QUÁN NHƯ MỘNG
Tác giả: Cư sĩ LÝ NHẤT QUANG
Dịch giả: THÍCH THẮNG HOAN
(Trích trong Phật Pháp Dữ Khoa Học Đích Tỷ Giảo Xiển
Thích)
“Nhân sanh như mộng”, đây là điều suy nghĩ của người phàm phu
thường than thở như thế! Cho đến người sống ở đời xem
các pháp cũng giống như thế. Thật ra họ không
biết làm cách nào từ trong mộng huyễn có thể tỉnh trở lại được.
Tại sao họ không biết? Nguyên
vì họ không có lòng tin tông giáo và không có dày công tu dưỡng,
lại chưa từng học Phật, lẽ đương nhiên không biết ý nghĩa của chữ
“Phật”. Còn chúng ta bình thường cũng chỉ có thể căn cứ trên
mặt chữ nghĩa để tìm ra một giải đáp: “Phật nghĩa là giác ngộ, giác
ngộ lý chân thật của các pháp và phân biệt một cách rõ ràng.” Giải thích như thế nói chung
cũng vẫn không thể minh bạch được một cách cứu cánh của nó. Thế
thì do nguyên nhân gì? Nguyên nhân chính là anh chưa
thành Phật, tôi cũng chưa thành Phật và mọi người đều chưa thành
Phật. Chúng ta đều không có kinh nghiệm (tức
hiện lượng) của sự thành Phật. Chúng ta đã
hành động không ra ngoài hiện lượng và dùng hiện lượng để thuyết
minh hình như cũng khó mà nhập môn, chỉ căn cứ nơi tỷ lượng để lý
giải ý nghĩa của chữ Phật đấy thôi. Trong các tình trạng chung, mọi người dường như chỉ sử dụng mộng mơ làm
tỷ lượng để so sánh cho thích hợp. Điều đặc biệt mọi người trong mộng
mơ lại có một hạng kinh nghiệm, xin quán sát bản đồ sau đây sẽ thấy
tình trạng một đối một với nhau giữa trong mộng và ban ngày: (Xem bản
đồ thứ nhất).
BAN NGÀY TRONG MỘNG
Ở trong mộng, có sơn hà đại địa, có cha con, có chồng vợ, có
anh em, có kẻ oán người thân, có khổ vui, có đẹp xấu và khi đã tỉnh
mộng, cảnh mộng thảy đều không. Còn ở ban ngày, chỗ giống nhau với
cảnh mộng là: cũng có sơn hà đại địa, có cha con, có chồng vợ, có
anh em, có kẻ oán người thân, có khổ vui, có đẹp xấu và khi đã
giác ngộ, tất cả cũng đều không. Ngay lúc giác ngộ
tất cả đều không, cho đến mọi người cũng vẫn là không và họ không
bao giờ sanh trở lại. Vấn đề đây nhất định ai
cũng nghi vấn, ngay cả chính mình cũng giống nhau là khó tin tưởng.
Tại sao thế? Liền trả lời rằng: tại anh chưa
giác ngộ, tôi cũng chưa giác ngộ, đối với vấn đề giác ngộ thì lại
bỡ ngỡ, mọi người đều không có kinh nghiệm về vấn đề giác ngộ đều
này. Cho nên chúng ta chỉ có cách đem toàn bộ của tất cả ban ngày
trở lại quán sát trong mộng thì nhận thấy tất cả mọi vật ban ngày
cũng giống như cảnh mộng và khi tỉnh mộng cũng tức là giác ngộ. Nhờ
đem thế giới hiện thật đây mà lãnh hội được cảnh mộng và ngay khi
tỉnh mộng tất cả đạo lý đều không; nhờ lãnh hội được cảnh mộng
mới có thể giác ngộ được tất cả mọi thứ cảnh giới thấy nghe thảy
đều do nơi Thức biến hiện.
