Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO
---------------------------------------------------------------------
Tác giả Pháp sư CHÁNH QUẢ
Dịch giả THÍCH THẮNG HOAN
(Trích trong Phật Giáo Cơ Bản Tri Thức của Pháp sư Chánh
Quả)
Phật Pháp Tăng
Tam Bảo. Là người học tập Phật Pháp chúng ta cần phải có đủ
tri thức căn bản về Phật Pháp Tăng Tam Bảo, vì thế đầu tiên vấn đề
này cần được đem ra giải thích như sau:
1.- THẾ GIAN ĐẦU
TIÊN CÓ TAM BẢO:
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề,
trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc
giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm
khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới
chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái
lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ
được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng
công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên
Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã
Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật
mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ,
Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các
lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới
thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân
Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
2.- DANH NGHĨA CỦA
PHẬT PHÁP TĂNG:
A)- PHẬT, tiếng Phạm “Phật Đà” dịch là Giác Giả, tức là giác ngộ
các pháp sự lý chân chánh viên
mãn, thấu hiểu phân minh cứu cánh tất cả nhân trí vô dư. Chữ Giác
có ba nghĩa: Chánh Giác, Đẳng Giác, Vô Thượng Giác. Chánh
Giác chọn lọc khác biệt với Bất Giác của phàm phu và Thố Giác của
ngoại đạo. Phàm phu đối với chân tướng của sự
vật thì không sáng suốt, khởi lên các thứ điên đảo, cho nên gọi là
Bất Giác. Ngoại đạo đối với tầm tư suy cứu có mức độ, hoặc
định lực và thông lực có giới hạn, thấy biết một số bộ phận đạo
lý nào đó của sự vật, vọng chấp cho là toàn bộ, là chân thật, mà
kiến tập các thứ lý luận sai lầm, tự cho mình là kẻ giác ngộ, nhưng
trên thực tế chỉ là cảm giác sai lầm của tâm phân biệt hữu lậu.
Phật Đà chính là người giác ngộ chân chánh, nguyên vì Phật đã sử
dụng trí vô lậu vô phân biệt thân chứng được thật tướng chân như
của các pháp, đối với chỗ sự tướng lý thể không tăng không giảm của
các pháp đều giác ngộ bình đẳng như thật, cho nên được gọi là Chánh
Giác Giả. Đẳng Giác tức là nghĩa giác ngộ khắp tất
cả, chọn lọc khác biệt với Thánh Nhân của hai Thừa. Thánh
Nhân của hai Thừa dĩ nhiên là Chánh Giác, nhưng chưa giác ngộ khắp
tất cả; nguyên vì các vị đó mặc dù đã liễu ngộ chánh giác, nhưng
không thể phát khởi tâm từ bi rộng lớn đi giác ngộ cho những người
khác, chỉ giới hạn nơi tự giác mà không giác tha khắp nơi. Phật Đà như đại lương y, chính mình là một vị thầy thuốc tự
giác, ngoài ra còn phát động đại từ đại bi đem sự tự giác đi giác
ngộ khắp tất cả hữu tình, cho nên gọi là Biến Giác Giả. Vô Thượng Giác chọn lọc khác biệt với Bồ Tát. Bồ
Tát của Đăng Địa tuy là chánh giác giả mà cũng giác ngộ các hữu
tình khác, nhưng ngồn gốc phiền não chướng và sở tri chướng chưa có
dứt hẳn, hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ còn phải tiến tu, tuy
là biến giác giả của tự giác và giác tha, chưa đạt đến viên mãn
vô thượng. Chỉ có Phật Đà hạnh nguyện bi trí của tự
giác và giác tha đều đã cứu cánh viên mãn, không có ai vượt trội
hơn, cũng không có người so sánh bằng, cho nên được gọi là Vô
Thượng Giác Giả. Trong các Kinh nói, nếu như
chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nghĩa đây tức là vô
thượng chánh đẳng chánh giác giả. Nói chung
lại là: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nên gọi là Phật.
