CẢM NHẬN
SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
---------------------------------------------------------
Sự ra đời
của Đức Phật Thích Ca theo Thông Bạch Phật Đản
Phật Lịch 2565- 2021 có đoạn ghi “Bản nguyện của ngài là gì khi hóa
thân đến trần gian này?” Một câu hỏi mang đầy ý
nghĩa nhất cần phải khai triển. Sự hóa thân
xuống trần này với mục đích mở một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên
cho đến ngày nay chưa từng có của loài người, đó là một kỷ nguyên
trí tuệ và từ bi. Trước khi đi sâu vào trí tuệ
và từ bi, trước hết ta quán chiếu đầu tiên sự xuất hiện bằng cách
hóa thân của ngài xuống trần gian này.
A.- Sự ra đời của ngài tại nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) có
hai phương diện, phương diện lịch sử và phương diện biểu tượng. Ngài
là Bồ Tát hóa thân xuống trần gian cởi con voi trắng sáu ngà là phương
diện biểu tượng; Ngài là thái tử con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và
Hoàng Hậu Ma Da (Maha Maya) là phương diện lịch sử. Trước hết nhìn về
phương diện biểu tượng:
1. Phương
diện biểu tượng thứ nhất là voi trắng sáu ngà: theo truyền thuyết
bốn vật cao quý nhất: [nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng] (Điểu
là chim, thường gọi là chim Đại Bàng; Ngư cá hoá long [theo Tự Điển
Việt Nam]; Xà là rắn, [theo Ấn Độ có loại rắn bảy đầu thường che
mưa cho đức Phật Thích Ca, theo sử liệu]; Tượng, có chỗ gọi là voi.
a, Voi trắng: màu trắng là biểu tượng màu trong sạch, là
màu giải thoát (bạch nghiệp là nghiệp trắng, là hết nghiệp, trong
sạch không còn nghiệp.)
b, Sáu ngà là biểu tượng cho Lục Độ của Bồ Tát Hạnh.
Lục Độ, theo Tự Điển Đoàn Trung Còn (Six vertus
cardinals -fr.), cũng kêu là Lục Ba La Mật (six Paramitas), Lục Độ là
sáu phương pháp có khả năng đưa đến bờ giác bên kia. Lục Độ gồm
có:
1, Bố thí trừ tham lam, keo lận.
2, Trì giới trừ tà ác.
3, Nhẫn nhục trừ sân khuế.
4, Tinh tấn trừ giải đãi.
5, Thiền định trừ tán loạn.
6, Trí huệ
trừ ngu si.
2.- Phương diện biểu tượng thứ hai là đi bảy bước trên bảy
hoa sen.
a, Hoa sen thông thường giải thích là biểu tượng trong sạch,
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng hoa sen còn
mang nhiều ý nghĩa khác, đạo Phật chính là đạo hoa sen; sao gọi là
đạo hoa sen? Thế giới của Bồ Tát Hộ Minh an
trụ chính là Thế Giới Liên Hoa Tạng, cũng như thế giới của Phật Đa
Bảo là Thế Giới Bảo Tháp. Thế Giới Liên Hoa Tạng (Monde des
litus-fr.), theo Phật Học Tự Điển của Đoàn Trung Còn, quyển II, trang
200 có giải thích, mỗi đức Phật đều có cảnh Liên Hoa Tạng Thế Giới
của mình. Như Kinh Hoa Nghiêm có chỉ rõ:
*. Liên
Hoa Tạng Thế Giới của đức Phật Thích Ca,
*. Liên
Hoa Tạng Thế Giới của đức Phật A Di Đà (Kinh Vô LượngThọ và Quán
Vô Lượng Thọ)
*. Liên
Hoa Tạng Thế Giới của đức Phật Đại Nhật (Kinh Đại Nhật)
b, Phật đi
bảy bước: số bảy là một pháp tiêu biểu, sự cấu trúc của vạn pháp
trong vũ trụ này, theo Vạn Pháp Qua Cái Nhìn Của Duy Thức cùng một
tác giả, gồm có bảy yếu tố: đất, nước, lửa, gió, nghiệp lực,
nghiệp tướng, Thức A Lại Da. Thiếu một trong bảy yếu tố này vạn
pháp không thể thành hình, ngoại trừ thế giới vô sắc.
c, Đức Phật đi bảy bước trên bảy hoa sen, nghĩa là khắp
thế giới, ngài bước chân đến đâu là hoa sen nở đến đó, hay nói một
cách khác giáo lý của ngài đi đến đâu là tinh thần hoa sen nở đến
đó.