Cũng từ nơi đây tiến thêm một bước, giải thích
sâu thêm một chút. Nơi luận Đại Thừa Khởi Tín giải thích: “Tất
cả các pháp đều nương nơi vọng niệm mà có sai biệt; nếu lìa tâm
niệm thì không có tướng của tất cả pháp.” Ý đây nói rằng, tất cả
hình hình sắc sắc thường ngày của chúng ta đều do chúng ta vọng niệm
sanh khởi, giả sử đem vọng niệm trừ khử đi thì tất cả cảnh giới của
các pháp cũng không có, gọi là Không, cũng tức là đạt đến cảnh
giới của Phật. Như thế xin lập lại lần nữa, chỉ cần
đem vọng niệm tẩy trừ cho tiêu mất thì tất cả đều không. Nhưng
trên thực tế, chúng ta luôn luôn hiểu rằng khó dùng đức tin nhận
xét để trừ khử vọng niệm trở thành chân thật được; nó cũng không
có quan hệ với kinh nghiệm (hiện lượng). Ở đây chỉ
có thể từ nơi tỷ lượng trong mộng mà quan sát, đương nhiên chỗ tốt
nhất là chúng ta khi ngủ trên giường bổng nhiên giấc mộng phát
khởi, liền xuất hiện các thứ cảnh giới; những cảnh giới đây sanh
khởi như thế nào? Chúng nó đích thực là do vọng tưởng sanh
khởi. Giả sử vọng tưởng đem trừ khử đi thì cảnh mộng kia tức khắc tiêu mất không còn dấu vết. Cho đến
mộng kia cũng không còn. Những cảnh giới ở ban
ngày cũng giống đạo lý này, những vọng tưởng ở ban ngày nếu trừ
khử đi thì tất cả đều giống nhau là không.
Nói đến đạo lý trên, theo Phật học
thường dùng những gì trong mộng để tỷ lượng? Nguyên
nhân mộng là hư huyễn mà ai cũng đều biết; tất cả sự sự vật vật
trong thế gian cũng là hư huyễn không thật. Cuối
cùng chúng nó như thế nào cũng đều là mộng. Đối
với vấn đề này, chúng ta chỉ vì ở trong mê mất đi bản tánh của mình,
cho nên rất khó hiểu biết được. Giờ đây, trước hết đem ý
nghĩa hai chữ thế gian hơi giống để trình bày:
Ý nghĩa của Thế Gian chính là biến đổi lưu chuyển vô thường,
là hư vọng giả dối không thật, có thể chế phục được nó, có thể
phá hoại đoạn diệt được nó; các pháp bị đọa vào trong cõi này gọi là
thế gian. Vô thường nghĩa là tất cả sự vật trong thế
gian, do ở trong thời gian và ở trong không gian biến đổi lưu chuyển
không ngừng. Còn không thật nghĩa là tất cả
vật chất phân tích đến cùng cực, rốt cuộc không đạt được thật thể
đơn thuần của chúng. Nhơn vì vô thường cho nên
có thể chế ngự, nhơn vì không thật cho nên có thể đoạn diệt. Nhưng
có chỗ cho rằng tất cả pháp thế gian là giả tướng do tâm biến
hiện. Giả tướng phân làm hai loại:
· Một là “Giả
tướng liên tục”: nghĩa là dụ như điện ảnh và một đốm hỏa châu
chuyển biến thành hình vòng, vấn đề này biết rất rõ là do giả
tướng liên tục hình thành.
· Hai là “Giả
tướng hòa hợp”: nghĩa là giống như trong Hóa Học có 90 thứ nguyên tố
hòa hợp mà thành các hình sắc, các thứ vật chất trong thế gian, mỗi
nguyên tố lại do các hạt trong điện tử..v..v.... hòa hợp lại thành. Nhưng điện tử lại không
phải đơn thể, cho nên chung cuộc không tìm được
thật thể của nó. Vật chất là như thế, thân thể vật chất của chúng
ta cũng giống như thế.
Còn tinh thần thì cũng biến thuyên giống
như trên, cũng buồn, giận,
mừng, vui không có
nhất định. Cho nên tất cả đều biến chuyển hư vọng
không thật, so với cảnh mộng lại cũng có hai thứ như thế nào?
