NHÂN DUYÊN KHÔNG TÁNH
Tác giả: Cư sĩ LÝ NHẤT QUANG
Dịch giả: THÍCH THẮNG HOAN
(Trích
trong quyển Phật Pháp Dữ Khoa Học Đích Tỷ Giảo Xiển Thích)
“Nhân Duyên” là gì?
Là không có thể tánh.
Sự sanh khởi, tồn tại, cho đến diệt
vong của tất cả pháp đều là do các điều kiện quan hệ hoà hợp hoặc
phân tán: điều kiện chủ yếu thân cận gọi là Nhân; điều kiện thứ
yếu quan hệ xa gọi là Duyên. Khi nhân duyên hoà hợp
thì các thứ pháp sanh, khi nhân duyên phân ly thì các thứ pháp diệt.
“Không Tánh” là gì?
Sự sanh khởi hoặc sự hoại diệt của
mỗi pháp không phải là tự trưởng thành đơn độc, lại cũng không
phải là tự sanh tồn cô lập; cần phải tri cứu vấn đề này, bất cứ
pháp nào cũng đều không có tự tánh, nghĩa là tự tánh của nó không
thể tìm được nên gọi là không tánh. Tỷ dụ một cái bình chẳng hạn,
cái bình đây do các nhân duyên như nước, bùn đất, nhân công..v..v.... hòa hợp tạo thành,
nếu như hỏi rằng tự tánh của cái bình ở chỗ nào thì không thể tìm
được. Nguyên vì cái bình là do nước, bùn đất..v..v.... hợp thành, nhưng nước và bùn đất không phải
là tự tánh của cái bình. Cái bình như thế quyết định
không tự tánh tự thành, thường trụ và độc lập, nên gọi là không,
không có tự tánh. Vấn đề này ai ai cũng đều
dễ biết. Phật Pháp sở dĩ trình bày tất cả pháp do nhân duyên
sanh với mục đích là đả phá quan niệm sai lầm của “tà nhân, vô
nhân, thường kiến, đoạn kiến” ..v..v...., đồng tời lại thuyết minh không tánh của tất
cả pháp. Vì đã không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả nên cần phải
dùng tỷ dụ để trình bày vấn đề: như giá trị tuyệt đối của số học,
cái này thì không phải chính không phải phụ, chỉ là căn cứ nơi nhân
tố mà có chính và phụ, mới hiển bày được lý “Tuyệt đối” của nó. “Không tánh” cũng giống như thế, nguyên vì có hai chấp
“Ngã và Pháp”, nên mới hiển hiện ra đạo lý “Không Tánh”.
Chúng ta sau khi đã biết vấn đề
trên qua tỷ dụ và hơn nữa khi đứng trên hai chấp ngã và chấp pháp
để xem thì: chính tôi thường ngày từ sáng đến chiều, tất cả lời
nói, hành động, ăn uống, sinh hoạt, không lúc nào không chỗ nào mà
không bàn tính có cái “Tôi” để khác biệt với người. Như chúng ta thường nói: y phục của tôi,
gia đình của tôi, tài sản của tôi...... đều là ở nơi bộ phận của
cái ngã, nên gọi là “Chấp Ngã”. “Pháp” là tất cả cảnh giới của
thế gian, là sáu căn nơi có thể duyên hoặc không thể duyên của chúng
ta, tức là y phục, gia đình, tài sản......; là sự vật của chúng ta
giữ gìn, nên gọi là “Chấp Pháp”. Căn cứ theo những sự việc thiển
cận xảy ra mà nói, cả hai chấp ngã và chấp pháp có thể dùng hai
chữ bao quát là “Danh” và “Lợi”; Danh là chấp trì vô hình, lại phân
biệt kia và tôi, liền sanh ra ý tưởng có chủ tể, thường trụ và độc
lập. Lợi là những sự vật thật tại của con người tôi thọ dụng. Thế nên danh lợi có khi là chấp ngã và có khi là chấp
pháp. Cho đến thế giới sỡ dĩ có sự tranh chấp với nhau cũng
chẳng qua là vì danh lợi mà thôi. Xưa kia có
một vị Hoàng Đế hỏi Tể Tướng rằng: “Trong kinh thành, mỗi ngày ra
vào đại đễ có bao nhiêu người?” Tể Tướng tâu rằng: “Chỉ có hai loại
người, một là danh và một là lợi”. Vấn đề đây chúng ta thấy rõ
trong sự sinh hoạt hàng ngày, ai nấy đều hoàn toàn không thể ly khai
và cũng không thể tránh khỏi; trên đến bậc hiền đức, dưới đến
hạng ngu phu, không thời khắc nào mà chẳng
tranh chấp danh lợi.
