SỰ HIỂU LẦM VÔ NGÃ CỦA PHẬT GIÁO

-----------------------------------------------------------  

I.- VÀO ĐỀ:

      Vấn đề Vô Ngã của Phật Giáo có sự hiểu

lầm rất lớn. Một số người tin tưởng thuyết

Àtman (linh hồn) của Bà La Môn Giáo và thuyết

Pudgala (tự ngã) của Độc Tử Bộ (Vatsiputriya) mà

cho rằng con người phải có một Tự Ngã (Linh

Hồn) thật thể tồn tại bất biến, nghĩa là Tự Ngã

đây phải là hình tướng con người và Tự Ngã đó

sau khi xả bỏ thân mạng luân hồi đến đâu như

lên các cõi Trời để hưởng phước báo  cũng

vẫn là hình tướng con người, nếu đọa xuống Địa

Ngục chịu quả khổ cũng vẫn là hình tướng con

người. Tự Ngã theo họ không có hình tướng nào

khác thay thế ngoài hình tướng con người. Sự hiểu

lầm này được thấy như sau:

      Theo quan niệm của Bà La Môn trong mỗi con

người có một Àtman (linh hồn) thuộc về Tự Ngã

thật thể tồn tại bất diệt, Tự Ngã làm chủ trung

tâm, có năng lực chi phối tất cả và sau khi lìa

thể xác thì trở về quy thuộc Brahman (Đại Ngã)

của vũ trụ. Quan niệm đây được thấy trong các tư

tưởng triết học Ấn Độ ghi lại, điển hình như trong

1

quyển Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hoà

Thượng Thích Thanh Kiểm, trang 22  có ghi:

      “Àtman thuộc về phương diện tâm lý thì linh

hồn bất diệt, nghĩa là Àtman khi lìa thể xác thì

linh hồn được quy thuộc về Brahman.”

      Điều đáng quan tâm hơn, ý nghĩa và giá trị

về Àtman đã được triết học gia Upanishad giải

thích rõ ràng trong quyển Lịch Sử Văn Minh Ấn

Độ của tác giả Wille Durant qua sự Việt dịch của

Nguyễn Hiến Lê, trang 77 trình bày:

      “Người ta nhận bản thể cái “Ngã” của ta

không phải là thể chất, không phải là tinh thần,

cũng không phải là cái ngã cá nhân, nhưng là

cái gì sâu thăm thẳm, vô hình vô thanh ở trong

nội tâm ta, cái đó là Àtman.”

      Sự khác biệt giữa Àtman và Brahman cũng

được triết học gia Upanishad phân loại khác nhau

và đã giải thích trong quyển Văn Minh Ấn Độ

cùng một tác giả nói trên, trang 79 cho rằng:

Àtman là bản thể của con người, và Brahman là

bản thể của  thế giới.

      Ngoài ra nên chú ý thêm, danh xưng Brahman

khác với danh xưng Brahma, danh xưng Brahman (Đại

Ngã) là chỉ cho linh hồn của vũ trụ; còn danh

xưng Brahma là chỉ cho Phạm Thiên, một trong ba

2

vị Thần tối cao của Ấn Độ (Brahma, Vichnou,

Shiva). 

       Chẳng những thế theo quan niệm của Độc

Tử Bộ cho rằng: Nếu không có Pudgala (Tự Ngã)

thật thể tồn tại thì ai chủ trì tư duy, tình cảm, nhận

lấy nhân quả luân hồi thiện ác..v..v....... Sự nghi

vấn này được thấy trong quyển Vô Ngã và Luân

Hồi của tác giả Hoàn Tuấn Oai, Thượng Toạ

Thích Hạnh Bình Việt dịch, trang 43 ghi rằng:

      “Vì giả như phủ định tự ngã làm “Chủ Thể”

cho sanh mạng, thế thì giải thích như thế nào các

vấn đề của nhân loại như: Trí nhớ, liên tưởng,

tình cảm, tập quán, nhân cách và sự luân hồi?”

       Cụ thể hơn nữa sự hiểu lầm này được thể

hiện rõ nét qua quyển sách “Vô Ngã và Luân

Hồi” của tác giả Hoàng Tuấn Oai qua dịch giả

Thích Hạnh Bình mà hai vị dường như cố ý đưa nghi

vấn mình lên trong một đoạn văn cô động và đã

được in ở phía sau bìa quyển sách . Đoạn văn nghi

vấn đó như sau:

      “Nếu từ Anàtman (Pàli: anattà) dịch là “Vô

Ngã”, không có tự ngã, phải chăng điều đó

đồng nghĩa người tạo nhân và kẻ thọ quả

không phải là một? Thế thì Phật giáo giải thích

như thế nào về thuyết nhân quả luân hồi?”

3

       Sự hiểu lầm nói trên nếu như không giải toả

thì trở ngại rất lớn cho thuyết nhân quả, luân hồi

đối với tư tưởng Vô Ngã Luận của Phật Giáo

chủ trương và còn khiến niềm tin đối với một

chủ thuyết, một tín ngưỡng của một tôn giáo dễ

bị lung lạc, nghĩa là tin tưởng thuyết Tự Ngã tồn

tại bất diệt thì thuyết nhân quả và luân hồi của

Phật Giáo không còn giá trị. Tại sao thế?

II.- VẤN ĐỀ VÔ NGÃ:

      Vấn đề Vô Ngã là một trong những tư tưởng

căn bản của Phật Giáo chủ trương, tất cả kinh

điển Phật Giáo từ nguyên thủy, tiểu thừa cho

đến đại thừa đều giải thích sâu rộng tư tưởng

Vô Ngã một cách cụ thể tinh tường thấu triệt

và tư tưởng này phần lớn người học Phật, nhất

là người tu sĩ là giới lãnh đạo tinh thần của một

tôn giáo, ai cũng đều thông suốt qua; tất cả

hữu tình khác cũng đều giống như thế. Vấn đề

tư tưởng Vô Ngã được thấy trong Tam Pháp Ấn

mà chính đức Phật giảng giải đầu tiên đã được

ghi rõ trong Kinh A Hàm là “Chư Pháp Vô Ngã”

(Tam Pháp Ấn gồm có: Chư Hành Vô Thường,

Chư Pháp Vô Ngã, Hữu Lậu Giai Khổ). Vô Ngã

Ấn trong Tam Pháp Ấn được chia làm hai phần:

Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã. Nhân Vô

Ngã, nhân là con người, theo như đức Phật giảng

4

dạy con người đều do Ngũ Uẩn giả hợp tạo

thành; nếu như tách rời Ngũ Uẩn riêng rẻ từng

phần một thì không tìm thấy được Tự Ngã của

con ngườiõ.  Về sau Phật Giáo phát triển lại chủ

trương thuyết Nhân Không Pháp Hữu nghĩa là

nhân vô ngã mà pháp thì lại hữu ngã. Theo Hữu

Bộ:

      “Sở dĩ Ngã Chấp tồn tại là do nương vào các

pháp của Sắc và Tâm, muốn phá ngã chấp

phải tu pháp quán tưởng, phân tích các pháp

của sắc tâm, giác ngộ được tất cả pháp đều

do nhân duyên hoà hợp, sát na sanh diệt, biến

hoá vô thường, đều là vô ngã. Còn Pháp

Hữu, nghĩa là Thể Tánh của các pháp không

có sanh diệt, vẫn tồn tại trong ba đời, cũng như

làn sóng thì có sanh diệt biến hoá, nhưng thể

tánh của nước thì hằng hữu, không thay đổi.”

      Thuyết này được thấy trong Thuyết Nhất Thiết

Hữu Bộ gọi là “Ngã Không Pháp Hữu” (Lược

Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hoà Thượng Thích

Thanh Kiểm, trang 110).

      Tiến xa hơn nữa Phật Giáo Đại Thừa chủ

trương “Ngã Pháp Câu Không Luận”, nghĩa là

luận về Ngã Không và Pháp Không. Theo Đại

Thừa Bát Nhã, Ngã đã là không vì chúng do

ngũ uẩn hợp thành và pháp cũng là không vì

5

chúng do nhân duyên kết hợp. Ở đây Tư tưởng

Vô Ngã không cần phải khai thác chi tiết sâu

rộâng thêm dư thừa mà nó không phải chủ đích

chính của vấn đề bàn đến với đề tài là “Sự

Hiểu Lầm Vô Ngã Của Phật Giáo”.

III.- NHẬN THỨC THUYẾT TỰ NGÃ:

     Trước khi lý giải thuyết Tự Ngã, chúng ta hãy

cần duyệt qua thuyết nhân quả và luân hồi của

Phật Giáo chủ trương để so sánh giá trị tương

phản của thuyết Tự Ngã tồn tại bất diệt mà

một số người đã hiểu lầm thuyết Vô Ngã của

Phật Giáo.

      a, Thuyết Nhân Quả Luân Hồi:

      Nhân quả và luân hồi là hai học thuyết căn

bản của Phật Giáo thuyết minh nhằm phủ nhận

thuyết Thiên Mệnh của ngoại đạo, bao nhiêu tư

tưởng của Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên

Thủy cho đến Phật Giáo Đại Thừa tất cả đều

xây dựng và phát huy trên nền tản thuyết nhân

quả và luân hồi làm nòng cốt. Ba Tạng Kinh

Luận của Phật Giáo mặc dù đã khai triển nhiều

hình thức đưới mọi khía cạnh nhưng tư tưởng cũng

không ra ngoài nền tảng nhân quả và luân hồi

làm chủ đích. Những tư tưởng nào nếu như xây

dựng ra ngoài hai chủ thuyết này đều thuộc về

6

học thuyết của ngoại đạo và chúng  hoàn toàn

không phải chủ trương của Phật Giáo. Hiện nay

thuyết nhân quả và luân hồi của Phật Giáo đã

ăn sâu lâu đời vào tâm hồn người dân Việt

Nam trở thành văn hoá nhân gian mà ai cũng

đều biết và cũng đều thấm nhuần vào trong

huyết quản trở thành nếp sống dân gian muôn

đời bất diệt. Thuyết nhân quả và luân hồi theo

Phật Học Phổ Thông Khoá II của Hoà Thượng

Thích Thiện Hoa, trang 63 có ghi:

      “Luân Hồi theo luật Nhân Quả qua sáu cõi:”

       “1.-Tạo nhân sân hận độc ác......phải luân

hồi vào địa ngục....”

       “2.- Tạo nhân tham lam, bỏn sẻn……...... mưu

sâu kế độc cướp đoạt của người...... phải luân

hồi làm ngạ quỷ.”

       “3.- Tạo nhân si mê, sa đoạ thất tình, lục dục,

tửu sắc, tài khí, không xét hay dỡ, tốt xấu, chết

rồi, luân hồi làm súc sanh.”

      “4.- Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc

sái quay cũng không tránh, vừa cang trực, mà

cũng vừa độc ác.........tánh tình hung hăng, nóng

nãy...... tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân

như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A Tu La.”

7

      “5.- Tu nhân ngũ giới.......... thì đời sau trở lại

làm người, cao quý hơn muôn vật.”

      “6.- Bỏ mười điều ác tu chơn thập thiện.........

thì sau khi chết, được sanh lên cọi Trời. Nhưng nên

nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng phàm

tục, chịu cảnh sanh tử, luân hồi.” Xin xem lại Phật

Học Phổ Thông Khoá II sẽ rõ. Ở đây chúng ta

chỉ chú ý:

      Đứng trên lãnh vực con người làm trung tâm

nhận thức, giả sử Tự Ngã con người tồn tại bất

diệt thì con người đó khi còn sanh tiền đã gây

tạo những nhân tội ác như giết hại sanh mạng

thú vật, sau khi xả bỏ thân mạng vẫn giữ hình

tướng con người không đọa vào thân tướng của

một súc sanh có nhiều chân để trả quả. Nếu

quả đúng như thế thì thuyết nhân quả và luân

hồi không còn giá trị đối với họ. Có thể khẳng

định rằng, chúng ta chấp nhận thuyết nhân quả

luân hồi là chân thật bất biến thì không thể

chấp nhận thuyết Tự Ngã con người là tồn tại

bất diệt.

      b, Giá Trị Thuyết Vô Ngã:

1-  Giá Trị Vô Ngã Xuyên Qua Ngũ Uẩn:

      Như trước đã bàn qua, Ngũ Uẩn là năm yếu

tố căn bản mang tánh chất ô nhiễm cùng nhau

8

kết hợp tạo thành sanh mạng chẳng những con

người và cả sanh mạng các chúng sanh hữu tình;

con người và các chúng sanh hữu tình không thể

thiếu mặt năm yếu tố đây để được góp mặt

trong thế gian. Ngũ Uẩn gồm có: sắc uẩn, thọ

uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, chúng

ta hãy quán chiếu để nhận thức được giá trị vô

ngã của Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn theo Bát Nhã Tâm

Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức, cùng một tác

giả, trang 46, giải thích:

      “1, Sắc Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về

sắc chất........Sắc Uẩn thuộc loại sắc chất và

bao gồm cả Đất, Nước, Gió, Lửa.Nhân sắc chất

tức là chỉ cho năng lực của đất, nước, gió,

lửa.........sống riêng biệt với nhau; quả sắc chất

là chỉ cho đất, nước, gió, lửa kết hợp lẫn nhau

để làm nguyên liệu cho việc kiến tạo thân thể

của vạn pháp.......”

      Đúng thế nói đến Sắc Uẩn là một sắc

chất hiện hữu trong đó  bao hàm bốn năng lượng

nguyên chất cùng nhau hợp tác kết thành; bốn

năng lượng nguyên chất gồm có: đất, nước, gió,

lửa gọi chung là tứ đại. Một mình năng lượng đất

tự nó không thể thành Sắc Uẩn, nếu như không

có năng lượng nước, năng lượng gió, năng lượng

lửa đóng góp; nước, gió và lửa cũng thế, nghĩa

9

là riêng tự một năng luợng không thể tác dụng

độc lập để sanh khởi. Thí dụ một tờ giấy trắng

là một sắc chất, trong đó gồm có bốn năng

lượng đất, nước, gió và lửa góp mặt. Chúng ta

đem tờ giấy trắng đây đi đốt cháy thì lúc đó

năng lượng nước (H2O) trong tờ giấy liền bay đi

chỉ còn lại thuần tuý chất đất độc lập đó chính

là chất than (Carbon) đã chết để trở thành tro

bụi; tiếp đến chúng ta giả sử đem tờ giấy này

cọ sát với nhau thì lập tức năng lượng lửa trong

tờ giấy xuất hiện ngay; hơn nữa tờ giấy trắng

nói trên nhờ năng lượng gió chuyển hoá được ba

năng lượng đất, nước và lửa hoà họp cùng nhau

hình thành một tờ giấy để sử dụng. Đây là

hiện tượng mà các nhà khoa học đã thí nghiệm

được. 

       Hãy quán chiếu sâu thêm nữa để nhận

thức giá trị vô ngã của đất, nước, gió, lửa,

Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I, về đề mục

Tứ Đại, cùng một tác giả, trang 169 giải thích như

sau:

      “a/- Đất là năng lực hiện có mặt và tồn tại

trong phạm trù nguồn năng lượng Địa Đại ở trạng

thái vô tướng nhằm duy trì tánh chất rắn chắc

của đất không bị biến hoại để ngăn ngại vạn

vật.”

10

      “b/- Nước là năng lực hiện có mặt và tồn tại

trong phạm trù nguồn năng lượng Thủy Đại ở

trạng thái vô tướng nhằm duy trì tánh chất ướt

của nước không bị biến hoại để dung hoá và

tươi nhuận vạn vật.”

      “c/- Gió là năng lực hiện có mặt và tồn tại

trong phạm trù nguồn năng lượng Phong Đại ở

trạng thái vô tướng nhằm duy trì tánh chất phiêu

động của gió không bị biến hoại để chuyển

hoá vạn vật.”

      “d/- Lửa là năng lực hiện có mặt và tồn tại

trong phạm trù nguồn năng lượng Hoả Đại ở

trạng thái vô tướng nhằm duy trì tánh chất viêm

nhiệt của lửa không bị biến hoại để dưỡng sinh

vạn vật.”

       Bao nhiêu dữ kiện trên cũng nói lên được

rằng Sắc Uẩn chính là do đất, nước, gió, lửa

cùng nhau hợp thành và nó hoàn toàn không

có Tự Ngã tồn tại bất diệt, cho nên xác định

rằng Sắc Uẩn là vô ngã.

      “2, Thọ Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về

cảm thọ. Danh từ cảm thọ dùng để chỉ cho sự

hành động của một nguyên nhân, như cảm thọ

về phương diện khổ, cảm thọ về phương diện vui

và cảm thọ về phương diện không khổ không vui.

11

Còn nguyên nhân tác dụng để cảm thọ, chính là

Ý Thức thứ sáu, một yếu tố trong ngũ

uẩn..............Trường hợp người bị chụp thuốc

mê........không cho Ý Thức sanh hoạt, cho nên họ

không có cảm thọ không có cảm thọ khổ vui như

thế nào.”

      Hơn nữa theo Duy Thức Học, Ý Thức thứ sáu

chỉ là thành phần năng lượng tác dụng sinh hoạt

nhận thức với danh nghĩa là Kiến Phần mà chính

nó không phải bản ngã thật sự và nó khi sinh

hoạt cũng phải quan hệ với Kiến Phần năng

lượng của năm Tâm Thức trước (Nhãn Thức, Nhĩ

Thức, Thiệt Thức và Thân Thức) để có nhận

thức, bằng ngược lại năm Tâm Thức trước nếu

không hổ trợ thì lúc đó Ý Thức thứ sáu hoàn

toàn không có nhận thức. Qua nhũng dữ kiện

vừa trình bày có thể xác định rằng Thọ Uẩn là

vô ngã.

      “3, Tưởng Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về

ý tưởng. Ý Tưởng là tư tưởng của Tâm Ý và

Tâm Ý ở đây tức là chỉ cho Tâm Thức Mạt Na

(Manas) thứ bảy. Chữ Mạt Na nghĩa là Ý. Nói

cách khác Tâm Thức Mạt na thứ bảy là yếu tố

ô nhiễm về tư tưởng, nên gọi là Ý Tưởng. Ý

Tưởng thì luôn luôn sinh hoạt những sự việc

không có đối tượng, còn Ý Thức thứ sáu thì

12

hiểu biết những sự việc cần có đối tượng. Ví dụ

như những người chưa biết nước Mỹ thì tưởng

tượng (ý tưởng) cho rằng người dân nước Mỹ rất

sung sướng. Nhưng họ một khi được sống trong

nước Mỹ thì ý tưởng xưa kia của họ trở nên sai

lầm. Nguyên do họ đã ý thức được sự thật về

nước Mỹ.”