Như Phật Đạ Luận nói: “Nơi tất cả pháp, tất cả thứ tướng, đều tự
khai mở trí giác, cũng khai mở trí giác cho tất cả hữu tình, như người
ngủ vừa tỉnh giác, như hoa sen nở rộ, nên gọi là Phật.”
B)- PHÁP: tiếng Phạn “Đạt Ma”, dịch là pháp,
là nghĩa phép tắc. Thành Duy Thức Luận nói: “Pháp là Quỹ Trì”. Thành
Duy Thức Luận Thuật Ký giải thích rằng: “Quỹ nghĩa là khuôn khổ có
thể phát sanh sự hiểu biết là vật gì; Trì nghĩa là giữ lấy không bỏ
tự tướng.” Đây chính là nói: “Pháp là một thứ sự vật đều giữ lấy
kiên cố tự tánh của nó, như hoa có thể của hoa, cây có thể của
cây, mà lại thường biểu hiện trạng thái phạm vi cố định bên trong
nơi nó, khiến cho hữu tình khác nhìn thấy liền có thể biết nó là
vật gì, hiệp lại hai nghĩa là giữ lấy tự tánh và khuôn khổ riêng
biệt của nó khiến có thể hiếu biết được nó là vật gì, nên gọi là
Pháp. Cố nhiên chữ “Pháp” đây đích thực hiểu tổng
quát là tất cả sự vật trong vũ trụ. Còn chữ Pháp của Phật
Pháp là chỉ cho giáo pháp thiện sảo của Phật Đà căn cứ nơi chỗ
giác ngộ như thật mà giảng dạy cho chúng sanh trong thế gian; Giáo
pháp đây có tự thể của nó, có thể cho là phép tắc của tất cả
chúng sanh, ý nghĩa tương đương với “Đạt Ma”, cho nên gọi là Pháp. Luận về chánh thể nơi Pháp bao gồm cả Giáo, Lý, Hạnh,
Quả vô lậu của ba Thừa. Giáo tức là văn tự âm thanh, Lý tức
là nghĩa lý Nhị Đế Tứ Đế, Hạnh tức là hai điều Lợi và Hạnh của ba
Thừa tu tập, Quả tức là hai quả chuyển y của ba Thừa vô học chứng
đắc. Nếu căn cứ nơi căn cơ hóa độ mà nói thì Pháp có thể chia làm
năm Thừa: một là Nhân Thừa nói pháp năm giới, hai là Thiên Thừa
nói pháp Thập Thiện, ba là Thinh Văn Thừa nói pháp Tứ Đế, bốn là
Độc Giác Thừa nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên, năm là Bồ Tát Thừa nói
pháp Lục Ba La Mật Đa. Nếu căn cứ nơi pháp môn đối
trị mà nói thì có tám vạn bốn ngàn pháp. Còn
căn cứ vào cương lĩnh tổng quát của sự tu trì mà nói thì chỉ có ba
môn học Giới, Định và Huệ mà thôi.
Sau khi Phật Đà nhập diệt, Đại Ca Diếp Tôn Giả là người lãnh
đạo, liền triệu tập chúng đệ tử của Phật, đem tất cả giáo pháp
của Phật Đà lân mẫn chỉ dạy cho chúng sanh, nhờ A Nan trùng tuyên,
bắt đầu kết tập, tổng quát chia làm ba Tạng: một là “Tố Tứ Lãm”,
dịch là Khế Kinh, tức là Kinh Tạng; hai là “Tỳ Nại Da”, dịch là điều
phục, tức là Luật Tạng; ba là “A Tỳ Đạt Ma”, dịch là đối pháp, tức
là Luận Tạng. Tạng là nghĩa gồm thâu, tức là trong
ba Tạng gồm thâu pháp nghĩa chỗ phải hiểu biết, phải thật hành,
phải chứng đắc. Khảo sát chỗ giải thích của nó đều có bộ
phận chung. Căn cứ nơi bộ phận
mà nói, Kinh thì giải thích định học; Luật thì giải thích giới học; Luận
thì giải thích huệ học. Nói chung lại ba
Tạng đều có giao tiếp lẫn nhau; ba Tạng thì chuyên giải thích giáo
lý, ba Học thì chỗ giải thích nghĩa lý, để cho giáo lý gồm thâu nghĩa
lý không có sai trái dư thừa.