B.- Phương diện lịch sử: Đức Phật Thích Ca ra đời xây dựng xã
hội trên nền tảng trí tuệ và từ bi.
1.- Phần Trí Tuệ: Trí tuệ, tiếng Phạn là Prajnà, trí tuệ của
ngài là trí tuệ siêu việt, trí tuệ ba la mật (Prajnàparamitas). Trí tuệ của ngài có thể nói một thứ trí tuệ vĩ đại đãõ
được chứng minh tản mác khắp cả tạng kinh, đó là trí tuệ phi thường
của một giáo chủ thể hiện qua tư tưởng. Là
một giáo chủ vĩ đại không phải chỉ vài quyển kinh nho nhỏ không biện
chứng. Trong bài này không bàn sâu về trí tuệ,
vì nhiều kinh sách cũng như mạng internet đã giải thích rất nhiều.
2.- Phần Từ Bi: gọi cho đủ là tâm từ bi. Tâm
từ bi có một số người lầm lẫn giải thích là tâm thương yêu; những
người giải thích như thế vô tình hạ thấp giá trị tâm từ bi của Phật
giáo. Tâm thương yêu có mặt trái của nó, vì
thương không được thì thù ghét, yêu không được là thù hận. Từ
Bi, nghĩa chữ Trung Hoa giải thích: Từ năng giữ lạc, bi năng bạt khổ,
Từ nghĩa là tôn trọng sự sống, tức là không được phá hoại hạnh
phúc của chúng sanh; Bi nghĩa là bảo vệ sự sống, tức là thấy chúng
sanh đau khổ phải ra tay cứu giúp, không được ngoảnh mặt làm ngơ. Nói
cách khác, Tâm từ bi là tâm của Bồ Tát, Tâm Từ là tâm hành động
bảo vệ sự sống hạnh phúc của chúng sanh và Tâm Bi là cũng là tâm
hành động có nhiệm vụ cứu thoát sự thống khổ của chúng sanh. Chúng ta không cần giải thích nghĩa Tâm Từ Bi là tâm thương
yêu, mà chúng ta chỉ cần giải thích thẳng danh xưng tâm từ bi là hàm
đủ nhiều ý nghĩa trong đó.
Trong bài
này tôi chỉ trình bày những đặc điểm tư tưởng của đức Phật Thích Ca.
Sau thi thành đạo, đức Phật Thích Ca bắt đầu mở cuộc cách mạng xã
hội, đồng thời cũng cách mạng văn hóa tư tưởng. Muốn
cách mạng xã hội và văn hóa tư tưởng thành công trước hết phải
hoàn tất cuộc cách mạng bản thân.
Thời bấy
giờ phái tu khổ hạnh của Bà La Môn chủ trương rất phổ biến và
thạnh hành ở Ấn Độ, đức Phật muốn phá chủ trương này, ngài phải tu
hạnh cho hơn các vị khổ hạnh khác, theo sử liệu mỗi ngày ngài chỉ ăn
một hạt mè cho nên thân ốm gầy còn do bọc xương; trong lúc vô rừng
tu, ngài được vua Tịnh Phạn phái năm ông Kiều Trần Như vô rừng tu
theo
ngài cho có bạn, đồng theo dõi báo cáo cho vua và hội đồng
tôn giáo Bà La Môn biết; sự tu khổ hạnh của ngài được hội đồng
tôn giáo Bà La Môn ca ngợi và phổ biến vang rộng khắp nơi. Sau khi ngài dùng sửa của nàng Sujatas phái tu khổ hạnh
của Bà La Môn bị sụp đổ ngay. Ngài chủ trương tu ép xác khổ
hạnh là sai lầm lớn chết trước khi chứng quả, còn nếu buông chìu
thể xác cũng sai lầm càng tăng thêm dục vọng, ngài thí dụ người tu
nếu ép xác khổ hạnh cũng như cây đờn lên giây quá sẽ đứt, còn
buông thả giây quá thì không kêu, mục đích muốn cây đờn kêu ra
tiếng. Từ đó ngài bỏ phép tu khổ và đi đến gốc bồ
đề thiền tọa, nhơn đây ngài chứng quả bồ đề. Về
sự chứng quả dưới cội bồ đề của ngài, tôi không cần kể chi tiết,
vì các kinh sách cũng như trên mạng internet cũng đã nói rõ vềsự
chứng ngộ của ngài. Trong đoạn này tôi muốn
nói đặc điểm đức Phật đả phá chủ trương khổ hạnh của Bà La Môn.