      Tâm Thức Mạt Na thứ bảy chỉ là thành

phần năng lượng tác dụng tưởng tượng để chấp

trước và tự nó không phải bản ngã thật sự vì

thế có thể xác định rằng Tưởng Uẩn là vô

ngã.

      “4, Hành Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về

hành động tạo tác. Nghiệp Lực chính là yếu tố

hành động tạo tác về ô nhiễm, cho nên Nghiệp

được dịch là hành động tạo tác..........như Nghiệp

Sân Hận không có hình tướng và chỉ biết nó

qua cử chỉ của con người. Con người hành động

hoặc nói năng theo sự thúc đẩy và lôi cuốn

của nghiệp sân hận. Hành Uẩn đây là danh từ

chỉ cho nghiệp lực.”

      Với ý nghĩa trên, Hành Uẩn chính là Nghiệp

Lực, tự nó chỉ có năng lực để thúc đẩy hành

động nói năng gây nghiệp mà không có hình

tướng bản ngã thật sự cho nên cũng xác định

rằng Hành Uẩn là vô ngã.

13

      “5, Thức Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về

sự hiểu biết.......Danh từ Thức Uẩn chính thực là

chỉ cho Tâm Thức A Lại Da thứ tám. Tâm Thức A

Lại Da thứ tám mới đúng nghĩa thuộc loại tâm

thức hiểu biết, vì tâm thức này có khả năng

xây dựng hệ thống bộ máy vô cùng phức tạp

và tinh vi trong cơ thể của tất cả chúng sanh.

Điều đó chứng tỏ trình độ hiểu biết của Tâm

Thức A Lại Da thứ tám thật vô cùng siêu đẳng

và ngoài Tâm Thức đây ra không còn ai có khả

năng hơn trong việc kiến tạo hệ thống bộ máy

vạn pháp.”

      Tâm Thức A Lại Da thứ tám trong con người

phải chăng có bản ngã thật sự hay là vô ngã?

      Theo Duy Thức Học Tự Ngã của con người tức

là Kiến Phần của Thức Thể A Lại Da thứ tám

mang tên là Thức Dị Thục thuộc loại tâm thức

tác dụng biến hoá không ngừng. Kiến Phần

Thức A Lại Da khi tác dụng chun vào nghiệp tướng

con người liền biến thành Ngã Tướng của con

người trong loài người, chun vào nghiệp tướng

súc sanh liền biến thành Ngã Tướng của súc

sanh trong cõi bàng sanh, chun vào nghiệp tướng

địa ngục liền biến thành Ngã Tướng của chúng

sanh trong cõi địa ngục, chun vào nghiệp tướng

ngạ quỷ liền biến thành Ngã Tướng của ngạ

14

quỷ trong loài ngạ quỷ..v..v..... Trường hợp này

cũng tương tợ như năng lượng điện nơi trung tâm

biến điện của thành phố, năng lượng điện phân

phối dòng điện chạy vào bóng đèn liền biến

thành điện của bóng đèn có bổn phận chiếu

soi ánh sáng, dòng điện chạy vào quạt máy liền

biến thành điện của quạt máy có bổn phận

điều khiển quạt máy tác dụng quạt gió, dòng

điện chạy vào máy chiếu hình liền biến thành

điện chiếu hình có bổn phận đem hình ảnh trong

DVD chiếu trên màn ảnh, dòng điện chạy vào

máy phát thanh liền biến thành điện phát thanh

có bổn phận mang tiếng người này phát ra cho

người kia được nghe..v..v.......

      Đứng trên lãnh vực bản thể để nhận thức,

Thức Thể A Lại Da thứ tám với hình thức là khối

năng nượng khổng lồ không có hình tướng (vô

ngã tướng) và có mặt khắp không gian mà Duy

Thức Học cũng như các kinh luận khác gọi là

“Thức Vô Biên Xứ”. Hiện tượng năng lượng của

Thức Thể này cũng giống như hiện tượng năng

lượng của điện không gian và muốn nhận dạng

năng lượng của nó dễ dàng, chúng ta thử đem

hiện tượng năng lượng dòng điện nơi trung tâm

biến điện của thành phố để thí dụ.

15

      Thức Thể A Lại Da đã là hiện tượng năng

lượng và hoàn toàn không có hình tướng Bản

Ngã thì Kiến Phần Thức A Lại Da trong con người,

trong súc sanh..v..v..... đã được phát sanh từ Thức

Thể A Lai Da nói trên cũng chỉ là năng lượng

và hoàn toàn không có hình tướng Bản Ngã

thật, vì thế có thể xác định rằng Thức Uẩn

cũng là vô ngã.

      Từ bản chất vô ngã của Ngũ Uẩn đã được

giải thích tường tận ở trên cho chúng ta có sự

nhận thức cụ thể rằng, con người do ngũ uẩn

giả hợp tạo thành thì chính con người hoàn toàn

thuộc loại vô ngã.

2- Giá Trị Vô Ngã Xuyên Qua Bảy Đại:

      Trong thời kỳ Đại Thừa, các nhà tư tưởng cao

thâm của Phật Giáo trước hết dựa theo tinh thần

của Ngũ Uẩn mà đức Phật khai triển đầu tiên

liền quán chiếu sâu thẩm, lý giải nguyên lý

của vạn pháp và loài người, có vị đứng trên

lãnh vực bản thể mà lý giải, có vị đứng trên

lãnh vực hiện tượng duyên sanh mà lý giải, rồi

cùng nhau đưa ra nhiều triết thuyết phi phàm. Trong

những triết thuyết phi phàm đó, Duy Thức Học là

một khoa tâm học vô tiền khoán hậu và môn

học này bắt đầu từ nơi Thức để tìm hiểu nguồn

gốc của Tâm, nhận thức được Tâm chính là thể

16

của Thức, cho nên gọi là Tâm Thức. Theo Duy

Thức Học, vạn pháp và loài người, kể cả chúng

sanh hữu tình và vô tình, tất cả đều do bảy yếu

tố kết hợp tạo thành. Vạn pháp và loài người

nếu như thiếu một trong bảy yếu tố này không

thể sanh trưởng và tồn tại, bảy yếu tố này có

tên là bảy Đại. Bảy Đại gồm có: Đất, Nước,

Gió, Lửa, Nghiệp Tướng, Nghiệp Lực và Thức A

Lại Da. Trong bảy Đại đây, Tứ Đại (đất, nước,

gió, lửa) và Thức Đại đã được giải thích rõ nơi

Ngũ Uẩn; còn Nguyệp Tướng và Nghiệp Lực sau

đây xin lần lược giải thích:

      a, Nghiệp Tướng là những hình tướng (forms),

những mô hình kiểu mẫu (Blueprint) của vạn

pháp, những hình tướng này chính là hình bóng

mang tánh chất ảo giác (illusions), tất cả đều có

mặt trong Tâm Thức A Lại Da với danh nghĩa là

chủng tử. Những nghiệp tướng đây được chia làm

lai loại: hữu tình tướng và vô tình tướng.

      *- Hữu Tình Tướng là chỉ cho hình tướng của

các động vật và hình tướng này cũng có hai

thứ: nhân tướng, chúng sanh tướng. Nhân Tướng

là những hình tướng của loài người; chúng sanh

tướng là những hình tướng của súc vật như hình

tướng trâu, bò, heo, gà, chó..v..v.......

*- Vô Tình Tướng là những hình tướng của

các thực vật và khoáng vật....... Theo Phật Giáo

chẳng những các động vật cho đến các thực vật

và khoáng vật muốn góp mặt trong thế gian dưới

bất cứ hình thức nào cũng phái có Nghiệp

Tướng làm kiểu mẫu để xây dựng; nghiệp tướng

nếu như không có thì vạn pháp nhất định cũng

không thành hình và cũng không có sanh tử

luân hồi; sự không có nghiệp tướng của vạn

pháp đúng như câu Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Thị

chư pháp không tướng bất sanh bất diệt bất cấu

bất tịnh bất tăng bất giảm”, nghĩa là các pháp

không có nghiệp tướng thì không sanh không diệt

không nhơ không sạch không tăng không giảm.

      Chủng tử Nghiệp Tướng của các pháp chính

là những hình tướng ảo giác do con người đã

thâu vào Tâm Thức A Lại Da qua những công

trình du ngoạn, du lịch, giao tiếp thường xuyên mà

họ đã sanh hoạt hằng ngày hằng tháng hằng

năm, những hình ảnh đó theo Duy Thức Học đều

gọi là Nghiệp Tướng. Những nghiệp tướng đây

đều là những nhân tướng quan trọng không nhỏ

trong việc xây dựng vạn pháp và con người hiện

thành quả tướng.

      b, Nghiệp Lực là những năng lực của nghiệp

đã được nội kết lâu đời trong Tâm Thức A Lại Da

18

cũng với hình thức chủng tử, những nghiệp lực

này chỉ thuần tuý năng lực mang tánh chất tập

khí mà không có hình tướng giống như nghiệp

tướng; điển hình như nghiệp tham, nghiệp sân,

nghiệp si mê..v..v.......... chỉ biết khi chúng tác

dụng lôi cuốn Tâm Thức hành động qua thân,

miệng và ý mà không thấy hình tướng của

chúng. Trong việc xây dựng vạn pháp và con

người, chúng nó cũng là yếu tố quan trọng

không thể thiếu mặt.

      c, Thức A Lại Da theo Duy Thức Học là một loại

tâm thức căn bản (Foundation Consciousness) và

cũng là yếu tố vô cùng trọng đại trên hai chức

năng, một là tàng trử chủng tử, hai là xây

dựng vạn pháp và con người.

      Về phương diện tàng trử, Thức này có khả

năng dung chứa tất cả hạt giống thiện ác của

vạn pháp và con người đồng thời giữ gìn những

hạt giống đó tồn tại mãi không cho biến chất

cũng như không cho hư hoại để chờ cơ hội thuận

duyên sanh khởi. 

      Về phương diện sanh khởi Thức này chuyên

xây dựng tất cả các pháp và con người đồng

thời duy trì sanh mạng chúng nó tồn tại để góp

mặt trong thế gian. Sự thành hình, sự phát triển,

sự sanh tồn của vạn pháp và con người đều do

19

sự quyết định của Tâm Thức nói trên, nghĩa là

Tâm Thức đây nếu như góp mặt thì vạn pháp

và con người thi đua sanh trưởng và nếu như từ

giả ra đi thì vạn pháp và con người trở thành tan

hoại. Bát Thức Quy Củ Tụng cùng một tác giả,

trang 84 có ghi: “Thọ huân trì chủng căn thân khí,

khứ hậu lai tiên tác chủ ông”, nghĩa là Thức A

Lại Da thứ tám là kho tàng chứa nhóm, bảo trì

hạt giống và chuyển biến sanh ra thân thể cùng

thế giới. Nó từ giả ra đi thì đi sau, nó đến làm

việc thì đến trước, nó theo nghiệp lực và làm

chủ tất cả mọi việc để chịu quả báo. Sư sinh

hoạt của Thức A lại Da thứ tám quan trọng như

thế nào sau đây sẽ giải thích rõ hơn.

      c, Nguyên Nhân Có Tự Ngã:

      Như trước đã trình bày, Kiến Phần Thức A Lại

Da thứ tám cũng giống như Thức Thể của nó

chỉ là một năng lượng không có hình tướng và

Kiến Phần Thức này khi tác dụng chun vào

nghiệp tướng, thí dụ như nghiệp tướng con người thì

trở thành hình tướng con người.