Lại nữa theo Đức Như Lai đối cơ thuyết
pháp, vấn đề sai biệt thì có nhiều thứ hình thức và sự nghĩa, được
phân làm mười hai phần giáo:
1)- Khế Kinh, tức là các
Kinh tuyên thuyết pháp nghĩa bằng câu văn trường hàng như: Ngũ Uẩn,
Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Duyên Khởi, Tứ Đế, Bồ Đề Phần Pháp..v..v.....
2)- Ứng Tụng, tức là
khoản giữa hoặc sau cùng của các Kinh văn trường hàng thường dùng
số chữ nhất định tổ chức thành văn tụng, để trùng tuyên tổng quát
pháp nghĩa đã nói của câu văn trường hàng, hoặc hiển bày lại pháp
nghĩa chưa rõ ràng rốt ráo.
3)- Ký Biệt, tức là trong các Kinh
ghi lại chúng đệ tử sau khi mạng chung sanh vào những chỗ sai biệt,
hoặc thọ ký cho các Bồ Tát những sự việc thành Phật khi nào và
chỗ nào.
4)- Phúng Tụng, có những Kinh điển
tuyên thuyết pháp nghĩa không dùng câu văn trường hàng, mà lại dùng
hình thức thể tài văn tụng để tuyên thuyết. đây
là những Kinh điển thuần túy thuộc thể văn tụng, cho nên cũng gọi
là Câu Khởi Tụng, như Kinh Pháp Cú..v..v.....
5)- Tự Thuyết, là vì muốn cho chánh
pháp tồn tại lâu dài nơi thế gian, hoặc vì muốn cho chúng sanh được
lợi ích lớn, có những pháp môn thù thắng, không cần cầu thỉnh, đức
Như Lai tự nhiên tuyên thuyết, đây chính là những Kinh điển không có
liệt kê những người thỉnh pháp, như Kinh A Di Đà..v..v.....
6)- Nhân Duyên, tức là tất cả giáo
pháp tuyên thuyết bao gồm có sự tướng nhân duyên, như Kinh Biệt Giải
Thoát Giới..v..v.....
7)- Thí Dụ, tức là giáo pháp trong
các Kinh tuyên thuyết thường dùng thí dụ để bày tỏ nghĩa căn bản.
8)- Bổn Sự, chính là các Kinh điển
Phật Đà tuyên thuyết ghi lại những sự việc nhân duyên đời quá khứ
của chúng đệ tử.
9)- Bổn Sanh, tức là đức Như Lai
tuyên thuyết các vấn đề sanh tử và các sự việc thật hành Bồ Tát
Hạnh đời quá khứ của chính mình.
10)- Phương Quảng, nghĩa là trong
các Kinh tuyên thuyết các Bồ Tát Đạo có thể chứng Vô Thượng Bồ Đề
giúp cho mọi người chứng được các công đức của Thập Lực, Tứ Vô Sở
Úy..v..v.... Đây là pháp nghĩa chân thật ngay thẳng chính đáng rộng lớn
cho nên gọi là phương quảng.
11)- Hi
Pháp, nghĩa là Phật Đà tuyên thuyết cho chúng đệ tử những công
đức thần thông đặc biệt thù thắng và những pháp nghĩa mầu nhiệm
sâu xa. Đây đều là những pháp nghĩa những năng lực
hi hữu, không thể sử dụng nghĩa của tư duy thường tình để thông suốt,
cho nên gọi là Hi Pháp.
12)-
Luận Nghĩa, tức là những Kinh điển nghiên cứu giải thích ý nghĩa
và tông yếu của các Kinh.
