DUY THỨC
HỌC VỚI MÁY VI TÍNH
Trương Thông Văn trước tác
Thích Thắng Hoan việt dịch
LỜI NÓI
ĐẦU
Vào thời đại này, kể cả đứa trẻ
ba tuổi cũng biết dùng máy vi tính rất rành.
Ngay trong sự sanh hoạt ngày thường, con người chỗ nào cũng đều có cơ
hội tiếp xúc đến máy vi tính, như là xe hơi, dụng cụ nhà bếp, máy
móc thương nghiệp, cơ giới công nghiệp, dụng cụ điều trị, thậm chí
trong đồ chơi của trẻ con cũng có trang trí máy vi tính lớn nhỏ phức
tạp và đơn giản không giống nhau. Đến nỗi ở trong cơ quan điều khiển
tinh vi, máy vi tính lại càng không thể có khuyết điểm, chẳng hạn như
Phi Cơ, Tàu Thủy, Tín Hiệu Vô Tuyến Truyền Đạt..v..v.... đều an trí máy vi tính rất đầy đủ cao cấp. Chính
nơi trang bị quân sự, máy vi tính lại càng trọng
yếu hơn. Cho nên con người hiện nay sanh hoạt đều càng ngày càng ỷ
lại nhiều vào máy vi tính càng quan trọng hơn.
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng
não bộ của con người so với máy vi tính phức
tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn. Một con người bình
thường mỗi giây đồng hồ có thể tiếp nhận mười loại tư liệu tri
thức mới. Cho nên năng lực ký ức của não bộ con người hầu như là
vô hạn. Các chuyên gia nói đến vấn đề này chỉ bàn đến một phương
diệân sanh lý, tức là chỉ nói đến một bộ phận hệ thống thần kinh
của thân thể con người, mà không biết rõ não bộ của con người dựa
vào đâu để có thể tàng
trử tư liệu nhiều như
thế. Phật pháp thì nắm được nguyên nhân trong đó
giải thích thật rất rành mạch, sự giải thích này chính là ở nơi Duy
Thức bình luận rõ ràng. Phật pháp chỉ bày trong tâm chúng sanh
phát khởi biến hoá các thứ niệm tưởng đều do tám Thức mà có. Tám Thức này lại có một thứ quan hệ lẫn nhau làm cho
công năng của nó trở nên phức tạp và tinh tế. Các thứ tổ chức trong não bộ chẳng qua chỉ là điều kiện
phụ trợ, là dụng cụ chuyên môn của công năng phát huy mà thôi.
Cần nói rõ hơn con người dựa vào đâu có nghiệp lực, dựa vào đâu bị
luân hồi, thành đạo như thế nào, tốt nhất là trước hết phải biết rõ
sự lợi hại của “Thức”, nếu như hiểu rành máy vi tính trước rồi sau
đó nghiên cứu Duy Thức thì có thể thích hợp hơn. Tôi
viết quyển sách này là dụng ý thỉnh mời mọi người tham gia vào tri
thức để lãnh hội đạo lý trong Phật pháp. Phật
điển thì cao thâm, nhưng ở trong sanh hoạt thường ngày đều có thể
lãnh ngộ được đạo lý trong Phật pháp. “Vạn Pháp Duy Thức”,
người tu hành không luận tu pháp môn nào cũng đều tốt cả, tất
nhiên ở trong pháp môn đó cần phải có một nhận thức rành mạch thì
mới nên bắt đầu chọn lấy pháp tu, hơn nữa không đến nỗi khi đã
thâm hậu môn phái mình thì không
lạnh nhạt pháp môn khác. Nguyên lý máy vi tính đã thấu suốt mà đi
học Duy Thức thì sự học tập cụ thể hơn, cho nên chúng tôi hiểu được
đây là một bước đầu nhập môn hết sức trọng yếu.
Lời Nói Đầu của Trương Thông Văn
nơi Thông Uyển Tịnh Cư
Ngày 16
tháng 11 năm 1983
DUY THỨC
VỚI MÁY VI TÍNH
CHƯƠNG I
SỰ
TỔ CHỨC CỦA MÁY VI TÍNH VÀ
CÔNG
NĂNG CỦA TÁM THỨC LIÊN HỆ NHAU
Bộ phận vô cùng trọng yếu của máy
vi tính chính là nơi kết cấu tàng trử tài liệu.
Phần cao cấp của máy vi tính ở chỗ là thiết
kế tài liệu truyền vào và phát ra rất tinh tế phức tạp. Tài liệu sau khi truyền vào xong có thể sản xuất thành
thiết bị mềm (phương tiện chương trình) để chuẩn bị sử dụng cho ngày
mai. Về sau khi muốn giải quyết vấn đề gì chỉ cần bấm đúng
loại mở thiết bị mềm và nương theo thứ tự ấn
nút, liền có thể tìm được câu trả lời. Máy vi
tính nếu ở gốc độ đơn giản là thay thế người kế toán, còn ở gốc
độ phức tạp là có thể cùng người đối thoại. Kế toán cũng đúng và
đối thoại cũng hay, chúng nó đáp và hỏi đều là căn cứ theo trong bộ phận tàng trử tài liệu mà ra. Chỉ do
nơi tài liệu truyền vào thì kỷ thuật cao cấp khiến cho máy vi tính bổng nhiên phát hiện cá tánh của một con
người có thể cùng với chủ nhân thảo luận sự lý, đánh cờ, bài
bạc, thậm chí phát sanh tánh tình gắt gỏng.
Tổ chức của máy vi
tính cùng với công năng của các phương diện khác có rất nhiều phương
diện thích hợp và tương đồng nơi tám Thức của chúng sanh.
Thứ nhất như trên đã trình bày, sở
dĩ máy vi tính có thể vấn đáp, phân tích, cung cấp kế hoạch hoặc trò
vui chơi..v..v.... đều do
các tài liệu truyền vào. Nếu như đem tài liệu sai lầm phát lên máy vi tính thì nó trả lời lại cũng sai lầm, cho đến
những sai lầm trong kho tàng trử nều được sửa chửa lại thì hết ngay.
Thứ hai ngoài trên ra như bộ phận
phụ tùng trong máy vi tính có chỗ hư hỏng thì
cũng có thể làm cho sai mất các thứ tài liệu. Cho
nên những phụ tùng và đường giây quyết định cần phải có kiểm tra.
Nhãn căn, Nhĩ căn,
Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn, cho đến Ý căn của chúng sanh, nghĩa là
thông thường người ta đều nghe nói qua sáu căn, chúng đều có đủ
công năng truyền vào. Nhưng mà chúng sanh từ
nhiều đời nhiều kiếp đến nay đã từng tàng trử rất nhiều tri kiến
nơi trong Thức thứ tám. Thức thứ tám này tiếng Phạn gọi là “A
Lại Da”, mang
ý nghĩa là “Tạng”. Công dụng của Tạng Thức này có bộ phận tàng
trử giống như máy vi tính, đem tài liệu và kiến thức bắt đầu thâu
chứa, mãi mãi không thể tự động tiêu diệt, trừ phi bản thân chúng
sanh hành động khác đi là thâu vào tài liệu mới đem tiêu trừ kiến
thức cũ. Bởi vì những kiến thức ngày xưa nhiều đời nhiều kiếp của
chúng sanh đều là được xây dựng trên cơ bản phiền não như tham, sân,
si, mạn, nghi..v..v.…, nếu như không phải thế thì
không bị luân hồi thọ khổ, cho nên Phật Pháp gọi những tri kiến
điên đảo đã thâu chứa này là “Nghiệp”, mà từ những thứ tri kiến
này bắt đầu phát huy thứ năng lượng mê muội cho mình và cho người
khác gọi là “Nghiệp Lực”. Hiện nay chúng sanh đương nhiên vẫn cứ
truyền vào những tài liệu mới, chỉ cần những tài liệu truyền vào
này quyết định hoà hợp là kẻ hở hết sức không tốt cho việc đối
chiếu, nguyên vì sử dụng những tri kiến trước đó làm tiêu chuẩn cho
nên cũng vẫn là điên đảo, khiến nghiệp lực càng thêm gia tăng.
Hiện tượng điên đảo như thế xảy ra là do chưa có phản ứng đối chiếu
trước khi từng bước duyệt xét. Có công năng đối
chiếu đây chính là Thức “Mạt Na” của Tư Lương Năng Biến (công năng
biến hiện suy nghĩ đắn đo) và cũng chính là Thức thứ bảy. Ở trong máy vi
tính cũng có một bộ phận như thế, chuyên phụ trách đối chiếu thứ
tự. Khi đang kiếm tài liệu hoặc tìm câu trả lời, máy vi tính tiến hành trước là căn cứ theo chương trình
tài liệu của bộ phận tàng trử làm một việc đối chiếu, nếu như
phạm vi tài liệu tồn tại không có chương mục để hỏi, máy vi tính
lại bày tỏ không thể trả lời. Còn một cái máy vi
tính dùng vào việc sửa chữa xe hơi là để xem phương pháp giải đáp có
quan hệ kiến trúc hoặc vấn đề khác của nó, thường gọi việc ấy là
nguyên nhân. Tri kiến của chúng sanh phải trải qua
sáu căn mà truyền vào hoặc truyền ra, nhưng truyền ra hoặc truyền
vào ở trong bước đi tất nhiên phải trải qua sự đối chiếu của Thức
thứ bảy. Thí dụ như đương lúc con mắt xem thấy đông tây giống
nhau, đồng thời không thể khởi tác dụng. Lúc đó
Thất thứ bảy mới y cứ nơi chỗ chứa tri kiến củaThức thứ tám mà
phát khởi sự đối chiếu. Như trong ấn tượng này đồ vật làm có
lợi hoặc tốt đẹp thì Thức thứ bảy tự tiếp công hàm quyết định của
Thức thứ sáu tạo nên ưa thích mà Ý Thức liền có thể trực tiếp
khiến cho con mắt xem đồ vật ấy lâu hơn, khiến các bộ phận cơ thể
khác tạo nên một phản ứng liên hệ, khiến cho nghiệp của Thức thứ
tám càng sâu thêm, mà liên lụy đến nghiệp luân hồi của chúng sanh
cũng càng thêm nặng. Nguyên do Thức thứ bảy quản lý công năng đối
chiếu, liền khởi lên chấp trước vui mừng và chán ghét, đồng thời
quan niệm có một cái “Ngã”. Quan niệm việc ấy chỉ là
một thứ cảm giác sai lầm, tạm có hư huyển, cho nên gọi là “Giả
Ngã”. Cho nên khi người mừng vui không biết cái
“Ngã” ưu sầu ở đâu, khi người ưu sầu lại dẹp cái “Ngã” lúc mừng vui
không cho đến. Sự cảm thọ tư lương (suy nghỉ đắn đo) của con
người biến hoá nhiều đầu mối, mỗi lúc mỗi loại, cho nên “Giả Ngã”
cũng thiên biến vạn hoá theo, đưa đến kết quả
đều là khổ. Vẻ già trước tuổi thì lại hiện ra rất
rõ ràng. Tư tưởng của con người càng phức tạp,
“Giả Ngã” biến hoá cũng nhiều, hơn nữa già yếu hưởng càng nhanh.