Lại một tỷ dụ khác: Trường nọ có
một lớp dạy về Nghi Lễ, sau khi tốt nghiệp, Hiệu Trưởng cùng học
sinh thảo luận, ông hỏi một học sinh trong lớp: “Trò sau khi ra
trường, đến trong xã hội, cư xử với mọi người như thế nào?” Học sinh
khoái chí trả lời: “Con chuẩn bị một trăm cái mũ cao nhất”. Hiệu
Trưởng ngạc nhiên hỏi: “Trò làm sao có thể dùng hết được?” Học sinh
a dua trả lời: “ Thưa Hiệu Trưởng, trong xã hội
có bao nhiêu người thanh cao như Hiệu Trưởng của chúng con?” Hiệu Trưởng làm thinh. Khi học sinh này ra khỏi nhà
của Hiệu Trưởng liền tự lẩm bẩm một mình nói rằng: “Một trăm cái
mũ cao nhất, chỉ còn lại có chín mươi chín cái mũ mà thôi”. Đây chính là chấp cái Danh của “Ngã” và cũng là chấp cái
“Pháp”của Ngã. Một khi chấp trước đối với
cảnh liền bị mê và lại không có năng lực tự giác. Bất luận
kẻ học thức như thế nào, phú quý như thế nào, đạo đức cao thượng
như thế nào, chỉ cần đối diện với cảnh hiện tiền, liền bị nó xoay
chuyển và bị trầm luân mà không thể nổi lên được. Chỉ
có nương tựa nơi Phật Pháp để tu trì, mới có thể một ngày giải
thoát. Do đó chúng ta cần phải triệt đễ hiểu rõ hai bệnh chấp
ngã và chấp pháp, đồng thời quán chiếu chiều sâu để đạt thành hai
nguyên lý ngã không và pháp không:
1)- NGÃ KHÔNG:
Thông
thường quan niệm chấp nhận có thân tôi chính là “Ngã Chấp”, chúng ta luôn
luôn cho thân thể của mình là tôi; trên thật tế mà nói, thân thể
của chúng ta chỉ là do các nguyên tố tác dụng hợp thành, có chỗ
gọi là Tứ Đại (Địa Đại, Thủy Đại, Phong Đại, Hỏa Đại) giả hợp mà
thành. Địa Đại là thể đặc, là chỉ
cho da thịt, xương cốt..v..v....
Thủy Đại là chất lỏng, là chỉ cho máu huyết..v..v.... Phong Đại là thể hơi, là chỉ cho hô hấp..v..v.... Hỏa
Đại là nhiệt lực, là chỉ cho thể ấm. Cho nên thân thể con
người giống như một người tuyết dưới ánh sáng mặt trời, hòa tan mỗi
giờ (như thể lực suy yếu), hóa hơi mỗi phút (như khí lực tiêu hao), một khắc cũng không thể dừng lại. Sở dĩ nói hình
vóc con người ảo hóa không thật chính là do tứ đại giả hợp làm
thành thân thể. Có người cho rằng thân thể của chúng ta dĩ nhiên đã
là giả, là không; nhưng hệ thống tâm linh của chúng ta cần phải là
chân thật! Nguyên vì nó chính là chủ tể, là tư tưởng, cảm tình, ý
chí, nguyện vọng cho đến cá tánh..v..v.... của chúng ta. Đúng ra những vấn đề hệ thống
tâm lý nêu trên cũng đều là do nguyên nhân một thứ hoặc hai thứ
kích thích mà phát khởi, quyết không phải là tự thành và cũng là
các pháp do nhân duyên sanh. Như tư tưởng chẳng hạn,
các ông làm gì biết có tư tưởng ngày nay? Thế thì xin hỏi, vấn
đế gia đình, học đường, cho đến hoàn cảnh và giáo dục của xã hội
nơi quá khứ của các ông, đó là những điều kiện khiến cho sự hình
thành tư tưởng của các ông ngày nay phải không? Giả sử rút bỏ đi
những bối cảnh giáo dục này, các ông có thể xuất hiện một thứ tư
tưởng khác không?