Trong mười hai phần giáo đây, ba thứ như Khế Kinh, Ứng Tụng và
Phúng Tụng là thuộc thể tài rút gọn trên văn Kinh mà đặt tên,
ngoài ra chín thứ còn lại là từ giáo nghĩa khác biệt được chuyên
chở nơi các văn Kinh mà đặt tên. Hơn nữa đa phần căn cứ nơi sự kiện
giáo nghĩa mà thiết lập danh xưng gồm có: Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký
Biệt, Phúng Tụng, Tự Thuyết, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng,
Hi Pháp đều thuộc về Tố Tứ Lãm Tạng; Nhân Duyên là thuộc về Tỳ
Nại DaTạng; Luận Thuyết là thuộc về A Tỳ Đạt Ma Tạng.
C)- TĂNG:
tiếng
Phạn “Tăng Già”, dịch là chúng hòa hợp, danh xưng đây từ ba người trở
lên (xưa dịch là từ bốn người trở lên); tức là chúng đệ tử xuất
gia phụng hành giáo pháp của Phật Đà. Sao xưng là
chúng hòa hợp? Hòa hợp có hai ý nghĩa: một là Lý Hòa, nghĩa
là đồng chứng lý trạch diệt; hai là Sự Hòa, có đủ sáu loại:
1)- Giới Hòa Đồng Tu: nghĩa
là đối với giới pháp đã thọ, khéo giữ gìn thọ trì, không cho nhơ
bẩn không cho lẫn lộn, xưng tán không dứt, với chúng bạn đạo đồng
tu phạm hạnh thanh tịnh, cùng nhau thọ trì bình đẳng. Nhờ pháp này
phát khởi được sự ái kính tôn trọng lẫn nhau, tâm ý vui mừng hoan
hỷ không chống trái, không tranh cãi, hòa hợp cùng nhau chung ở.
2)- Kiến Hòa Đồng Giải: nghĩa là đối
với pháp Thánh Đạo xa lìa hết khổ, có thể khéo léo kiến giải lý
chân như thông đạt đúng như
thế. Với chúng bạn đạo đồng tu phạm hạnh thanh tịnh,
kiến giải nhất trí cùng nhau tu học. Nhờ pháp này phát khởi
được sự ái kính tôn trọng lẫn nhau, tâm ý vui mừng hoan hỷ không
chống trái, không tranh cãi, hòa hợp cùng nhau chung
ở.
3)- Lợi Hòa Đồng Quân: nghĩa là đối
với “Tài Vật” lợi dưỡng thâu hoạch được như pháp, cá nhân không
được cất dấu riêng, phải cùng với chúng bạn đạo đồng tu phạm hạnh
thanh tịnh thọ dụng bình đẳng. Nhờ pháp này phát khởi được sự ái
kính tôn trọng lẫn nhau, tâm ý vui mừng hoan hỷ không chống trái,
không tranh cãi, hòa hợp cùng nhau chung ở.
4)- Thân Hòa Đồng Trụ: nghĩa là đối
với chúng bạn đạo đồng tu phạm hạnh thanh tịnh, tu tập nghiệp Thân
Từ, trái duyên có bệnh tật..v..v.... nên chiếu cố lẫn nhau. Nhờ pháp này phát khởi
được sự ái kính tôn trọng lẫn nhau, tâm ý vui mừng hoan hỷ không
chống trái, không tranh cãi, hòa hợp cùng nhau chung
ở.
5)- Khẩu Hòa Vô Tránh:
nghĩa là đối với chúng bạn đạo đồng tu phạm hạnh thanh tịnh, tu tập
nghiệp Ngữ Từ, có những công đức pháp lành nên khuyến khích tán
thán lẫn nhau, có những lỗi lầm khéo ý nêu lên can gián lẫn nhau
để đình chỉ. Nhờ pháp này phát khởi được sự ái kính tôn trọng lẫn
nhau, tâm ý vui mừng hoan hỷ không chống trái, không tranh cãi, hòa
hợp cùng nhau chung ở.