Nhưng “Giả Ngã” thì không có luật định dừng lại, trừ
phi nghiệp hoàn toàn cải biến trong Thức thứ tám. Chúng sanh phàm phu đã bị nghiệp lực ràng buộc, cho nên
không thể thoát khỏi cái khổ già và chết.
Tri kiến xuyên qua sáu căn mà đi
vào, sau khi xuyên qua tư lương ngã chấp của Thức thứ bảy, liền cũng
khiến con người khởi lên các thứ nhiễm trước mang theo
đầy đủ thiên kiến, tạo thành chủ nhân của phiền não. Nguyên vì một
số tri kiến này thường nhiễm trước sáu căn, trong kinh Phật gọi là
vi trần, do bởi sáu căn mới có sáu trần. Tri kiến trước khi xuyên
qua đối chiếu không phải là vi trần. Một khi
xuyên qua đối chiếu, nguyên do phân biệt xuyên qua của Thức liền hoá
thành vi trần, nhiễm trước nhân tâm khó mà xả
bỏ. Ngược lại như các tri kiến truyền vào qua sáu căn, trong Thức
không khởi phân biệt là các tri kiến không thể nhiễm trước tâm
niệm, cho nên phàm phu
cũng hiểu biết mà không thấy, cũng nghe mà không nghe, hoặc ăn mà
không biết mùi vị của nó. Nhưng chân chánh không bị nhiễm trước là
sau khi được thật chứng bốn trí, tức là Trí Đại Viên Cảnh, Trí Bình
Đẳng Tánh, Trí Diệu Quan Sát và Trí Thành Sở Tác, thì tâm lúc đó
mới có thể không thọ nhận các cảnh chuyển biết và tự do ra vào
mười pháp giới không sanh phiền não.
Thông thường con người khi sử dụng
máy vi tính gặp rõ ràng cái công năng đối chiếu là căn cứ theo tài
liệu truyền vào mà có, chỉ cần chuyển tài liệu đến cho người quá ư
tự tín khi đặc tính tài liệu đó có thể tin cậy, lại nhận lấy tài
liệu của điện não khác chẳng giống như nó. Lúc ấy liền sản sanh
một thứ thái độ cố chấp tự mê, chẳng chịu nghe theo
ý kiến của người khác. Bấy giờ do vì muốn duy trì cái địa vị danh dự
tối cao ấy của nó mới nhiều cách thu thập tài
liệu truyền vào điện não này, lâu ngày tạo ra cá tánh tham nhiều,
liền thành “Điện Não Điên Cuồng”. Thức thứ bảy cung cấp những cảm
giác sai lầm của chúng sanh cũng giống như thế, nguyên do nó lấy tri
kiến trong Tạng Thức làm căn cứ, thường khởi lên cái tự ngã tham
ái, trong đó có cái tham của phiền não căn bản. Lại
nữa nó thường cho cái ngã là tối thượng, nên chấp trước điên đảo
tính mù quáng, trở thành đại si đại mạn, khiến cho ngã chấp liên
tục không dứt, không có thể tự thoát khỏi.
Công năng phân biệt nương nơi sáu
căn để khởi chính là sáu Thức, tức là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ
Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức. Các Thức
nương nơi cảnh mà khởi phân biệt, sự quan hệ cấu tạo và linh hoạt
của nó, điện não của thế gian khó mà nhìn được phía sau lưng của nó.
Năm Thước trước chỉ có thể phát khởi phân biệt tư tánh, tức là
từng có các công năng, như con mắt chỉ có thể xem thấy mà không thể
nghe tiếng..v..v.…..., còn
loại suy diễn, Ý Thức thì ngoài
phân biệt tự tánh ra, lại có thể phân biệt theo niệm và phân biệt
tính toán suy nghĩ. Ngoại trừ đây, Ý Thức cũng có
thể đối với ngoại cảnh vượt qua năm Thức trước tiến hành phân
biệt, trường hợp đây gọi là Ngũ Câu Ý Thức. Ý
Thức cũng có thể tự phát khởi cảnh tượng mà tiến hành phân biệt,
đây gọi là Độc Đầu Ý Thức.
Độc Đầu
Ý Thức gồm có ba loại:
1)- Mộng Trung
Độc Đầu Ý Thức, tức là cảnh tượng thấy được ở trong
mộng.
2)- Định Trung
Độc Đầu Ý Thức, tức là cảnh tượng giả khởi khi ở trong
thiền
định.
3)- Tán Vị Độc
Đầu Ý Thức, tứ là cảnh tượng trong giả tưởng.
Độc Đầu Ý Thức tuy
không dựa vào ngoại cảnh mà tự mình phát khởi hiện tượng, nhưng
cũng không phải là trong cái không mà sanh ra cái có. Cảnh tượng của Thức này hiện ra đương nhiên với nghiệp
lực đời trước có quan hệ ấn tượng. Chúng sanh
trong sáu cõi phàm thường phát khởi Độc Đầu Ý Thức. Nhưng có
năm thứ tình hình dưới đây mà Ý Thức không thể sanh khởi, tức là:
1)- Cõi trời
Vô Tưởng,
2)- Thiền định
Vô Tưởng,
3)- Thiền định
Diệt Tận,
4)- Ngủ nghỉ
không mộng
5)- Vô cùng choáng váng.
Ở năm ngôi vị trên
đây, Ý Thức đều không thể sanh khởi.
Nơi trên đạo lý cơ bản, sự truyền
vào trong điện não, các thứ tự tàng trử và truyền ra tuy cùng với
tám Thức có chỗ hợp tác, nhưng ở nơi phát triển dẫn đến trong từng
lớp phức tạp, Thức có thể khiến chúng sanh cảm ứng nơi trong mười
pháp giới, đó là công năng không thể nghĩ bàn. Ở
điểm này, điện não thì lại hoàn toàn không có khả năng so sánh dự
thảo. Đã sẳn có công năng huyền diệu, không
ai bằng “Dị Thục Năng Biến” của Thức thứ tám và nó còn có khả
năng dẫn đến quả báo. Thí dụ như con người do
chủng tử nửa thiện nửa ác lại cộïng thêm ngoại duyên để sanh ra
quả dị thục, được thân con người kiếp sau thì đã quên hẳn thân kiếp
trước và cũng không biết hậu quả như thế nào. Mặc dù cùng
một điều kiện nơi Dị Thục Năng Biến mà sanh làm người, cũng có
nhiều thứ phẩm loại, như nghèo, giàu, hiền, ngu..v..v.... trừ ngoài chủng tử ra nên biết còn có các
nhân tố khác, như nghiệp lực đời trước và các thứ duyên số..v..v.... Cho nên dù rằng là
đồng chứng quả Đẳng Lưu, ý kiến, tư tưởng, khẩu vị của mỗi người
đều có chỗ không giống nhau. Về điểm này, nguyên nhân như thế
nào cần nên nói rõ là người phàm phu ở cõi Ta Bà chỉ giác ngộ nhơ
nhớp, còn Phật Đà trụ ở cõi Ta Bà lại thấy hoàn toàn là lưu ly.
Sự cấu kết của điện não và sự so sánh liên hệ với các
Thức của chúng sanh, có thể tham khảo đồ hình hướng dẫn dưới đây.
Đồ hình này được “phân tích của Linh Sơn Học Hiệu” với ngòi bút vụng
về và đã từng sản xuất qua trong một quyển sách, hiện nay ở đây
tái bản lần thứ nhất, để tiện cho những người tham khảo khi họ
không có quyển sách nói trên.
Đồ Hình
CHƯƠNG II
ĐIỆN
NÃO KHỐNG CHẾ NHÂN LOẠI ĐÁNG SỢ
Ở vào thời đại 80
của cuối thế kỷ 20, điện não ứng dụng trong các nghề nghiệp đã
tràn ngập vô cùng rộng lớn, sự sinh hoạt của con người chả ai mà
không chịu quan hệ điện não. Con người ỷ lại vào điện não thì
càng nhiều, cho nên đối với thế kỷ 21, sự sinh hoạt triển vọng của
họ đều nhận thấy sẽ điện não hoá hoàn toàn. Nơi trong gia đình, công
tác nấu cơm rau vô cùng trọng yếu, nào sử dụng khoa ăn uống và
phương pháp nấu nướng cũng do điện não quyết định tất cả, thêm nữa
máy ghi thời gian trong hệ thống điện não chỉ cần ấn nút bật điện
là công việc nấu, hấp, rán, nướng đều thích hợp đến chỗ tốt đẹp. Còn việc quét dọn sạch sẽ thì có cơ giới của điện não
không từ khó nhọc thay thế con người khống chế lấy và mỗi ngày 24
giờ công tác không đình chỉ cũng nên sử dụng nó. Lúc bấy giờ
con người hoàn toàn không phải đi làm, chỉ cần ở trong nhà ráp mở
cho xong hệ thống điện não, trong đó bao gồm cả truyền hình và dụng
cụ
chuyên chở cho đến không
luận hội họp hoặc thảo luận không cần ra khỏi nhà mà vẫn có thể
hoàn thành. Danh từ bưu điện đã thành công trên lịch
sử, nguyên vì tất cả thông tin đều có thể trao lại qua hệ thống
điện não mà đi lại nhanh chóng. Không chỉ mau lẹ mà lại còn
có hệ thống phiên dịch, người giao việc có thể dùng bất cứ ngôn
ngữ gì để truyền vào điện não, khi truyền ra đến nơi quốc gia nào,
ngôn ngữ này cũng được phiên dịnh thành văn tự của quốc gia đó. Còn thứ điện não phiên dịch này cũng được đặt nơi trên
máy điện thoại, con người cũng có thể dùng bất cứ ngôn ngữ nào để
nói chuyện, đối phương khi tự nhận được liền phiên dịch và truyền
đạt ngay.