Hảy suy nghĩ lần nữa để xem, ngày hôm qua tụ tập, ngày nay an trụ nơi chỗ nào? Có chỗ nói rằng: “Hôm nay giác
ngộ đôi khi không phải hôm qua”. Từ đó có thể biết
thêm “Hôm nay giác ngộ đã không phải tthì vị lai cũng không phải.”
Chúng ta đã biết rõ những lý do trên, từ đó có thể dùng nó
để giải thích rất nhiều ý nghĩa của Kinh văn:
1.- Cảnh giới của Niết Bàn: Có người cho
rằng cảnh giới của Niết Bàn không thể trình bày; tại sao thế? Nguyên vì mọi người đều ở trong mê, lại còn ở trong mộng,
phát ra những lời nói đều là ngôn ngữ mộng, đã ngôn ngữ mộng thì
mỗi mỗi lời nói không có chỗ chứng đắc. Liền
bảo Niết Bàn là chỗ không sanh không diệt, nói như thế có nghĩa là
chúng ta hoàn toàn không có thể nghiệm sâu sắc đến cảnh giới chân
thật của Niết Bàn, nguyên vì chúng ta thiếu sót kinh nghiệm (hiện
lượng) của Niết Bàn. Giờ đây chúng ta sử dụng giấc mộng để
giải thích: ở trong mộng có sanh tử, có khổ vui, có lo mừng, khi tỉnh
mộng thì tất cả đều không. Cho nên trong quá trình
của nhơn sanh, chỗ giống nhau cũng có sanh tử, có khổ vui, có lo
mừng, lại cũng có các thứ cảnh giới đối đãi; còn đề cập đến cảnh
giới Niết Bàn thì không sanh không tử. Vì thế
mới cho rằng cảnh giới Niết Bàn thì hoàn toàn tịch tịnh và tròn
sáng, không có vấn đề tử sanh. Chỉ có từ nơi
mộng và tỉnh là chỗ nhiều lần tư duy, nhờ đó thể nghiệm được tình
trạng tưởng tượng của cảnh giới Niết Bàn, nơi đó không có vấn đề
buồn lo và cũng không vui mừng. Như trên đã
nói khi mộng thì có vấn đề buồn lo và vui mừng, còn khi tỉnh mộng thì
sao lại có vấn đề buồn lo và vui mừng được? Cảnh
giới Niết Bàn thì cũng giống như thế, nghĩa là cũng giống như trường
hợp tỉnh mộng.
2.- Kinh Kim Cang
nói rằng: “...... như thế chúng sanh vô lượng, vô số,
vô biên được diệt
độ, thật không có chúng sanh được diệt độ. Tại sao
thế? Này ông Tu Bồ Đề, Bồ Tát nếu như có
tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức là không
phải Bồ Tát.” Xin giải thích yếu nghĩa của đoạn
kinh văn đây, trước hết đem chúng sanh vô lượng, vô số, vô biên và
tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả quy về từ
trong cảnh mộng mà suy cứu. Ở trong cảnh mộng
tất cả đều tồn tại, nhưng đến khi chúng ta tỉnh mộng, lập tức biết
rõ tất cả đều không chỉ giả hiện không thật. Do đó nói rằng
ngay khi ở ban ngày chúng ta thấy được chúng sanh vô lượng vô số vô
biên đáng độ và thấy được sự sai biệt của ngã nhơn chúng sanh thọ
giả, nhưng đến khi chúng ta giác ngộ thì tất cả cũng là không. Cho
nên Bồ Tát nếu như còn dùng tâm phân biệt thấy chúng sanh đáng
được độ và còn phân biệt ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả thì Bồ Tát
như thế còn ở trong mộng, còn mê chấp sự lý, lẽ đương nhiên không
phải là Bồ Tát.