Kiến Phần Thức này khi ở trong nghiệp tướng con

người bị Kiến Phần Thức Mạt Na thứ bảy dựa

theo nghiệp tướng đó chấp làm Tự Ngã cho mình

để bảo vệ sanh mạng con người hiện hữu nói

trên phát triển theo luật nhân quả và giúp Kiến

20

Phần Ý Thức thứ sáu của họ cảm thọ quả

báo khổ vui mà chính kiếp trước Ý Thức thứ

sáu của họ trực tiếp điều khiển chỉ đạo thân

và miệng nơi họ hành động nói năng theo những

nghiệp nhân thiện ác. Thực ra Tự Ngã của Kiến

Phần Thức A Lại Da thứ tám và Kiến Phần

Thức Mạt Na thứ bảy trong con người trong chúng

sanh hữu tình không có vấn đề cảm thọ quả

báo khổ vui giống như Kiến Phần Ý Thức thứ

sáu. Để chứng minh điều đó, chúng ta hãy khảo

sát một bệnh nhân bị chụp thuốc mê để giải

phẩu, một bệnh nhân bị ruột dư cần phải mổ,

Bác Sĩ trước khi mổ liền chụp thuốc mê nhốt Ý

Thức thứ sáu của bệnh nhân không cho sinh

hoạt để bệnh nhân không còn cảm thọ đau khổ

trong lúc mổ ruột. Khi mổ ruột xong, thuốc mê

không còn tác dụng nữa thì lúc đó Ý Thức thứ

sáu của bệnh nhân sinh hoạt trở lại liền cảm thọ

đau khổ hoành hành thể xác.

      Trường hợp thứ hai, Kiến Phần Mạt Na thứ

bảy nơi các chúng sanh vô tình (nơi các thực

vật.....) vẫn chấp Kiến Phần Thức A Lại Da thứ

tám trong nghiệp tướng của chúng làm Tự Ngã

để bảo vệ sanh mạng của chúng hiện hữu và

phát triển theo luật nhân quả; các chúng sanh

vô tình vì không có Ý Thức thứ sáu hiện hữu

21

cho nên không có cảm thọ khổ lạc giống như con

người. Các chúng sanh vô tình chỉ có xúc thọ

để nẩy nở và phát triển thành hoa trái mà

không có cảm thọ theo cảm tính khổ lạc. Thí dụ

như Thức Mạt Na thứ bảy nơi cỏ cây..v..v...... chấp

Kiến Phần Thức A Lại Da thứ tám trong nghiệp

tướng của chúng làm Tự Ngã để điều khiển cỏ

cây nẩy nở và phát triển thành hoa trái; cỏ

cây vì không có Ý Thức thứ sáu hiện hữu cho

nên không có cảm thọ khổ lạc giống như sự

cảm thọ của con người.

      Đúng ra, Kiến Phần Thức Mạt Na thứ bảy

chấp Kiến Phần Tự Ngã của Thức A Lại Da thứ

tám trên tinh thần trung tính gọi là bản năng tự

vệ không bị nghiệp lực ái kiến điều khiển cho

nên khi sinh hoạt không có vấn đề ngã si, ngã

kiến, ngã mạn, ngã ái chỉ đạo. Trường hợp này

chúng ta thấy rõ sự nẩy nở và phát triển thành

hoa trái của các chúng sanh vô tình như cỏ

cây..v..v....... đã được trình bày trên. Riêng con

người một trong các chúng sanh hữu tình , Ý

Thức thứ sáu của họ đã bị nghiệp lực ái kiến

trực tiếp chỉ đạo hành động đam mê chấp ngã

kiên cố cho nên mới có hiện tượng ngã si, ngã

ái, ngã mạn, ngã kiến điều khiển tạo nghiệp và

22

những nghiệp do Ý Thức thứ sáu chỉ đạo gây

tạo được gọi là Ý Nghiệp.

      Có thể khẳng định rằng yếu tố khiến cho Tự

Ngã hiện hữu thành hình để cho Thức Mạt Na

chấp chính là Nghiệp Tướng thường gọi là Ngã

Tướng một trong bốn Tướng (Ngã tướng, Nhân

tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng) mà

không phải Kiến Phần Thức A Lại Da thứ tám

riêng có Tự Tướng để chấp làm Tự Ngã.

      Thật ra Tự Ngã của con người do Thức Mạt Na

thứ bảy chấp trước hoàn toàn không có vấn

đề ký ức và cảm thọ khổ lạc mà chỉ có Ý

Thức thứ sáu mới có ký ức và cảm thọ. Hơn

nữa Ý Thức thứ sáu của con người không sinh

hoại liên tục suốt cuộc đời giống như  Tự Ngã

và Thức Mạt Na thứ bảy; trong hai mươi bốn giờ

đồng hồ ngày đêm, Ý Thức con người chỉ có

mặt và sinh hoạt mười hai tiếng thuộc về ban

ngày và khi con người đậu thai, Tự Ngã của họ

có mặt trước khi Ý Thức thứ sáu có mặt, đồng

thời Ý Thức thứ sáu bị lệ thuộc nơi sanh mạng

con người trong thời kỳ nẩy nở phát triển giống

như Ý Thức của đứa trẻ sơ sanh.

IV.- TỰ NGÃ QUAN HỆ LUÂN HỒI:

23

      Như trên đã giải thích Tự Ngã không phải hình

tướng cố định và luôn luôn biến đổi theo nghiệp

tướng, nghĩa là Tự Ngã con người có thể biến

đổi hình tướng để trở thành Tự Ngã hình tướng

ngạ quỷ hay hình tướng súc sanh..v..v....... theo

nghiệp tướng của ngạ quỷ hay nghiệp tướng của

súc sanh..v..v......... Đó là Tự Ngã quan hệ luân

hồi theo nhân quả nghiệp báo để cảm thọ quả

báo khổ vui. Hình tướng ngạ quỷ giống như hình

tướng Tiêu Diện của các chùa thường thờ mà

người Việt Nam ai cũng đều biết. Theo Kinh Phật

giải thích, Bồ Tát Quán Thế Âm hoá thân

thành Tự Ngã với hình tướng ngạ quỷ (hình tướng

Tiêu Diện) để độ các oan hồn uổng tử ở cõi

âm mà người đời thường gọi là cô hồn. Tại sao

Tự Ngã phải biến đổi hình tướng để bị luân

hồi?

      A,- Tự Ngã Luân Hồi Theo Luật Nhân Quả:

      Theo luật nhân quả luân hồi, chúng ta khi còn

sanh tiền tạo những nhân thiện ác nào thì sau khi

xả bỏ thân mạng Tự Ngã bị nghiệp lực thiện ác

dẫn dắt đến cảnh giới tốt xấu để thọ lấy quả

báo khổ vui không bao giờ sai trái, như con người

kiếp này tạo nhân phước lành thì luân hồi đến

cảnh giới giàu sang sung sướng, thân hình cao sang

tốt đẹp, tạo nhân tội ác thì luân hồi đến cảnh

24

giới nghèo hèn, thân hình xấu xa tàn tật..v..v.......