Lúc bấy giờ dùng con mắt làm mật
mã trong việc chi tiêu hoặc rút tiền, hoàn toàn không phải chỉ là
sáng tạo của điện ảnh mà còn sắp thành phương pháp sử dụng phổ
thông. Lúc đầu giác mạc con mắt của con người hoàn toàn giống như
chỉ mô, mỗi cá nhân đều không giống nhau. Đặc biệt
máy móc trước hết cầm bức ảnh của giác mạc đem xuống, sau đó
truyền vào trong cực nhỏ của điện não, điện não liền tiếp nhận tự
động bắt đầu cất giữ. Đến khi ứng dụng bước chi tiêu hoặc
rút tiền chỉ cần đem bức ảnh của giác mô tạo nên một thứ sản xuất
phim, máy móc đối chiếu của điện não liền tiếp nhận tra xét đến là
có phải hay không và công việc ghi chép tồn trử trước kia có giống nhau không. Như thế thì
mục chi tiêu liền mở rộng hoặc đưa ra khoản tiền, còn như không phải
thế là mất phản ứng.
Vấn đề chuông, lò nướng, xe hơi nói chuyện đối với đông và tây hoàn toàn
cũng chẳng phải là hiếm có. Hiện thời công việc
đòi hỏi sức người sanh hoạt rất nhiều, đến lúc cũng nên sữ dụng
điện não để điều khiển. Thí dụ như việc “lái xe hơi” liền biến
thành trực tiếp “hướng dẫn lái”, tức là sử dụng tiếng nói hướng
dẫn điện não, khiến xe hơi lái đến chỗ mục đích. Còn
điều trọng yếu hơn nữa là đổi mới về phương diện y dược.
Phương thuốc và chẩn mạch thì giống nhau, riêng phân tích bệnh tình đưa
đến giải phẩu..v..v....,
tất cả đều sử dụng điện não để đảm đan, mà hơn nữa ở trên đặc
tính chính xác, đặc tính tinh vi và tốc độ tỷ số ngưởi giỏi xuất
hiện rất nhiều. Một nhóm gia đình y sĩ đã không còn trọng yếu nữa,
các y sĩ đều
biến thành chuyên gia y
học điện não cũng từ sự phát minh hoàn toàn cao cấp của hệ thống
điện não điều trị.
Như thế cùng một
thời đại điện não, con người sanh hoạt một thân có thể kiêm nhiều
chức vụ mà cũng không cảm thấy bận rộn nhàm chán. Nguyên vì rất nhiều việc đều dùng đến điện não khống
chế, tính toán cho được hoàn thành. Tức là khiến chỉ một ông
Vương Lão Ngũ chạy hiệu ở bên ngoài suốt ngày mà đến khi chiều về
nhà cũng sấp xếp được bữa cơm tối mùi vị thơm ngon để dùng, lý do
điện não trong nhà bếp của ông ta sớm đã làm xong tất cả hoàn hảo
đúng giờ.
Con người trong thời đại ngày nay
hoàn toàn giống nhau là đều ỷ lại vào điện lực và dầu xăng, con
người trong thế kỷ 21 này hầu như cùng nhau trông cậy vào điện não
thay thế sanh hoạt. Đúng như trường hợp trên nhân
loại sẽ không biết không giác ngộ được trong thời gian hoàn toàn
chịu sự khống chế của điện não. Rất nhiều phương thức sanh
hoạt đều đòi hỏi theo sự khống chế của điện
não. Rất nhiều phương thức sanh hoạt đều đòi hỏi theo sự khả năng tánh
cho phép và phạm vi làm việc của điện não. Trên thị trường buôn bán
tất cả đều do khả năng và hệ thống điện não phối hợp làm chuẩn. Mặt ngoài xem đến điện não giúp cho nhân loại mang đến sự
tiến bộ và tiện lợi, nhưng khi phát triển quá độ, nhân loại trở
nên bị nô lệ mà không tự biết. Đến lúc nào
đó, vật thực quá nhiều không thể phối hợp với hệ thống điện não
nhà bếp đều bị đào thải hết, y phục không hợp với hệ thống điện
não giặt áo thì không còn chế tạo trở lại lần nữa. Đồ dùng trong học đường, máy móc của y viện, thiết bị của
quân sự, công cụ giao thông, đồ vật vui chơi không có vật nào mà
không chịu sự khống chế của điện não cả.
Cứ như thế phát
triển về sau, bổng nhiên có một ngày toà án xử tội lại cũng sử
dụng đến điện não để làm công việc duyệt xét và dựa vào hồ sơ
của diện não để phân tích xét sử. Điện não
là máy móc vô tư. “Pháp luật không ngoài nhân tình” câu nói
này hoàn toàn không thành lập trở lại, con người thường biến thành
vô tài làm khả năng, cho nên có khổ mà nói
không được và cũng không biết cách để mở
điện não vì thế một khi mỏi mệt lại tiết lộ bực tức. Thứ tình hình này ở trong thời đại ngày nay có lúc cũng
có thể thường gặp. Giống như ngân hàng bổng nhiên gởi lại
biên bản nói về khoản tiền đã chi tiêu vượt quá số thu, như thế không khiến người ta chấn động sao? Dưới đây chỉ cần tra xét sự phát xuất sai lầm của điện
não. Nhưng hiện nay sự sanh hoạt của con người chưa đến nỗi
hoàn toàn ỷ lại vào trình độ của điện não, cho nên chịu ảnh hưởng
không lớn. Chỉ chờ đến khi nhân loại phần lớn ỷ lại
vào điện não, sẽ có một sai sót là nó ảnh hưởng nhất định rất
lớn. Nói về phương diện cá nhân, điện não trong nhà hoàn toàn
hư hỏng khiến không có cơm ăn, không có điện xem xét, lại nữa hoặc
không thể mở được xe hơi, hơn nữa nhơn cung cấp sai lầm khiến cho uống
lộn thuốc..v..v.... Về
phương viện xã hội, điện não sanh ra tình trạng hổn loạn từ đó khiến
giao thông xảy ra tai nạn, công xưởng sản xuất giảm thiểu, kinh tế
thất thu..v..v.... Về
phương viện quốc tế, điện não sanh ra việc không may lại không được
chi cả, nếu nhẹ có thể khiến cho quốc tế phát sanh tình trạng khẩn
trương và hiểu lầm, nếu nặng lại có thể gây ra chiến tranh thế
giới. Cho nên nơi trong thế giới điện não sau này, sự an nguy của con người không
thể dự biết, cũng không phải chỗ con người có thể thao túng. Con
người sanh hoạt ở trong thời đại như thế, mặc dù có kỳ vọng điện
não hằng ngày đừng có thác loạn. Tuy nhiên nó sẽ
khiến không phát sanh thác loạn nhưng lại phát sanh sự đe dọa tổn
hại. Sự tổn hại ở đây là điện não hoàn toàn không thể
chuyển đổi, sẽ hình thành nhiều sự bất tiện, khiến con người bị kim tiền, thời gian, công tác, thậm chí tổn thất
trên ái tình cũng có thể nói là bất định. Sanh hoạt như thế tự nó
có một mặt đáng sợ, mà Phật Giáo nói rằng “Các thọ là khổ” đến
lúc đó con người có thể cảm thọ được trọn vẹn, khác nào chân đã
lún sâu vào đất, ngoại trừ hoàn toàn tiếp thọ sự chi phối của văn
minh vật chất, bằng như không thế con người có khả năng nêu ra biện
pháp gì để giải quyết.
CHƯƠNG
III
TRONG
TÂM THỨC
ĐIÊN
ĐẢO VÔ MINH KIỀM CHẾ CHÚNG SANH ĐÁNG SỢ
Điện não khống chế nhân loại chỉ
giới hạn trong phạm vi thế giới này, nhưng trong
Thức A Lại Da điên đảo vô minh kiềm chế đối với chúng sanh không
biết lớn hơn điện não gấp bội nhiều ít, thật là không có thể dùng
số để tính được.
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, liền
khởi vọng thành hoặc lần lựa vô cùng, khiến bị sanh tử liên tục lẫn nhau, nổi chìm không
bao giờ chấm dứt, có chỗ gọi là “xương khô cao hơn núi Tu Di, nước
mắt rơi xuống đầy cả bốn biển lớn”. Xương khô ở đây
có nghĩa là chỉ cho một người mỗi lần sau khi thọ sanh đi đến kết quả
tử vong, để lại xương trắng và nước mắt ở đây có nghĩa là quyến
thuộc của họ vì họ tử vong liền kêu khóc thảm thiết. Xương
trắng và nước mắt nhiều như thế không thể nào không khiến tâm của
con người kinh đảm đập mạnh. Cho nên mỗi người cần
phải suy nghĩ kỹ càng xem đã, là có lỗi cũng nên cần sớm chấm dứt
sanh tử?
