ quán giả tướng và cũng là một thứ tâm lực. Ba Mật
củaMật Tông thì rất quan hệ mật thiết với Duy Thức. |
4)- HAI BỘ MẠN ĐÀ LA: |
Mật Tông từ Nhật Bản truyền đến thì có hai
bộ Mạn ĐàLa ( Mạn Đà La tức là Đàn Tràng hình tròn. Chùa Miếu củaẤn
Độ xưa nay đều kêu là Mạn Đà La ). Hai bộ Mạn Đà Lagồm có: Kim
Cang Giới Mạn Đà La và Thai Tạng Giới MạnĐà La. |
a>- Kim Cang Giới Mạn Đà La: |
Sự tướng là đại biểu Phật Trí của lý tướng,
cũng như DuyThức là đại biểu cho bốn Trí Bồ Đề và bốn Trí Bồ Đề
cũngtức là Phật Trí. Kim Cang là hình dung sự kiên cố của PhậtTrí
có khả năng phá vỡ sở tri chướng và đoạn trừ tất cả phiềnnão.
Kim Cang Giới Mạn Đà La tức là đại biểu cho Phật Trí.Phật Trí còn
có khả năng phá trừ chấp Không của chúngsanh, nên gọi là Không
Như Lai Tạng. Chữ Tạng ở đây tức lànghĩa của chữ Giới. |
b>- Thai Tạng Giới Mạn Đà La: |
Thai Tạng Giới Mạn Đà La không phải đại biểu
cho Phậtvà nó chỉ là tượng trưng cho tánh đức vốn có sẵn của
chúngsanh. Như Lai của mỗi chúng sanh là nơi dung chứa và bảo trìtất
cả công đức thâu hoạch được. Những hạt nhân công đứcnày vẫn
được tàng trử và nằm yên trong Như Lai chưa hiểnhiện cũng giống như
thai tạng, nên gọi là Thai Tạng Giới.Cũng vì nghĩa này, Như Lai còn
có tên khác là Không NhưLai Tạng. Người nào nếu như không thông
suốt đạo lý DuyThức và Bát Nhã thì thế nào cũng chẳng biết được
đạo lý |
Mật Tông ít
nhất nói gì và giở trò gì. Những sự kiện trình bàytrên có thể
kết luận hai điều: Thứ nhất, Giáo Tướng của KimCang Giới sử dụng
Tam Luận và Bát Nhã làm căn bản. Thư ùhai, Giáo Tướng của Thai Tạng
Giới sử dụng Pháp TướngDuy Thức làm căn bản. Phương pháp phán
giáo của MậtTông gồm có mười Trụ Tâm và sự quan hệ của mười
TrụTâm ở đây không thể giải thích tường tận. Bản đồ dưới đâyđể
chỉ bày đại ý của mười Trụ Tâm. Mười Trụ Tâm của MậtTông gồm
có: |
Pháp Đại Sư Thập Trụ Tâm Luận cho Bí
MậtTrang Nghiêm Tâm thứ mười là tối cao, còn Thiên Đài vàHoa
Nghiêm thì thuộc về hạng thứ. Ngoài ra các Tông khácthì lại thuộc
về hạng thứ nữa. Quan niệm này kể như khôngnhiều. |
|
J.- KẾT LUẬN: |
Sự quan hệ giữa các Tông phái và Duy Thức
đã đượctrình bày tổng quát ở trước. Trong mười Tông, Thiền,
Tịnh,Luật và Mật thì đặt trọng tâm nơi sự hành trì. Tam Luận (
baogồm Thành Thật ) và Duy Thức ( bao gồm Câu Xá ) thì đặttrọng
tâm nơi sự lý luận. Ngoài ra, Thiên Đài và Hiền Thủ thìlại chú
trọng cả hành trì và lý luận. Hơn nữa trong mườiTông, Tịnh Độ Tông
và Mật Tông thì hoàn toàn trông cậyvào tha lực gia trì. Còn Thiền,
Luật, Tam Luận và Duy Thứcthì dựa vào tự lực hướng thượng. Riêng
Thiên Đài và HiềnThủ thì lại nương tựa cả tự lực và tha lực. Vấn
đề này đượctrình bày qua bản đồ sau đây: |
|
CHƯƠNG IV |
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘXEM DUY THỨC HỌC |
I.- PHẬT GIÁO CĂN BẢN VÀ DUY THỨCHỌC: |
A.- LỜI TỰ THUẬT: |
Nơi Phật Học, ai cũng đều biết có một đạo
học gọi là“Tiểu Thừa”. Danh xưng Tiểu Thừa thông thường đều
chorằng được xuất hiện vào khoảng sau Phật nhập diệt ba trămnăm
khi Phật Giáo Đại Thừa hưng khởi. Điều đó không đúngnhư thế, danh
xưng Tiểu Thừa sao lại không thấy trong BaTạng văn Pa Li, không thấy
trong Kinh A Hàm Hán dịch vàcũng không thấy trong Luận Hữu Bộ. Cho
đến danh xưng ĐạiThừa cũng không thấy đề cập đến trong các kinh
luận nóitrên. Tổng quát mà nhìn trước sau có thể nói, Phật Giáo
ĐạiThừa xuất hiện vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Các họcgiả
Phật Giáo Đại Thừa trong thời kỳ này đều cho Phật Giáocăn bản
nguyên thủy là Phật Giáo Tiểu Thừa và đồng thời tựcho mình là
hạng Đại Thừa. Những học giả Đại Thừa nóitrên lại “không có tên
họ” trong lịch sử, nhưng sau này cácnhân vật có thể đại biểu như
là Mã Minh, Long Thọ và VôTrước. Các nhân vật đây đều chống lại
hạng Thinh Văn.Kinh giáo A Hàm được đánh giá, bất luận như thế nào
đều134không phải là ý của Phật. Danh xưng Tam Thừa, Ngũ Thừahay
Nhất Thừa cũng là do giáo đồ Đại Thừa sau này phânbiệt lập ra.
Khi Phật Đà còn tại thế và thời gian ba trăm nămđến bốn trăm năm
sau khi ngài nhập diệt, chữ “Thừa” khôngbao giờ được thiết lập,
mặc dù thời kỳ đó Phật Giáo bị phânhóa thành hai mươi Bộ Phái.
Hai mươi Bộ Phái đều là nhữngkẻ “uống nước nhớ nguồn”, “Vạn pháp
quy về một mối” vàhọ không có phê phán cao thấp, lớn nhỏ, cũng
như không cóphân biệt Nhất Thừa, Tam Thừa,..v..v..... Vấn đề phê
phánvà phân biệt sở dĩ được thành lập quá nhiều nói trên là
hoàntoàn do các học giả Đại Thừa cố ý tạo nên.Chữ “Thừa”, như
Đại Thừa, Tiểu Thừa, Nhất Thừa, TamThừa,..v..v..... là sử dụng để
thí dụ giá trị Phật Giáo, bao gồmcả phê phán tư tưởng ở trong.
Trước hết, Sử Phật Giáo Ấn Độđược xem là giáo pháp đầu tiên. Kế
đến, sáu Tông và támTông lần |
lược được
phân vị và sau này giáo pháp bị phê phánquá nhiều. Khi Phật Giáo
đến Trung Quốc, học phong phángiáo lại càng được thạnh hành. Đời
Đường có kẻ nói rằng“Người Hiền Triết thời xưa thiết lập Giáo
Môn sai biệt khôngphải ít”40. Chữ “Thừa”, chữ “Tông” được phát sanh
từ nơi tưtưởng, như “Thừa” như “Tông”,..v..v..... và chữ “Thời”
đượcthiết lập từ nơi phê phán thời gian, như “Ba Thời”
“NămThời”,..v..v.... Học thuyết Năm Thời, Tám Giáo,..v..v....chúng
ta không tin là có thể phù hợp với lịch sử. Khác nàohọc thuyết
Đại Thừa, Tiểu Thừa, Nhất Thừa, Tam Thừa cũnggiống như thế đều do
các học giả Đại Thừa sau này sáng tác.Ấn Độ là quốc gia không
có giảng lịch sử. Đặc biệt nhất vào40 Hoa Nghiêm Nhứt Thừa Giáo
Nghĩa Chương và Tham Huyền Ký đềunói rằng: “Các bậc Hiền xưa nay
thiết lập Giáo Môn sai biệt không phảimột, tóm lược gồm có mười
nhà, dùng làm soi gương”. Học thuyết củamười nhà tham khảo gồm
sách quyển 20, trang 3.135thời đại thượng cổ, trước khi Phật Đà ra
đời, Ấn Độ có thểnói một điểm tư chất khoa học lịch sử cũng đều
không có.Mãi đến Phật Đà lập giáo về sau, lịch sử Ấn Độ tính ra
thì cóchiều hướng sáng sủa, mặc dù vẫn chưa được tinh tường.Hôm
nay, sự nghiên cứu tư tưởng Phật Giáo Ấn Độ kể từ ĐứcThế Tôn Kiều
Đạt Ma ( Gotama ) ra đời được trình bày nhưsau: |
B.- PHẬT GIÁO CĂN BẢN: |
Các học giả Phật Giáo Trung Quốc, từ xưa đến
nay vẫnthừa nhận kinh điển, không luận kinh điển Đại Thừa hoặckinh
điển Tiểu Thừa đều cho là của Phật nói. Phật Đà sở dĩđược tôn
vinh là Pháp Vương vì tất cả pháp môn khác đều ychỉ nơi giáo pháp
của Đức Phật để thuyết minh. Cho nên giáopháp của Đức Phật được
xếp vào loại là chủ của tất cả phápvà cũng gọi là Phật Giáo
Căn Bản. Nói rộng thêm, các bộLuận của các đệ tử sau này sáng
tạo cũng đều nương tựa nơigiáo pháp của đức Phật làm căn cứ và
các bộ Luận đó cũngcó thể được xếp vào loại Phật Giáo Căn Bản.
Nói rõ hơn,những giáo pháp trong đây được định danh là Phật Giáo
CănBản đều chỉ cho những ngôn giáo chính của Phật Đà ThíchCa và
của các đệ tử của ngài ở thời đại đầu tiên sáng lập.Còn tất
cả giáo pháp thuộc kinh, luật, luận của Đại Thừa thảyđều y chỉ nơi
tư tưởng ngôn giáo |
của Đức Thế
Tôn Kiều ĐạtMa để thành lập và có mặt sau này, như Kinh Hoa
Nghiêm,Kinh Đại Nhật,..v..v...... Tóm lại, những giáo pháp chính
củaPhật Đà Thích Ca nói ra và của các đệ tử sau này sáng lậpđều
được gọi là Phật Giáo Căn Bản.Phật Đà Thích Ca Mâu Ni Kiều Đạt Ma
trước khi chưathành Phật gọi là Tất Đạt Đa, giáng sanh trong gia tộc
Thích136Ca tại thành Ca Tỳ La nơi Bắc Ấn Độ ( nay là biên cảnh nambộ
của nước Nê Bạc Nhĩ “Népal” ) vào năm 466 trước KỷNguyên. Ngài
xuất gia năm 437 trước Kỷ Nguyên ( 29 tuổi )và ngộ đạo năm 431
trước Kỷ Nguyên ( 35 tuổi ). Khi ngộđạo, ngài thấu triệt chân lý
của vũ trụ và trở thành triết nhânduy nhất của bậc Đại Giác
Ngộ. Khi thành đạo trở về sau,ngài được gọi là Thích Ca Mâu Ni
Phật. Năm 386 trước KỷNguyên, ngài nhập diệt lúc 80 tuổi. Phật
Giáo trong 30 nămsau khi Phật Đà nhập diệt được gọi là thời kỳ
Phật Giáo CănBản.41 Trong thời kỳ này, giáo pháp của Phật Đà
thuyếtgiảng đều nhắm vào đối tượng xã hội và tư tưởng đương
thời.Giáo pháp của ngài phản đối tư tưởng Phệ Đà, phản đối
giáosĩ Bà La Môn và phản đối chế độ xã hội của họ. Thời
bấygiờ, tư tưởng Ấn Độ rất là phức tạp và sự phức tạp của
tưtưởng Ấn Độ có thể tóm lược thành hai điểm chính sau đây: |
1/- Phương Diện Triết Học: |
Tư Tưởng Triết Học Ấn Độ trong thời kỳ này
là NhịNguyên Luận. Nhị Nguyên Luận gồm có: |
a)- Nhục Thể và Linh Hồn: |
Tư Tưởng triết học đương thời là học thuyết
của cácLuận Sư Lục Phái. Lục Phái là sáu phái triết học. Các
LuậnSư Lục Phái thiên trọng nơi sự mong cầu giải thoát khổđau nơi
Linh Hồn. Cho đến xã hội lại có một loại người thịtộc tức là các
giáo sĩ Bà La Môn,..v..v..... thuộc giai cấphưởng thụ tận lạc. Khi
chí nguyện giải thoát khổ đau đã hoànbị, các Luận Sư lại phát
hiện: Tự Tánh và Thần Ngã.41 Niên đại của bổn chương đã nói đều
căn cứ nơi Ấn Độ Triết Học Sửcủa Vũ Tỉnh Bá Thọ ( chương 9, trang
81 ).137 |
b)- Học Thuyết Tự Tánh, Thần Ngã và Luận Lý
SanhThiên: |
Thần Ngã là
ông chủ sáng tạo và chủ yếu của Thần Ngãlà hưởng thụ. Tự Tánh
là nhu yếu của Thần Ngã, có bổnphận phát khởi, biến hóa và sanh
sản vạn vật để thích ứngvới Thần Ngã. Nhân loại nếu như đạt đến
cùng với ThầnNgã hợp nhất thì không còn bị sanh diệt và lúc đó
được gọi làgiải thoát. Căn cứ nơi các pháp mà nói, vạn hữu vũ
trụ đều làtổ hợp của Tự Tánh và Thần Ngã. Trước hết, Nhục Thể
vàLinh Hồn thì thuộc về hiện tượng luận. Sau đó, Tự Tánh vàThần
Ngã thì thuộc về bản thể luận. |
2/- Phương Diện Tôn Giáo: |
Nói về vấn đề tu định và khổ hạnh42, Ấn Độ
thuộc vềvùng đất nhiệt đới. Khu vực sông ngòi trong đại lục là
nơiphát triển vật sản phì nhiêu và phong phú. Nhân dân khôngcòn
phiền não về vấn đề sanh kế, cho nên tư tưởng xuất thếdễ phát
sanh, tôn giáo tín ngưỡng phi thường rất phát đạt vàgiáo phái nẩy
nở cũng rất nhiều. Chỉ một điều bất luận ngườitrong giáo phái
nào, họ không lìa khỏi hai thứ hành vi thựctiển là thiền định và
thực hành pháp khổ hạnh. Đặc biệt hơncả là học phái Lục Sư và
các tập đoàn Sa Môn, họ lại càngchú trọng hai thứ hành vi nói
trên. Phật Đà trước khi chưaxuất gia đều học tập pháp thiền của
Bà La Môn Giáo.. Trướchết ngài tu tập thiền định và sau đó cùng
với các giáo sĩ BàLa Môn hành trì khổ hạnh. Trong vài năm, ngài
tham học ítnhiều với các danh đức đương thời. Cuối cùng ngài cảm
giáclối tu khổ hạnh là một phương pháp khiến cho thân thể cũng42
Khổ hạnh là pháp tu như tuyệt thực,..v..v.... cho đến ngày nay Ấn
Độvẫn còn lưu hành.138như tinh thần trở nên thống khổ và lao tổn,
tuyệt đối khôngcó khả năng thành chánh quả. Lối tu khổ hạnh theo
ngàikhông phải là pháp môn cứu cánh. Ngài liền chuyển sang tutập
theo phương pháp thiền định. Thế là ngài theo hai vị tiênnhơn có công
hạnh tu dưỡng rất cao, có danh tiếng bậc nhấtđương thời để học tập
pháp môn tu thiền. Một hôm ngài giácngộ được rằng phương pháp tu
thiền của hai vị tiên nhơn kiacũng chẳng cứu cánh, không thể mở
bày được trí tuệ và cũngkhông thể thấu triệt được chân lý. Ngài
lại bỏ hẳn phươngpháp tu thiền của hai vị tiên nhơn kia. Trước hết
ngài khiếncho thân thể khôi phục tráng kiện trở lại và sau đó tự
mìnhmong cầu pháp môn ngộ đạo, gọi |
là Ngồi Tòa
Bồ Đề HànhTư Duy.Phật Đà sau khi thành đạo liền đi thuyết pháp đó
đây đểhóa độ chúng sanh. Những giáo pháp của ngài nói đều
làcảnh giới mà ngài đã chứng ngộ và những giáo pháp đókhông
ngoài ba Pháp Ấn. Ba Pháp Ấn tức là “Chư Hành VôThường, Chư Pháp
Vô Ngã, Hữu Lậu Giai Khổ”. Ba thứ chânlý đây chính là lý tánh
duyên khởi mà Phật Đà Kiều Đạt Mađã giác ngộ nơi cội Bồ Đề. Về
sau ba thứ chân lý trên trởthành pháp môn tu quán. Tu quán vô
thường, quán vô ngã vàquán khổ đều là trí tuệ quán chiếu nơi nội
tâm chúng ta.“Chư Hành, Chư Pháp, Hữu Lậu” là đối tượng để quán,
để tu,tức là chỉ cho thế giới hiện tượng của chúng ta. Hành giả
cầnphải nương nơi ba phương diện đây để tu tập và từ ba phươngdiện
đây phải trải qua sự thực hành tu quán, tức là phải trảiqua sự
kinh nghiệm thì mới có thể đạt đến quả vị an lạc của“Niết Bàn Tịch
Tịnh”, nghĩa là đạt đến một thứ cảnh giớichứng lý tâm an. Ba Pháp Ấn
trước là thuộc về nhân và mộtPháp Ấn sau là thuộc về quả. Ba
Pháp Ấn trên nếu cộng139thêm Niết Bàn Tịch Tịnh vào thì trở thành
bốn Pháp Ấn. BốnPháp Ấn được trình bày qua đồ biểu sau đây: |
|
Yếu nghĩa của Kinh A Hàm Thánh Điển tuy nhiều,
nhưngcốt yếu quan trọng không ngoài ba Pháp Ấn nói trên. BaPháp Ấn
đích thực là cứu cánh của Phật Giáo Căn Bản. BaPháp Ấn này quan
hệ như thế nào với Duy Thức? Trong |
baPháp Ấn,
chúng ta nên biết yếu chỉ của đạo lý Chư Hành VôThường, theo Duy
Thức chính là các pháp hữu vi hư vọngphân biệt của Tâm, Tâm Sở
và các pháp đó đều do Duy Thứcbiến hiện. Còn Các Pháp Vô Ngã
cũng không khác Nhị VôNgã ( Hai Vô Ngã ) của Duy Thức đề cập.