3.- Kinh Kim Cang cũng nói rằng: “Bồ Tát
ở nơi pháp, nên dùng vô trụ mà thật hành việc bố thí. Chỗ gọi là
không trụ nơi sắc để bố thí, không trụ nơi thinh, hương, vị, xúc, pháp
để bố thí.......” Lý này trước hết nói đến một công
án. Lúc đầu Lương Võ Đế tạo lập cứ năm thước một ngôi chùa,
mười thước một cái am, độ tăng ni vô số, có
người hỏi Tổ sư Đạt Ma có công đức không? Tổ sư Đạt Ma đáp: “Hoàn
toàn không có công đức!” Lương Võ Đế tạo lập tự viện am đường
nhiều như thế làm gì không có công đức? Người thường hiểu biết chung cho lời nói không thông. Giả sử những việc
làm đích thật của Lương Võ Đế nếu như đem vào trong cảnh mộng để suy
cứu thì chỗ tạo lập tự viện am đường trong cảnh mộng, nếu như được
lợi ích đi nữa cũng là ở trong cảnh mộng, chỗ làm việc thiện cũng vẫn
là việc thiện trong mộng; đến khi giác ngộ thì tất cả đều không. Xin
nói lại thế này, làm thiện là mộng, làm ác cũng là mộng, nhất định
có người lãnh hội lời nói này bảo rằng: dứt khoát không làm gì cả
là không tốt hay sao? Kỳ thật khi nói đến câu thoại đầu này, người
đó vẫn ở trong cảnh mộng và lời nói của họ cũng vẫn là lời nói
mộng và việc làm mộng của họ vẫn tiếp tục không dứt; việc mộng
vẫn làm chỉ là ác mộng, thống khổ lại càng thống khổ, cố nhiên
phải nói việc tốt mới là yếu tố. Những yếu tố
việc tốt để làm là (lục độ, vạn hạnh) cần phải dùng vô trụ thì
mới không bị hội nhập một thứ hiện tượng trụ vào mê giống như mộng
và nhờ đó đạt đến được chỗ thanh tỉnh (giác) và ngay lúc đó có thể
thành Phật.
4.- Kinh Kim Cang nói rằng: “Phàm chỗ có
tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng không phải tướng tức là
thấy Như Lai.” nếu so với trong Kinh A Di Đà nương theo tướng cầu sanh
Tịnh Độ, như thế không phải là mâu thuẩn sao? Câu hỏi đây cho biết
quý vị đã ở một góc độ nào đó để nhìn, giả sử quý vị đứng ở góc
độ nơi ngôi vị Phật (Phật tức là giác ngộ, giác ngộ tất cả đều
không, tức là chỗ thấy các tướng không phải tướng) để nhìn xuống thì
thấy, (Như đồ hình trình bày) thế giới Cực Lạc lại ở trong mộng tốt;
nhân vì trong cõi đó đã có sẵn ao bảy báu, nước tám công đức, các
thứ trang nghiêm tồn tại, những hiện tượng đấy đều là tướng và đã
có tướng thì cũng thuộc về mộng cả.
(Chú thích: ở
trong Tập Tịnh Độ của Đại sư Ngẩu Ích giải thích: Căn cứ nơi tương đối
mà luận, người sinh hoạt nơi cõi ta bà thì mộng càng thêm, người cầu
sanh Tịnh Độ khi tỉnh mộng cũng vậy, nhưng không thể không cầu sanh.
Còn căn cứ nơi tuyệt đối mà luận, hoặc là nghiệp cảm hoặc là ác
mộng nơi ba cõi, nếu niệm Phật để sanh nơi Tịnh Độ thì cũng thuộc về
mộng tốt, nhưng không thể không cầu sanh.)