Hơn nữa vấn đề cảm tình, vì nó mà con người khiến phải ngược xuôi
bôn ba tìm kiếm suốt đời nhưng rốt cuộc vẫn không thỏa mãn; quả
thật mà nói những thứ tình cảm đây khác nào: “Gió thổi mây trắng
bổng nhiên trở thành chó xanh, thiên biến vạn hóa kỳ lạ không có
thật”. Như giữa hai người cảm tình, đáng lẽ đối xử với nhau rất tốt
giống như tay chân, bổng nhiên vì lời nói hoặc
hành động không vừa lòng nhau, hai người lập tức trở thành sức mẻ
hẳn đi. Như vậy tâm của họ cuối cùng ở chỗ nào?
Ai nấy cũng đều không có phương pháp quyết định cả.
Từ đó hệ thống tâm lý cũng gọi là “Không”.
Do nơi thân và tâm cả hai đều không ở trên cho nên mới có danh xưng
là “Ngã Không”.
2)- PHÁP
KHÔNG:
Ngã
chấp đã rõ, lại phát sanh ra một thứ vọng niệm chấp ngoài tâm có:
hữu vi, vô vi cho là thật pháp. Như tôi thấy đóa hoa, đóa hoa mà tôi thấy tức là pháp.
Trên thực tế, đóa hoa là pháp do nhân duyên sanh, là không không
phải thật có. Đóa hoa mà tôi có thể thấy được, theo Duy Thức Học
nói phải có đầy đủ mười thứ nhân duyên: căn duyên, cảnh duyên,
không duyên, minh duyên, tác ý duyên, phân biệt y duyên, nhiễm tịnh y
duyên, căn bổn y duyên, chủng tử y duyên, đẳng vô gián duyên. Phần
dưới lại là trình bày rõ ý nghĩa mười duyên này:
1- Căn Duyên: đương dùng mắt thịt để thấy hoa, khi mắt
thịt bị hư hoại thì không thể thấy hoa, mắt thịt tức là Căn Nguyên.
2-
Cảnh Duyên: như tôi thấy hoa, có bản thân của đóa hoa tồn tại
mới có thể nhìn thấy, đóa hoa đây tức là Cảnh Duyên.
3- Không Duyên: khoảng cách của đóa hoa có nhất
định, rất gần và rất xa không thể nhìn thấy, khoảng cách không gian
đây thích hợp chính là Không Duyên.
4-
Minh Duyên: đóa hoa nếu như ở chỗ đen tối thì không thể nhìn thấy,
phải có đầy đủ ánh sáng thì mới có thể nhìn thấy, ánh sáng đầy đủ
đây chính là Minh Duyên.
5-
Tác Ý Duyên: khi chú ý đến hoa thì mới có thể thấy, khi không
chú ý đến hoa thì không có thể thấy được. Chú ý
đây chính là Tác Ý Duyên.
6- Phân
Biệt Y Duyên: đóa hoa rất diễm lệ, rất xinh đẹp, màu đỏ tươi,
màu đỏ thẫm đều là do tâm phân biệt mà khởi lên, mọi người thấy
hoa, mọi người ý niệm về hoa không giống nhau, đó gọi là Phân Biệt
Y Duyên.
7- Nhiễm
Tịnh Y Duyên: biết sự tốt đẹp của đóa hoa liền khởi tâm tham lam
yêu ghét là Nhiễm Tịnh Y Duyên.
8-
Căn Bản Y Duyên: đóa hoa sở dĩ có thể hiện bày là do bản chất
của Thức thứ tám phát khởi, nên gọi là Căn Bản Y Duyên.
9-
Chủng Tử Y Duyên: đóa hoa thì có hạt giống của nó, thứ hạt
giống này cũng không phải thứ hạt giống của thế tục quan niệm, thứ
hạt giống này là do trong “Thức thứ tám” phát khởi “Hiện Hành” để
hiện bày, nên gọi là Chủng Tử Y Duyên.