Nguyên vì ngườinghiên cứu Phật Học phổ thông đều công nhận đạo
lý củaTiểu Thừa chỉ bàn luận về Nhân Vô Ngã mà không thấy
nóiđến Pháp Vô Ngã; Tiểu Thừa chỉ chứng được Sanh KhôngQuán Chư
HànhVô ThườngQuán Chư PhápVô NgãQuán Hữu LậuGiai KhổBa
PhápQuánNiết BànTịch Tịnh140Chân Như mà không thể chứng đến Pháp
Không Chân Như.Trái lại Đại Thừa chẳng những bàn luận về Nhân Vô
Ngã màcũng lý giải về Pháp Vô Ngã và lại còn chứng đắc
NhịKhông Chân Như ( Chân Như của hai Không ). Nhân Vô Ngãthì hẹp,
Pháp Vô Ngã thì rộng và người phân loại hai thứ vôngã đây chính
là Đại Thừa hưng khởi sau này phân biệt kiếnlập. Ngày nay chúng ta
mỗi khi đề cập đến “Các Pháp VôNgã” đều là hiển bày nghĩa lý Nhị
Vô Ngã của Đại Thừa.Hơn nữa Kinh A Hàm chỉ trình bày Các Pháp Vô
Ngã màkhông thấy đề cập đến Nhân Vô Ngã. Riêng tư tưởng HữuLậu
Đều Khổ và Niết Bàn Tịch Tịnh, cả Tiểu Thừa Phật Họcvà Đại Thừa
Phật Học đều phát huy giống nhau. Chẳng quanhững tư tưởng trên biểu
hiện rất sâu đậm trong Kinh A Hàm. |
C.- PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ: |
Vấn đề Nguyên Thỉ thì không giống nhau với
Căn Bản vàcũng không giống nhau với thời gian. Nhưng tư tưởng
củachúng thì không sai biệt với nhau cho lắm, có thể nói cùngnhất
trí với nhau. Phật Giáo Nguyên Thỉ sở dĩ có sự sai biệtlà do giới
luật của Tăng Đoàn. Thời kỳ Phật Giáo Căn Bảnchấm dứt là khi
Phật Đà và các đệ tử trực tiếp của ngài đãnhập diệt. Còn Phật
Giáo Nguyên Thỉ thì bắt đầu từ các đệ tửtái truyền của Phật Đà,
ước lượng vào khoảng 120 năm, từ350 năm đến 270 năm trước Kỷ
Nguyên. Khoảng thời giannày được gọi là thời đại Phật Giáo Nguyên
Thỉ. Nguyên Thỉsở dĩ được mang danh nghĩa là do trong khoảng một
trămmấy mươi năm, những tư tưởng cũng như những hành vi củacác đệ
tử Phật Đà đại thể đều noi theo quy cũ của Thế Tôn dichúc lại.
Nơi thời kỳ Phật Giáo |
Nguyên Thỉ,
các đệ tử Phậtlúc bấy giờ, nhất là Tăng Đoàn, đặc biệt chú ý
đến hai hạngsự tình: một hạng là duy trì truyền thừa Pháp Thống và
một141hạng là bảo trì tồn tại Giáo Quyền. Hai hạng sự tình
nàythường thấy nơi hành động của Tăng Đoàn trong Luật Điển. |
a>- Phương Diện Duy Trì Truyền Thừa
GiáoThống: |
Duy Trì Truyền Thừa Giáo Thống nghĩa là duy trì
thuyềnthừa giáo pháp. Hiện tượng duy trì truyền thừa giáo
phápkhông khác hiện tượng duy trì chế độ Tổ Sư để truyền thừanơi
Trung Quốc. Như theo nghi thức quy định, Đức Phậttruyền cho ngài Ca
Diếp, ngài Ca Diếp truyền cho ngài ANan và cứ như thế mà tiếp tục
truyền đến vị Tổ thứ 28. Mụcđích Duy Trì Truyền Thừa Giáo Pháp chính
là để duy trì YếuĐiển Khẩu Truyền của Đại Chúng Kiết Tập và
khiến cho lốitruyền thừa đây được tiếp nối truyền xuống mãi từ
đời nàyđến đời khác. |
b>- Phương Diện Bảo Trì Tồn Tại Giáo Quyền:
|
Vấn đề bảo trì tồn tại Giáo Quyền là duy trì
sự bảo thủgiới luật, đặc biệt là chế độ Yết Ma ( Hội nghị ). Thứ
chế độđây đáng chú ý nhất là Phật Giáo Nam Truyền và Phật
GiáoNam Truyền biểu hiện chế độ nói trên rất kiên cố. Cho
đếnngày nay chế độ bảo thủ giới luật của Phật Giáo Nam Truyềnvẫn
còn quy mô. Riêng chế độ Tổ Sư sau này và chế độ YBát Truyền
Pháp của Trung Quốc chỉ còn là biểu diễn hìnhthức. Trên hình thức,
họ nghiên cứu và diễn giảng bằng cáchbảo thủ, cũng như trên luận
lý và tư tưởng, họ hoàn toànkhông có chút nào tiến bộ cả.Qua
những thời kỳ nói trên, chúng ta có được một kếtluận khả dĩ,
Thời kỳ Phật Giáo Căn Bản trở về trước, trọng142tâm của Phật
Giáo là ở nơi Phật Đà, nghĩa là Phật Giáo chỉnương tựa nơi người
mà không nương tựa nơi pháp luật. Đếnthời đại Phật Giáo Nguyên
Thỉ, trọng tâm của Phật Giáo lànơi Giới Luật ( Tăng Đoàn ), nghĩa
là Phật Giáo chỉ nươngtựa nơi Tăng Đoàn và Giới Luật mà không
nương tựa nơingười và cũng không nương tựa nơi giáo pháp. Về sau
thời kỳPhật Giáo Bộ Phái, trọng tâm của Phật Giáo là ở nơi
giáopháp, nghĩa là Phật Giáo chỉ nương tựa nơi Pháp mà khôngnương
tựa nơi người và cũng không nương |
tựa nơi Giới
Luậtvà Tăng Đoàn. Cho nên giáo pháp Đại Thừa cũng được phátsanh
từ đó. Trọng tâm của Phật Giáo Đại Thừa chính là ở nơipháp lý
và tư tưởng. Còn tư tưởng của Phật Giáo Nguyên Thỉthì chỉ chú trọng
ở nơi sự bảo trì giới luật và đối với giáopháp thì lại chú trọng
ở nơi ba Pháp Ấn. Vấn đề “Chư HànhVô Thường, Chư Pháp Vô Ngã, Hữu
Lậu Giai Khổ”, ngườiđời sau nghiên cứu như thế nào? Tư tưởng của ba
Pháp Ấntrên được giải thích gồm có năm Uẩn. Trước hết, Sắc
Uẩncủa năm Uẩn thì thuộc về phương diện vật chất ( nhục thể )và
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn Uẩn ở phía sau thì thuộc vềphương diện
tinh thần ( tâm lý ), do đó năm Uẩn được gọilà Chư Hành. Còn yếu
chỉ của năm Uẩn Đức Phật nói như thếnào? Đức Phật chỉ vì sự mê
tâm chấp ngã của chúng sanh chonên mới nói năm Uẩn và phân tích
tâm lý tường tận để chỉbày chỗ gọi là Tâm thì thể của nó cũng
vô ngã không tồn tại.Hơn nữa Đức Phật vì sự mê chấp Sắc Pháp cho
là ngã củachúng sanh, thế nên mới nói 12 Xứ và phân tích Sắc
Pháptường tận để chỉ bày sự vô ngã của vật chất. Tư tưởng
PhậtĐà sở dĩ được tiến bộ là nhờ đạo lý của Pháp Tướng DuyThức
đều kiến lập trên năm Uẩn, mười hai Xứ, mười támGiới làm học
thuyết căn bản cho đời sau. Nhưng luận lý củaPháp Tướng Duy Thức
không ngoài ba Pháp Ấn nói trên.Nhân chứng cho vấn đề này, Kinh A
Hàm của Phật GiáoNguyên Thỉ là bộ kinh hàm chứa tư tưởng Duy Thức
ở trong.143Tư tưởng về Duy Thức trong Kinh A Hàm xin được trình bàyrõ
sau đây:Bốn bộ Kinh A Hàm có rất nhiều chỗ đề cập đến đạo lýcủa
Duy Thức: như thuyết sanh tử luân hồi, thuyết nghiệpcảm duyên khởi,
đều do tâm làm chủ để tạo tác; hơn nữaKinh Tạp A Hàm lại nói đến
các pháp tướng, như Uẩn, Xứ,Giới, Duyên Khởi, Thực, Trụ,..v..v.....
đều gọi là Pháp Tướngcả. Sách Duy Thức Pháp Tướng Nhập Môn gọi
là Bách PhápMinh Môn Luận là bộ luận chuyên giải thích nghĩa lý
“Tất cảpháp vô ngã” của Kinh A Hàm để hiển bày nguyên lý
PhápTướng Duy Thức43 ; lại nữa Ngũ Uẩn Luận là bộ luận giảithích
năm Uẩn của Kinh A Hàm để hiển bày nguyên lý PhápTướng Duyên
Sanh44 . Chỗ khác nhau của Phật Kinh NguyênThỉ và Duy Thức là ở
điểm: Duy Thức thì nói có tám Thức vàtrái lại A Hàm chỉ nói có
sáu Thức. Đại Thừa Duy Thức trìnhbày sự luân hồi của chúng sanh
là do các thứ nghiệp phiềnnão và lúc vào |
thai thức
của mẹ chính là Thức A Lại Da thứtám. Khác hơn Kinh A Hàm thì lại
nói lúc vào thai của mẹchính là Ý Thức thứ sáu. Riêng sự phân
biệt danh tướng giữaNgũ Uẩn của Phật Giáo Nguyên Thỉ và Bách Pháp
của DuyThức, cũng như sự quan hệ của chúng như thế nào thì sau
nàymới đề cập đến.43 Tham khảo Ấn Độ Triết Học Sử, kỳ thứ 2,
chương thứ nhứt.44 Ngũ Uẩn Luận Tự của Âu Dương Tiệm nói rằng:
“Đại khái lý duyênkhởi của Duy Thức Tông kiến lập.... dùng lý
duyên sanh để thành lậpPháp Tướng Tông.... 17 Địa của Du Già thâu
nhiếp hết trong Nhị Môn.Kiến lập để làm một cội gốc, chọn lựa nơi
Nhiếp Luận, căn cứ nơi sựphân biệt của Du Già, khuếch trương rộng
lớn nơi Nhị Thập Duy Thức,nơi Tam Thập Duy Thức, nhưng phôi thai nơi
Bách Pháp Minh Môn,chính là Duy Thức Tông. Kiến lập để làm năm
chi, chọn lựa nơi TậpLuận, căn cứ nơi Biện Trung Biên, khuếch trương
rộng lớn nơi TạpTập..... nhưng cũng phôi thai nơi Ngũ Uẩn, chính là
Pháp Tướng Tông.”144Phật Giáo Nguyên Thỉ trừ ngoài Kinh A Hàm còn
có bảybộ luận nữa, như A Tỳ Đạt Ma Luận Tạng và Lục Túc PhátTrí
Luận,..v..v..... của Hữu Bộ. Riêng Thượng Tọa Bộ thìcũng có bảy
bộ luận, như Pháp Tụ Luận,..v..v..... Bảy bộ luậncủa Hữu Bộ là do
các bậc Đại A La Hán, đệ tử của Phật sángtạo, nhưng bảy bộ luận
này ra đời rất muộn. Bộ A Tỳ Đạt MaLuận Thích được gọi là Đối
Pháp Luận. Hình thức của bộluận này giống hệt như Khế Kinh và nội
dung của nó là giảithích các loại giáo lý nơi Kinh A Hàm45. Những
học thuyếttrong bộ A Tỳ Đạt Ma Luận Thích so với Duy Thức Học thìquan
hệ rất nhiều, đồng thời đối với Phật Học đương thời, tưtưởng và
danh từ Pháp Tướng thì được tổ chức cũng tươngđương có hệ thống.