Ngược lại nếu quý vị đứng ở góc độ nơi ngôi
vị phàm phu để nhìn lên thì thấy (Như đồ hình trình bày), nơi thế giới
Cực Lạc chính là vị trí của giác ngộ. Thế giới đó có những vị
trí giác ngộ như sau: có vị trí mang danh Quán Hạnh Giác là cõi Phàm
Thánh Đồng Cư đã thành tựu vãng sanh, có vị trí mang danh Tương Tợ
Giác là cõi Phương Tiện Hữu Dư đã thành tựu vãng sanh, có vị trí mang
danh Tùy Phần Giác là cõi Thật Báo Trang Nghiêm đã thành tựu có
thể vãng sanh, có vị trí mang danh Cứu Cánh Giác là cõi Thường Tịch
Quang đã thành tựu liền được vãng sanh. Nói chung là giác ngộ có
rộng, có hẹp, có sâu, có cạn, vị trí gần Phật gọi là Đại Giác, cho
nên đức Phật được xưng là Thánh Thân Đại Giác. Giác
ngộ có lớn có nhỏ cũng chính là chỉ cho ý chí hoạt động có rộng lớùn
có nhỏ hẹp của chúng ta. Ở nơi điểm này chúng ta cũng có thể
dùng lại vấn đề mộng để suy cứu ý chí tự tại của thế giới Cực
Lạc; chúng ta ban đêm đang nằm mộng lại còn bị mê rất nặng, cho nên
gặp phải khốn đốn rất nhiều (tức là bị ác mộng thường xảy ra). Nguyên
do ý chí không chịu chúng ta chi phối, vì thế thống khổ đàn áp trùng
trùng. Nhưng khi ban ngày trở lại là trạng thái tỉnh giấc, ý chí hoạt
động của chúng ta đã được tự do tương đối và nhờ đó một số lạc
thú cũng có kết quả khá nhiều. Căn cứ theo
những yếu tố đây, chúng ta có thể suy cứu mà biết được thế giới
Cực Lạc đã đạt đến địa vị giác ngộ, cho nên ý chí hoạt động ở nơi
đó cũng được tự tại một số. Đúng như trong Kinh đã
nói, muốn mặc thì được mặc, muốn ăn thì được ăn, lời nói quyết định
không hư dối.
5.- Chúng ta cũng có thể dựa theo đồ hình
đã trình bày ở trên mà quán sát để tăng thêm tin sâu nơi thế giới
Tây Phương Cực Lạc, nghĩa là chúng ta nhờ nguyên lý này có thể vãng
sanh Tịnh Độ: Trong Tịnh Độ, căn cứ trình độ mê ngộ phân làm bốn
cõi: cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo
Trang Nghiêm và cõi Thường Tịch Quang. Chúng sanh vãng sanh nơi cõi
Phàm Thánh Đồng Cư thì không biết tình hình nơi ba cõi trên; chúng sanh
được sanh nơi cõi Phương Tiện Hữu Dư thì không biết tình hình nơi hai
cõi trên, nhưng có thể biết nơi cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Còn hai cõi kia cũng dùng cách suy cứu đây để phân loại. Chúng
ta suy luận phân tích sự quan hệ các thứ tình hình nơi bốn cõi Tịnh Độ
vừa kể, cũng chỉ là lý luận suông mà không có kinh nghiệm, nguyên
vì chúng ta chưa vãng sanh Tịnh Độ, sự hiểu biết tổng quát nơi bốn
cõi Tịnh Độ nói trên cũng không đủ điều kiện để có thể tin sâu được.
Chúng ta hôm nay chỉ còn phương pháp duy nhứt là dùng
cảnh giới mộng đối chiếu cảnh giới lúc tỉnh mộng để so sánh.