Nghiệp lực trong ruộng tâm Thức cố
nhiên là hạt giống luân hồi, nhưng nay lại không đề cập đến pháp
giới khác của họ thọ luân hồi, tức là chỉ cho Thiên Đạo, A Tu La
Đạo, Súc Sanh Đạo, Ngạ Quỹ Đạo và Địa Ngục Đạo, ở đây chỉ nói pháp
giới của con người mà thôi. Nguyên nhân trong tâm Thức con người
vọng tính điên đảo, ảo hiện giả ngã, lại chấp cho là thật, nên thọ
lấy các thứ biến chuyển. Tối chủ yếu trong vọng tính điên đảo có
sáu thứ phiền não căn bản là căn bản của tất cả pháp bất thiện,
tức là:
1)- Tham: khởi lên từ thân thể, sanh ra các thứ tham ái quyến
luyến,
không biết vô
thường.
2)- Sân: không rõ nguyên lý không của ngũ uẩn, thường sanh chấp
trước,
não loạn tình
cảm của chí hướng.
3)- Si: không biết nhân quả, mê nơi hiện tượng, điên đảo ngu
muội.
4)- Mạn: lỗi lầm nơi tự thị, tự tín, chọn lấy “Ngã” làm trung
tâm.
5)- Nghi: lỗi lầm nơi sự chọn lấy pháp thế gian làm xu hướng,
không thể
phát khởi
chánh tín.
6)- Kiến: chấp ngã, chấp thường, phủ nhận lý nhân quả, tu theo
tà kiến tà
hạnh.
Con người sau khi có sáu thứ phiền
não căn bản như trên đã trình bày, lại còn sanh ra chi tiết, gọi là
phiền não ngọn ngành, cộng chung có hai mươi
thứ. Lại nữa nguyên nhân phát sanh tiếp theo
loại phiền não này chính là phiền não căn bản, có chỗ gọi là Tùy
Phiền Não. Tùy Phiền Não gồm có ba loại là Tiểu
Tùy Phiền Não, Trung Tùy Phiền Não và Đại Tùy Phiền Não. Tiểu Tùy Phiền Não gồm có mười thứ, Trung Tùy Phiền Não
gồm có hai thứ, Đại Tùy Phiền Não gồm có tám thứ. Danh xưng
và giải thích của mỗi thứ Tùy Phiền Não được trình bày như dưới
đây:
A)- Tiểu
Tùy Phiền Não:
1)-
Phẩn: nguyên nhân không đạt được lợi ích, tâm khởi lên ý tức
giận.
2)-
Hận: sau khi câm phẩn nhớ nhung không bỏ, phát động nội kết
oán
hờn.
3)-
Phú: che giấu lỗi lầm, không sám không hối, tìm cầu bảo vệ
danh
lợi.
4)-
Não: nguyên nhân không đạt được lợi ích mà ôm ấp căm thù,
thường
thường nóng nảy.
5)- Tật: nguyên nhân thấy người danh lợi lớn mà phát khởi lo
âu
không yên.
6)-
San: không chịu bố thí để làm lợi ích cho chúng sanh.
7)-
Cuống: vì cầu danh lợi, làm ngụy quân tử, hư vọng dối trá.
8)-
Xiểm: xu nịnh những kẻ có tài năng và thế lực để lợi ích cho mình,
không
cần chiếu cố đến chánh nghĩa.
9)-
Hại: không tôn trọng sanh mạng, tha hồ gây tổn thương.
10)- Kiêu: cho danh lợi thế gian là vinh quang, tham trước không xả.
B)- Trung
Tùy Phiền Não:
1)- Vô Tàm: đối với việc làm tội lỗi của mình lại không cho là
xấu hổ,
không tin
nhân cách, tự gây tạo cho người khác.
2)- Vô
Quý: chế nhạo, nói xấu, công kích người khác không chút
thương hại
ai cả, cứ tha hồ đắc ý, lại hâm mộ bạo ác, lấy đó làm
tấm gương
cho sự học tập.
C)- Đại
Tùy Phiền Não:
1)- Bất Tín: tâm không thể tập trung cho nên khó mà tìm cầu
chân
lý.
2)-
Giãi Đãi: rõ biết sự sơ hở cần phải làm mà chẳng vui lòng
thực
hiện.
3)-
Phóng Dật: không vui thích tu tập thiện pháp ngay, lại có dịp
không đề
phòng thiện pháp.
4)-
Hôn Trầm: ngu muội không biết, chánh kiến không phát khởi.
5)-
Trạo Cử: tâm chẳng bình lặng an tịnh, thường phản ứng nông
nổi,
chánh
định không phát sanh được.
6)-
Thất Niệm: thường thường sơ suất, không nhớ được sự giác ngộ
chiếu
soi, không có chánh niệm.
7)- Bất Chánh
Tri: đối với đạo lý của sự việc không thể phân
tích,
không
thể hiểu rõ.
8)- Tán Loạn: tâm chẳng an định, phân tán không chủ đích.
Ngoại trừ sáu Phiền Não Căn Bản và
hai mươi Tùy Phiền Não, còn có bốn Bất Định:
1)-
Hối: tức là đối với những việc lỗi lầm của mình đã làm liền
phát
khởi hối
hận bất an. Như đối với những việc ác của mình đã làm
hoặc
chẳng làm những việc thiện liền phát khởi ăn năn đó là thiện.
Nếu như đối với những việc
thiện của mình đã làm hoặc chẳng làm
những
việc ác liền phát khởi ăn năn lại là ác.
2)-
Miên: ngủ nghỉ vượt hơn chỗ nhu cầu, hoặc thường ưa thích ngủ
nghỉ là
bất thiện.
3)-
Tầm: phàm những sự việc chỉ biết quan sát hình tướng thô
thiển
bên ngoài
mà chẳng chú ý đến nhân duyên của nó.
4)- Tứ: quan sát hình tướng vi tế, nghĩa là phàm những sự việc
truy
cứu đến
nhân duyên của nó, nhưng chỗ quan sát nếu thiện chính là
thiện,
nếu ác chính là ác.
Ngoài đây ra còn có năm Biến Hành,
năm Biệt Cảnh và mười một Thiện, cùng với Phiền Não Căn Bản,
Phiền Não Chi Mạt và bốn Bất Định, nơi trong Duy Thức gọi là năm mươi
mốt Tâm Sở Pháp.
a)-
Biến Hành:
1)-
Xúc: tức là Căn cùng chỗ đới với Cảnh và cùng Thức hoà hợp
nhau.
2)-
Tác Ý: là tâm phát động tác dụng.
3)-
Thọ: tâm khởi các thứ cảm thọ.
4)-
Tưởng: khi có cảm thọ liền ghi nhớ những kinh nghiệm đã qua
mà
tiếp thu
hiện tượng, thiết lập các thứ danh từ và ngôn ngữ cho nó.
5)-
Tư: tâm niệm bắt đầu hoạt động.
b)-
Biệt Cảnh:
Biệt Cảnh tức là tâm ở nơi
tình hình khác nhau mà sanh khởi,
không
phải thường xuyên cố định.
1)- Dục: đối với sự vật ưa thích phát khởi sự hy vọng đạt được
gọi là
dục.
2)-
Thắng Giải: đối với nơi cảnh quan sát có tánh quyết định
nhận
thức rõ
ràng mời phần, còn đối với sự cảnh do dự nghi ngờ không
quyết
định gọi là không Thắng Giải.
3)-
Niệm: đối với kinh nghiệm không quên, còn đối với sư cảnh
chưa
trải qua
kinh nghiệm thì không nhớ.
4)- Định: đối với chỗ quán sát sự việc thường chuyêntâm chú
ý, khi
tán loạn
thì không định.
5)-
Huệ: thường nương nơi chánh lý chọn lựa không điên đảo gọi
là
chánh
huệ. Chọn lựa điên đảo không chánh lý là tà huệ.
Còn không
năng lực
phán đoán chọn lựa là không huệ.
c)-
Thiện Pháp:
Tự lợi lợi tha nơi hiện thế lại có thể khiến đời vị
lai đặng thiện quả gọi là thiện pháp.
1)-
Tín: tin tưởng nhân quả, tin tưởng pháp xuất thế gian tăng
thêm
tiện lợi
cho chúng sanh có thể đặng chánh quả.
2)-
Tàm: đối với việc ác của mình đã từng làmphát khởi tâm hổ
thẹn,
phòng
ngừa tái phạm.
3)-
Quý: thường phát động sự mong muốn làm việc thiện và hy
vọng
người
hiền khác cũng làm việc thiện như thế.
4)-
Vô Tham: làm việc không có tâm tham cầu riêng tư, không phát
khởi ý
chiếm đạt.
5)-
Vô Sân: rõ lý nhân quả, đối với tất cả nghịch cảnh đều có thể
giữ
tâm bình
an.
6)-
Vô Si: không mưu kế điên đão ngông cuồng, không nói lên lời
lẽ
sai lầm
ngu muội.
7)-
Tinh Tấn: đối với tất cả việc làm điều lành mạnh dạng hướng
về.
8)-
Khinh An: thường được chánh định, không bị hôn trầm ngu muội.
9)-
Bất Phóng Dật: thường phát khởi giác chiếu, nội tâm tập
trung,
ngăn
ngừa những điều ác, tu tập những điều lành.
10)- Hành
Xả: làm những việc lành mà không chấp tướng, làm những
việc lành
thanh tịnh tạo lấy công đức cho thế gian.
11)- Bất
Hại: không làm tổn hại khiến cho người khác tức giận,
thường
phát
khởi tâm từ bi hộ trì.
Tám Thức và 51 Tâm
của chúng sanh tác dụng khiến cho họ có căn thân và đốùi với sắc,
thinh, hương, vị, xúc của thế gian sanh khởi các thứ ảnh tượng quan
niệm. Lẽ đương nhiên tâm và ngoại cảnh khi đối diện giao
nhau
liền sanh khởi các thứ phản ứng giả lập, lại cộng thêm sự sai biệt
của thời gian, vị trí, ngôn ngữ, tất cả vấn đề như tự thân, tha
phương, tâm cảnh, cả vấn đề nhân quả, sanh tử, chân giả, phàm
thánh, tu chứng..v..v....