Duy Thức Học chẳng qua chọn lấy họcthuyết của A Tỳ Đạt Ma Luận
Thích và cộng vào sự tổ chứcthêm nghiêm mật mà thôi. Như sự tổ
chức của Duy Thức NgũUẩn Bách Pháp đều căn cứ nơi Pháp Uẩn Túc
Luận, Ngũ SựTỳ Bà Sa Luận, Câu Xá Luận,..v..v.... để kiến lập. |
D.- PHẬT GIÁO BỘ PHÁI: |
Thời đại Phật Giáo Bộ Phái xuất hiện kể từ
sau Phật nhậpdiệt 120 năm ( Năm 267 Kỷ Nguyên ), Tăng Đoàn bắt
đầuphân hóa. Nguyên do tại Ấn Độ, nước Tỳ |
Xá Ly có vị
tỳkheo tên là Bạt Kỳ Tử vì thật hành mười thứ việc không
phảiluật pháp của Phật Giáo cho phép là nhân tố dẫn đến sự
phảnđối của đại chúng và cũng từ đó có cuộc kiết tập lần thứ
hai.Chỉ vì ý kiến không đồng nhất, hội nghị kiết tập đi đến kết45
Tham khảo A Tỳ Đạt Ma Nghiên Cứu của Mộc Thôn Tần Hiền và sựphát
đạt của Truy Vĩ Biện Lục Túc Luận ( Hải Triều Âm Văn Khố,
BiênLuận Thích Hạ thứ 3 ).145quả là bị phân hóa thành hai bộ phái:
một là Thượng Tọa Bộvà hai là Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ là
phái ChánhThống Bảo Thủ và Đại Chúng Bộ là phái Cách Tân
TiênTiến. Về sau hai phái này, mỗi phái lại tự tiến hóa sanh
thêmmột số phái nữa, tổng cộng thành hai mươi Bộ Phái PhậtGiáo.
Thượng Tọa Bộ thì phát triển đến địa phận Tích Lan,Miến
Điện,..v..v..... và thạnh hành cho đến ngày nay; ĐạiChúng Bộ thì
phát triển thành Đại Thừa và lưu hành nơi địaphận Trung Hoa, Nhật
Bản, Mông Cổ, Tây Tạng,..v..v.....Trong Đại Chúng Bộ, Duy Thức được
phổ biến và được cholà thuộc về Đại Thừa. Nơi các địa phận như
Tích Lan,..v..v....Thượng Tọa Bộ mãi đến hôm nay tuy không tin Phật
Học ĐạiThừa, nhưng các học giả của họ nghiên cứu thì lại
chẳngthiếu người nào. Lý do họ có một điểm dung thông với nhauđều
là Phật Giáo và cũng đều thuyết minh pháp nhân duyêncả46 .Phật
Giáo Bộ Phái thì chọn Phật Giáo của thời đại A DụcVương làm trung
tâm, nguyên vì vua A Dục đã từng ủng hộPhật Giáo làm quốc giáo.
Vua A Dục chánh thức lên ngôivào năm 271 trước Kỷ Nguyên và sau
đó, vào năm thứ 7, vuaA Dục liền tổ chức hoằng truyền Phật Giáo
đại quy mô. Nhờsự bảo hộ của vua A Dục, học giả Mục Kiền Liên
Đế Tuthuộc Thượng Tọa Bộ đứng ra triệu tập đại hội kiết tập
lầnthứ ba. Lần kiết tập này nói cho đúng chỉ là kiết tập
LuậnTạng và nhơn đó, đại hội suy tôn Thượng Tọa Bộ là hệ
pháiPhật Giáo thuần khiết chánh thống, đồng thời phê phán
họcthuyết của các tông phái khác47. Luận điển của Thượng TọaBộ
cũng đã từng giảng Tâm Pháp, Tâm Sở Pháp, Sắc Pháp46 Đây là căn
cứ nơi học giả của Nam Dương Khai Minh đã nói đến TửNgạnh Phái
Giáo Đồ chính là nói “Đại Thừa là ngoại đạo”.47 Thấy trong Biện
Tông Nghĩa Luận.146và Niết Bàn48. Về phương diện Tâm Pháp, Thượng
Tọa Bộthì có “Hữu Phần Tâm” và sau này học giả Duy Thức chínhnương
theo đó thành lập Thức A Lại Da. Xét đại thể, triếthọc |
của Thượng
Tọa Bộ thực tế không có mạch lạc và cũngkhông có phát triển
tiến bộ chút nào, nguyên vì họ quá chútrọng nơi sự bảo thủ. Họ
còn cho rằng, giáo điển thuộc vănhệ Pa Li mới thực sự là Phật
Giáo chân chánh. Đến nỗi đốivới những giáo điển này họ chỉ biết
một mực là “tin tưởng,vâng giữ và thi hành” mà không thể góp vào
ý kiến củamình. Và đối với vấn đề giải thích Phật Âm,..v..v....
họ cũngchỉ biết làm theo như con rùa soi gương mà không thể
nghiêncứu và phê phán thêm.Còn Đại Chúng Bộ: Đại Chúng Bộ thì
không có kinhluận nào truyền vào Trung Quốc, chỉ có một bộ duy
nhất làMa Ha Tăng Kỳ Luật. Tại Ấn Độ, Đại Chúng Bộ cũngkhông có
bao nhiêu kinh giáo để lại sau này và chỉ có thể tìmthấy giáo nghĩa
Đại Chúng Bộ trong Đại Tỳ Bà Sa Luận củaHữu Bộ, cũng như trong
điển tích của chính họ mà thôi. Giáonghĩa của Đại Chúng Bộ thì có
đề cập đến Thức Căn Bản;nhưng Thức Căn Bản đây xem lại nơi Duy
Thức Học chính làThức A Lại Da.Đặc biệt Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ
thì lại phát sanh từThượng Tọa Bộ và bộ phái này có tất cả bảy
bộ luận đềuđược truyền đến Trung Quốc. Phát Trí Luận, một trong
bảybộ luận nói trên, nội dung là giảng về Pháp Tướng. Ngoài
ra,Lục Túc Luận đều có quan hệ với Phát Trí Luận. Cho nênPhát Trí
Luận được xem như là Thân ( thân thể ) và sáu bộ48 Thấy trong Pháp
Tụ Luận và A Tỳ Đạt Ma Nhiếp Nghĩa Luận. Như nói:“Nói nghĩa đối
pháp đây, chân thật có bốn thứ: Tâm và Tâm Sở Pháp, tấtcả Sắc
và Niết Bàn”. Phẩm đầu, trang nhứt.147luận kia được xem như là Túc
( chân tay ). Bảy bộ luận nóitrên đều giảng về Pháp Tướng, như
trong Pháp Uẩn TúcLuận và Giới Thân Túc Luận đều giảng Sắc
Pháp,..v..v.....đều giảng 5 Ngôi Vị và 75 Pháp. Theo hai bộ luận
này, hiệntượng các pháp là thuộc về Duy Vật Luận, nghĩa là do
SắcPháp mà có Tâm Sở Pháp, Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp,Vô Vi
Pháp hiện khởi và cho rằng, Sắc Pháp chính là cănbản, còn Tâm
Pháp thì thuộc về chi nhánh; về sau tư tưởngcủa hai bộ luận này
phát triển thành học thuyết Đại ThừaPháp Tướng Duyên Sanh. Ngoài
ra các Bộ Luận còn lại đềuthuộc về Duy Tâm Luận và họ chủ
trương: hiện tượng cácpháp là do Tâm Pháp mà có Tâm Sở Pháp, Sắc
Pháp, TâmBất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp hiện khởi và chorằng,
Tâm Pháp chính là căn bản, còn Sắc Pháp thì thuộc vềchi nhánh; về
sau những tư tưởng của những Bộ còn lại |
nóitrên
phát triển thành học thuyết Đại Thừa Duy Thức ChuyểnBiến49. Riêng
học thuyết Hữu Bộ chuyên sưu tập tài liệu, tổchức rất có tiến
bộ và trở thành luận phái đổi mới của họcphái Tiểu Thừa, được
gọi là Cách Tân Luận Phái, nghĩa làhọc phái cải cách canh tân.
Căn bản học thuyết của học pháinày nếu như so sánh với Thượng Tọa
Bộ thì có phần tiến bộrất xa. Thành phần Ngũ Vị, Pháp Thể Thật
Hữu,..v..v....,cũng như Tam Thế Thật Hữu, thành phần Hữu Vi và Vô
Vi,tất cả đều có thể gọi là Nhị Nguyên Luận; học thuyết “ Cựcvi (
Nguyên Tử ) là nguyên nhân sanh ra vạn pháp” của HữuBộ chủ trương
có thể cho là Thật Tại Luận của Duy Vật.Còn các học thuyết khác,
như Sắc Tâm Hổ Huân, Vi TếÝ Thức, Chủng Tử của Kinh Bộ, như Phi
Tức Uẩn, Phi LyUẩn Ngã của Độc Tử Bộ, như Bất Thất Pháp của Kinh
LượngBộ, như Cùng Sanh Tử Uẩn của Hóa Địa Bộ, những tư tưởng49
Thấy trong Ấn Độ Triết Học Sử, chương thứ 2, trang thứ 219.148này
được phát sanh trong thời kỳ đó xem ra đều có quan hệmật thiết với
Duy Thức Học.Tóm lại, mọi người đều công nhận là có một Tâm
LinhThức Thể của mỗi cá thể liên tục nối kết sanh tử và danhxưng
của nó xét cho cùng thì không giống nhau. Thật thể củaTâm Linh này
thì chỉ có một và khắp đó đây. Quan niệm đókhông riêng gì Phật
Giáo nhận định có một thứ pháp nói trên,các giáo phái Ấn Độ
cũng đều thừa nhận có một thứ vật tồntại để làm thể cho sự
luận chuyển. Như Bát Thức Quy CủTụng nói rằng: “Khứ hậu lai tiên
tác chủ ông” ( nghĩa là TâmThức chuyên làm ông chủ, khi đi thì đi
sau và khi đến thì đếntrước ). Do đây xét lại, toàn bộ học phái
Phật Giáo chỉ cần sửdụng trí tuệ của Phật Đà làm điểm để đứng,
tuy rằng chỗkiến giải của họ không giống nhau, nhưng có thể dung
thôngvới nhau, mặc dù các tông phái có những đặc điểm thù
thắngriêng biệt. |
II.- DUY THỨC HỌC VÀPHẬT HỌC ĐẠI THỪA ẤN
ĐỘ: |
Phật Học Đại Thừa phát sanh sau Phật nhập
diệt 400năm, khoảng từ thế kỷ thứ nhất trước Kỷ Nguyên. Phật
GiáoĐại Thừa tại Nam Ấn và Tây Bắc Ấn là những địa điểm lầnlượt
phát triển cho đến ngày nay. Căn cứ nơi truyền ký: họcgiả đầu
tiên đề xướng Đại Thừa chính là Bồ Tát Mã Minh.Có thuyết cho rằng
Bồ Tát là |
người tiền
phong đề xướng ĐạiThừa và cũng có thể nói ngài là vị Tổ Sư đầu
tiên của ĐạiThừa Giáo. Từ thời đại Mã Minh trở về trước, kinh
điển PhậtGiáo Đại Thừa lẽ đương nhiên hoàn toàn đã được phát
hiệnvà nhất định cũng có người đề xướng mà Bồ Tát Mã Minh149chỉ
là học giả phụ trách có nhiệm vụ phát huy tư tưởng ĐạiThừa trở
thành nổi tiếng. Bồ Tát Mã Minh là một thiên tài rấtgiỏi về văn
học được quốc vương kính trọng, cho nên dễ thuhút mọi người chú ý
đến Đại Thừa. Bồ Tát Mã Minh sanhvào cuối thế kỷ thứ nhất của
Công Nguyên, nhằm thời kỳVua Ca Nị Sắc Ca đương kim chấp chánh. Bồ
Tát chính làngười sáng tác bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận và có người
chođó là ngụy tạo, nhưng vấn đề đây đáng được nghiên cứu50 .Đại
Thừa Khởi Tín Luận mặc dù trình bày nguyên lý DuyThức, nhưng chỉ sử
dụng danh nghĩa “Tâm Chúng Sanh” làmnền tảng thâu nhiếp tất cả
pháp và thuyết minh Như LaiTạng Duyên Khởi làm chủ yếu để hiển
bày Thể của ĐạiThừa Bất Cộng. Như học thuyết Nhất Tâm Nhị Môn
của ĐạiThừa Khởi Tín Luận chủ trương. Nhứt Tâm Nhị Môn gồm có:Tâm
Chân Như Môn và Tâm Sanh Diệt Môn. Tâm Chân NhưMôn là Pháp Vô Vi
không sanh không diệt ( Lý ); Tâm SanhDiệt Môn là Pháp Hữu Vi ( Sự
). Nhứt Tâm Nhị Môn nói trênlà Thể Đại Tổng Tướng Pháp Môn của
một pháp giới, nghĩalà Tổng Thể đây bao trùm tất cả Pháp Tướng
và tất cả PhậtPháp. Những dữ kiện nói trên là căn cứ nơi Sử Ấn
Độ vàđược xem thấy trong Phạn Văn của Bồ Tát trước tác lưutruyền
cho đời sau51. Ngoài ra Bồ Tát còn là một thi nhânPhật Giáo nổi
tiếng và Thi Phẩm bằng Phạn văn của Bồ Tátđã chiếm địa vị trứ
danh trong Văn Học Sử Cổ Điển!52Học giả thứ hai là Bồ Tát Long
Thọ. Bồ Tát ra đời sau BồTát Mã Minh, có chỗ nói là đồng thời
với Bồ Tát Mã Minh,50 Được thấy trong “Triết Học Sử Ấn Độ”, chương
thứ nhứt và trong kinhđiển Đại Thừa của thời kỳ thứ nhứt, trang
269.51 Tham cứu trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận Nghiên Cứu”.52 Tham cứu
trong Phạn văn “Phật Sở Hạnh Tán Kinh” cùng với “Tôn ĐàLa Nan Đà”
và “Cảnh” của Tạng Văn Dịch Bổn tức là thi phú diễn tảtình ái
rất vui.150người Nam Ấn ( nay thuộc Mạn Đức Lạp Tư, nơi phía bắc
núiKiết Tường ), ước định sanh vào khoảng 150 năm đến 250năm Công
Nguyên. Truyền thuyết rằng, Bồ Tát thỉnh KinhHoa Nghiêm nơi Long Cung
và thỉnh Kinh Đại Nhật nơi |
NamThiên
Thiết Tháp,..v..v.... Nếu quả đúng như thế đích thực làthần thoại,
nhưng trên thực tế Bồ Tát là một học gia khảo cổ.Vào khoảng thế
kỷ thứ nhứt trước Kỷ Nguyên, Kinh ĐạiThừa Bát Nhã,..v..v..... bắt
đầu xuất hiện tại Tây Bắc Ấn Độvà cũng là tư tưởng đối lập của
Hữu Bộ. Còn Nam Ấn Độ làchỗ căn cứ của Đại Chúng Bộ và cũng
là nơi tư tưởng Khôngcủa Bát Nhã rất phát đạt. Vào khoảng thế kỷ
thứ nhứt KỷNguyên, Kinh Bát Nhã đã tồn tại nơi Nam Ấn Độ và
TrungƯơng Á Tế Á. Tư tưởng Long Thọ sở dĩ được đại biểu choPhật
Học Đại Thừa của thời kỳ thứ nhất là vì Bồ Tát trởthành học
giả đánh dấu của thời đại [ 53] . Nếu như so sánhgiữa Bồ Tát Long
Thọ và Bồ Tát Mã Minh, học thuyết củaBồ Tát Mã Minh thì bao gồm
Tánh Tướng dung thông lẫnnhau và Có Không cùng nhau hiển bày. Còn
Bồ Tát LongThọ thì thiên về phương diện nguyên lý Không của
PhápTánh; sau đó Bồ Tát Vô Trước,..v..v..... xuất hiện thì lại
thiênvề phương diện sự thật của Pháp Tướng; riêng con sông
họcthuyết trước kia của Bồ Tát Mã Minh thì đầy đủ cả hai tưtưởng
nói trên. Từ khi Bồ Tát Long Thọ khởi xướng, PhậtGiáo Đại Thừa
rất nên phát đạt, có thể nói Bồ Tát Long Thọlà Tổ thứ hai của
Đại Thừa Ấn Độ và cũng là bậc Thánh thứnhất sau này của Phật
Đà. Bồ Tát chính là ngọn đuốc to lớncủa Phật Học Đại Thừa và
giáo nghĩa Đại Thừa do Bồ Tátphát huy thì soi sáng rộng xa ngàn
trượng. Học thuyết lớn củaBồ Tát có chỗ siêu việt tợ hồ như
những ngôn từ khí khái củaĐức Phật Thích Ca Mâu Ni và do đó cổ
nhân đều tôn vinh BồTát là Tổ Sư của tám Tông Phái53. Bồ Tát
chính là nhà triết53 Giáo học của Long Thọ ( Nhật Bản Tả Tả Mộc
Nguyệt Tiều Trước, do151học, nhà tư tưởng và nhà phê bình vĩ đại
của Triết Học ẤnĐộ thời bấy giờ. Bồ Tát đề xướng học thuyết
Bát Nhã,chuyên môn phát huy giáo nghĩa Tánh Không Duyên Khởicủa
Phật Đà, dùng Tánh Không làm giáo học của Trung ĐạoLiễu Nghĩa.