10-
Đẳng Vô Gián Duyên: niệm trước diệt thì niệm sau phát sanh, đó
là chỉ cho Thức Duyên liên tục không gián đoạn; cũng chính la Y Duyên
hướng dẫn trước diệt sau sanh, nên gọi là Đẳng Vô Gián Duyên.
Chẳng những mười duyên này nhất
định thiếu một không thể được, dù rằng mười duyên hơi có sai lệch,
chỗ thấy đóa hoa lại cũng hoàn toàn không giống nhau! Nơi trong mắt
tâm của người thường thấy hoa, nói chung chẳng
qua chỉ dùng con mắt thịt để xem hoa mà thôi, nhưng họ không biết rõ
trong đó có nhiều duyên như thế! Nhiều duyên đây tạo
ra mộng cũng không thể tưởng đến được. Nay chỉ cần sử dụng hai
thứ duyên căn và cảnh để bàn! Vấn đề này cũng
không phải chỗ người thông thường có thể nhận thức rõ ràng, trên
thực tế vẫn còn rất phức tạp. Trong đây trước hết dùng một
phương pháp thực nghiệm để chứng minh hai duyên căn và cảnh, chỗ hình
thành ngàn sai muôn khác trong thế gian, đều không phải chân tướng
của sự vật hiện tiền; như hình vẻ (1) biểu hiện, một bánh xe có sơn
màu đen trắng xen kẻ gắng vào một trong hai đầu động cơ và tiếp theo
xem động cơ chuyển động. Khi động cơ chuyển động, ngay lúc đó hai màu
đen trắng không thể nào thấy được; nếu như dùng một đôi âm thoa
(dụng cụ âm thanh) trên hai âm thoa gắng hai miếng sắt, giữa hai
miếng sắt có một kẽ hở, đồng thời hai âm thoa chấn động, nếu khi
số chấn động của âm thoa cùng với động cơ đồng bộ quay nhanh, ngay
lúc đó mắt thịt nhơn kẻ hở nhìn vào sẽ thấy hai màu đen trắng lại
hiện rõ phi thường, hiện rõ giống nhau như khi động cơ chưa chuyển
động. Đây chính là chứng minh tình trạng sai khác của hai duyên căn và
cảnh, chỗ thấy được của hai duyên căn và cảnh lại có ngàn sai muôn
khác mà tất cả thấy được đều không phải tướng chân thật. Tiện đây
có thể so sánh rằng: sự chấn động của âm thoa là đại diện cho sự
nhịp đập nơi các tế bào con mắt của căn duyên, còn sự quay chuyển
của động cơ chính là biểu tượng sự cải biến không ngừng ở nơi đóa
hoa của cảnh duyên. Tại sao thế? Trước hết nói
đến con mắt biến hóa giống như âm thoa, dẫn một sự thật để chứng
minh: “Bác Sĩ Đại Học Hải Sĩ Mỹ Quốc Chi Gia Ca phát hiện: một người
xem họa đồ đến khi họ không còn thích xem nữa thì con ngươi của họ thu
hẹp lại; còn con người khi thích xem họa đồ thì con ngươi của họ lại
mở to ra. Hơn nữa con ngươi của nhân loại khi mở to và thâu hẹp như thế
nào một cá nhân không thể hoặc không muốn dùng ngôn ngữ để bày
tỏ cảm tình biểu lộ ra ngoài.” Do đó có thể biết, tâm lý tinh thần
ảnh hưởng đến con ngươi mở to hoặc thu hẹp; sự mở to hoặc thu hẹp
của con ngươi là biểu tượng số chấn của âm thoa, cố nhiên ảnh hưởng
đến chỗ thấy sự vật của con ngươi bị biến động không ngừng. Thứ đến nói về đóa hoa, hình dáng của nó giống như động
cơ xoay chuyển không dừng nghỉ. Theo nhà khoa học giải thích:
“Tất cả đều là ba động, chúng ta sống ở trong thế giới ba động
này.” Trên thực tế
đóa hoa là do điện tử ba động hợp lại kết thành nguyên
tử ba động, rồi nguyên tử ba động tái hợp lần nữa để kết thành
phân tử ba động và phân tử ba động chính là chỗ sát na sát na cải
biến; ở trong thời gian trước và sau, đóa hoa vẫn hoàn toàn không
phải là chân diện mục có từ nguyên thể. Chỉ dùng hai duyên căn và
cảnh này trình bày cũng đã chứng thật được giá trị của pháp không,
như: thường ngày người say rượu thì thấy đất động, người bị bệnh có
thể thấy ma quỹ, cho đến Y Học chiếu quang tuyến X để xem thân người
và lúc đó ai cũng đều thấy được giá trị của nó mà ở trên đã lý
giải. Nhân đây mỗi một sự vật muốn tìm kiếm bản lai chân diện mục
của nó cũng không thể đạt được; đã không có thể đạt được bản tánh chân thật của
nó cho nên nói là “Không Tánh”. Đóa hoa là một pháp
trong tất cả pháp, một pháp đã là không thì tất nhiên tất cả pháp
cũng đều “Không”, nên gọi là “Pháp Không”.