Quí vị và tôi hiện tại đều sống ở trong cảnh giới mê hoặc (mặc dù
ban ngày), hoàn toàn không biết chút nào về bốn thế giới Cực Lạc
kia, chỉ biết được tất cả tình hình cơ sở đang sống trong cảnh mộng;
cũng thế chúng ta khi ở trong cảnh mộng thì đối với cảnh giới lúc
tỉnh mộng đều không biết chi cả. Nếu quả thật con người khi ở trong
cảnh mộng mà có thể biết được cảnh giới lúc tỉnh mộng thế là họ tức
khắc tỉnh lại ngay và lúc đó cảnh mộng cũng lập tức tiêu mất; cho
nên con người một khi đã giác ngộ thì cũng tức đã tỉnh mộng. Lý lẽ này
so sánh với cảnh giới chúng ta đang sống thì cũng giống nhau, như: chúng
ta hôm nay đang ở đây cho là sống trong thế giới chân thật (hiện đang
ở ban ngày), cảm nhận cái vui ngũ dục ( tài,
sắc, danh, thực, thùy) trói buộc, mê hoặc bản tánh chúng ta, sống mơ
hồ giống như ở trong mộng và cũng không biết rõ có thế giới Cực
Lạc hiện hữu tồn tại bên kia. Giả sử chúng ta nếu quả thật biết
rõ có thế giới Cực Lạc bên kia thì liền khi
đó chúng ta luôn luôn lúc nào cũng không mê mất tánh giác này (chỉ
cho thế giới Cực Lạc), và ngay lập tức liền sanh Tịnh Độ mà không
phải đợi đến một niệm lúc lâm chung. Nếu vậy có người lãnh hội
hỏi rằng: hiện tại chúng ta không phải đã giác ngộ biết có thế
giới Cực Lạc hiện hữu tồn tại sao? Vàø tại sao chúng
ta không thể lập tức vãng sanh? Thật ra chúng
ta hiện tại chỉ giác ngộ qua nói năng nơi trong miệng mà thôi, (như miệng
nói đến lửa, nhưng lửa đó không đốt cháy được), còn trong tâm thì
chưa giác ngộ, tâm và miệng cả hai hoàn toàn không hoà hợp nhau.
(Tâm và miệng giả như hoà hợp nhau, khi miệng nói
đến lửa thì lửa đó có thể đốt cháy được). Đúng vậy lời nói
giác ngộ ở trong miệng không khác nhau với lời nói ở trong mộng, vì thế mộng vẫn
y như cũ tiếp tục xuất hiện. Cho nên chúng ta nhất định phải phát
nguyện xa lìa năm thứ dục để được sanh vào nước Cực Lạc, chúng ta
cần phải thường xuyên tập luyện không cho mê mất tánh giác (tức là
niệm Phật) thì tâm và miệng mới có thể hoà hợp nhau, đồng thời thế
giới Cực Lạc hiện tiền liền được bước vào.
6.- Vạn pháp đều do tâm tạo, tâm và vật
của Phật Giáo thì hoà hợp nhau thành một thể; tâm thì thuộc về dụng
và vật thì thuộc về tướng. Nhờ tướng của vật mà biết được tâm
dụng của con người như thế nào. Lý do tại sao? Ở
điểm hiện lượng này cũng rất khó trình bày cho rõ ràng, giờ đây
chúng ta đem vấn đề mộng làm tỷ lượng để so sánh cho thích hợp.
Lúc chúng ta ở trong mộng các cảnh giới đột nhiên xuất hiện, sau đó
chúng ta khi tỉnh mộng liền nhớ lại những ký ức trong mộng và biết
rõ tất cả những cảnh giới mộng kia là do tâm
hiển hiện; nhờ những cảnh mộng kia mà chúng ta biết được tướng mạo
của tâm mộng. Tình trạnh ban ngày cũng giống như thế, tất cả thấy
nghe ngộ biết đều là chỗ của tự tâm, tất cả cảnh giới cũng đều
là chỗ hiển hiện của tâm. Cho nên mới nói vạn pháp đều do tâm
tạo. Thông thường người ta nói lương tâm tốt và lương
tâm xấu. Lương tâm tốt hay xấu của con người ai
cũng không thể nhìn thấy được và cũng không thể từ nơi hành động
của con người mà quan sát thấy được sự xuất hiện của nó. Nó
thường ngày chỉ cảm giác được trong hoàn cảnh sanh hoạt hơn kém của
con người mà thôi và nó tức là tướng của tâm chúng ta đấy.