Phật Học tại Ấn Độ từ Bồ Tát Long Thọ trở vềsau đều chạy trên
con đường Hình Nhi Thượng Học hoàntoàn cực đoan. Học thuyết Không
cốt yếu của Bồ Tát như thếnào?Căn cứ nơi lời dạy của Phật sau
khi diệt độ, người TiểuThừa luôn luôn chấp trước cho tất cả pháp
đều có, chấp rằngPháp thì thật tại của ngã, cho nên Bồ Tát Long
Thọ căn cứnơi Kinh Bát Nhã,..v..v..... đả phá sự chấp có của họ.
Bồ Tátnói: Đức Phật dạy các pháp đều do nhân duyên sanh và |
đãduyên sanh
tức là Tánh Không. Bồ Tát đối với Mười HaiNhân Duyên phát huy
rất tường tận và sử dụng nghĩa TrungĐạo của Tánh Không Duyên Khởi
đây phê bình tất cả họcthuyết đến chỗ rất linh hoạt. Bồ Tát Mã
Minh mặc dù đềxướng Đại Thừa đầu tiên, nhưng thực sự chỉ là thi
nhân màkhông phải là nhà triết học và lại cũng không phải là
nhà phêbình, cho nên trên bình diện học Phật, tiếng tâm vang
rộnglớn lao của Bồ Tát không bằng Bồ Tát Long Thọ. TrongTạng
Luận, những tác phẩm của Bồ Tát Long Thọ sáng tácước lượng có
thể phân thành năm loại:1)- Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn
Luận, ThấtThập Không Luận, đây là những kinh điển giải thích hệ BátNhã
để hoằng dương tư tưởng Không.Trương Ngã Quân dịch, Hải Triều Âm
xuất bản, quyển thứ 11, định kỳthứ 12 ) nói rằng: “Đặc biệt Long
Thọ được tôn xưng là Tổ Sư của támTông...... Xưa nay Phật Học của
Long Thọ cũng được tôn sùng là Tổ Sưcủa tám Tông....”1522)- Hồi
Tránh Luận, Lục Thập Như Lý Luận, là phê pháncác học thuyết
ngoại giáo để xương minh nghĩa Không.3)- Đại Trí Độ Luận là chú
giải Đại Phẩm Bát Nhã.4)- Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Đại Thừa Nhị
Thập Luận,trước hết là chú giải Thập Địa Kinh và sau đó là thuyết
minhDuy Thức Chánh Lý.5)- Tư Lương Luận, Vương Chánh Pháp Luân,
KhuyếnVương Tụng,..v..v..... là thuyết minh pháp môn tu hành củaBồ
Tát.Sở học của Bồ Tát Long Thọ không chỉ nằm trong phạmvi cái
“Không” mà thôi. Bồ Tát đối với các học thuyết củangoại đạo và
Tiểu Thừa, tuy nói là chỉ đả phá mà không kiếnlập, nhưng kỳ thực
trong đó bao gồm cả kiến lập, như họcthuyết Tánh Không Duyên Khởi
của Bồ Tát gồm có Bát BấtTrung Đạo ở trong ( Lý học ), và Bồ
Tát Hạnh,..v..v.... đều lànhững tác phẩm do Bồ Tát kiến lập. Rất
nhiều người truyềnthừa học thuyết của Bồ Tát như, Đề Bà, Thanh
Mục, ThanhBiện, Nguyệt Xứng,..v..v.... đều là những nhân vật nổi
tiếngsắc sảo và bén nhọn của học phái Long Thọ.Những học giả
thứ ba là hai anh em Vô Trước và ThếThân. Hai vị này ra đời ước
lượng vào khoảng 310 năm đến400 năm Công Nguyên. Kinh điển Đại
Thừa hưng khởi củathời kỳ thứ nhất trở về trước thì chỉ ẩn chứa
nguồn gốc sâu xacủa học hệ Long Thọ. Còn sau Long Thọ, Kinh điển
ĐạiThừa thực sự được phát hiện chính là căn cứ nơi học hệ DuGià
của Vô Trước và Thế Thân,..v..v.... |
Kinh điển
Đại Thừacủa thời kỳ này đại lược trong khoảng thời gian kể từ
Kỷ153Nguyên 200 năm đến 400 năm, gồm có Kinh Thâm Mật,Kinh Thắng
Man,..v..v..... Vô Trước và Thế Thân cũng nhưcác đệ tử sau này của
quý ngài đều tận lực phát huy kinhđiển duy nhất của hệ phái mình.
Vô Trước và Thế Thân trướcđây theo xuất gia nơi Tiểu Thừa Hữu Bộ,
nhưng về sau lạihoằng dương Phật Học Đại Thừa và hai ngài đề xướng
PhápTướng Duy Thức đều căn cứ nơi học thuyết Du Già của BồTát Di
Lặc, trình bày tất cả pháp đều “Có” ( tồn tại diệu hữu). Học
thuyết Có của Vô Trước và Thế Thân so với họcthuyết Không của
Long Thọ thì tương đối hơi xa, một bên thìKhông và một bên thì Có,
cả hai đều quan niệm Có một cáchdiệu lý, đó là nguyên do đưa đến
hai đại học phái Đại Thừađược thành lập. Cổ nhân cho rằng, hai
đại học phái này cũngnhư hai bánh xe của một cổ xe. Thầy của Vô
Trước có nóirằng, ngài là người đồng thời với Bồ Tát Di Lặc và
theotruyền tuyết của Phật Giáo Cựu Sử: Ngài Vô Trước mỗi lầnnhập
định lên trời Đâu Xuất thỉnh giáo với Đức Phật Di Lặcđời vị lai và
Đức Phật Di Lặc vì lợi ích của giáo pháp liềnthuyết giảng cho ngài
nghe. Sau khi xuất định, ngài liền ghilại những lời của Phật Di Lặc
và lập thành 100 quyển mangtên là Du Già Sư Địa Luận. Du Già Sư Địa
Luận là bộ luậncăn bản của Duy Thức Học và bộ luận này chỉ
thuyết minh“Diệu Hữu” mà không thuyết minh “Tánh Không”. Nguyêndo
mọi người lúc bấy giờ đều chịu ảnh hưởng của học pháiLong Thọ,
đại bộ phận đều chấp trước cho tất cả hoàn toàn làKhông, những
gì có liên quan đến nhân quả cũng đều thuộcvề Không cả, cho nên
cái Không trở thành ác thú, không chỗnào là không lo sợ sẽ bị
lọt vào đại tà kiến. Những ngườinghiên cứu Phật Học đều giống nhau
như thế, lẽ dĩ nhiên đềucó căn bệnh Không Kiến Ác Thú trở thành
tư tưởng và cănbệnh đây cần phải gia công trị liệu bằng cách cải
chánh: thứtư tưởng này nếu như muốn cải chánh không cách nào
kháchơn là phá trừ tà chấp, tà kiến của cái Không, mà muốn
đả154phá cái Không thì không ngoài thuyết minh cái Có để đối
trị.Vì muốn phá trừ tà chấp, tà kiến của cái Không nói trên,
DuGià Duy Thức Học nhân đây được phát sanh. Đúng ra họcphái của
Long Thọ là nhân duyên trực tiếp giúp cho học pháicủa Vô Trước
và Thế Thân hội đủ thời cơ thích ứng để trởthành một học
thuyết.155 |
CHƯƠNG V |
QUAN NIỆM KHÁI LƯỢC VỀLỊCH SỬ CỦA DUY THỨC
HỌC |
Học Phái Duy Thức xem như chiếm địa vị trọng
yếu trongPhật Học, đã trở thành một học phái rất lớn và học
phái nàycũng đã có bối cảnh lịch sử của nó. Học phái Duy Thức
sở dĩđược mang danh hiệu Duy Thức Học Sử là do những năm gầnđây có
cư sĩ Mai Hiệt Vân thường góp nhặt Duy Thức HọcSử Truyện ( bộ sách
này đã mất ); Pháp Sư Mặc Thiền đã156từng dịch Duy Thức Tư Tưởng
Sử của Lệnh Văn người Nhậtgóp nhặt kết thành, chưa thấy xuất
bản, không biết bản thảomất ở chỗ nào, thật là sự việc đáng
tiếc. Trong thời kỳ khángchiến, Pháp Sư Ấn Thuận có sáng tác Duy
Thức Học ThámNguyên. Bao nhiêu loại sách Duy Thức trên đây đều
làchuyên luận về Duy Thức Học Sử. Ngoài đây, các sách gồmcó
Chỉnh Lý Tăng Già Chế Độ Luận của Đại Sư Thái Hư,Phật Giáo Các
Tông Phái Nguyên Lưu, cho đến Phật GiáoCác Tông Đại Ý của cư sĩ
Hoàng Sám Hoa, Trung Quốc PhậtGiáo Sử, Ấn Độ Phật Sử của tiên
sinh Lữ Trừng, Các QuốcPhật Giáo Sử của Phật Học Viện Võ Xương
xuất bản, Ấn ĐộPhật Giáo Sử, Trung Hoa Phật Giáo Sử,..v..v.....