Phần trước đã tách
riêng hai chấp ngã và pháp để thuyết minh tánh không. Nhưng hai thứ chấp này thì rất ăn khớp với nhau; đương lúc
nói đến ngã liền bàn đến pháp, khi bàn đến pháp thì lại nói đến
ngã. Cho nên hai thứ chấp này nếu phân tách
thì không thể rời nhau, còn nếu như hợp nhau lại thì cũng không thể
hòa. Nói chung trên sự thật, hiểu được
khoảng cách của hai chấp, khoảng cách này lại có một đoạn rất dài;
nên nghĩ rằng nếu hợp nhau lại thật là không phải dễ. Hợp nhau lại để làm gì? Nguyên do khi
tôi thấy đóa hoa, cái ngã (ngã chấp) của năng thấy quan hệ là do
tâm phát khởi; đóa hoa (pháp chấp) của chỗ thấy là cảnh giới ở
ngoài tâm, một trong một ngoài không phải là có một đoạn khoảng
cách sao? Giả như hôm nay bàn đến cần tiêu trừ
đoạn khoảng cách này, tất nhiên phải phân biệt ý nghĩa bao gồm các
chữ sau đây.
· “Kiến” là ánh sáng của ngoại giới kích thích con mắt, trải qua bộ
máy não, từ tánh giác mà phát sanh một thứ tác dụng cảm giác nhìn
thấy.
· “Niệm” là do trí nhớ đối với cảnh nhớ mãi không quên và giữ
gìn cảnh không mất gọi là niệm.
· “Quán” là quán sát vọng niệm lên xuống gọi là quán.
· “Giác” là một thứ bản năng chân thật của con người đã có,
nó không đến không đi, không sanh không diệt.
Chúng ta phân biệt biết rõ bốn chữ
này thì có thể dụng công ra tay; ánh sáng trên
con mắt bị đóng lại thì đóa hoa đây tức khắc tợ hồ như ở trong tợ
hồ như ở ngoài, hoảng hoảng hốt hốt, mò mẫm không nhất định. Giả
sử bình thường lời nói có chỗ quyết định như: do “tôi nhìn thấy đóa
hoa” trở thành là “tôi quán hoa”; trong nháy mắt đóa hoa ngoại cảnh
lại bị diệt trừ, chỉ còn có quán đóa hoa của ý niệm ban đầu phát
khởi trong tâm của tôi, nghĩa là chỉ còn lại hai vấn đề “Quán” và
“Niệm” mà thôi. Từ đó không gian khoảng cách của hai
chấp ngã (tôi quán) và pháp (đóa hoa ý niệm) đây tức khắc cũng
hoàn toàn bị tiêu mất, nguyên vì cả hai đều là do tâm niệm mà phát
khởi. Nhưng căn cứ nơi thời gian để nói, hai
vấn đề chấp ngã (tôi quán) và chấp pháp (đóa hoa ý niệm) vẫn y như
cũ nghĩa là (tôi quán) có trước và (đóa hoa ý niệm) có sau. Cái gì là nguyên nhân? Trước hết xin xem sự phân
tích dưới đây: Nếu như đem vấn đề “Quán” đang tác dụng mà nói, nó
phát khởi từ nơi bản tánh, nó cũng chính là “Giác”và “Giác” cũng
là bản tánh, cũng là cái gì mà trước kia cả đông lẫn tây đều chưa
sanh khởi, nó hoàn toàn thanh tịnh, lại có thể dùng một thứ đường