7.- Kinh
Kim Cang nói rằng: “ Tất cả pháp, tức không phải tất cả pháp, thế mới
gọi là tất cả pháp.” Trước hết đem câu này đổi thành một pháp gì
đó để nhận xét, như đem đoá hoa làm đề tài: “Đoá hoa, tức không
phải đoá hoa, thế mới gọi là đoá hoa”, đoá hoa đây ai ai cũng đều
nhìn thấy: nó là màu hồng, là màu trắng, là màu tím, là hoa tươi
đẹp đẽ thơm tho; đây chính là người ta chấp trước quan niệm cho đoá
hoa là thật có, nhưng đúng ra nó chính là giả có. Đoá
hoa đây sớm mai thì tươi đẹp thơm tho, nhưng đến chiều thì tàn úa, đó
tức là không phải đoá hoa. Nó chính là không,
do nhân duyên hoà hợp mà thành, giống như đoá hoa trong mộng, cho nên
gọi tức không phải đoá hoa. Thế mới gọi là
đoá hoa, nghĩa là ý nói đoá hoa đây chính là hoa của tâm địa hiện ra.
Nhờ hoa mà biết được tâm địa của chúng ta, hoa chính
là tâm địa của chúng ta đấy, là đoá hoa thật tướng, nó không phải
Không và cũng không phải Có, liền có liền không, tức là Trung Đạo
vậy. Đoá hoa đây là một loại pháp của tất cả
pháp, đoá hoa của một pháp là như thế thì tất cả pháp lại cũng như
thế. Cho nên
mọi việc mà chúng ta sanh hoạt thường ngày đều có thể sử dụng ba
pháp quán Không, Giả, Trung Đạo để thể nghiệm và nhờ đó mới không
bị ngoại cảnh mê hoặc.
8.- Cái Không, có người nói cái Không
trong Phật Pháp không phải là cái Không của Ngoan không mà nó chính
là cái Không trong cái không của Diệu Hữu. Ngoan
không và Diệu không phân biệt như thế nào? Như trong Kinh nói:
“Pháp Thân của Như Lai xét đến cùng chính là tịch tịnh, dụ như hư
không.” Lời nói
trên nhất định có người hiểu lầm cho hư không chính là cái Không của
Diệu không; hiểu như thế là sai lầm. Thật tế mà
nói, chúng ta đối với cái Không ở đây không một chút nào có kinh
nghiệm cả và cũng rất khó có thể tiến vào cánh cửa của nó.
Cho nên phải dùng cái mộng làm công việc so sánh để
quan sát nó. Khi ở trong mộng, chúng ta mộng thấy trạng thái hư
không và quan niệm cho cảnh giới hư không đây thật có tồn tại, vì
thế mới có cái mộng phát khởi; sự tồn tại của hư không nói trên
chính là ở trong mộng vậy! Hiện tượng này quyết định
không thể cho là tỉnh được. Chúng ta chỉ khi nào
tỉnh lại mới biết những sự vật (tức hư không) ở trong mộng đúng với
sự thật chính là không; Cái không ở đây có thể gọi là Chân không
diệu hữu. Lý lẽ này giống nhau với Hư không
của Phật Pháp quan niệm, nghĩa là chúng ta sau khi giác ngộ thì mới
biết được chân không của vũ trụ vạn hữu và vạn hữu chân thật đây
chính là Chân không diệu hữu vậy.
Những điều giải thích ở trên hoàn toàn dùng
tỷ lượng để trắc nghiệm lời nói của bậc Thánh (Thánh ngôn lượng).
Vì có một số người ngộ nhận xin đề cử dưới đây để dẫn giải:
a. Cái Không mà nơi văn Kinh thường nói thì cũng giống như ở
trước trình bày đều thuộc về loại mộng, đã là mộng, đã là không
thì cần gì phải bận rộn vất vả đi làm suốt ngày? Người
nào nói những lời này, thường có những tư tưởng (vọng tâm) tồn tại
thì người đó phải chịu ở trong mộng lâu đời. Khi
ở trong mộng, họ lại thọ nhận những cảnh mộng chi phối, chịu đựng
những định luật nhân quả khống chế, trốn không thoát khỏi cảnh giới
mê hoặc. Lẽ cố nhiên thiết thực hơn mặc dù
đang ở trong mộng, con người cần phải đi làm việc, làm càng chân
thật và càng lâu năm thì mới có thể được những mộng thốt (báo ứng
tốt). Nếu không như thế, ác mộng lại đến vĩnh
viễn khó xa lìa và trường mộng trở nên dầy dặc không kỳ hạn.