đều có giảngđến Duy Thức Học Sử và những sách kể trên khả dĩ
đáng đểsử dụng vào việc tham khảo cho vấn đề nghiên cứu về
lịchsử của một học phái Duy Thức. Hiện tại chúng ta chỉ có
thểtường thuật đại khái về lịch sử của Duy Thức Học. |
I.- SỰ PHÁT NGUYÊN CỦA DUY THỨCHỌC:( Từ 431
năm đến 350 năm trước Kỷ Nguyên ) |
Kinh Giáo của thời đại Phật Đà đại khái nói
rằng: tất cảtư tưởng Phật Học đều phát nguyên từ sau khi Đức Phật
ThíchCa Mâu Ni ngộ đạo, tuy nhiên tư tưởng của Phật Đà lấy nơiKinh
Phệ Đà cố hữu và tư tưởng của các tông giáo, các triếthọc đương
thời làm bối cảnh, có thể là Kiều Đạt Ma Phật Đàđối với trào
lưu tư tưởng đương thời có chỗ kiến giải đặc sắc,nghĩa là đã giác
ngộ được bối cảnh của họ và của chính mình.Tư tưởng lý luận của
Duy Thức Học được thành lập mặc dùlà chịu ảnh hưởng hoàn toàn
của sáu phái triết học Ấn Độ,đặc biệt là chịu |
ảnh hưởng tư
tưởng của phái Phệ Đàn Đa,nhưng thực tế trên căn bản là phát
nguyên từ nơi Kinh Giáo157A Hàm của Kiều Đạt Ma Phật Đà. Chúng ta
có thể nói ThànhDuy Thức Luận Lý là phê phán tư tưởng Bộ Phái
Tiểu Thừađịa phương, nhằm mục đích tẩy trừ chỗ chấp trước thiên
lệchvà kiên cố của họ để hiển bày bổn ý của Phật Đà đã
đượcgiải thích trong Kinh A Hàm. Điển hình như Bách Pháp Luậncủa Duy
Thức, Ngũ Uẩn Luận, Đại Thừa Tập Luận, Bổn ĐịaPhần Nhiếp Quyết
Trạch phần sau quyển hai của Du Già SưĐịa Luận cùng với Nhiếp Dị
Môn Phần và Nhiếp SựPhần,..v..v.... gồm 20 quyển, đại bộ phận đều
là giải thích ýKinh của Tạp A Hàm,..v..v..... Bao nhiêu đó cũng nói
lênđược rằng Duy Thức Học là môn học được phát nguyên từ nơiPhật
Giáo Căn Bản của Nguyên Thỉ. Thời đại Phật Giáo CănBản là thời
đại phát khởi kể từ Phật Đà chứng chánh giác (431 năm trước Kỷ
Nguyên ), thẳng đến thời đại các đệ tửcuối năm thứ nhứt (ước
lượng 350 năm) là chấm dứt. |
A.- KINH PHẬT: |
Kinh Phật thì bao gồm các Kinh được kiết tập
lần thứnhất sau Phật diệt độ, tứ là bốn bộ Kinh A Hàm, như
KinhTạp A Hàm thì có chỗ thuyết minh Pháp Tướng của DuyThức. |
1)- NGŨ UẨN TỤNG:
|
Ngũ Uẩn gồm có Sắc ( vật chất ),Thọ, Tưởng,
Hành ( Tâm Sở ), Thức ( Tâm Vương ), đây là tưtưởng cơ bản của
Pháp Tướng Duy Thức làm căn cứ. DuyThức Học trong đó có phát huy
Ngũ Uẩn Luận, Bách PhápLuận, Tâp Luận Đẳng Thích. |
2)- DUYÊN KHỞI TỤNG: |
Bốn bộ A Hàm Kinh trong đócó chỗ thuyết minh
các Kinh Thập Nhị Nhân Duyên và DuyThức thì căn cứ nơi Tối Thắng
Duyên Khởi Pháp Môn Kinh158trong bốn bộ A Hàm để kiến lập A Lại Da
Thức Duyên Khởi.Thành Duy Thức Luận gồm |
có tám
quyển, trong đó thuyếtminh sâu rộng đạo lý duyên khởi về mười hai
Hữu Chi củaHoặc Nghiệp Khổ, chính là quyết trạch về giáo nghĩa của
AHàm. |
3)- TỨ ĐẾ TỤNG:
|
Tứ Đế cũng là chỗ căn cứ của tưtưởng Duy
Thức. Quả Dị Thục của học thuyết Duy Thứcchính là Khổ Đế; Phiền
Não và Nghiệp chính là Tập Đế; tuNgũ Trùng Duy Thức Quán và
chuyển tám Thức thành bốnTrí chính là Đạo Đế; chứng đặng hai quả
Chuyển Y chính làDiệt Đế. Cho nên Duy Thức Học cũng không thể lìa
khỏi đạolý của Tứ Đế. Thinh Văn Địa của Du Già Sư Địa Luận vàTập
Luận Đẳng Trung thuyết minh sâu rộng Tứ Đế. ThànhDuy Thức Luận
trong quyển thứ 9 có nói rõ sự Kiến ĐạoHiện Quán của ngôi vị
Thông Đạt và trình bày về hình tướng16 Tâm An Lập Đế của Kiến Đạo
Sở Quán đều là quánchiếu về Tứ Đế này cả. |
4)- XỨ GIỚI TỤNG: |
Giáo nghĩa
của mười hai Xứ vàmười tám Giới,..v..v.... đã được giải thích sâu
rộng trong cácbộ luận như, Ngũ Uẩn Luận, Đại Thừa Tập Luận,..v..v....Những
Xứ Giới nói trên cũng là Pháp Tướng của Duy Thức.Bao nhiêu dữ
kiện vừa trình bày cũng đủ chứng minh cho tưtường Duy Thức đều là
căn cứ nơi Kinh A Hàm của thời đạiPhật Đà; hơn nữa tất cả Kinh
Phật đều thiên trọng nơi nguyênlý Nhân Quả. Cho nên học thuyết
“chủng tử sanh hiện hànhvà hiện hành huân chủng tử” trong Duy Thức
Học đều pháthuy đạo lý nhân quả rất tinh tường. Như bài Tụng nói
rằng:“Các pháp nơi trong Thức Tạng, Thức nơi trong các pháp đềucũng
như thế, lại lẫn nhau làm Tánh của Quả, cũng thườnglàm Tánh của
Nhân”. Đây là thuyết minh đạo lý Nhân Quảcủa A Lại Da Duyên
Khởi.159 |
B.- ĐỆ TỬ LUẬN: |
Đệ Tử Luận là chỉ cho những bộ luận trong đó
gồm cóLục Túc Phát Trí,..v..v.... của Hữu Bộ đã được truyền thừa
ởphương Bắc, nguyên vì những Luận Điển này là học thuyếttruyền
thừa của Hữu Bộ làm căn cứ, do các đệ tử thời đại thứnhứt |
của Phật Đà
hoặc do các đệ tử thời đại thứ hai sáng tác.Những Luận Điển trên
đây đều giải thích Kinh A Hàm vànhững điều lý luận của các bộ
luận này phát huy so với tưtưởng của Phật Đà thì đi không quá xa.
Lục Túc Luận thì sớmhơn, trong đó rõ ràng là kinh điển thuộc về
thể tài hình thức;Phát Trí Luận, Đại Tỳ Bà Sa Luận,..v..v.... thì
muộn hơn, nộidung cũng như tổ chức rất có hệ thống, những bộ luận
vừa đềcập đều là căn cứ của tư tưởng Duy Thức Học. Còn Phật
Họcsau đó thì thuộc về thời đại Bộ Phái phân liệt và Bắc
phươnglà nơi truyền thừa tư tưởng “Pháp Hữu Ngã Không” rất
phátđạt, nhưng tư tưởng đây so với tư tưởng “Y Tha Hữu” củaDuy Thức
thuyết minh thì đồng một tông phái. |
II.- SỰ MANH NHA CỦA DUY THỨCHỌC:( Từ 351 năm
đến 100 năm trước Kỷ Nguyên ) |
Tổng quát thời đại bộ phái Phật Giáo: tức
là chỉ cho cáchọc phái Phật Giáo sau Phật nhập diệt 200 năm. Trong
thờiđại này, các đệ tử Tỳ Kheo cạnh tranh với nhau chia tông
lậpphái, theo như Biện Tông Nghĩa Luận của Nam Phương54,54 Bộ luận
này nguyên tên là Katha Vathu, có thể dịch trực tiếp là ThuyếtSự
hoặc Luận Sự. Nguyên nhân chữ Katha phổ thông dịch là
“Thuyết”,cũng có thể dịch là “Biện” (Vathu), hoặc dịch là “Biện
Sự”; Katha Vathu160Dị Bộ Tông Luân Luận của Bắc Phương, Văn Thù
VấnKinh,..v..v.... cho biết: Bộ Phái thật quá nhiều, có đến 28
Bộ.Hiện tại, 18 Bộ Phái, trong đó chắc chắn cùng với Duy Thứccó
quan hệ giống nhau về phương diện học thuyết. |
A)- NAM TRUYỀN THƯỢNG TỌA BỘ: |
Hiện nay, Miến Điện, Tích Lan, Xiêm La là
những quốcgia truyền thừa Phật Giáo Thượng Tọa Bộ. Họ xưng là
PhậtGiáo thuần túy, là Phật Giáo chánh thống. Luận Tạng củaphái
này bao trùm tư tưởng Duy Thức ở trong, như Pháp TụLuận của họ
thuyết minh hai pháp Tâm và Sắc, nhưng kỳthực là nói thiên lệch
hai pháp Tâm và Tâm Pháp; hơn nữaPháp Tụ Luận còn nói đến nghĩa
của Cửu Tâm Luân, CửuTâm Luân nghĩa là Tri Thức Luận của Phật
Học tức là bìnhluận về quá trình của tri thức sanh sản: |
1>- Hữu
Phần Tâm: là tâm an bình tịnh lạc và vô niệm; |
2>- Năng Dẫn Phát Tâm: là tâm đang an bình
tịnh lạcthoạt nhiên khi gặp cảnh giới liền khởi tâm không thận
trọngnên bị đọa; |
3>- Kiến Tâm: tức là sự trực giác của
năm giác quan; |
4>- Đẳng Tầm Cầu Tâm: tức là khởi tâm
tiếp tục đi tìmcầu những đối tượng nào đó; |
5>- Đẳng Quán Triệt Tâm: tức là khởi tâm
tìm cầu trởlại ba lần để được thông suốt; |
6>- An Lập Tâm: là sau khi hoàn toàn thông
suốt đốitượng nào đó liền có thể cung cấp cho họ một danh xưng;cũng
có thễ dịch là “Tông Chỉ” hoặc “Chủ Nghĩa”. Nhân đây, chúng tôidịch
là “Biện Tông Nghĩa Luận”. Nội dung của bộ luận này là thuyếtminh
tông chỉ kiến giải của các Tông Phái.161 |
7>- Thế Dụng Tâm: là khảo sát đích thực
không phảichân thiện mỹ liền sanh khởi tâm niệm yêu thích và
khôngyêu thích; |
8>- Phản Duyên Tâm: là tâm đạt đến ấn
tượng thâmhậu, hoặc có thể nhớ lại ký ức; |
9>- Hữu Phần Tâm: là tâm trở về ngôi vị
Hữu PhầnTâm ban đầu.Vấn đề Cửu Tâm Luân nói trên, trong Đại Thừa
DuyThức có trình bày rất tường tận theo trình tự năm loại nhưsau:
Quá trình tâm thức sanh khởi, chỉ có không thận trọng,tìm cầu, phân
biệt nhiễm tịnh, đẳng lưu ( nhân nào quả nấy ).Chúng ta nhận thức
ngoại vật chính là động niệm bắt đầukhởi lên, cho đến nhận thức
chấm dứt cần phải trải qua CửuTâm Luân nói trên. Còn Hữu Phần
Tâm đây trong ThànhDuy Thức Luận là chỉ cho Thức A Lại Da. |
B)- ĐẠI CHÚNG BỘ: |
Bộ phái này
đối lập với Thượng Tọa Bộ từ lúc sơ khởi vànó không phải là hệ
phái chánh thống. Tư tưởng của họthuyết minh mỗi cá thể chúng sanh
đều có Thức Căn Bản,cũng tức là Thức A Lại Da. |
C)- THUYẾT NHỨT THIẾT HỮU BỘ: |
Nguyên thỉ Hữu Bộ phân hóa từ nơi Thượng Tọa
Bộ, đãđược thạnh hành hơn bốn năm trăm năm tại các vùng đất
TâyBắc Ấn Độ và Trung Ương Á Tế Á, vào thời đại vua Ca NịSắc Ca
ngự trị. Như trước đã nói, Bộ này ảnh hưởng rất lớnđối với tư
tưởng của Duy Thức, nghĩa là Duy Thức hoàn toànthu nhặt tổ chức
tất cả Pháp Tướng của Hữu Bộ. Giáo lý, tư162tưởng và ngã tưởng
nếu như không có trong Hữu Bộ thì nhấtđịnh không hội đủ điều kiện
để phát sanh Duy Thức Học. |
D)- KINH LƯỢNG BỘ: |
Căn Cứ nơi sự khảo chứng của các học giả
cận đại, ThànhThật Luận là một bộ luận của Kinh Lượng Bộ và tư
tưởngcủa phái này cùng với Duy Thức Học cũng có quan hệ rấtlớn.
Sự quan hệ giữa Kinh Lượng Bộ và Duy Thức Học đượctóm lược mấy
điểm như sau: |
1)- Thuyết Huân Tập: |
Họ nói Sắc và Tâm quan hệ nhauđể huân tập
và chữ Tập đây là chỉ cho tập khí, tức là tánh tậpquán mà cũng
chính là chủng tử. Tánh Tập Quán nghĩa lànhững thói quen huân tập
dần dần trở thành tánh chất. NgườiTrung Quốc thường nói: “Gần son
thì đỏ, gần mực thì đen”,đều là một thứ ý nghĩa của tập quán.
Thuyết Huân Tập nóitrên cùng với Thức Căn Bản và nghĩa Huân Tập
ChuyểnThức thì rất có quan hệ với nhau; |
2)- Thuyết Chủng Tử: |
Thiện pháp thì có chủng tử củathiện pháp,
ác pháp thì có chủng tử của ác pháp, Sắc Pháp vàTâm Pháp đều
có chủng tử cả. Thuyết Chủng Tử, theo KinhLượng Bộ giải thích: Sắc
và Tâm quan hệ nhau huân tập đểthành hình, chỉ có Duy Thức mặc dù
không nói đến Sắc vàTâm quan hệ nhau để huân tập, nhưng trên thực
tế |
không thểly
khai hẳn Sắc Pháp. Thuyết Huân Tập và Thuyết Chủng Tửcủa Duy Thức
thì hoàn toàn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm củaKinh Lượng Bộ.163 |
3)- Học Thuyết Kinh Lượng Bộ: |
Học Thuyết Kinh LượngBộ thì có Tế Ý Thức và
Thô Ý Thức, mà Tế Ý Thức tức làchỉ cho Thức A Lại Da.Giáo nghĩa
của bốn bộ phái nói trên, Thế Thân lúc thiếuniên đều có nghiên
cứu đến, cho nên học thuyết ngài khôngthể ly khai tư tưởng của bốn
bộ phái này. |
III.- THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH CỦADUY THỨC HỌC:(
Từ thế kỷ thứ nhứt đến thế kỷ thứ ba sau CôngNguyên ) |
A)- THỜI ĐẠI KINH ĐẠI THỪA: |
Đại Thừa Phật Giáo phát khởi khoảng từ sau
Phật nhậpdiệt độ 500 năm, tức là khoảng trước và sau thế kỷ thứ
nhứtCông Nguyên. Thời kỳ đây có hai giai đoạn: một giai đoạnphát
hiện Kinh Đại Thừa và một giai đoạn sáng tạo Luận ĐạiThừa. Thời
đạiđược Duy Thức Học làm căn cứ để phát huy. Đại Thừa LụcKinh
gồm có: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Giải Thâm Mật, KinhLăng Già, Kinh Như
Lai Xuất Hiện Công Đức, Kinh MậtNghiêm, Kinh Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma.