thẳng để hình dung nó như hình vẻ (2)
biểu hiện, đúng
như những lời của đức Phật đã dạy: “Chân tâm là đạo tràng”. Tâm
nếu như đã khởi động niệm thì chân tâm chắc chắn không an trụ, tâm lúc đó trở nên xiêu xẹo, biến thành
làn sóng hình tướng không ngay ngắn giống như hình vẻ (3). Thứ ác niệm này một khi phát khởi, nếu như người có hơi
chút tu trì thì lập tức giác ngộ được ngay. Đúng như lời của
Đại Thừa Khở Tín Luận nói: “Vì giác ngộ biết được niệm trước khởi
ác, có thể đình chỉ niệm sau khiến nó không cho phát khởi. Trường hợp đó mặc dù gọi là giác nhưng thật ra chính là
bất giác.” Đây là quan niệm của phàm phu chúng ta, đương lúc
niệm trước phát khởi ác, niệm sau lại khiến nó không cho khởi, như
thế một cái (niệm) tiếp theo một cái (niệm)
thì không thể cho là “Giác”. Giả như đem hai hình vẻ
phía trước hợp nhau lại liền thấy hiện tượng bất giác xuất hiện, như
hình vẻ (4) biểu hiện, nghĩa là trước thuộc bất giác sau thuộc giác
cái bất giác. Một trước một sau đây chính là
nhân tố tồn tại của thời gian. Nếu như bảo
rằng cho thời gian một trước một sau cũng tiêu trừ luôn là chỉ thấy
được ở nơi công phu tu trì của chúng ta. Có khả năng nơi niệm
trước khởi ác, niệm sau đình chỉ không cho tái khởi, như thế một cái theo chân một cái ở nơi người thường thì cho là
đúng, nhưng ở nơi Phật Pháp mà nói, đó là bất giác. Theo Phật Pháp phải như thế nào mới cho là giác? Muốn được gọi là giác, tất nhiên đòi hỏi thêm một lớp
hạ thủ công phu càng sâu hơn nữa. Nên biết rằng khi hạ thủ
công phu, đầu tiên cần phải hiểu rõ phương pháp phân định đối với
niệm khởi và niệm diệt trong Phật Pháp: “Một niệm có chín mươi sát na, một sát na có chín trăm của bốn tướng sanh, trụ,
dị, diệt.” Ý nghĩa của bốn tướng
được giải thích theo đây: như thân thể của sanh mạng con người gồm có
bốn tướng là sanh, già, bệnh, chết; còn vật chất lại có bốn giai
đoạn là thành, trụ, hoại, không; cho nên tinh thần cũng có biến đổi
theo bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt nói trên. Đây là
người thường không dễ gì biết rõ. Căn cứ nơi sau khi phân định
được niệm khởi niệm diệt này, dùng hình vẻ (3) để biểu tượng làn
sóng
niệm ác không ngay
ngắn đang xuất hiện suy tưởng “sanh, trụ, dị, diệt”. Nơi
hình vẻ bốn tướng của niệm, dùng một làn sóng răng cưa đơn thuần để
thay thế bốn tướng cơ bản thay đổi của niệm ác. Như phân nửa phía trên phần (A) của hình vẻ (5) biểu hiện.