Chỉ có một phương pháp là làm cách nào khiến cho cái
Không chân thật xuất hiện thì mới có thể thoát ly được thế giới
mộng mê.
b. Lại có một hạng người lãnh hội vấn đề đây nói rằng:
“Giáo lý Phật Giáo nói mộng nói không, thật ra đem người đang nằm mộng
để xem thì nhận thấy họ rất tiêu cực!” Đây là một thứ hiểu lầm,
con người đang nằm mộng
quyết không phải tiêu cực. Phải nói chúng ta đang
sống đây không khác như người đang ở trong mộng; chúng ta đang sinh
hoạt trong tư tưởng của mê hoặc, đang hành động trong cảnh giới của
mộng mê. Chỗ nói năng chỗ làm việc của chúng
ta đều sai lầm, những sự việc của chúng ta làm cũng giống như những
sự việc ở trong mộng. Khác nào người mê quên
mất phương hướng, nhận lầm phía đông cho là phía tây, càng đi càng xa,
nên gọi họ là người mê. Con người cũng vì mê nên mới có quan
niệm phương hướng, mới phát khởi vấn đề mê cùng không mê. Giả sử nếu hoàn toàn ly khai quan niệm phương hướng (tức
là ý nghĩa chân không), người mê không hội đủ điều kiện để thành
lập. Vì thế trong Phật Pháp nói mộng nói
không, là mục đích khiến cho chúng sanh thức tỉnh dể thoát ly được huyễn
cảnh. Cố nhiên trong Phật
Pháp cho hành vi và tư tưởng hướng thượng trên
đây là vô cùng tích cực.
c. Lại cũng có một hạng người hiểu lầm như trên bảo rằng:
“Người đang mộng xem ra cũng tốt, cần gì phải tỉnh lại, đã là một vũ
trụ không nào có thú vị bao nhiêu? Hơn nữa mọi người
trên thế giới đều đi tu hành làm hoà thượng cả thì ai lại đi kiến
lập chi cái xã hội này?” Vấn đề đây bảo chúng ta trước hết nên
nhìn xem cái xã hội này là mộng ác nhiều hay là mộng tốt nhiều?
Giả sử mộng tốt nhiều lại còn bảo nó đi làm việc, nhưng trên thực
tế, con người mặc dù được nhiều mộng tốt hoặc làm được nhiều công
việc tốt, mà vẫn không thoát khỏi tám cái khổ: sanh, già, bệnh,
chết, thương yêu nhau bị xa lìa, thù ghét nhau cứ gặp nhau mãi, hy vọng
không thành, năm ấm xí thạnh. Ngoài ra còn có các thứ thiên tai nhơn họa, thật là kể không hết. Trong những hiện
tượng trên, chọn một người bệnh để bàn, thân thể người bệnh nổi
đầy mụn nhọt, họ đi cầu thầy cho thuốc, nhờ cầu thầy nên sung sướng
được khỏi bệnh. Nếu như có người báo cho người khác biết: Đây là
mộng, các ông nên tỉnh lại đi! Như thế xin hỏi quý Ngài, có nên
chọn con đường cầu thầy cho thuốc hay là cầu tỉnh lại (tức là theo sự tu hành)? Đương nhiên mục đích
chúng ta học Phật là muốn tỉnh lại từ nơi mộng, muốn thoát ly cảnh
giới giả khổ để thành tựu đại giác, tế độ quần sanh. Cuối cùng xin dẫn chứng bài kệ của kinh Kim Cang quán
chiếu đối với các pháp để kết thúc đoạn văn này. Bài kệ như
sau:
“Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn, như
bọt nước; như sương khói, như điện chớp, nên quán chiếu như thế.”
( Nguyên bản đăng trong Nguyệt San Hải
Triều Âm, ngày 01 tháng 10 năm Dân Quốc 57.)