Trong sáu bộ KinhĐại Thừa vừa kể, chỉ có hai bộ thứ tư và thứ sáu
chưa dịchthành Hán Văn. Hơn nữa trong sáu bộ kinh nói trên,
riêngKinh Hoa Nghiêm thì không còn Phạn bản hiện hữu, nhưngKinh Lăng
Già thì Phạn bản vẫn còn lưu hành. Tư tưởng chủyếu của sáu bộ
Kinh Đại Thừa là thuyết minh tất cả đạo lýcủa Duy Thức và trong
đó Thức A Lại Da thứ tám luôn luônđược đề cập đến. Luận thuyết A
Lại Da Duyên Khởi được164kiến lập từ nơi sáu bộ Kinh Đại Thừa nói
trên và luận thuyếtĐại Thừa Hành, cả hai chủ trương cho rằng tất
cả pháp đềudo chủng tử A Lại Da biến hiện. Đây là tư tưởng trọng
yếucủa Duy Thức |
.B)- THỜI ĐẠI LUẬN ĐẠI THỪA: |
Thời đại của Luận Đại Thừa tức là chỉ cho
thời đại củangài Di Lặc và ngài Vô Trước. Ngài Di Lặc là người
như thếnào, trên lịch sử không có khảo định, chỉ là |
một vị Bồ
Tát tênDi Lặc thuộc nhân vật tín ngưỡng sẽ thành Phật tương lai
vàcó chỗ cho là thầy của ngài Vô Trước. Những trước tác củangài
Di Lặc gồm có Du Già Sư Địa Luận55 , Đại Thừa TrangNghiêm Luận
Tụng, Phân Biệt Du Già Luận, Biện PhápPháp Tánh Luận, Biện Trung
Biên Luận Tụng. Những bộluận đây chính là căn bản của Duy Thức
Học. Người đờithường xưng tụng là Du Già Di Lặc Học Phái và tôn
vinhngài Di Lặc là Minh Chủ. Còn ngài Vô Trước là người sanhnơi
nước Kiện Đà La thuộc Bắc Ấn Độ, ngài sanh ước lượngvào khoảng
310 năm đến 390 năm Công Nguyên, xuất giađầu tiên nơi Hữu Bộ, tu
theo Tiểu Thừa Giáo Quán, sau họcĐại Thừa và tu theo Đại Thừa Quán
Hạnh, sáng tác các bộluận Đại Thừa, thuyết minh A Lại Da Duyên
Khởi; ngài VôTrước thường nhập định lên cõi trời Đâu Xuất cung
thỉnh vàhọc hỏi giáo lý Duy Thức với ngài Di Lặc, được ngài Di
Lặcgiảng về Du Già Sư Địa Luận. Ngài Vô Trước lại còn căn cứnơi
Nhiếp Đại Thừa Luận đã khéo léo chủ trương rằng, tất cảcảnh giới
để hiểu biết đều được thiết lập và nương tựa từ nơiThức A Lại Da
thứ tám và Ý Nhiễm Ô thứ bảy. Những bộ55 Bộ luận này nơi Trung
Quốc Huyền Trang Sở Truyện cho là Bồ Tát DiLặc nói. Tây Tạng và
Phạn Bản hiện còn ghi là của ngài Vô Trước sángtác.165luận của
ngài Vô Trước trước tác gồm có: Hiển Dương ThánhGiáo Luận, Nhiếp
Đại Thừa Luận, Đại Thừa A Tỳ Đạt MaLuận, Biện Trung Biên Luận,
Đại Thừa Trang Nghiêm KinhLuận, Kim Cang Bát Nhã Kinh Luận,..v..v....
Hiển DươngThánh Giáo Luận có thể nói là tóm lược căn bản của Du
GiàSư Địa Luận; Nhiếp Đại Thừa Luận là bộ luận kiến lập hạttâm
của Duy Thức; Tập Luận là bộ luận kiến lập căn bản củaPháp
Tướng, những bộ luận đây đã được ra đời trước ngàiThế Thân. Ngài
Thế Thân hoàn toàn căn cứ nơi những bộluận nói trên viết thành
những tác phẩm bất hủ là: Duy ThứcNhị Thập Luận và Duy Thức Tam
Thập Luận. Đại Thừa sở dĩđược xếp vào loại thời đại là căn cứ
nơi thời đại trưởng thànhcủa Duy Thức Học. |
IV.- SỰ KIẾN LẬP VÀ SỰ HOẰNGTRUYỀN CỦA DUY
THỨC HỌC: |
( Kỷ Nguyên từ 320 đến 400 năm ) |
Người kiến
lập hệ phái Duy Thức Học chính là Bồ TátThế Thân và mãi đến
thời kỳ này, tư tưởng cũng như hệthống tổ chức của Duy Thức Học
tính ra mới được hoànthành. Bồ Tát Thế Thân là anh em cùng thân
tộc với Bồ TátVô Trước, người của thời kỳ 320 năm đến 400 năm
CôngNguyên. Huệ Khải Câu Xá Tự ghi rằng: Thế Thân ra đời sauPhật
nhập diệt 1100 năm; còn Khuy Cơ thì ghi rằng: ThếThân ra đời sau
Phật nhập diệt trong khoảng 900 năm, nếunhư so sánh cả hai niên đại
trên thì niên đại của Khuy Cơ cóphần thiết thực hơn. Bồ Tát Thế
Thân đầu tiên cũng xuất gianơi Hữu Bộ, tu học theo Phật Giáo Tiểu
Thừa, sau lại nghiêncứu Đại Thừa Pháp Tướng Duy Thức Học56và sáng
tác Duy56 Tham cứu nơi Tiết thứ 2, Chương thứ 2 và Biên thứ
2.166Thức Nhị Thập Luận. Nhị Thập Luận là bộ luận phê bình tưtưởng
ngoài tâm có cảnh giới riêng của ngoại đạo và TiểuThừa; đồng
thời bộ luận này còn giải thích rất nhiều vấn đềkhó khăn trên
Duy Thức. Còn Tam Thập Luận là là bộ luậnđích thực kiến lập quan
hệ tư tưởng của Duy Thức Học, mặcdù chỉ có 120 câu văn ngắn gọn,
nhưng có thể nói là cơ cấutổ chức rất nghiêm mật về sự kiến lập
hệ thống Cảnh, Hạnh,Quả của Duy Thức Tướng, của Duy Thức Tánh và
của DuyThức Vị, thật đúng là “Nguyên lý ẩn chứa nội dung sâu
rộng,cảnh giới hiện bày tươi mát trên biển cả bao la, ý nghĩa
kếttụ lại thành bảo tố khói mây, văn chương như cầu vồng diễmlệ
nơi vườn hoa huyền diệu. Lời nói bao hàm cả vạn tượng,mỗi chữ
chứa đựng ngàn lời giáo huấn, yếu chỉ nhiệm mầuvượt hẳn trời cao,
tinh hoa sắc thái rực rỡ sâu xa, đầu mối uhuyền chưa được tuyên
dương, tinh thần sâu kín nơi cảnhtuyệt đối, nguồn ánh sáng riêng
mình soi tỏ, bến bờ tư tưởngbí mật tiềm tàng”57 . 20 bài Luận cộng chung
với 30 bài Luậnthành 50 bài Tụng, mặc dù văn cú không nhiều,
nhưng tưtưởng của nó thì phong phú phi thường. Tất cả tư tưởng
củanhững kinh và luận mà Duy Thức Học căn cứ đều hoàn toàntập
trung vào nơi Ngũ Thập Tụng này cả.Sau khi học lý Duy Thức của Bồ
Tát Thế Thân hoànthành, các học giả nổi tiếng đương thời đều thi
đua nghiêncứu và trước thuật, nhờ đó Duy Thức Học được thành một
thứtân học thuyết ( từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ bảy ). Từ
thếkỷ thứ tư trở về sau, học thuyết này tại Ấn Độ không chỉ
làmột thứ học phái có thế lực rất lớn ở phương diện Phật
Học,lại còn có địa vị không nhỏ ở phương |
diện triết
học Ấn Độ.Cũng trong thời kỳ đó, học phái Trung Quán của ngài
LongThọ vẫn an nhiên thạnh hành, cho nên học phái Duy Thức và57
Lời tựa sau của Đường Trầm Huyền Minh Thành Duy Thức Luận.167học
phái Trung Quán là hai thành trì lớn và hai lò lửa to củaPhật Giáo
biến thành tư thế hoàn toàn đối lập nhau. Học pháiDuy Thức sau lại
xưng là phái Du Già, lý do các học giả DuyThức xưa kia đều tu theo
hạnh Du Già. Du Già thì thuộc vềtiếng Phạn, dịch là tương ưng. Cho
nên các học giả của pháiTrung Quán như Đề Bà,..v..v.... đều gọi
phái Duy Thức làphái Tương Ưng và người tu học Duy Thức gọi là
Thầy DuGià. Còn từ Bồ Tát Thế Thân trở về sau, Tam Thập Luận
córất nhiều học giả thi đua nghiên cứu cho nên được vang bóngmột
thời. Các học giả hệ phái Duy Thức gồm có: |
1)- Trần Na: người sanh nơi Nam Ấn Độ, thuộc
KỷNguyên vào khoảng 400 năm đến 480 năm, là đệ tử của ngàiThế
Thân, ngoài việc nghiên cứu Duy Thức, ngài đặc biệtchú trọng đến
Nhân Minh và còn sáng tác các bộ luận nhưTập Lượng Luận, Nhân
Minh Chánh Lý Môn Luận, Quán SởDuyên Duyên Luận, Chưởng Trung
Luận,..v..v..... TrongQuán Sở Duyên Duyên Luận, ngài thành lập ý
nghĩa củaCăn, Trần và Duy Thức. Trong Tập Lượng Luận, ngài
thiếtlập ý nghĩa ba phần của Tâm Thể. Sự thành công của ngàiTrần
Na chẳng qua là nhờ sự cải cách của Nhân Minh, tácphẩm đại biểu
cho vấn đề này là Tập Lượng Luận58, khôngchỉ có giá trị nơi Hữu
Vô của Phật Giáo, lại còn thành côngkhông thể phai mờ nơi triết
học Ấn Độ. Đồng thời với ngàiTrần Na mà cũng là người đồng học
với ngài như: |
2)- Đức Tuệ: tiếng Phạn là Lâu Noa Mạt Để (
420 –500 ), cũng là đệ tử của ngài Thế Thân. Ngài Khuy Cơ nói58 Bộ
luận này Trung Quốc không có dịch, Nội Học San in kỳ nào khôngrõ,
có Lữ Chừng căn cứ nơi Tạng Văn dịch thành luận gọi là Lượng
LuậnSao. Phạn Văn thì có Bổn Văn và Tập Lượng Luận
Thích,..v..v..... củaPháp Xứng.168rằng: “Đức Tuệ trước kia là bậc
anh tuấn tài năng hơn người,học giả xuất sắc, lúc bấy giờ sáng
rực đạo đức, tiếng tămvang dội khắp bốn châu thiên hạ, người cốt
cách thanh taophong nhã thấu đến Trời Ngũ Đỉnh, |
bậc Thánh
thì rất vuimừng và bậc Thần thì lấy làm kỳ lạ, con người như thế
khôngdễ nêu hết”. Về sau ( 450 – 530 ), ngài quan niệm có TánhHữu
Vô và cũng từ đó ngài sáng tác Nhiếp Đại Thừa LuậnThích để chủ
trương Chủng Tử có hai loại: Bản Tánh TrụChủng và Tập Sở Thành
Chủng Tánh, tức là luận về ChủngTử thì bao gồm cả Bản Hữu và
Tân Huân hợp lại thành mộtloại. Nhưng luận thuyết của ngài Hộ
Pháp lẽ đương nhiênđều căn cứ nơi tư tưởng này. |
3)- An Huệ: tiếng Phạn là Tất Sĩ La Mạt Để,
người nướcLa La thuộc Nam Ấn Độ( 470 – 550 ), vào khoảng cùng thời
với ngài Hộ Pháp, là đệtử của ngài Đức Tuệ, tức là đệ tử tái
truyền của ngài ThếThân, đã từng sáng tác Câu Xá Luận Thích, Ngũ
Uẩn LuậnThích, Duy Thức Tam Thập Tụng Luận Thích59, lại còn sángtác
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh, và Trung Biên Phân BiệtLuận Thế Thân
Thích Quảng Sớ; nhưng hai bộ Đại ThừaTrang Nghiêm Kinh và Trung Biên
Phân Biệt Luận ThếThân Thích Quảng Sớ không có truyền thừa nơi
Trung Quốc.Ngoài ra, ngài còn sáng tác thêm những bộ luận nữa như
ĐạiThừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận, Đại Bảo Tích Kinh Luận,Đại Thừa
Trung Quán Thích Luận,..v..v..... Duy Thức ThuậtKý ghi rằng: “Giải
thích được lý thâm sâu của Nhân Minh,khéo léo trình bày tận cùng
bên trong của các bộ luận. Miếnghuy chương chỉ tốt đẹp nơi tiểu
vận, nhưng hoa lan và hoahuệ thì bay khắp nơi Đại Thừa. Sắc thái tinh
thần của người59 Bộ luận này hiện có Phạn Bản, gọi là Pháp Quốc
Ba Lê Liệt Duy BácSĩ Hiệu Bổn.169thì thật quá cao khó có thể bàn
luận”. Tư tưởng của ngài AnHuệ thì khác với ngài Hộ Pháp và vấn
đề khác biệt này cóthể thấy được ở trong Thuật Ký cũng như ở
trong Thành DuyThức Luận. |
4)- Hộ Pháp: tiếng Phạn là Đạt Ma Ba La. Ngài
là họcgiả của Trung Tâm Học Phái Duy Thức, sáng tác Thành DuyThức
Luận và giải thích Duy Thức Tam Thập Luận. Ngài làngười Thành Kiến
Chí của nước Đạt La Tỳ Trà thuộc NamẤn Độ ( 530 – 560 ), là con của
Đế Vương, rất thông minh,“sở học rất uyên bác và sâu sắc như biển
cả, giải bày lại rấtminh bạch và sáng sủa như ánh mặt trời,
thông suốt nội giáogồm cả Tiểu Thừa và Đại Thừa, luận bàn Chân
Đế và TụcĐế rất quang minh” Ngài thành danh rất sớm, đã từng là
trụtrì chùa Na Lan Đà ở Ấn Độ và |
chùa này về
sau gọi là ĐạiHọc Phật Giáo. Khi 29 tuổi, ngài lui về ẩn cư gần
bên Bồ ĐềĐạo Tràng nơi Phật Thích Ca Thành Đạo và đến 30 tuổi
(Thuật Ký nói là 32 tuổi ) ngài tịch nơi chùa Đại Bồ Đề, thậtlà
bất hạnh cho số mạng của ngài sống quá ngắn ngủi! Căncứ nơi sự
khảo cứu của học giả nước Đức, ngài Hộ Pháp cũngđã từng đi hội
ở Tích Lan và trước thuật rất nhiều Tam TạngKinh Điển của Tiểu
Thừa60. Ngài đối với học lý của DuyThức phân tích rất tinh tường.