C.- Đầu Tiên Thành Lập Tam Bảo.-
Đức Phật nghĩ rằng sau khi ngài nhập diệt, các đệ tử sau
này cũng như dạy các đệ tử của họ nên chọn Tam Bảo làm điểm tựa
lý tưởng. Vì lý do đó đức Phật cấp tốc đến vườn nai tìm năm ông
Kiều Trần Như.
Sau khi
đức Phật dùng sửa của nàng Sujatas, năm ông Kiều Trần Như cho Ngài
bị ô nhiễm trần tục, nên bỏ ngài đi đến vườn nai tu riêng. Khi nhìn thấy Phật từ xa đi đến năm ông Kiều Trần Như bàn
nhau không tiếp đức Phật rồi tiếp tục ngồi thiền im lặng. Khi
đức Phật đến bổng nhiên năm ông Kiều
Trần Như quay lại tiếp rước ngài, lấy nước rửa chân ngài
và mời ngài ngồi. Đức Phật liền hỏi:
*,- Đức Phật hỏi: Trước khi tôi đến đây, các ông bàn
nhau không tiếp tôi, sao bây giờ các ông lại tiếp tôi?
-, Năm ông Kiều Trần Như hỏi lại đức Phật, bọn tôi bàn
riêng, sao ngài lại biết?
*-, Đức Phật trả lời: tôi đã chứng quả cho nên tôi
biết.
Từ đó
năm ông Kiều Trần Như tin tưởng đức Phật đã chứng ngộ, cho nên đức
Phật bảo điều gì họ đều nghe theo. Khi bọn họ tin đức Phật, đức Phật bắt đầu giảng Tứ Đế.
Tứ Đế, là bốn điều chân thật, Tứ Đế gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
Đức Phật sau khi giảng Tứ Đế xong, liền tóm lược để phán quyết
trước khi thành lập Tam Bảo, gọi là Tam Chuyển Pháp Luân, nghĩa là ba
lần chuyển bánh xe pháp. Tam Chuyển Pháp Luân gồm có: thị chuyển,
khuyến chuyển và chứng chuyển.
1,- Thị chuyển, là chuyển pháp luân chỉ bày gồm có:
- Đây đích
thực là khổ,
- Đây đích
thực là tập,
- Đây đích
thực là diệt,
- Đây đích
thực là đạo.
2,- Khuyến chuyển, là chuyển pháp luân khuyên bảo
gồm có:
- Đây đích
thực là khổ các ông phải biết,
- Đây đích
thực là tập các ông phải diệt,
- Đây là
diệt (Niết Bàn) các ông phải chứng,
- Đây là
đạo các ông phải tu.
3,- Chứng chuyển, là chuyển pháp luân chứng minh, ở
đây lay bản thân đức Phật chứng minh.
- Đây là
khổ ta đã biết,
- Đây tập
ta đã diệt,
- Đây
diệt (Niến Bàn) ta đã chứng,
- Đây là
đạo ta đã tu.
Sau khi
đức Phật chuyển pháp luân, năm ông Kiều Trần Như liền đắc pháp,
tiếp theo đức Phật thành lập Tam Bảo:
- Phật
bảo là chỉ cho đức Phật biểu tượng,
- Pháp
bảo là chỉ cho Tứ Đế biểu tượng.
- Tăng
bảo là chỉ cho năm ông Khiều Trầøn Như biểu tượng.