Theo Phật Học Phổ Thông Khoá II của Hoà

Thượng Thích Thiện Hoa, trang 63 giải thích:

      “Sau đây là những cảnh giới mà một chúng

sanh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo

nghiệp nhân mà họ đã tạo:

      “1.- Địa Ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác

làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại

người, phải luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều

khổ sở.”

      “2.- Ngạ Quỷ: Nhân tạo tham lam, bỏn sẻn,

không biết bố thí, giúp đỡ  người...........mưu sâu

kế độc để cứớp đoạt của người, sau khi chết,

luân hồi làm ngạ quỷ.”

      “3.- Súc Sanh: Tạo nhân si mê, sa đoạ theo

thất tình, lục dục, tử sắc, tài khí........ chết rồi,

luân hồi làm súc sanh.”

      “4.- A Tu La: Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp

việc sái quấy cũng không tránh, vừa cang trực

mà cũng vừa độc ác...... tánh tình hung hăng,

nóng nãy...... tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo

nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A Tu La,

gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng

nhiều.”

25

      “5.- Loài Người: Tu nhân ngũ giới: Không sát

hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối

trá, không rượu trà say sưa, thì đời sau trở lại làm

người, cao quý hơn muôn vật.”

      “6.- Cõi Trời: Bỏ mười điều ác tu chơn thập

thiện thì sau khi chết, được sanh lên cõi trời. Nhưng

nên nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng

phàm tục, chịu cảnh sanh tử luân hồi.”

      Trong sáu cảnh giới đây có ba cảnh giới mà

trong kinh Phật thường gọi là Tam Đồ nghĩa là ba

đường dữ. Riêng cảnh giới Địa Ngục so sánh với

cảnh giới tù tội của trần gian mà chúng ta đang

sống thì giống nhau đúng với câu châm ngôn:

“Dương  gian âm phủ đồng nhất lý”, nghĩa là

dương gian và âm phủ giống nhau nguyên lý; đại

ý câu này nói rằng, dương gian có trại giam thì

cõi âm cũng có Địa Ngục, cả hai nơi nguyên lý

hành tội đều không khác nhau. Theo Kinh Địa

Tạng trình bày cảnh giới Địa Ngục là cảnh giới

hành hạ chúng sanh trong đó vô vàn đau khổ

không thể kể được. Còn cảnh giới A Tu La thứ tư

có hai loại chúng sanh: Thiên A Tu La và Nhân A

Tu La, cả hai loại này trong các kinh thường kể là

hạng hung tàn bạo ngược thường gây chiến tranh

chém giết tàn sát không gớm tay cho nên gọi

hạng này là A Tu La.

26

      B.- Điều Kiện Biến Tướng Của Tự Ngã:

      Điều kiện khiến cho Tự Ngã biến tướng là do

nghiệp lực của Tự Ngã đó quyết định, nghĩa là

Tự Ngã biến tướng có khi nhanh trong một sát na,

có khi chậm trong bảy ngày, có khi mười bốn

ngày, có khi hai mươi mốt ngày, có khi hai mươi

tám ngày, có khi ba mươi lăm ngày, có khi bốn

mươi hai ngày và cuối cùng là bốn mươi chín

ngày, nói cách khác Tự Ngã phải trải qua bảy

tuần lễ biến tướng để định nghiệp cho kiếp sau

và tuần lễ cuối cùng thường gọi là Chung Thất,

nguyên vì cõi Trung Giới là cõi trung gian chuyển

tiếp để định nghiệp luân hồi vào sáu cõi nói

trên và cõi này chỉ giới hạn tối đa trong vòng

bốn mươi chín ngày là điều kiện cuối cùng

không được kéo dài thời gian hơn. Định Nghiệp

nghĩa là do nghiệp quyết định sự sống chết và

sự luân hồi của một sinh mạng con người, vì ý

nghĩa đó cho nên có chỗ gọi là Duy Nghiệp

không sai với nguyên lý. Muốn biết rõ điều kiện

biến tướng của Tự Ngã con người như thế nào

hãy xem lại quyển Liễu Sanh Thoát Tử của dịch

giả Hoà Thượng Thích Quang Phú, Ấn Quán Sen

Trắng tái bản năm 1979 và quyển “Chết An Lạc

& Tái Sanh Hoan Hỷ” của tác giả Đại Sư Tulku

Thondup Rinpoche, do HT Thích Như Điển và TT Thích

27

Nguyên Tạng dịch ra Việt Ngữ, trong hai tác phẩm

này trình bày tường tận hơn nguyên lý chuyển

tiếp của Tự Ngã trong Trung Giới. Tại sao sự biến

tướng của Tự Ngã lại do nghiệp lực quyến định?

      Theo Duy Thức Học có bài kệ nói lên con

người sau khi chết Thần Thức (Kiến Phần Thức A

Lại Da) đi đầu thai vào đâu, bài kệ đó như sau:

      “Đảnh Thánh, Nhãn sanh Thiên,

      “Nhân tâm, Ngạ Quỷ phúc (bụng),

      “Bàng Sanh  (súc sanh) tất cá ly,

      “Địa Ngục cước tâm xuất.”

Giải Thích:

      1, Đảnh Thánh: Đảnh là chỉ cho đỉnh đầu

của con người, Thánh là chỉ cho Phật; câu này

có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng

kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra trên cửa

đảnh đầu là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ

thành Phật (Thánh).

      2, Nhãn sanh Thiên: Nhãn là con mắt, Thiên

là cõi Trời; câu này có nghĩa là con người sau

khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của

họ xuất ra cửa đôi mắt là báo hiệu người đó

kiếp sau sẽ sanh lên các cõi Trời.

28

      3, Nhân Tâm: Nhân là con người, Tâm là

quả tim; câu này có nghĩa là con người sau khi

xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ

xuất ra cửa quả tim nơi ngực là báo hiệu người

đó kiếp sau sẽ sanh trở lại làm người.

      4, Ngạ Quỷ Phúc: Phúc là bụng, tức là chỉ

cho huyệt Thần Khuyết (lỗ rốn); câu này có

nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng,

Thần Thức của họ xuất ra cửa huyệt Thần

Khuyết là báo hiệu ngưới đó kiếp sau sẽ sanh

vào cõi Ngạ Quỷ.