Ngài đứng trên lập trường đạolý của Thế Tục Đế tuyên dương học
thuyết “Chân Hữu TụcKhông” của Duy Thức. Học thuyết này rất thích
hợp so với tưtưởng đối lập “Chân Không Tục Hữu” của phái Trung
Quán.Đúng ra sự kiến giải về vấn đề quan hệ nơi Nhị Đế của
DuyThức và của Trung Quán đại thể thì giống nhau đã được trìnhbày
nơi trong Đại Thừa Quảng Bách Luận Thích của ngài Hộ60 Luận Sư Hộ Pháp
đây chính là do Nam Truyện Thượng Tọa Bộ TrướcSớ Gia nói rằng,
thấy trong Văn Học Sử Ba Lê do Bác Sĩ Khắc Cáchngười nước Đức
sáng tác.170Pháp và Chưởng Trân Luận của ngài Thanh Biện. Ngài
HộPháp đối với học lý của hệ phái Duy Thức đã cống hiến
rấtlớn. Những đệ tử được tái truyền thừa của ngài Hộ Pháp
gồmcó Giới Hiền và Huyền Trang61 . |
5)- Nan Đà: ( Khoảng 450 – 530 năm ), cùng với
LuậnSư Thắng Quân đều xuất thân từ trong phái Duy Thức Học,tính ra
đều cùng một hệ thống học phái |
6)- Tịnh Nguyệt: tiếng Phạn là Mâu Đà Chiến
Đạt La,cùng thời với ngài An Huệ và ngài Hộ Pháp. Những bộ
luậndo ngài Tịnh Nghuyệt sáng tác gồm có: Thắng Nghĩa ThấtThập
Thích và Tập Luận Thích. |
7)- Thân Thắng: tiếng Phạn là Bạn Đồ Thất
Lợi “Ngàicùng thời với ngài Thế Thân”. |
8)- Hỏa Biện: tiếng Phạn là Chất Trớ La Bà
Noa, cũnglà người đồng thời với ngài Thế Thân. Ngài là một ẩn sĩ
tạigia. Thuật Ký nói rằng: “Lời văn của ngài rất hay, nhàn
rỗitrong việc trước thuật, hình tướng mặc dù ẩn tục nhưng bạnđạo
chân thật cao thâm”. |
9)- Thắng Hữu: tiếng Phạn là Tỳ Thế Sa Mật
Đa La. |
10)- Tối
Thắng Tử: tiếng Phạn là Thần Na Phất Đa La. |
11)- Trí Nguyệt: tiếng Phạn là Nhã Na Chiến
Đạt La.Ba vị sau chót đây là đệ tử của ngài Hộ Pháp, phần lớnđều
sanh trong khoảng thời gian từ 561 năm đến 634 năm. Bavị này cũng có
sáng tác Tam Thập Luận Thích và tư tưởng61 Tham cứu Đại Đường Từ
Ân Pháp Sư Truyện.171của họ đã có trong những tác phẩm như Duy
Thức ThuậtKý,..v..v..... rất ít thấy có chỗ nào được độc đáo cả,
đại kháichỉ truyền thừa những gì của thầy họ đã dạy mà thôi.
DuyThức Học ở vào thời đại mười một Luận Sư đã nêu trên cóthể
nói là thời đại phát đạt đến chỗ cực thịnh.Căn cứ nơi lịch sử,
nơi Từ Ân Truyện và Cao TăngTruyện,..v..v....., Duy Thức Học của ngài
Huyền Trang làđích thân tiếp nhận sự truyền thừa của ngài Giới
Hiền. Saungài Huyền Trang không xa, có Luận Sư Pháp Xứng là
mộtnhân vật hậu bối rất xuất sắc, thay mặt ngài Huyền Trangsáng
tác Tập Lượng Luận Thích rất quan hệ đến học thuyếtNhân Minh và
ngài cũng là bậc trấn tích quan trọng của PhậtHọc Đại Thừa ở
thời kỳ này. Riêng ở thời đại Nghĩa Tịnh,Luận Sư Pháp Xứng là một
học giả đang còn nghiên cứu DuyThức, nhưng tổng quát trong khoảng
100 năm trở về sau kể từ650 năm đến 750 năm Công Nguyên, Phật
Giáo Ấn Độ đíchthực là thời kỳ mạt vận. Tuy nhiên Ấn Độ còn có
Tịch Thiênsáng tác các tác phẩm như Bồ Đề Hành Kinh, Đại Thừa
TậpBồ Tát Học Luận, Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa Luận. Ngoàinhững kinh
luận trên, ngài Tịch Thiên còn sáng tác một bộluận rất danh tiếng
là Nhiếp Chân Thật Nghĩa Luận, tiếc thaybộ luận này Trung Quốc
không có dịch. Trong thời kỳ diệtvong, những tác phẩm nói trên của
ngài Tịch Thiên cũng đemlại cho Phật Giáo Ấn Độ một thời đại hồi
quang phản chiếu. |
V.- HỌC PHÁI DUY THỨC CỦA TRUNGQUỐC: |
1.- HỆ PHÁI HUYỀN TRANG: |
172Ngài Huyền Trang truyền Duy Thức Học nơi Trung
Quốcđồng thời thành lập Tông Duy Thức và do đó ngài được gọilà
Sơ Tổ của Duy Thức. Khi dịch và chú thích Duy Thức TamThập Luận,
ngài có ý định phiên dịch mười bộ luận riêng |
biệtnhau của
mười Luận Gia, về sau theo lời thỉnh cầu của ngàiKhuy Cơ liền gom
mười bộ luận của mười Luận Gia nói trêndịch chung thành một bộ
luận và truyền riêng cho ngài KhuyCơ. Ngài Khuy Cơ nhận lời khẩu
truyền của thầy sáng tácthành 60 quyển Thuật Ký, xiển dương áo
nghĩa của Duy Thứcvà được Gia Huệ Sĩ Lâm cống hiến những đặc thù
rất lớn.Đồng thời với ngài Khuy Cơ thì có Huệ Quán, Lập Phạm,Nghĩa
Tịch, Phổ Quang và Viên Trắc trụ trì chùa Tây Minhđều cùng nhau
truyền bá học thuật này mà đời Đường tônvinh là sáu Luận Gia.
Ngoài sáu vị đây, còn có Thần PhảngTân La Nhơn ( người Triều Tiên
) lại trước tác Duy Thức TậpYếu. Gia Huệ Sĩ Lâm còn có trước tác
Du Già Phật Địa DuyThức Nghĩa Thú Kinh, rất tiếc bộ này đã bị thất
truyền. NgàiKhuy Cơ thì được bí truyền học thuật của ngài Huyền
Trang,nhưng các ngài như Viên Trắc, Tân La Nhơn, Trí Biện VôNgại đều
đối lập với ngài Khuy Cơ. Ngài Viên Trắc chỉ đượcdự thính ngoài
cửa và nhờ đó sáng tác Duy Thức Sớ và ThâmMật Kinh Sớ, hai tác
phẩm sớ giải này trong thời Đường đãtừng phiên dịch thành văn Tây
Tạng.Đệ tử của ngài Từ Ân ( ngài Khuy Cơ ) thì có Huệ Chiếuvà
Nghĩa Trung. Ngài Huệ Chiếu có đệ tử là Trí Châu. HuệChiếu thì
sáng tác Duy Thức Liễu Nghĩa Đăng, Trí Châu thìsáng tác Duy Thức
Diễn Bí. Còn ngài Tây Minh ( Viên Trắc )thì có các sư như Thắng
Trang, Đạo Chứng, TháiHiền,..v..v.... và các vị này cùng nhau truyền
thừa Duy Thứckhông cho chấm dứt. Đây là thời kỳ Duy Thức vô cùng
phátđạt. Kể từ ngài Từ Ân và ngài Tây Minh trở về sau,
Tam173Tạng Nghĩa Tịnh thường phiên dịch Duy Thức Bảo SanhLuận. |
2.- HỆ PHÁI NHIẾP LUẬN: |
Kinh luận của Duy Thức Học từ đời Đường trở
về trướcđã có phiên dịch từ lâu và ngài Huyền Trang trước khi
chưara khỏi nước cũng đã có nghiên cứu đến. Người truyền báDuy
Thức trước đời Đường suy cho cùng lẽ đương nhiênchính là ngài Chân
Đế. Ngài Chân Đế đã dịch các bộ luậnnhư Nhiếp Đại Thừa Luận,
Thức Chuyển Luận, Hiển ThứcLuận, Quyết Định Tạng Luận, Đại Thừa
Khởi TínLuận,..v..v..... lúc bấy giờ có rất nhiều người vừa nghiên
cứuvừa giảng giải Nhiếp Luận và nhờ vậy bộ luận này trở
thànhhọc phong một thời. Cho nên lịch |
sử truyền
thừa đặc biệt cóghi một học phái Địa Luận Tông xuất hiện trong
lúc NhiếpLuận Tông thạnh hành. Hai Tông Địa Luận và Nhiếp Luậntuy
rằng khác nhau hệ phái nhưng cả hai đều là học pháiPháp Tướng cả.
Đúng ra ngài Chân Đế ở phương nam thì đãđược chân truyền của Vô
Trước Thế Thân và học phái củangài truyền đến nhà Trần, rồi đến
nhà Tùy; còn các học giảĐịa Luận thì ở phương bắc và học phái
này phần nhiều bịbiến tướng theo Nhiếp Luận. Ngài Chân Đế sỡ dĩ
thành danhlà nhờ sự trao truyền của ngài Thế Thân bằng cách
khiểntrách và nhờ đó ngài chuyên chần hoằng truyền sở học
củamình làm chí nguyện62 . |
3.- HỆ PHÁI ĐỊA LUẬN:Hệ phái Địa Luận thì sử
dụng Hoa Nghiêm Thập ĐịaKinh Luận làm chủ yếu. Bộ Hoa Nghiêm Thập
Địa Kinh62 Được thấy trong Phật Giáo Sử Trung Quốc của Hoàng Sám
Hoa.174Luận chính là bộ luận của ngài Thế Thân sáng tác, được
BồĐề Lưu Chi, Lặc Na Ma Đề và Phật Đà Phiến Đa cùng nhaudịch thuật
nơi Lạc Dương và bộ luận này cũng nhờ một sốhọc giả nghiên cứu
cho nên lần lần được thạnh hành. Bộ HoaNghiêm Thập Địa Kinh Luận
thì thuyết minh những cảnh giớihành trì của Bồ Tát Thập Địa và
những cảnh giới này đều doThức A Lại Da khi thành Tạng Như Lai
duyên khởi, đây làyếu nghĩa làm sáng tỏ tự tánh của Tâm thanh tịnh.
Những họcgiả nghiên cứu Địa Luận gồm có nhóm đệ tử của hai
ngài:ngài Lặc Na Ma Đề và ngài Bồ Đề Lưu Chi. Hai nhóm này vìở hai
hướng khác nhau cho nên truyền thừa thành hai hệ pháiBắc Đạo và
Nam Đạo. Hệ phái Nam Đạo thì do Huệ QuangPháp Thượng,..v..v..... làm
Khai Tổ; còn học thuyết của hệphái Bắc Đạo thì lại chịu ảnh hưởng
của Nhiếp Luận, thiêntrọng truyền thừa Duy Thức và chọn lấy hệ
phái Nam Đạolàm chánh thống.Học phái Duy Thức từ đời Đường trở
về sau tuy xưng làhệ phái tuyệt học, nhưng phải chờ đến thời đại
Tống Triều vànhờ có Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ sáng tác bộ Tông
CảnhLục thì giáo lý Duy Thức mới được sáng tỏ sâu rộng. Ở
TriềuMinh, Đại Sư Ngẫu Ích cũng đã sáng tác Duy Thức Tâm Yếuđể
xiển dương khiến cho Duy Thức sinh hoạt trở lại, nguyênvì ở đời
Đường những sớ giải về Duy Thức đã bị mất dần chonên chỗ tuyệt
học của nó khó bề phục hưng. Đến năm DânQuốc, cư sĩ Dương Văn Hội
Nhân Sơn mang |
những quyển
sớgiải về Duy Thức của người nhà Đường từ Nhật Bản trở vềTrung
Quốc phiên dịch, cho in để phổ biến và nhờ đó DuyThức Học mới có
triệu chứng phục hưng. Năm Dân Quốc thứmười trở về sau có Đại Sư
Thái Hư, có Âu Dương Tiệm(Cảnh Vô), có Hàn Thanh Tịnh,..v..v.....
bắt đầu mở hội lớnkhai giảng kinh luận nhằm hoằng truyền tuyệt
học của hệ175phái Duy Thức để khôi phục lại và cho đến ngày nay
hệ pháinày vẫn không bị chìm mất. |
BẢN PHỤ |
I.- QUAN NIỆM KHÁI LƯỢC VỀHỌC PHÁI DUY THỨC
CỦA THỜIĐẠI NHÀ ĐƯỜNG: |
Phật Giáo nước ta từ ngài Tam Tạng Huyền
Trang du họcĐông Độ trở về chuyên dịch các luận Du Già để xương
minhhọc phái Duy Thức và từ đó Phật Học được hưng thịnh. Đặcbiệt
khoảng đầu nhà Đường, học phong Duy Thức trong họcgiới Phật Giáo
cực kỳ thạnh hành, trở nên vang tiếng mộtthời. Môn đồ tham vấn
trực tiếp của Pháp Sư Tam Tạng chínhlà ngài Khuy Cơ. Quan sát thế
hệ theo thứ lớp, Học phái DuyThức chắc chắn đã được thiết lập nơi
Từ Ân và chọn hệ pháiDuy Thức Học của Hộ Pháp làm đại biểu cho
toàn bộ hệ pháiPhật Giáo Du Già. Cho nên học phái Du Già ở nước
ta đã tạothành một hệ phái giáo học có thế lực.Từ đấy học phong
Duy Thức diễn biến sâu rộng cho đếnbây giờ, những học giả sau này
thường gọi là Phật Giáo Mớivà có chỗ trực tiếp gọi là Phật Giáo
Duy Thức. Từ ngày Pháp Nạn Hội Xương trở về sau, Phật Giáo Trung
Quốc gần như diệt vong, mãi đến hiện nay, học giáo Duy Thức mới
đượcphục hưng trợ lại và phục hưng có cờ trống nghiêm chỉnh đàng
hoàng. Không những thế, trạng huống Duy Thức Họccủa thời đại đầu
nhà Đường giả sử đi ngược trở lại thời đạicủa Hộ Pháp, của Thế
Thân, của Vô Trước và cho đến thờiđại của Phật Đà, nếu như khảo
cứu về chúng thì sẽ thấynhững thời đại đó cũng chưa chắc đã được
thạnh hành giốngnhư thời đại nhà Đường.63 Đây là tác phẩm lâu
nhất của tôi viết vào năm Dân Quốc thứ 19, đãtừng đăng trong Hải
Triều Âm, quyển thứ 13.177Kỳ thật Duy Thức Học sở dĩ được thành danh
là nhờ họcphái Du Già Sư Địa Luận và học phái Nhiếp Đại Thừa
Luậncùng nhau phối hợp thành lập. Nếu như bình tâm |
một
cáchnghiêm mật mà luận, Duy Thức Học chỉ là một bộ phái tronghệ
phái giáo học của Du Già. Đến như toàn bộ Tam Thừa vàNgũ Thừa
trong biển giáo lý của Đức Thích Tôn lại cũng chỉlà một bộ phái
của các bộ phái mà thôi. Nhưng bởi Đại Sư TừÂn chủ ý chuyên tâm
tu học và nghiên cứu Duy Thức Luậncho nên Duy Thức Luận liền được
thay thế đại biểu chungcho các kinh sách thuộc về hệ phái giáo Học
Du Già. Nhờnhân duyên đó Duy Thức trở nên ngôi sao sáng để thành
hìnhmột tông phái gọi là Duy Thức Tông và chiếm lấy vị trí
đứngđầu các hệ phái giáo học Du Già, lấn áp các kinh sách
kháctrong hệ phái giáo học Du Già mà lại còn tiến tới áp đảo
cáckinh luận ngoài hệ phái giáo học của Du Già.Nếu như xem qua
Phật Giáo, người nào có thể tổng hợpđược ý nghĩa và trạng thái
giáo dục cùng học thuật của hệphái Du Già nói trên thì có thể
biết được đại khái về xu thếcủa Duy Thức. Danh mục của một loại
học thuyết kế thừa baTạng được trực tiếp hoặc gián tiếp dựng lập
nên tông pháinhư: Tông phái Duy Thức chính do ngài Huyền Trang
trựctiếp dựng lập cho nên có chỗ gọi là Huyền Trang Tông ;Tông
phái này lại có chỗ gọi là Từ Ân Tông, nguyên do nơichùa Đại Từ
Ân, Đại Sư Khuy Cơ chính là Sơ Tổ, có lẽ tất cảcông việc trong
chùa Đại Từ Ân phải được ngài Khuy Cơđồng ý gặt đầu thì không
trở ngại.Thành tích công lao nghiên cứu Duy Thức Học của ĐạiSư Từ
Ân thật là vĩ đại. Khi khảo cứu về sự nghiên cứu DuyThức Học ở thời
kỳ đầu của thời đại nhà Đường, ngoại trừ TừÂn ra, chúng ta còn
thấy có năm nhân vật như Viên Trắc trụtrì chùa Tây Minh, Phổ
Quang, Huệ Quán, Lập Phạm, Nghĩa178Tịch đều nổ lực nghiên cứu riêng
học thuyết này nhằm đểcạnh tranh thiên cổ với Từ Ân. Năm nhân
vật kể trên cộngchung với Khuy Cơ thì thành sáu luận gia. Sáu luận
gia nàymỗi vị đều có trước thuật để phát biểu sự nghiên cứu
củamình, như danh mục được liệt kê sau đây: |
|
Sáu luận gia nói trên rất nổi tiếng, nhưng
phải nói là nhờtrước thuật của hai nhân vật Từ Ân và Tây Minh.