6)- Ý Hòa Đồng Duyệt: nghĩa là đối
với chúng bạn đạo đồng tu phạm hạnh thanh tịnh, tu tập nghiệp Ý Từ,
luôn luôn nghĩ đến các bạn đạo đều là những kẻ thay thế Phật tuyên
dương giáo pháp, lãnh thọ hành trì chánh pháp, tư duy chánh pháp, trụ
trì chánh pháp, là bạn lành của mình không dễ gì có được, là thiện
tri thức trợ giúp mình thành tựu đạo nghiệp. Nhờ pháp này phát khởi
được sự ái kính tôn trọng lẫn nhau, tâm ý vui mừng hoan hỷ không
chống trái, không tranh cãi, hòa hợp cùng nhau chung
ở.
Phân loại Tăng có hai thứ:
a)- Thinh Văn Tăng: tức là hình
tướng Sa Môn xuất gia cụ túc, cắt tóc
đắp
y, tu tập Tam Học Tiểu Thừa.
b)- Bồ Tát Tăng: là những kẻ tu tập
Tam Học Đại Thừa, có hai hình
tướng: hình tướng xuất gia và hình tướng
tại gia.
Phân pháp thì lại có ba loại:
a)- Thinh Văn Tăng,
b)- Duyên Giác
Tăng: có hai thứ: Lân
Dụ ( hạng gần thông hiểu)
và Bộ Hành, Bộ Hành thành Tăng chúng.
c)- Bồ Tát Tăng: tức là người tu
tập Đại Thừa.
Phân pháp còn có những thứ Tăng nữa như: Thế Tục Tăng, Thắng
Nghĩa Tăng, Tứ Chủng Tăng..v..v.....nhưng
trong đây không thể nói rõ.
3.- Ý NGHĨA CỦA
CHỮ BẢO:
Phật, Pháp, Tăng, ba thứ đây sao gọi là “Bảo”? Nguyên vì Tam
Bảo đây là ngôi vị hướng dẫn chúng sanh đoạn ác tu thiện, lìa khổ
được an vui, giải thoát sự trói buộc, chứng đắc bậc đứng đầu chỉ
đạo cõi Đại Tự Tại, rất được tôn quí, như vật quý hiếm có, cho nên
gọi là Bảo. Trong Thật Tánh Luận, trân bảo thế gian dùng có sáu thí
dụ quý báu, nay đem áp dụng vào Phật Pháp để thuyết minh rõ Phật
Pháp Tăng có sáu ý nghĩa quý báu gọi là Bảo:
a)- Nghĩa Hy
Hữu: như bảo vật thế gian, người bần cùng không thể có được;
Tam Bảo cũng giống như thế, chúng sanh không có thiện căn, trăm ngàn
vạn kiếp không thể ngộ được.
b)- Nghĩa Ly Trần: như trân
bảo của thế gian không có vết tích nhơ bẩn trên thể chất; Tam Bảo
cũng giống như thế, tuyệt đối xa lìa tất cả trần cấu hữu lậu nhiễm
ô, thanh tịnh sáng suốt tột cùng, nên gọi là Bảo.
c)- Nghĩa Thế Lực: như trân bảo thế
gian có thế lực lớn có thể trừ được nghèo khó, chữa trị bệnh độc..v..v....; Tam Bảo cũng giống như
thế, đầy đủ oai lực thần thông không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là
Bảo.
d)- Nghĩa Trang Nghiêm: như
trân bảo thế gian có thể trang nghiêm thế gian, khiến thế gian tươi
đẹp; Tam Bảo cũng giống như thế, đều có công đức vô lậu vô lượng
có thể trang nghiêm xuất thế gian, cho nên gọi là Bảo.
e)- Nghĩa Tối Thắng: như ngọc bích quý
báu thế gian rất là thù thắng ở trong tất cả vật; Tam Bảo cũng
giống như thế, là pháp vô lậu của xuất thế gian, rất là thù thắng
vô thượng, cho nên gọi là Bảo.
g)- Nghĩa Bất Cải: như vàng thật của
thế gian, đun nấu đánh đập mài dủa..v..v....
bản chất không hề cải biến; Tam Bảo cũng giống như thế, là vì pháp
vô lậu, không bị bát Phong như: Xưng, Cơ, Khổ, Lạc, Lợi, Suy, Hủy, Dự
chuyển động nghiêng đổ, luôn luôn bền bỉ không thay đổi, nên gọi là
Bảo.