đều không thể lìa khỏi tâm mà tồn tại, cho nên nói tất cả đều là
Duy Thức Biến Hiện.
Chúng sanh không biết đạo lý tỉnh
thức, chỉ có Như Lai, ngoài ra không
có pháp nào biết rõ đạo lý huyền diệu của Duy Thức biến hoá, cho
nên bị chìm đắm nơi hiện tượng, vô tận kiếp không thể ra khỏi luân
hồi khổ hải. Kẻ ngu si chỉ biết hưởng thọ
trước mắt trong thế gian, gây tạo nhiều thứ ác nhân. Còn người tri
túc thì cũng chỉ biết sanh hoạt an định, mặc dù
tuy không làm ác, cũng không biết con đường quan trọng của việc làm
thiện, vì thế vẫn cứ bị lạc vào thuyết không. Riêng người hướng
thượng thì có nhiều cách cầu pháp, hoặc tu theo đạo tiên, hoặc nương
theo đạo Thần, hoặc tu theo các pháp thuật, nghiệp lực trong Duy Thức
biến họ đến biến họ đi, nhưng biến họ không ra khỏi một loại cứu
cánh trên, nguyên vì họ hoàn toàn không biết nhân duyên của chánh
pháp. Cho nên nói chúng sanh đang chịu nghiệp lực trói buộc, ngoài ra
họ hoàn toàn nhận thức được diện mục xưa nay của họ, tức là biết
rõ đạo lý vạn pháp Duy Thức chính là pháp môn đặc biệt hoàn toàn
không có pháp môn nào khác. Điên đảo vô minh khiến chúng sanh thọ
khổ nhiều kiếp lâu xa, bất cứ cái gì liên tiếp phát khởi trong vòng
vô minh điên đảo thì vẫn còn đòi hỏi đáng khiếp sợ, người tu hành
học Phật thì không nên thờ ơ đề phòng vấn đề này.
Quá trình khi chúng
sanh cảm ứng pháp giới đi đầu sanh cũng không thể nghĩ lường, chỉ có
phương pháp của Phật Đà đã từng lãnh hội khả năng cuối cùng của
con người và ngài đã công bố với các đệ tử đại khái về sự cảm
ứng của nghiệp lực. Ngài nói rằng con người khi thọ sanh thân
Trung Ấm nhân bị nghiệp lực hơn kém cao thấp mà thấy đến những cảnh
giới bất đồng. Khi họ sanh ra làm thân người nữ thì theo
cha mà chống lại mẹ và nếu như làm thân người nam thì thích mẹ hơn
mà ghét lại cha. Lại nữa nhân phước đức nhiều ít họ lại thấy những
sự vật kiến trúc không giống
nhau. Trong
chốc lát họ chỉ thấy mưa to gió lớn, như khói như sương, chừng đó mới
lo tránh né vọng tưởng. Nếu như phước lớn họ tự nhiên lên
núp lầu các, vào cung điện, hoặc ngồi trên giường, còn phước ít hơn
họ vào thảo am, lổ vách tường, hoặc ở dưới tàng cây..v..v...., tức thì họ nhập thai
liền. Những hiện tượng trên đều là nghiệp lực trong Thức thứ tám tạo
thành, lúc đó con người không có mảy may sức mạnh tự kềm chế, những việc không may này nguyên nhân sai lầm
là ở sanh tiền thường quấy rối những người tốt khiến họ bị luân
hồi mà mình lại tư nhiên không có khổ báo. Những kẻ
xấu ác như thế nếu như không bị khổ báo luân hồi là khi nào Thức
đã bị tiêu diệt. Đức Phật nói: “Thức bị diệt thì không còn
sanh” đây là pháp cứu cánh vậy.
CHƯƠNG IV
LỌC
SẠCH NHÂN TÂM LÀ THEN CHỐT
Nghiệp lực của
chúng sanh giống như chất keo tợ như nước sơn trói buộc tâm của họ,
tất nhiên cần phải trục xuất dần dần một cách là bắt tâm họ lọc
sạch trở lại, được như thế trí tuệ mới có thể phục hồi nguyên thể. Giống
như những tài liệu được tích trử trong hệ thống điện não cũng phải
cần chỉnh lý thì mới sử dụng được. Một bộ
phận điện não đã hoàn thiện thì có thể có rất nhiều thiết bị mềm
thích hợp các thứ tình hình mà trong mỗi thiết bị mềm đều có hệ
thống tài liệu của riêng phần mình không giống nhau, nhằm để sử
dụng cho mỗi thứ vấn đề và tình hình. Cho nên
mỗi thứ hệ thống liền có thể chuyển đổi được ngay. Nghiệp
lực trong tâm Thức của chúng sanh cũng có thể cải biến được, nhưng
vấn đề cải biến có hai cách:
Thứ nhất, chúng sanh trước hết cần phải biết đạo lý và
cùng tin tưởng nghiệp lực có thể cải biến. Thứ
hai, chúng sanh cần phải biết đạo lý cải biến thế nào để có thể
đạt đến thành quả viên mãn. Hai vấn đề này
đúng là then chốt chủ yếu của việc lọc sạch nhân tâm.
Chúng
sanh sở dĩ không biết được Phật pháp, không gặp được đức Như Lai là
do bởi chấp thường, chấp pháp và chấp ngã gây
nên. Lý do bởi những vật chất chỗ thấy của thế gian đều cho là
thật có. Hơn nữa vô minh
điên đảo ở phương diện này lại thêm sâu, cho
nên đối với tánh nhạy cảm đặc biệt các thứ khổ não của nhân sanh,
gặp được thuận cảnh thì cao hứng đắc ý hí hửng, nếu như va chạm đến
nghịch cảnh thì trở nên mười phần chán nản hết mười. Còn đối với bệnh khổ, sanh ly, tử biệt, cũng bị cảm thọ
các thứ tâm lý trên. Bởi vì không rõ nguyên
nhân của nó cho nên thường bị cảm thọ thất vọng. Con người
sanh hoạt như thế đấy thông thường chỉ chuyên chú vào nơi sanh hoạt
trước mắt, chỉ quan tâm gia đình, nổ lực nơi trên sự nghiệp, đốùi với
phương diện vui chơi giải trí phần nhiều đều có nghiên cứu đến, lại
còn phát triển các thứ ham thích, nhằm để giết thì giờ.
Nhưng một khi gặp thời vận khó khăn thì bị
mười phần khổ não hết mười, ưỡn ngực mà chạy trốn hiểm nguy, thông
đồng kẻ địch bán nước, khoác lác bợ đỡ tôn sùng nịnh hót, thảy đều
cho là hợp lý cả. Ngoài đây ra họ lại thường oán
trách xã hội gia đình, bao gồm cả câm giận thói đời đố kỵ thế tục.
Cá tánh tương đối đần độn thì lại sẽ mượn cớ uống
rượu tiêu sầu, cô độc ít được vui vẻ, cho đến tự chọn lấy ý kiến
nông cạn. Còn tánh tương đối thông minh thì có nhiều phương kế
dự định, phát khởi đúng với tâm địa, bỏ chạy không yêu tiếc công
nghiệp đã để dành, ôi chao đi trộm cắp thục két lừa dối, không hổ
không thẹn, lại bảo rằng do xã hội bức ép họ biến thành. Tình trạng đi xuống thấp như thế thì nguyên nhân khổ não
lại càng nặng thêm lên, kiếp sau bị quả báo bần cùng lại càng thêm
sâu, khác nào như uống rượu độc để giải khát vậy.
Riêng một loại chúng sanh hiểu biết rất sâu cảm nhận
được rằng nhân sanh tràn ngập khổ não nên bằng mọi cách tìm cầu biện
pháp để giải thoát. Nhưng vì không biết vạn pháp do bởi Duy
Thức, cho nên
nhiều việc họ chỉ biết căn cứ vào sự đối chiếu giả ngã của Thức
thứ bảy để quyết định chọn lấy hay loại bỏ, ngay lúc đó liền phát
sanh các thứ kiến chấp. Con người được thấy thường nhất họ cho rằng
chỉ cần sáng suốt thì giữ được mình, cho nên mọi việc đều dựa theo lương tri để thực hành, hể tâm được an thì đạt
được lý, làm người như thế cũng cảm thấy an lạc. Nhưng thế sự luôn
luôn thay đổi, mặc dù lúc bình thường đối xử với mọi người hoà
thuận như thế nào đi nữa, đem thiện tâm giúp đỡ mọi người bao nhiêu,
tai hoạ và khổ nạn vẫn cứ giáng xuống lên đời sống của họ như
thường. Lúc ấy con người
nếu như không rõ lý nhân quả sẽ phát sanh khổ não vô cùng, rồi tự
phiền trách rằng mình đã suốt đời hết lòng ngay thẳng theo lẽ không nên gặp những cảnh ngộ như thế này. Sự kiện thí dụ đây thường được thấy đến. Có thể
thấy con người chỉ dựa vào lương tri của riêng cá nhân mình để thực
hành thì không thể nào giải thoát được tai hoạ
của khổ não.
Có một số người hiểu rõ nhân sanh nhiều biến đổi không
kể ngoài lương tri của chính mình nên cần phải có triết học đến để
giúp đỡ mới hy vọng được giảm nhẹ. Cho nên những hạng người
này phần nhiều nghiên cứu sách vỡ của thánh hiền, phân tích ngôn
luận nghệ thuật văn học đối với nhân sanh của các nhà triết học
và văn học cổ kim trên thế giới..v..v.... mong đặng tinh thần của mình có lập trường, có
nguyên tắc để được một mặt kiên cố. Ở vào cảnh
ngộ khổ nạn này họ cũng cần phải hiểu rõ để nhận chịu. Con
người như thế ở trong thế gian rất đáng quý trọng, đối với hạng này
có thể là thầy của ta. Nhưng dù cho những người này được nói đến,
cúi đầu nhẫn nhục làm được đến đâu đi nữa, cái khổ vẫn có kẻ hở
để tồn tại, vẫn phải chịu đựng, không được giải thoát, mà nhân sanh
bị uy hiếp vô cùng to lớn: một khi chết chóc đã đến hoàn toàn không
có phương pháp ứng phó, mắt thấy thân nhân thống khổ cũng không
thể làm sao được.