Sau khi thành lập Tam Bảo xong, đức Phật bắt đầu mở con
đường hoằng pháp. Con đường hoằng pháp của đức Phật, có nhiều
kinh sách cũng như trên mạng internet đã trình bày rất phong phú, trong
bày này không cần nói lại thêm thừa, ở
đây chỉ trình bày những đặc điểm về kỷ thuật mà đức Phật
áp dụïng trên hành trình hoằng pháp. Trên con đường hoằng pháp, dĩ
nhiên đức Phật gặp rất nhiều thuật duyên cũng có và cũng gặp rất
nhiều nghịch duyên. Cho nên đức Phật luôn luôn áp dụng bốn kỷ thuật
để hóa giải: bốn kỷ thuật là: giải đáp, mặc đáp, phản đáp và vấn
đáp.
a, Giải
đáp, nghĩa giải thích để trả lời, thí dụ như theo truyền thuyết một
bà già có đứa con yêu quý đã chết, bà liền đến gặp đức Phật liền
đảnh lễ cầu xin đức Phật cứu sống con bà; đức Phật liền trả lời,
bà hãy đi đến nhà nào có năm đời không người chết xin tro của họ
đem về cho Phật, Phật sẽ cứu con bà. Bà đi hỏi khắp
nơi liền thất vọng trở về bạch Phật bà nói nhà nào năm đời cũng
có người chết, nhân đó đức Phật liền giảng lý vô thường, thế là
bà liền giác ngộ. Đây là phương pháp giải đáp
và phương pháp này được thấy rất nhiều trong Kinh Tạng.
b, Mặc Đáp, nghĩa là trả lời bằng cách làm thinh không
nói, hoặc trả lời bằng hành động không nói. Có
nhều người đến hỏi đức Phật có tánh cách chất vấn hơn thành tâm
đức Phật không trả lời và trả lời qua hành động để chứng minh.
Thí dụ như vua thỉnh đức Phật và tăng đoàn vào cung để cúng dường,
đức Phật làm thinh không trả lời, thế là vua biết liền trở về cung
tổ chức, lập tức đức Phật và tăng đoàn cùng nhau đi vào cung vua để
thọ trai. Đây là phương pháp mặc đáp, được thấy rất
nhiều trong Kinh Tạng.
c, Phản Đáp, trả lời bằng cách phản bác. Thí dụ như Bà La
Môn chủ trương vạn hữu vũ trụ do Brahman sanh, đức Phật bác liền chủ
trương vạn hữu vũ trụ đều do nhân duyên sanh mà không phải do Brahman
sanh. Thêm nữa, khi Thái Tử đi dạo bốn cửa thành, đến cửa thành thứ
tư, gặp một vị sa môn, liền xuống xe đến hỏi mục đích, vị sa môn trả
lời, bần đạo xuất gia để tìm phương pháp cứu khổ chúng sanh, Thái Tử
nghe xong liền trở về cung xin vua cha xuất gia. Vua Tịnh Phạn nghe xong
liền can ngăn đủ điều, vua nói sự nghiệp này phụ vương để lại cho
con, nếu con đi xuất gia thì sự nghiệp này để lại cho ai! Muốn con
không đi xuất gia, phụ vương phải chấp nhận bốn điều kiện sau đây:
- Cho con
trẻ mãi không già,
- Cho con
mạnh khoẻ mãi không đau.
- Cho con
sống mãi không chết,
- Cho con
đi cứu khổ tất cả chúng sanh.
Đây cũng là phương pháp phản đáp, vua Tịnh Phạn trả lời
không được, liền ra lệnh giới nghiêm trăm phần trăm cấm không cho
Thái Tử đi xuất gia.
d, Vấn Đáp: nghĩa là hỏi tức là trả lời. Đây
là phần vấn đáp rất quan trọng trong công thức truyền giáo của đức
Phật. Một người đến hỏi đức Phật, đức Phật không trả lời mà
còn hỏi lại mục đích của người hỏi gọi là Vấn, đức Phật liền đem
giáo pháp của ngài, giải thích sự thắc mắc của họ, gọi là Đáp,
gọi cho đủ là Vấn Đáp. Cụ thể như, Trưởng Giả (Đại
Gia) Cấp
Cô Độc, đến gặp đức Phật tại Tịnh Xá Trúc Lâm, liền trình bày sự
thắc mắc của Trưởng Giả, đức Phật giải tỏa sự thắc mắc của Trưởng
Giả, Trưởng Giả quá vui mừng liền chạy về nước Kiều Tát La xin mua
vườn Thượng Uyển của Thái Tử Kỳ Đà. Hai bên thương lượng mua bán
xong, nhưng Thái Tử đặt điều kiện không được đốn cây đại thọ,
Trưởng Giả đồng ý, liền ra tay xây dựng Tịnh Xá, lấy tên là Tịnh Xá
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên hiến dâng cúng dường cho đức Phật.