Kinh Tâm Địa Quán, Phẩm Báo Ân dùng ý nghĩa của mười nghĩa như:
kiên lao, vô cấu, dữ lạc, nan ngộ, năng phá, oai đức, mãn nguyện,
trang nghiêm, tối diệu, bất biến
để thuyết minh rõ sự quý báu của Phật Pháp Tăng, nên gọi là Bảo.
Nói tóm lại: “Phật Pháp Tăng là bảo, vì đầy đủ vô lượng thần
thông biến hóa, lợi lạc hữu tình, đến dần dần không dứt, dùng ý
nghĩa này để chỉ cho các đức Phật Pháp Tăng, cho nên gọi là Bảo”.
4.- CHỦNG LOẠI CỦA
TAM BẢO:
Tam Bảo có sáu chủng loại: Đồng Thể, Biệt Thể, Nhất Thừa, Tam
Thừa, Chân Thật và Trụ Trì.
1)- Đồng Thể Tam Bảo, cũng gọi
là Nhất Thể Tam Bảo, cũng gọi là Đồng Tướng Tam Bảo. Thể tức là
Pháp Thân chân như thanh tịnh pháp giới; Phật Tánh tức là Pháp Tánh,
Pháp Tánh tức là Tăng Tánh, xưa gọi là Đồng Thể. Nay trên mỗi một
thể đều có đủ ba nghĩa Phật Pháp Tăng hiển bày theo
như đồ biểu thứ nhất sau đây:
ĐỒ BIỂU 1:
Tăng Có
đủ quy tắc gọi là Pháp Bảo
2)- Biệt Thể Tam Bảo, cũng gọi là
Hóa Tướng Tam Bảo. Trong Kinh Niết Bàn, Phật Đà tự nói Phật Pháp
Tăng ba thứ danh nghĩa đều khác, nói một là ba, hoặc nói ba là một,
là cảnh giới của chư Phật, không phải các bậc Thinh Văn và Duyên
Giác biết được. Du Già Sư Địa Luận cũng nói, hiển hiện Chánh Đẳng
Giác là Tướng Phật Bảo, các pháp chỗ Phật chứng quả là Tướng Pháp
Bảo, theo Phật thọ giáo tu hành chân chánh là Tướng Tăng Bảo, do đó
gọi Tam Bảo là Biệt Thể đều khác.
Tam
Thừa Thánh Chúng đầy đủ lý sự hòa hiệp gọi là Tăng Bảo. Tăng
3)- Nhất Thừa Tam Bảo, Đức Như Lai nói
pháp dùng Nhất Thừa làm cứu cánh, như Thắng Man Kinh nói rằng: “Nói
đạo pháp Nhất Thừa, đắc Pháp Thân cứu cánh, nơi Vô Thượng lại
không nói pháp sự Nhất Thừa”. Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Trong mười
phương cõi Phật, chỉ có pháp Nhất Thừa.” Cho nên y nơi cõi Cứu Cánh
mà nói, chỉ có Nhất Thừa Tam Bảo, còn nói Nhị Thừa, nói Tam Thừa
đều là huyền hóa mà thiết lập.
Trong căn bản đây, chỉ chọn lấy Nhất Thừa Tam Bảo làm Thể sở
hữu, làm quy ước thọ trì mà nói, phương tiện để tu tập thì Pháp và
Tăng cũng thâu nhiếp vào Thể Nhất Thừa Tam Bảo.
Tăng Đại Thừa Bồ Tát
Tăng là Tăng Bảo
4)- Tam Thừa Tam Bảo,
tức là hiện thân để giáo hóa người ba Thừa, Pháp để giảng và Tăng
chúng để độ, gọi là Tam Thừa Tam Bảo.
Tất cả Hiền
Thánh trong Tam Thừa là Tăng Bảo Tăng
5)-
Chân Thật Tam Bảo, tức là thật nghĩa của Đồng Thể, Biệt Thể,
Nhất Thừa, Tam Thừa đã trình bày ở phía trước đều có Tam Bảo, cho
nên Pháp và Tăng không tiếp thu hữu lậu.