Lại
nữa có một hạng người tâm địa hiền lương, cũng đọc sách thánh hiền,
nhưng không thể thăm dò tinh thần sâu xa của vũ trụ, liền suy nghĩ
vũ trụ phải có chủ tể, nhơn đó họ nghiên cứu đến những giáo lý
của Thần Đạo, hoặc quy thuận theo Tông Giáo để cầu xin một việc là
hiểu rõ vấn đề sanh tử. Những hạng người này không luận tín ngưỡng
tông giáo Nhất Thần hoặc phụng sự tông giáo Đa Thần tất cả đều cho
là tốt cả, nói chung lại họ tin tưởng vị Thần làm chủ tể, hết mình
hầu hạ cung phụng vị Thần đó và phương pháp tu hành của Thần là quy
tắc phải phục tùng theo những gì quyết định của Thần bang xuống để
hành sự, cho đến quy tắc của Thần để trao truyền giúp đỡ người đời
như thế nào thì các tôn giáo lại có truyền thuyết hoặc ghi chép
không giống nhau, nhưng nói chung không ngoài ở
chỗ theo sự hiển
hiện, tiên tri bằng miệng của Thần, hoặc phù trợ bằng sự bói số
khiến họ lãnh thọ theo sự chỉ bảo. Giống như giáo thuyết Hoa Nghiêm,
chỗ giảng giải và chỗ thật hành của các Thần Giáo ở trong thế gian
đều có một mặt sự thật của nó, nguyên vì tâm thức của chúng sanh
cứ nhớ mãi liền trở thành thứ nguyên nhân và sẽ sanh cảm ứng trong
đời vị lai hiện thành sự thật, để rồi từ đó làm nhân cho quá khứ,
thế nên Kinh nói rằng: “Mười pháp giới đều từ một niệm sanh” chính
là thứ đạo lý này.
Thuở xưa có một tiên nhơn sống ở thâm sơn để tu hành,
chứng được định lực cao thâm. Một ngày nọ Vương
quốc đi dạo trong núi tình cờ gặp được tiên nhơn này và vô cùng cảm
mến, liền cung thỉnh vị tiên nhơn nói trên vào cung để cúng dường.
Vị tiên nhơn ấy khi đến cung vua được cung nữ nghinh tiếp đảnh lể bằng
cách đầu mặt và hai tay đặt lên trên hai chân của vị tiên nhơn để
tỏ lòng cung kính, hai tay cung nữ mềm mại khiến cho vị tiên nhơn kia
xúc động, không nhịn được liền khởi tà niệm, từ đó tiên thuật của
ông không phải Phật pháp nên không thể phát khởi chánh định. Ngay lập tức định lực liền mất, vị tiên nhơn đứng dậy rời
khỏi cung vua đi thẳng vào trong rừng sâu để phục hồi định lực của
tiên thuật, nhưng rốt cuộc không thể thiền định trở lại như xưa.
Trong khi vị tiên nhơn ngồi thiền, chim chóc bay đến
kêu hót líu lo khiến ông không định được liền cảm thấy hết sức
phiền não, tâm ông mắng chưởi, sanh ra thứ ác nhơn thề rằng sẽ giết
hết các chim trong rừng. Sau đó ông dời qua bờ sông để tu định,
nhưng con ba ba thường nhiểu loạn trong lúc ông đang tu luyện kiểm tra
nội tâm, tâm ông khởi lên phiền não, lại phát khởi ý niệm sẽ
diệt hết loại con ba ba này, do những ác tâm nói trên ông sẽ chiêu
cảm quả khổ ở đời vị lai. Sau đó ông rốt cuộc chứng
được Thiền Vô Tưởng, sau khi chết được sanh lên cõi trời Vô Tưởng
để hưởng phước lạc. Nhưng Phước lạc ở cõi trời Vô Tưởng đã
hết, tự thân của ông cũng chấm dứt theo và sau khi cõi trời Vô
Tưởng diệt, ông tiếp theo đó bị luân hồi thọ khổ, nguyên vì kiếp
trước đã có phát thề giết chim và giết cá, cho nên bị sanh làm con
chồn biết bay biết lội, chuyên ăn thịt con cá dưới nước và con chim
bay trên không. Từ đó về sau ông bị hạt giống nghiệp
sát càng sâu, luân hồi mãi trong ba đường ác không bao giờ dứt.
Những sự kiên trên cho chúng ta biết rằng lúc đương
thời mình phát nguyện điều gì không thể không cẩn thận. Tín đồ Phật Giáo mỗi khi phát nguyện, nhớ mãi không quên
những điều độ chúng sanh, đoạn phiền não, học pháp môn và để thành
Phật đạo. Những điều phát nguyện này tương lai
nhất định sẽ có cảm ứng. Tất cả niệm đều
phải là tịnh niệm, không thể ô nhiễm tạo loạn, nếu không được như
thế quả báo tương lai sẽ sanh ra những việc vụn vặt. Tín đồ Phật Giáo phải chuyên chú tịnh nghiệp, mặc dù là
Phật sự phải tận lực mà làm cho được tốt. Sức
lực tuy có mà không gặp thời thì không thể nắm lấy, mặc dù cố
gắng hành sự rốt cuộc rồi cũng gặt hái những thất bại không toại
nguyện. Có một số người chọn lấy độ chúng sanh làm nghề
nghiệp, có nhiều phương cách tham cầu danh lợi, vô tình tạo kẻ hở đi
ngược lại Phật Pháp mà không hay biết, khiến cho người đời nhạo
báng cười chê. Những hạng hộ pháp như thế đã không kết quả gì mà
ngược lại càng thêm hủy hoại Phật Pháp, hoàn toàn chướng ngại con
đường thành đạo. Người hoằng pháp dù sao cũng không
thể xem thường việc đó. Lại nữa tiếp theo có phong trào hoằng
pháp đấu tranh, nguyên vì họ không biết tinh thần Tăng Già, đi phá
hoà hợp Tăng, cứ như thế một thời khoe khang vui thích, cũng là hạng
bất trị rồi sẽ bị chiêu cảm khổ báo nơi địa ngục. Con người hoằng pháp
hiện nay cũng thật là thực tế, đối với những người có tiền của và
thế lực đều rất hoan hỷ và cố tình nắm bắt để cầu công việc cho
được thuận lợi. Hành động của họ như thế thật ra
không đáng trách lắm, chỉ là tâm lý của những hạng này phát triển
đi xuống thấp, biến thành những kẻ nịnh hót bợ đỡ. Điều đáng nói đến có hạng người đối với những kẻ không
có tiền của và thế lực hoặc đối với mình không chút lợi ích thì
không thèm chú ý đến. Thái độ như thế của họ
hoàn toàn trái ngược lại với ý nguyện độ chúng sanh và cũng khiến
cho chúng sanh sợ họ không dám thân cận. Ở hiện nay trong phạm
vi hoằng pháp, có một số nhân sĩ chọn Phật Giáo làm công tác,
thường hay sơ xuất một vấn đề là hằng ngày không nhớ và cũng không
chịu tiếp xúc các Phật Tử mà những hạng này đều là tín đồ Phật
Giáo, và họ trên các Phật sự đã hết lòng phụng thừa, tán thán và
cúng dường. Dần dần những hẻ hoằng pháp xuất gia hoặc tại gia nói
trên không chịu ly khai phạm vi hạn hẹp này,
suốt ngày chỉ đam mê hưởng thụ sự cúng dường. Họ đã đi xuống như
thế lại còn sợ bên ngoài không chịu tiếp
xúc, không chịu tiếp
nhận ý kiến đóng góp của kẻ khác, hết sức đáng thương! Người độ
chúng sanh lẽ tất nhiên có nhiều cách hành sự, nhưng không phải thế
cho dù không được “đông người”, nghĩa là không nên chỉ chú ý bám
vào những kẻ quyền thế, chỉ kết giao với những kẻ giàu có, còn đối
với những người thương mãi nhõ và hạng cùng đinh tôi tớ thì xem
thường, tại sao có sự phân biệt như thế? Lại còn có sự thay đổi
khác nữa là đối với những người tu hành hoằng pháp thanh tịnh, họ
thêm vào đó sự thù hằn, nguyên vì những kẻ tu hành thanh tịnh kia có thể phản ảnh khác hơn sự tham lam của họ. Cho nên họ báo trước tổ chức hoằng pháp cho thật lớn để
che đậy và có lúc tha hồ thêm vào đó sự phá hoại. Như tín đồ
Phật Giáo không có cảnh giác về phương diện này thì lẽ tất nhiên
tiếp tục phổ biến lan rộng ra thứ Phật Giáo chỉ chú trọng hình thức
bên ngoài, thứ Phật Giáo pha trộn giống nhau tất cả pháp thế gian,
đối với chúng sanh tỉnh giác càng thật thà mà nói, không có một tí
ý nghĩa nào cả.
Then chốt tịnh hoá nhân tâm là ở chỗ chuyển nghiệp.