*- Tiếp
theo trường hợp thứ hai, khi đức Phật độ người gánh phân thuộc dòng
hạ tiện, tiếng vang đến vua Ba Tư Nặc, vua Ba Tư Nặc cùng quần thần
kéo đến gặp đức Phật, đức Phật biết có chuyện, liền sai vị A La Hán
có thần thông ra trước ngọ môn biểu diễn vài thần thông cho vua
thấy rồi biến mất, vua Ba Tư Nặc và quần đều cúi đầu đảnh lễ, khi
nhìn lên vua và tất cả đều không thấy vị A La Hán đó ở đâu. Lúc đó
vua đi kiếm bổng nhiên gặp đức Phật, đức Phật mời vua vào tịnh thất,
sau khi tất cả an tọa xong, đức Phật mới hỏi bệ hạ đến đây có
chuyện gì?
Vua trả lời, nghe nói Thế Tôn độ người gánh phân thuộc
dòng hạ tiện phải không? Đức Phật trả lời có.
Vua yêu cầu Thế Tôn trục xuất nó đi để làm ô nhiễm
Tăng Đoàn. Đức Phật không nói gì liền hỏi lại vua,
*, Bệ hạ vào đây có gặp vị Sa Môn nào không?
-, Vua trả
lời có, trẩm thấy vị Sa Môn đó là thánh nhân nên trẩm
đảnh lễ, nhưng khi đứng lên không thấy vị Sa Môn đó ở đâu.
*,- Đức Phật trả lời vị Sa Môn đó là người gánh
phân.
Vua Ba Tư
Nặc nghe qua vô cùng ngỡ ngàng, nhân đó đức Phật giảng, Một xã hội
tiến bộ, Bệ Hạ có trách nhiệm bảo vệ trật tự an ninh, nếu không
có Bệ Hạ xã hội sẽ loạn, đó là bổn phận của Bệ Hạ, ngoài Bệ Hạ
không có ai thay thế được; một xã hội giàu có ấm no, sĩ nông công
thương phải có trách nhiệm xây dựng phát huy, đó là bổn phận của
họ, nếu không có họ đóng góp thì xã hội nghèo đói, không ai thay
thế được, kể cả Bệ Hạ; một xã hội sạch sẽ vệ sinh, người gánh
phân phải có trách nhiệm, đó là bổn phận của người gánh phân, nếu
không có họ xã hội sẽ hội thúi. Tóm lại xã hội
không có vấn đề giai cấp chỉ có bổn phận và trách nhiệm. Vua
Ba Tư Nặc nghe đức Phật trình bày qua làm thinh
trong tâm tư đồng ý và không có đề cập đến người gánh phân.
*- Tiếp theo trường hợp thứ ba, câu truyện nàng Ma Đăng Già
yêu ông A Nan. Một hôm nọ, ông A Nan đi khất thực một mình, khi đi
ngang qua nhà của nàng Ma Đăng Già, nàng Ma Đăng Già thấy ông A Nan
quá đẹp trai liền khởi tâm yêu đam mê ông A Nan, nàng Ma Đăng Già
tìm cách bắt cóc ông A Nan bằng phương pháp dùng thần chú Ta Tỳ La
Phạm Thiên mê hoặc ông A Nan, lúc đó ông A Nan bất tỉnh, theo nàng Ma
Đăng Già vào phòng sắp bị phạm giới, bổng nhiên đức Phật biết, cấp
tốc phái ngài Văn Thù thiết lập năm đàn tràng (Năm Đàn Tràng gồm
có Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung Ương, mỗi Đàng Tràng, ngài Văn Thù
ra lệnh một số Thần Kim Cang Phật Tích trấn thủ, sau đó ngài Văn Thù
đi cứu ông A Nan.
Muốn rõ
Đàng Tràng này xin đọc bài Tựa Kinh Lăng Nghiêm), đem thần chú Lăng
Nghiêm hóa giải chú Ta Tỳ La Phạm Thiên cứu ông A Nan đem về tịnh xá
trình diện trước đức Phật, thấy đức Phật ông A Nan liền quỳ xuống
vừa đảnh lễ vừa khóc, đức Phật biết không có gì liền an ủi; tiếp
theo nàng Ma Đăng Già trực tiếp đến tịnh xá gặp thẳng đức Phật cầu
xin đức Phật gả ông A Nan cho con, con rất yêu ông Anan; đức Phật
liền hỏi:
*-, Cô yêu ông A Nan thật phải không?