Tăng Ba
Thừa Thánh Chúng của Kiến Đế trở lên là Tăng Bảo.
6)- Trụ Trì Tam Bảo, đức Phật sau khi
nhập diệt, chỉ để lại thế gian những gia bảo như là Xá Lợi, Phật
Tượng, ba Tạng Kinh văn giáo lý, tất cả Tăng chúng xuất gia; vì lợi
lạc thế gian, những gia bảo nói trên được tiếp nối truyền thừa bảo
trì Phật Pháp không cho mất; những gia bảo này được gọi là Trụ Trì
Tam Bảo.
Tăng Đồ chúng xuất gia
là Tăng Bảo
Thứ lớp và xác định của danh số Tam Bảo nơi trong Kinh Luận
giải thích có nhiều nghĩa, nay xin tổng kết Kinh Luận để dễ nhận
thức: Phật giống như lương y, Pháp giống như diệu dược, Tăng giống như
người khám bệnh, ba thứ báu đây không tăng và cũng không giảm.
5.- SAI BIỆT CỦA TAM BẢO:
Sai biệt của ba thứ Phật Pháp Tăng, Du Già Sư Địa Luận dùng
sáu thứ tướng để hiển bày nó:
a)- Do
tự tướng sai biệt. Không phải do người khác giáo dục, tự tướng
giác ngộ tự nhiên thể hiện đấy là Phật Bảo; tự tướng quả pháp
của Phật giác ngộ đấy là Pháp Bảo; tự tướng chân chánh nhờ người
khác trao truyền mà tu hành đấy là Tăng Bảo.
b)- Do tạo nghiệp sai biệt. Khéo
chuyển nghiệp bằng giáo pháp chân chánh đấy là Phật Bảo; các pháp
chỗ duyên làm nghiệp để đoạn trừ phiền não đấy là Pháp Bảo; người
tu trì dõng mãnh tinh tấn để tăng trưởng nghiệp thiện pháp đấy là
Tăng Bảo.
c)- Do tin hiểu sai biệt. Đối với
Phật Bảo cần phải thiết lập tin hiểu để thân cận thừa hành phụng
sự, đối với Pháp Bảo cần phải thiết lập tin hiểu để mong cầu chứng
đắc, đối với Tăng Bảo cần phải thiết lập tin hiểu để hòa hợp đồng
nhất pháp tánh cùng chung ở.
d)- Do tu hành sai biệt. Nơi Phật Bảo
phải tu chánh hạnh để thừa hành phụng sự cúng dường, nơi Pháp Bảo
phải chánh hạnh tu Du Già Phương Tiện, nơi Tăng Bảo phải chánh hạnh
tu cùng chung thọ dụng tài pháp.
e)- Do Tùy Niệm Sai Biệt. Niệm Phật
Bảo là bậc Vô Thượng Chánh Biến Giác, là Thế Tôn, đầy đủ mười
lực, bốn vô sở úy, mười tám Phật Pháp bất cộng..v..v....;
niệm Pháp Bảo là thiện pháp xuất thế thanh tịnh vô lậu, là pháp
hành đoạn trừ tất cả tai họa tội lỗi, sanh tất cả công đứclàm chỗ
nương tựa; niệm Tăng Bảo là những người tu hành chánh giác phạm
hạnh thanh tịnh, là kẻ trụ trì Phật Pháp, hoằng dương Phật pháp, là
kẻ tự tánh thanh tịnh, xa lìa các điều ác.
g)- Do sanh phước sai biệt. Nơi Phật
Bảo, quy y cúng dường ..v..v....
là nương nơi một hữu tình thì phát sanh được phước đức thù thắng trên
hết; nơi Pháp Bảo quy y cúng dường thọ trì..v..v..... tức là nương nơi pháp
này phát sanh được phước đức thù thắng trên hết, nơi Tăng Bảo quy y
cúng dường thừa hành phụng sự..v..v.... là nương nơi
nhiều hữu tình thì phát sanh được phước đức thù thắng trên hết.