Nhơn đây
chúng ta có thể khái niệm tổng quát: Thời gian của niệm từ khi sanh
cho đến khi diệt so sánh giống như thời gian nguồn tia
điện tử bắn đến màn ảnh của máy truyền hình. Chúng ta hoàn toàn
biết rõ thời gian sanh diệt của niệm ban đầu là nhanh như thế, ngay
khi khởi một niệm ác lập tức quán chiếu nó, nhưng nó đã đến quá
sớm dù cho quán chiếu cũng không kịp. Nếu có thể
được là từ nơi chỗ hiện tượng không gián đoạn này, chúng ta càng
nổ lực dụng công hơn nữa, nẻo trước không phải là quán thường lạc
mà suốt ngày phải thường ở trong quán chiếu khiến cho được thành
tựu “Quán Hạnh Giác”. Như phần (A) của hình vẻ
(5) biểu hiện. Quán Hạnh Tức Phật Tụng giải thích rằng: “ Mỗi niệm mỗi niệm quán chiếu lý vô thường, mỗi
tâm niệm mỗi tâm niệm dứt hẳn huyễn trần; quán khắp các pháp tánh
không giả cũng không chân”. Đây
cũng chính là nói đem tâm niệm quán chiếu đạt được cơ sở thanh tịnh
thì các huyễn trần riêng biệt hoàn toàn tiêu diệt, các pháp Không
và Giả đây cũng không chân thật, tất cả đều là do chỗ tâm niệm
hiện ra. Lúc bấy giờ công phu của chúng ta có thể nói đã đi sâu
được một lớp, ngay khi đó cũng có thể tri giác được tướng “Dị”
(khác) của niệm, khi ấy đã xả bỏ hẳn sự phân biệt phần thô mà
không có tướng chấp trước nữa nên gọi là “Tương Tợ Giác”. Như phần (B) của hình vẽ (5) biểu hiện. Lúc này “Giác” cùng với “Niệm” thời gian cách nhau và
cũng rút ngắn lại không ít. Giả sử chúng ta dùng thời gian
hiện đại để hình dung hai thời gian cách biệt nhau đó, không khác nào
thời gian của pha lê có quang tuyến xuyên xuyên
qua. Công phu đến chỗ này tường vách đều nhìn thấy
rõ như thường; như trong quyển “Hư Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ” đã
trình bày, tường vách tuy ngăn cách có thể nhìn thấy được các thứ
động tác của con người. Lý này cũng có thể
sử dụng tình hình âm thoa và động cơ mà xuy luận để biết được nó.
Chẳng qua Phật Pháp đều không chú trọng thứ thần
thông này, chủ yếu là giải thoát sự thống khổ về mê chấp của
nhân sanh. Nhờ ở trong công phu của tu trì, tuy không đoán được
chỗ đi đến, nhưng công phu cũng có thể giúp tri giác được tướng
“Trụ” của niệm. Đây là nhờ ly khai hẳn vọng tướng phân biệt và tùy
theo chỗ chứng đắc sâu cạn không giống nhau
của mỗi người, cho nên được gọi là “Tùy Phần Giác”. Như phần (C)
của hình vẽ (5) biểu hiện, lúc này “Giác” cùng với “Niệm” hai thời
gian đó cách biệt nhau, cũng như thời gian của quang tuyến xuyên suốt
chỗ nhu cầu của hạt nhân nguyên tử. Lúc bấy giờ
cảnh giới cũng không phải là chỗ phàm phu chúng ta có thể tưởng
tượng vói tới. Bất quá ở đây đầu sào trăm thước lại gia
công nổ lực thì mới có thể suy cứu đến được “Cái ngã của năng
không” cùng với “Cái pháp của sở không”; cũng tức là “Giác” cùng
với “Niệm” hòa hợp lại vào một. Như Khởi Tín Luận giải thích rằng:
“Như Bồ Tát Địa Tận, đầy đủ phương tiện, một niệm tương ứng, giác
tâm bắt đầu khởi, tâm không có tướng ban đầu. Do xa lìa được niệm vi
tế, thấy đặng tâm tánh, tâm liền thường trụ, gọi là Cứu Cánh
Giác.” Khi đã đến cảnh giới này thường được viên
mãn. Cho nên hai chấp ngã và pháp ở nơi không
gian nó đã chẳng còn tồn tại, ở nơi thời gian nó cũng không phân chia
trước sau. Niệm cùng với giác chính là một
khoản trực tuyến, như phần (D) của hình vẽ (5) biểu hiện. Đồng thời vắng lặng mà thường chiếu, chiếu mà thường
vắng lặng, không trước không sau, không bờ mé, khâông chỗ tựa.
Niệm tức là giác, giác tức là niệm; ngã tức là
pháp, pháp tức là ngã; nhân duyên tức là không tánh, nhân duyên
chẳng lìa không tánh, cho nên gọi là “Nhân Duyên Không Tánh.”
(Bảng
chánh đăng trong Nguyệt San Giác Thế thứ 437 và 438 năm Dân Quốc 58)