Học thuậtcủa Từ Ân và Tây Minh ở vào thời Đường được phân làm
haihệ phái là hệ phái Từ Ân và hệ phái Tây Minh. Hệ phái
giáohọc của Từ Ân thì có Huệ Chiểu, Nghĩa Trung,
Trí179Châu,..v..v..... mỗi sư riêng nhau truyền thừa; còn hệ
pháigiáo học của Tây Minh thì có các nhân vật như Thắng Trang,Đạo
Chứng, Thái Hiền mỗi sư riêng tự truyền thừa. Như thếhai phái đều
tự tuyên dương mà thành địa thế hoa lan hoa cúccùng nhau tốt đẹp.
Khác nữa như các sư Thần Phảng, HuyềnỨng, Lợi Thiệp, Cực Thái,
Thuận Cảnh, Cảnh Hưng, ĐạoẤp, Như Lý, Sùng Tuấn, Đạo Nhân, Linh
Thái, Đạo Luâncũng nhờ học thuật Từ Ân và Tây Minh tiếng tăm
lừng lẫymột đời, đồng thời các vị đó đều phát huy giáo nghĩa tinh
túycủa Duy Thức. Ngoài ra còn có các học sinh Nhật Bản vàTây
Phương du học. Trạng thái thạnh hành về sự nghiên cứuDuy Thức của
thời đại đời Đường quả thật là không tiền tuyệthậu và cũng là
một sản |
vật mới
trên tư tưởng, trên học thuậtcủa nước ta mà cũng là mở bày một
Kỷ Nguyên mới của PhậtGiáo Sử. Tiên sinh Lương Nhậm Công thường
cho là trào lưunhân vật tư tưởng đệ nhất vậy. Tuy nhiên những
trước thuậtvừa trình bày trên rất ít được bảo tồn và cũng đã bị
thất lạcquá nhiều trên văn hiến, thật là một sự đáng tiếc! Vấn
đềhôm nay, các học phái thời Đường chủ yếu ở chỗ là sự
giảnggiải khác biệt giữa Từ Ân và Tây Minh trở thành trung tâmcho
cuộc tranh luận hai bên. Trong thời gian đó, hoặc tùytheo ý của các
sư như Quán Phạm, Tịch Khuếch và tùy theocác học thuyết của Huệ
Chiểu, Trí Chu, Đạo Chứng, TháiHiền, Đạo Ấp, Như Lý, Linh
Thái,..v..v..... những cuộc tranhluận nói trên không ngoài mục đích
mong cầu giáo nghĩa củaDuy Thức được hoàn chỉnh hơn. Từ xưa đến nay
Phật Họcluôn luôn được gọi là khó giải thích khó tỏ tường thì
DuyThức Học của thời đại đời Đường không ai qua nỗi. Ngày naynhững
nhà nghiên cứu thường hay tham khảo những tư liệuphần nhiều thiếu
thốn không phải ít, nhận thức sai lầm quánhiều, tham vọng học theo
những kẻ chỉ biết chuyên nghềcúng bái cầu đảo! Còn như nếu bảo
rằng xiển dương Duy180Thức Học cho được sáng tỏ để cống hiến cho
các giới PhậtHọc, cho các giới Học Thuật thì trả lời tôi đây
không dám! |
II.- LƯỢC GIẢI HỌC THUYẾT CỦASÁU PHÁI DUY
THỨC ĐỜI ĐƯỜNG: |
Duy Thức Liễu Nghĩa Dăng Dẫn Tăng Minh Ký
giải thíchrằng: “Sáu quyển Yếu Tập ghi chung lời văn diễn giải
củasáu Luận Gia hợp lại thành một bộ. Lời văn tổng quát củasáu
quyển Yếu Tập gồm có: một là Hữu Thuyết ( Cơ ), hai làHữu Thích (
Trắc ), ba là Hữu Sao( Quang ), bốn là Hữu Giải(Quán), năm là Hữu
Vân ( Phạm ), sáu là Vị Tường Quyết(Tịch)”.Tập Tự lại nói rằng:
“Nhưng giáo nghĩa của Từ Ân đươngthời thạnh hành và cơ nghiệp của
Từ Ân càng thêm mở mangtính ra nhờ có sáu đường lớn nắm lấy nguyên
tắc mà khôngcho vượt qua lối hai. Vã lại như Từ Ân, Lương Tượng,
ThạchCổ, Thi Sơn đều sử dụng “Hữu Thuyết” làm mục tiêu chonên họ
được ca tụng. Đại Sư Tây Minh, Lôi Thinh, KhảiTrập nhờ “Hữu Thích”
cho nên họ được nổi tiếng. Các bậclong tượng của Phật Pháp nếu
như ở chốn kinh đô thì cũngquang minh như thường. A Khúc Tông |
thì có sư
Quán thườngthường đứng trong cái vòng tròn học thuyết để luôn
luôn nêucao tinh nghĩa của Tông mình. Hơn nữa có Lập Phạm ở SơnĐông
nhờ bán lưỡi câu cho nên được độ. Còn Nghĩa Tịch ởPhần Dương do
xuyên tạc mà được tri kiến. Tất cả đều nắmlấy sở trường của mình
và quý trọng chỗ hiểu biết của mình.Chủ yếu tốt đẹp của Quang là
“Hữu Sao”. Đối với Tânkhách, Quán “Hữu Giải” rõ ràng. Để nắm lấy
tiếng tăm,Phạm thực hiện “Hữu Vân”. Dấu hiệu của Tịch để biểu
hiệnlà “Vị Tường”.”181Những vị chuyên dịch Duy Thức Học trước sau có
bangười: người thứ nhất là Bồ Đề Lưu Chi của Bắc Ngụy chínhngười
sáng lập trong thời gian Tuyên Võ Đế tại vị và đượctôn vinh là
bậc Sơ Truyền; người thứ hai là Tam Tạng ChânĐế của thời Trần và
được tôn vinh là bậc Nhị Truyền; ngườithứ ba là Pháp Sư Tam Tạng
Huyền Trang, Pháp Sư dịchThành Duy Thức Luận vào năm Hiển Khánh thứ
tư và đượctôn vinh là bậc Tam Truyền. Từ Bồ Đề Lưu Chi cho đến
TamTạng Huyền Trang ước tính có hơn 150 năm. Trước và sautrong 150
năm này, chúng ta có thể phân Duy Thức Học tạiTrung Quốc thành
bốn thời kỳ riêng biệt: một là thời kỳ phôithai, ngài Bồ Đề Lưu
Chi làm đại biểu; hai là thời kỳ trưởngthành, ngài Chân Đế làm
đại biểu; ba là thời kỳ thành công,Pháp Sư Huyền Trang và các đệ
tử trong môn đồ của ngàilàm đại biểu; bốn là thời kỳ suy đồi,
lấy ngài TríChu,..v..v..... làm đại biểu. Sự nghiên cứu giáo học
của DuyThức nơi thời đại Pháp Sư Huyền Trang thì rất thạnh hành
vôcùng. Trong thời gian đó, giáo nghĩa của học phái Duy Thứcđược
nghiên cứu tinh tường mà trọng tâm là nghiên cứu thâmhậu và phân
minh về vấn đề Thức A Lại Da. Nhân đây chúngta cũng có thể cho
rằng, Pháp Sư Huyền Trang đi cầu pháp ởTây Thiên cốt yếu là làm
sáng tỏ sở học căn bản của người.Tình trạng học giới Duy Thức đã
được thạnh hành như thếchứng tỏ sự xương minh nghĩa học của tông
phái này đã đếnchỗ tinh vi. Do đây cũng có thể thấy sự tu dưỡng
cho vấn đềnghiên cứu học vấn của cố nhân đích thực là vô cùng
thiếtyếu vậy. |
MỤC LỤC |
*- Lời Giới Thiệu
................................................. . |
*- Cốt Truyện Hành Đạo của Pháp sư Pháp Phảng |
*- Lời Mở
Đầu...................................................... . |
CHƯƠNG I |
Trang |
Hiện Trạng Nghiên Cứu Phật Học Ngày Nay......
. |
1.- Câu Xá
Tông................................................... . |
2.- Thành Thật Tông ............................................
. |
3.- Thiền
Tông...................................................... . |
4.- Tịnh Độ Tông
.................................................. . |
5.- Thiên Đài Tông ( Thiên Thai Tông )
.............. . |
6.- Hiền Thủ Tông ( Hoa Nghiêm Tông
)............. . |
7.- Tam Luận
Tông............................................... . |
8.- Luật
Tông........................................................ . |
9.- Mật Tông.........................................................
. |
10.- Duy Thức Tông
............................................. . |
11.- Đại Sư Thái Hư và Phật Học Ngày
Nay........ . |
12.- Tư Thế Nghiên Cứu Theo Xu Hướng Mới ....
. |
CHƯƠNG II |
Trào Lưu Tư Tưởng Hiện Đại Xem Duy Thức Học |
I.- Trào Lưu Tư Tưởng Thời Đại và Phật
Học...... . |
II.- Khoa Học và Phật Học
................................... . |
A.- Tánh Chất Khoa Học và Phật Học ...........
. |
1.- Luận
Thuyết Số và Lượng................... .
|
2.- Luận Thuyết Quan Hệ .........................
. |
3.- Luận Thuyết Toàn Thể và Bộ Phận .... |
4.- Quan Hệ vẫn Hiện Hữu .......................
|
B.- Sự Phân Tích của Khoa Học vàSự Phân Biệt
của Phật Học...................... |
.C.- Kinh Nghiệm Với Tánh Cảnh và Hiện Cảnh |
D.- La Tập (Luận Lý ) và Nhân Minh Học.... |
.III.- Triết Học và Duy Thức
Học.......................... |
A.- Tố Phát Thật Tại Luận
............................. |
B.- Chủ Quan Duy Tâm
Luận......................... |
C.- Khách Quan Duy Tâm Luận.....................
. |
D.- Cơ Giới Duy Vật
Luận.............................. . |
E.- Tâm Vật Nhị Nguyên Luận
...................... . |
F.- Phật Giáo Duy Thức Duyên Khởi Luận ....
. |
CHƯƠNG III |
Lịch Sư Phật Học Trung Quốc Xem Duy Thức Học |
I.- Quan Niệm Khái Lược VềLịch Sử Phật Học
Trung Quốc......................... .
|
A.- Quan Niệm Khái Lược Lịch Sử Phật GiáoTừ
Đời Đường Trở Về Trước |
B.- Quan Niệm Khái Lược Tịch Sử Phật GiáoTừ
Đời Đường Trở Về Sau... |
II.- Duy Thức Học và Các Tông
Phái................... . |
A.- Duy Thức Học và Câu Xa Học
.................. . |
B.- Duy Thức
Học và Thành Thật Học............ .
|
C.- Duy Thức Học và Thiền
Học..................... . |
D.- Duy Thức Học và Tịnh Độ Tông
............... . |
E.- Duy Thức Học và Luật Tông
..................... . |
F.- Duy Thức Học và Thiên Đài
Tông............. . |
G.- Duy Thức Học và Hiền Thủ Tông
............. |
H.- Duy Thức Học và Tam Luận
Tông............ |
I.- Duy Thức Học và Mật Tông
....................... |
J.- Kết
Luận..................................................... |
CHƯƠNG IV |
Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ Xem Duy Thức
Học.... |
I.- Phật Giáo Căn Bản và Duy Thức
Học............. |
II.- Duy Thức Học và Phật Học Đại Thừa Ấn
Độ |
CHƯƠNG V |
Quan Niệm Khái Lược VềLịch Sử của Duy Thức
Học ..................................
|
I.- Sự Phát Nguyên Của Duy Thức Học
............... |
II.- Sự Manh Nha Của Duy Thức Học
.................. |
III.- Thời Kỳ Trưởng Thành Của Duy Thức Học
. |
IV.- Sự Kiến Lập và Sự Hoằng TruyềnCủa Duy
Thức Học |
V.- Học Phái Duy Thức Học của Trung Quốc
...... |
PHỤ BẢN- |
I.- Quan Niệm
Khái Lược Về Học Phái Duy ThứcCủa Thời Đại Nhà
Đường................................
|
II.- Lược Giải Học Thuyết củaSáu Phái Duy Thức Thời Đường..................... |