Khi nhận thức đến nghiệp, rất nhiều người chỉ tưởng đến nơi chốn xa
xăm nào đó cho là “Hư vọng”, nói chân thật chính là “Nghiệp”, khiến
người nghe đến mò mẫm không thấy được đầu não của nó, chỉ đành
phải người ta nói sao thì nói theo như vậy, thậm chí nghe nhầm đồn bậy,
nói nghiệp là thuộc đời trước, còn ngày nay thì không thấy được
nó..v..v.... Tư tưởng trên đây sao lại có thể là chân Phật Pháp, phải
biết rằng Phật Pháp là từ nơi sinh hoạt khiến người tỉnh giác được,
nghiệp có thể tìm đến ở nơi tự thân. Con người gồm có năm
giác quan, hai tay hai chân, ngoài thân thể ra
còn có tạng phủ ở bên trong, không một pháp nào là không biểu
hiện của nghiệp cả. Tâm lý của chúng sanh như 51 Tâm Pháp..v..v.... tất cả đều là
nghiệp lực tạo nên cả. Vui lại cười, buồn lại khóc,
đói lo ăn, khác cần uống, mệt mõi liền ngủ, không một pháp nào là
không bị trói buộc của nghiệp. Bàn bạc đến
nghiệp lực, hiểu rõ được nghiệp lực thì cần gì phải làm một công
việc suy đoán đến huyền hư của nó? Nhận thức
được nghiệp, biết được tánh không của nó, tức là biết được bản lai
diện mục của nó, vậy cuối cùng tiến hành tịnh hoá nghiệp lực thì
cũng đã nắm vững được nó rồi.
Chuyển nghiệp ô nhiễm thành nghiệp thanh tịnh là pháp môn
nghiên cứu trọng yếu. Có một số người cho
rằng làm việc lành có thể được quả báo lành chính là phương pháp
chuyển nghiệp tốt nhất. Người không biết đạo mong cầu như thế
chỉ là lấy một thứ pháp không cứu cánh khác thay thế bỏ đi pháp
không cứu cánh của ban sơ mà thôi. Người cầu sanh phước báo đạo
trời cũng là giống nhau, mặc dù được sanh lên cõi trời cũng phải
trải qua công phu tu hành của một thứ thòng lọng, nhưng dù là ở cõi
trời cũng giống nhau với các pháp giới khác, nghĩa là cũng sẽ bị
nhận lấy sự đoạn diệt như nhau, cho nên không đam mê thế sự tu theo
pháp không thể thành của đạo trời, nghiệp lực trước sau vẫn tăng
trưởng trong phạm vi ở nơi ô nhiễm. Phương pháp duy nhất của sự
chuyển nghiệp chính là Phật Pháp,
nguyên vì Phật Pháp chỉ bày con người sử dụng lý không, khiến
con người không chấp trước bất cứ hình tướng nào, chọn lấy lý không
đây để hành sự thì nghiệp mới có thể được thanh tịnh. Nhờ sử dụng tịnh nghiệp cho nên mới được sanh lên cõi
tịnh. Nghiệp sau khi được chấm dứt thì bốn trí
liền phát sanh và chứng nhập được Niết Bàn Vô Trụ. Sử dụng nhân duyên này thị hiện trong mười phương, hoá độ
những kẻ hữu duyên, lời phát nguyện của đời trước đã được viên
mãn thì lúc đó diệu lạc phát sanh lập tức. Cảnh
giới như thế thì tất cả các pháp thế gian không thể nào so sánh
được.
CHƯƠNG V
TRÌNH
BÀY SƠ LƯỢC CÁC TÔNG PHÁI VÀ
PHÁP
BẢO CỦA THỜI ĐẠI MẠT PHÁP ------ NIỆM PHẬT
Trên
đời phương pháp tu hành thì rất nhiều, đạo đức học thuật của xã hội
nhơn gian nhân tánh một thời đều bị giới hạn trong cái lồng, chỉ một
phương diện đối với vấn đề cứu cánh của sanh tử thì hoàn toàn không
có tác dụng chút nào. Các thứ tôn giáo thờ Thần đều chọn lấy
phước trời làm mục tiêu tối hậu, nhưng Thiên đạo thì không cứu
cánh, liên tục ở trong sáu cõi phàm không được giải thoát, kiếp số
dài lâu về sau cũng vẫn bị luân hồi. Còn Thiên Chủ của các cõi
trời cũng đều bị quy định giới hạn của nhân quả, không những không
thể tiến hành bảo hộ thích hợp cho những chúng sanh tôn sùng mình,
còn liên hệ đến Thiên quốc và sanh mạng của bản thân khi đến kỳ
hạn tận số cũng bảo đảm không còn tồn tại. Cho nên các pháp tu
không luận của con người hoặc của trời nương tựa cũng đều không
được tồn tại.
Phật Pháp lấy nhân quả làm nền tảng cốt yếu, chọn duyên
sanh làm điều kiện thành lập hiện tượng, chỉ bày cho chúng sanh các
thứ đạo lý giải thoát. Các pháp đều do nhân duyên mà sanh
thành, các pháp bởi do nhân duyên mà hoại diệt. Hoà
hợp thì sanh, ly tán thì diệt, không có bất cứ thế lực nào có thể
cản ngăn được. Ngoại đạo bàn luận “Toàn Năng”, là do không
biết được sự tác dụng của nhân duyên. Pháp của
Phật trao truyền cũng có nhiều thứ, phương tiện cho nhiều căn cơ của
con người. Người tu hành có thể ngồi thiền,
hoặc trì chú, hoặc trì giới luật, hoặc nghiên cứu lý không, hoặc
đoạn trừ kiến hoặc, hoặc niệm Phật cầu sanh tây phương. Bất
cứ pháp môn nào cũng có thể khiến con người giải thoát khổ não
sanh tử. Chỉ vì hiện tại là thời đại mạt pháp, căn
cơ của chúng sanh khác nhau là căn cứ nơi phương sở nào? Nên
chọn lựa một pháp môn đó thì mới bảo đảm không sai lầm! Đây là một vấn đề rất trọng yếu.
Đầu tiên đề cập đến tu pháp môn Thiền Tông. Tông phái này có hai thứ tiệm ngộ và đốn ngộ. Người tu tập ngoại trừ ngồi thiền, lại còn hành trì các
thứ giới luật, nên phải xuất gia tu hành, nếu tại gia cư sĩ thì khó
bề tu tập. Tiệm ngộ là cốt yếu phải trải qua
thời gian dài tu trì, nghiên cứu đọc tụng kinh văn trọn suốt một
ngày, hốt nhiên đại ngộ, xem thấu thiền cơ. Đốn ngộ thì hoàn
toàn dựa vào căn cơ, không lập văn tự, không còn nghi thức, một khi
gặp được cơ duyên liền đột nhiên tỉnh ngộ, vượt qua cõi phàm nhập
vào cõi thánh ngay trong thời gian thiền chỉ. Nhưng thiền tập không
luận tu tiệm hay tu đốn đều cũng tốt cả, chỉ cần có lợi căn thì mới
có thể thành tựu được. Thời đại chánh pháp là khi Phật còn tại
thế và các đệ tử của Phật đa phần đầy đủ lợi căn, bao gồm cả
phước và huệ, cho nên rất nhiều vị đều nhơn một câu nói chuyện của
Phật mà được chứng quả vị. Phật nhập Niết Bàn trở về sau khoản một
ngàn năm là thời đại tượng pháp, ngay ở nước ta người có lợi căn
cũng chẳng ít, nên việc tham thiền thành đạo cũng có kẻ tiệm ngộ hay đốn ngộ
đều được ghi chép tra cứu. Đốn ngộ thành đạo chẳng ai bằng đại sư
Huệ Năng tổ thứ sáu của Thiền Tông, chỉ nghe xong một câu: “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang liền bổng nhiên đại ngộ.
Hiện tại là thời đại mạt pháp, chúng sanh bị nghiệp trói buộc, nên
phước đức không sánh bằng tiền nhân, tu thiền lại phần nhiều chỉ
thực tập theo pháp thế gian thành tĩnh toạ vận
khí, trong ngàn vạn người, ngộ đạo chỉ đạt được một hai người. Huống hồ tham thiền mà không hiểu rõ Phật pháp, lại còn
gặp phải tà định, ly khai chánh huệ, ngày càng hoàn toàn xa xôi.
Cho nên Thiền Tông ở trong thời đại hiện tại thì
thất khó hành đạo.
Thứ đến bàn về Thiên Thai Tông. Tu
tập tông phái này bản thân đối với học vấn cần phải có hứng thú
nghiên cứu, đấy là một thứ học tập. Nguyên vì tông này lấy
kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm nơi y chỉ, lấy luận Đại Trí Độ làm kim chỉ
nam, lấy kinh Đại Niết Bàn làm nơi trợ giúp cho việc chú thích, lấy
kinh Đại Phẩm Bát Nhã làm căn bản cho việc quán tâm, dẫn các kinh
để lấy thất tướng các pháp làm trung tâm. Có chỗ gọi các pháp là
như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như
thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như có thật tướng
các pháp của cứu cánh bổn mạt..v..v.... thì chỉ học vấn một môn cũng rất huyền diệu. Thêm nữa tông này lấy năm thời tám giáo để phê phán và
giải thích thời đại Thánh Giáo. Năm Thời tức là thời Hoa
Nghiêm, thời Lộc Dã, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa,
thời Niết Bàn. Tám Giáo tức là Đốn Giáo, Tiệm Giáo, Mật Giáo, Bất
Định Giáo, Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo. Hiện đại con người phần Nihau bận rộn nhàm chán, rất ít
có người hứng thú học vấn, cho nên cần phải chuyên chú tông này
xem như của quý hiếm có vậy.
Thêm
nữa nói đến Hoa Nghiêm Tông, lại có tên nữa là Pháp Giới Tông,
Tông này nương nơi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm bàn về pháp
giới duyên khởi, sự sự vô ngại làm yếu chỉ, chuyên luận về pháp
Tứ Pháp Giới, Thập Huyền Môn, Lục Tướng Huyền Dung..v..v.... Giáo nghĩa của Tông này cùng với Thiên Thai Tông
chung nhau xưng là tinh hoa của Phật Giáo Trung
Quốc, do vì có thể thấy được chỗ thâm áo của nó. Sự
tu tập của Tông này không khác nhau với Thiên Thai Tông, nhất định
phải là học giả kiêm cả Triết Học Gia thì mới có thể thành đạt
được. Cho nên con người của thời đại ngày nay phần nhiều chú
trọng về khoa học kỷ thuật và thương gia mà xem đến thì e ngại rằng
chỉ có thể làm sáng tỏ bề ngoài giáo nghĩa của Kinh này mà thôi.