-, Cô trả lời con yêu ông A Nan thật.
*-, Cô
yêu ông A Nan thật, Phật bảo gì cô có làm theo
không?
-, Cô trả
lời, Phật biểu gì con liền làm theo,
*-, Nhất định phải không?
-, Cô trả lời, con nhất định.
Tiếp theo,
đức Phật bảo, ông A Nan đầu cạo, cô về xin mẹ cạo đầu giống như
ông A Nan đến đây Phật sẽ gả ông A Nan cho cô. Cô
liền chạy thẳng về nhà thưa mẹ, Phật bảo con phải cạo đầu giống như
ông A Nan thì Phật mới gả ông A Nan cho con, bà mẹ thương con liền
đồng ý bảo con làm sao cứ làm. Vì quá yêu ông A Nan cô can
đảm cạo bỏ đầu tóc quý phái của cô, cạo tóc xong, cô chạy thẳng
đến tịnh xá trình diện đức Phật, đức Phật liền mở cuộc vấn đáp độc
đáo nhất, Phật liền hỏi:
*, Cô yêu ông A Nan ở chỗ nào?
-, Con yêu ông A Nan có đôi mắt quá đẹp.
*, Cặp
mắt của ông A Nan đâu có gì đẹp, vì đầy cả ghèn, mỗi ngày
phải rửa mặt lau cho sạch.
-, Cô nói ông A Nan có sống mủi đẹp.
*, Sống mủi có gì đẹp trong đó chứa đầy cứt mủi.
-, Ông A
Nan có miệng đẹp,
*, Phật
trả lời miệng có gì đẹp thở ra đầy mùi hôi...
Đức Phật
giảng trong cửu khiếu của ông A Nan không có đẹp, vì chỗ chứa đầy
bất tịnh, cô Ma Đăng Già nghe đức Phật giải thích qua liền tỏ ngộ
không còn yêu nữa, liền xin Phật xuất gia, đức Phật lập tức thọ ký
và gởi cô qua bà dì là Ma Ha Ba Xà Ba Đề để cô tu cùng các cô trong
Ni Đoàn cho có bạn, nghe đâu cô chứng quả A La Hán sớm hơn ông A Nan.
Trong bốn
kỷ thuật truyền giáo: giải đáp, mặc đáp, phản đáp và vấn đáp, mục
vấn đáp, đức Phật thành công lớn nhất, chinh phục đựợc các trưởng
giả ( các đại gia), các vua chúa, từ đó uy tín
của đức Phật vang dội khắp nơi cả Ấn Độ do các vị trưởng giả vua
chúa phổ biến, cho nên đức Phật và Tăng Đoàn đến đâu đều được các
trưởng giả, các vua chúa và dân chúng ra đón rước trọng thể.
D.- Phần Kết Luận:
Để giải đáp câu hỏi trong Thông Bạch Phật Đản Phật lịch
2565 – 2021 “Bản nguyện của ngài là gì khi hóa thân đến trần gian
này?” Đức PhậtThích Ca xuống trần gian này để
mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên trí tuệ và từ bi. Kỷ nguyên này được khởi điểm từ Ấn Độ. Tại Ấn Độ
đức Phật thành công ba cuộc cách mạng, sau khi thành công cách mạng
bản thân được chứng quả thành Phật, tiếp theo đức Phật thành công
đả phá giai cấp và nô lệ để xây dựng chủ nghĩa bình đẳng đặt trên
nền tảng tinh thần trí tuệ và từ bi. Trên đường xây dựng, đức Phật
áp dụng phương thức kỷ thuật: giải đáp, mặc đáp, phản đáp và vấn
đáp, tất cả đều thành công vẻ vang. Có thể nói những đặc điểm vừa
trình bày trên cũng đủ nói lên giá trị siêu phàm của đức Phật Thích
Ca. Trong bài “Đức Phật, Nhà Đại Cách Mạng”, trong đoạn kết luận có
đoạn: “Ngài xứng đáng là bậc vĩ nhân trên hết trong tất cả vĩ nhân
trên thế giới. Ngài không còn là con người của dân tộc Ấn Độ tôn
thờ, mà của chung tất cả nhân loại noi gương.”
Viết xong ngày 03. 06. 2021.
Thích
Thắng Hoan
Chùa Phật
Quang
Trung Tâm Trước Tác và Phiên Dịch.