Ngoài đây
lại có Pháp Tướng Tông, hoặc gọi là Duy Thức Tông, Tông này cứ nơi
đạo lý của Duy Thức giải thích rõ về vạn pháp duy thức, cũng tức
là yếu chỉ của quyển sách này. Người học tông phái
này nhất định phải là nhà triết học nghiên cứu kiêm cả khoa học tri
thức thì mới có thể lý giải và chú thích kinh luận đây. Nhiều người hiện nay đã đem Duy Thức tu bổ lại để giải rõ
thể tánh và tướng trạng của các pháp. Trong khoá trình triết
học của Đại Học Lý, thỉnh thoảng mở khoa thi Duy Thức này, nhưng vì
người học khoá này không phải hiểu rõ Phật Pháp tất cả chỗ, chỉ
là tham luận phiến diện, đều không thể hiểu thật sự đạo lý và sự
tác dụng của “Thức”.
Còn một vấn đề trọng yếu nữa là
Mật Tông, tức là Mật Giáo Du Dà, tông này nương nơi Chú Ngữ để
hành trì, tức là tu Chơn Ngôn, chọn lấy kỳ hạn Tức Thân Thành Đạo,
cho nên cũng gọi là Chơn Ngôn Tông. Người tu môn này
phải cần có cơ duyên mới có thể ngộ được Kim Cang Thượng Sư và được
họ trao truyền Mật Chú. Đây là cùng với duyên
phận đời trước có quan hệ, không thể cưởng cầu được, nếu như không
phải thế mà cho dù học được chú ngữ thì cũng niệm không hiện ra
công hiệu lại phí công thêm mất thời gian.
Sau cùng pháp môn cần nói đến chính là Tịnh Độ Tông.
Rất nhiều người hiểu lầm một pháp môn phương tiện
này cho là trong nó không có học vấn, chỉ dành cho người già cả,
phụ nữ và trẻ em tu tập mà thôi. Họ không biết rằng đức
Phật Thích Ca sử dụng tâm từ bi của ngài không cần ai hỏi mà chính
ngài tự giảng giải, phương tiện cho người tu hành trong thời đại mạt
pháp, để được giải thoát sanh tử khổ hải, chính là pháp trong dễ
hành đạo không thể so sánh. Chủ yếu của pháp môn này là chấp hành
trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, khi lâm chung
mặc dù chỉ hành trì được mười niệm, cũng được Phật đến nghinh đón,
vãng sanh về nước Tây Phương Cực Lạc. Pháp môn giản tiện này, kẻ
lợi căn và người độn căn đều được thu nhận
đầy đủ, không luận kẻ trong sạch hay người ô nhiễm, không phân biệt
kẻ nam giới hay nữ giới đều có thể thành công. Trong
thời đại mạt pháp, kẻ tu pháp môn Tịnh Độ, vạn ức người tu chỉ một
hai người không thành đạt, có thể thấy sự công hiệu to lớn của nó.
Tây phương Tịnh Độ là nơi của các thượng thiện nhơn
câu hội, cho nên người niệm Phật bao gồm không phải là niệm trong
miệng mới có thể vãng sanh. Có chỗ gọi “Đới
nghiệp vãng sanh” mà không phải là “Đới tội vãng sanh”. Nghiệp là chỗ tạo tác của đời trước, chúng sanh bị nghiệp
trói buộc mà không được giải thoát, vì thế mới có khổ của sanh lão
bệnh tử. Ngày nay theo kinh sách Di Đà Đại Nguyện, người tu
không cần phải giải trừ nghiệp trói buộc để được sanh Tây Phương,
pháp tu này nếu so với các pháp môn khác thì không giống nhau,
nguyên vì các pháp môn khác nhất định trước phải giải trừ nghiệp
trói buộc rồi sau đó mới có thể sanh Tịnh Độ. Tội
thì không giống nhau, vì nó khiến con người bất an, hổ thẹn và thống
khổ, quyết định phải chịu quả báo, hơn nữa phải hiểu rõ lý không thì
mới được thành tựu, đây là thuộc về vấn đề của tâm lý. Người niệm Phật trước hết cần phải hiểu rõ đạo lý của
vạn pháp duy Thức, trong Thức hoá hiện Tịnh Độ thì mới có thể vãng
sanh. Cho nên pháp tu Tịnh Độ tất nhiên trước
phải khiến Thức không còn ô nhiễm, chính là một bộ phận công phu
rất thích ứng với huyền diệu. Nếu như chọn
ngày điên đảo vọng tính, vì lợi làm bậy, hoặc ham mê các pháp đẹp
của thế gian, các thứ hý luận, niệm Phật nhất định không thành.
Thế nên niệm Phật phải sử dụng Lục Ba La Mật Đa làm đường thẳng,
Ngũ Giới và Thập Thiện làm đường ngang, cần phải cầu thanh tịnh trong
Thức, Tịnh Độ tự hiện, tùy duyên vãng sanh. Vả lại
niệm Phật không chỉ riêng trông cậy vào miệng niệm, cũng phải tưởng
nhớ công đức trang nghiêm của Phật, như con nhớ mẹ, phàm sự việc
nào cũng phải lấy Thánh pháp làm chuẩn. Lâu
ngày tự nhiên đặng chánh định, đây gọi là Niệm Phật Tam Muội.
Thông thường ra tay công phu, bao gồm cả đọc tụng Kinh văn, quán
tưởng xem xét, lễ bái cung kính, xưng Hồng Danh của Phật và tán thán
cúng dường. Trong đó cho xưng danh chính là định nghiệp
ngoài nó ra là trợ nghiệp. Nguyên vì trong sự
sanh hoạt bận rộn của thời đại hiện tại này, pháp môn tu niệm Phật
là rất chắc chắn. Một người tu pháp môn Tịnh
Độ, ngoài niệm Phật ra có thể không nên tu pháp môn khác. Như tham khảo kinh văn khác thì chỉ là một thứ tăng gia tri
thức để phương tiện cho việc hoằng pháp mà thôi.
KẾT
LUẬN:
PHƯƠNG
PHÁP ĐỐI PHÓ THỨC THỨ BẢY
Các chủng tử nghiệp lực vô lượng
điên đảo vọng tưởng của con người đã được thâu chứa và canh giữ
trong Thức thứ tám, mà Thức thứ bảy cho những nghiệp lực giả tưởng
đó là ngã, thân căn cố đế gây hoạ không nhẹ. Nguyên vì sáu Thức
trước của Thức thứ bảy gồm có Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt
Thức, Thân Thức và Ý Thức vọng tính phát khởi, khiến Tâm nhận lấy
những cảnh chuyển biến liền sanh cảm thọ, phiền não từ đó nối nhau.
Cho nên người tu hành học Phật, đầu tiên cần phải biết rõ sự hư
vọng của Thức thứ bảy, đem nó đánh đổ thì sáu Thức trước tự nhiên
cải biến phương thức phản ứng của nó. Nhưng sự ngoan cố của Thức
thứ bảy khiến con người không biết như thế nào mới có thể nắm được
hướng đi của nó. Rất nhiều người nhân đây mà lãng phi mấy mươi năm,
thậm chí có thể suốt cả một đời, chẳng thể nói không khiến tâm
người kinh sợ, nhân vì một đời khi kết liễu mà không tìm ra manh mối
thì khiến bị luân hồi. Cần yếu đích thân đối với vấn đề này, nếu
cùng nó mong cầu bắt tay cân nhắc sự huyền hư của Thức thứ bảy,
không bằng ở nơi nó bày tỏ công năng mà lại thật tại có thể biết
có thể thấy nơi bắt tay của sáu Thức trước. Tức là
quán sát công năng của nó mà nhận định được xu hướng và chỗ ở của
nó. Nghĩa là Nhãn Thức ưa chỗ nào, ghét chỗ
nào tức là Thức thứ bảy phản ảnh ờ nơi phương diện đó. Đối phó sự phán đoán ở nơi phương diện này của Nhãn Thức
tức là đối phó sự giả lập của Thức thứ bảy. Do đây suy rộng
ra, như có thể nắm giữ được sự riêng biệt của các thứ Thứ như
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, cọng thên rèn luyện, khiến công năng
giả ngã của Thức thứ bảy không thể thuận tiện tồn tại trong Thức
thứ tám, điên đảo tự nhiên dần dần bị sửa chữa, lúc đó tức là
Thức thứ bảy hoàn toàn bị đánh đổ, đây là biện pháp giải quyết
tận gốc, hy vọng con người phát nguyện tu hành chẳng còn trở ngại
phương pháp thí nghiệm này, công hiệu của nó là ý tưởng không còn
tái diễn nữa.
MỤC LỤC
Lời Nói
Đầu
CHƯƠNG I
SỰ
TỔ CHỨC CỦA MÁY TÍNH ĐIỆN TỬ VÀ CÔNG NĂNG CỦA TÁM THỨC
CHƯƠNG II
ĐIỆN
NÃO KHỐNG CHẾ NHÂN LOẠI ĐÁNG SỢ
CHƯƠNG
III
TRONG
TÂM THỨC
ĐIÊN
ĐẢO VÔ MINH KIỀM CHẾ CHÚNG SANH ĐÁNG SỢ
CHƯƠNG IV
LỌC
SẠCH NHÂN TÂM LÀ THEN CHỐT
CHƯƠNG V
TRÌNH
BÀY SƠ LƯỢC CÁC TÔNG PHÁI VÀ
PHÁP
BẢO CỦA THỜI ĐẠI MẠT PHÁP ------ NIỆM PHẬT
KẾT
LUẬN:
PHƯƠNG
PHÁP ĐỐI PHÓ THỨC THỨ BẢY
Tác
phẩm này dịch từ quyển sánh:
DUY THỨC
VỚI MÁY TÍNH ĐIỆN TỬ
Phật
Pháp Ưùng Dụng Tòng Thư 3
Tác
giả: Trương Thông Văn
Nhà
xuất bản: Hoa Tạng Phật Giáo Hội
Nhà
Phát Hành: HUA TS’ANG BUDDHIST SOCIETY