      5, Bàng Sanh: là chỉ cho súc sanh, Tất là đầu

gối, Cá là cái, Ly là lìa khỏi; Tất Cá Ly, nghĩa

là lìa khỏi đầu gối; câu này có nghĩa là con

người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần

Thức của họ xuất ra nơi hai đầu gối là báo hiệu

người đó kiếp sau sẽ sanh vào cõi Súc Sanh.

      6.- Địa Ngục Cước Tâm Xuất: Cước là gót

chân, Cước Tâm Xuất nghĩa là ra khỏi nơi lòng

bàn chân; câu này có nghĩa là con người sau khi

xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ

xuất ra nơi hai đầu gối là báo hiệu người đó

kiếp sau sẽ sanh vào chốn Địa Ngục.

      Để làm sáng tỏ vấn đề sáu câu kệ nói

trên, chúng ta thử quán chiếu hành động của

29

một con người để khảo sát. Thí dụ anh A trong

kiếp này suốt cuộc đời làm nghề sát sanh để

sống, mỗi lần anh giết một con bò là anh gây

một nhân hận thù nghiệp sát với con bò và

trong lúc giết hình bóng con bò đã được anh chụp

lấy vào tâm của anh, đồng thời hình bóng của

anh cũng được con bò chụp lấy vào tâm của nó.

Anh giết bao nhiêu con bò chính là đã gây bao

nhiêu nhân hận thù nghiệp sát và chụp lấy

bấy nhiêu hình bóng con bò vào tâm của anh.

Anh chẳng những giết bò mà còn giết cả heo

và cả chó..v..v...... nghĩa là anh gây không biết

bao nhiêu nhân hận thù nghiệp sát, chẳng

những với bầy bò mà còn với bầy heo, với

bầy chó..v..v....... và anh cũng chụp lấy không

biết bao nhiêu hình bóng của chúng vào tâm

của anh, đó là những nguyên nhân nghiệp tướng

để kiếp sau anh chun vào trả quả. Trước hết anh

sau khi xả bỏ thân mạng của kiếp này, trong

tuần lễ đầu tiên chuyển tiếp, thế giới súc sanh

bắt đầu mở cửa nếu như thần Thức xuất ra từ

hai đầu gối nơi thân xác của anh và ngay trong

lúc đó các nghiệp lực hận thù của các súc

sanh như bò heo chó..v..v......mà anh gây nhân lúc

còn sanh tiền, thi đua nhau lôi kéo đòi nợ. Lúc

bấy giờ Thần Thức Tự Ngã con người của anh bị

biến tướng, có khi biến thành hình tướng con bò

30

này, có khi biến thành hình tướng con bò kia, có

khi biến thành hình tướng con heo này, hình tướng

con heo kia, hình tướng con chó này, hình tướng con

chó kia..v..v....... để tìm duyên đầu thai trả quả.

Bảy tuần lễ trong Trung Giới  mà Thần Thức Tự

Ngã của anh sở dĩ phải trải qua bảy lần biến

tướng đều do các nghiệp sát của  các thú vật

tranh giành đòi nợ, thường gọi là bảy Toà Án

xét tội, Tuần thứ bảy (ngày thứ 49) là thời gian

giới hạn của Trung Giới, cũng gọi thời gian Toà

Án cuối cùng định tội (định Nghiệp) để chấp

nhận nghiệp nào thắng cuộc, thí dụ như nghiệp

bò thắng cuộc thì ngay lúc đó Thần Thức Tự

Ngã của anh A thay đổi hình tướng liền chun vào

nghiệp tướng con bò trắng để trở thành Tự Ngã

của hình tướng bò con kiếp sau, còn các nghiệp

khác của anh phải chờ đợi kiếp sau hoặc nhiều

kiếp sau nữa. Cách thức thay đổi hình tướng Tự

Ngã con người để đi vào các cõi như Thiên,

Nhân, A Tu La, Địa Ngục và Ngạ Quỷ sau khi xả

bỏ thân mạng cũng đều giống nhau như cách

thức thay đổi hình tướng Tự Ngã để đi vào cõi

súc sanh, nghĩa là cũng phải trải qua thời gian

bảy Tuần lễ (49 ngày) cứu xét tội phước để

định nghiệp. Ngoại trừ ba trường hợp sau đây

Thần Thức Tự Ngã con người trực tiếp đi đầu thai

31

thẳng vào sáu cõi nói trên mà không qua trung

gian bảy tuần lễ (49 ngày) định nghiệp:

      1,- Người nào đó lúc sanh tiền suốt đời

chuyên tu duy nhất là đạo giải thoát làm nhân

tố trên hết, ngoài ra không gây tạo nhiều

nghiệp thiện ác nào khác của thế gian, Thần

Thức Tự Ngã của họ sau khi xả bỏ thân mạng

liền xuất ra trên cửa đỉnh đầu là báo hiệu kiếp

sau của họ đi thẳng vào cõi Niết Bàn hay Tây

Phương Cực Lạc mà không qua trung gian bảy tuần

lễ xét định tội phước. Mặc dù được vãng sanh

thành Phật, nhưng Tự Ngã con người của họ

cũng phải thay đổi hình tướng thế gian để trở

thành hình tướng Chân Ngã Pháp Thân của chư

Phật. Hình tướng Chân Ngã Pháp Thân của chư

Phật hoàn toàn không giống hình tướng Tự Ngã

của con người. Hiện tượng này được thấy trong

câu chuyện của ngài Mục Kiền Liên mà ai đã

đọc qua cũng đều biết. Ngài Mục Kiền Liên là

một vị trong mười đệ tử lớn của đức Phật Thích

Ca; ngài có thần thông bậc nhất, một hôm ngài

bay đến cõi Phật Thế Tự Tại Vương và ghé vào

đó để nghe Phật thuyết pháp; các vị Bồ Tát

của Phật Thế Tự Tại Vương đều gọi ngài là con

Đại Trùng (con trùng to lớn). Qua câu chuyện trên

cho biết Tự Ngã con người của ngài Mục Kiền

32

Liên so với hình tướng Pháp Thân của đức Phật

Thế Tự Tại Vương và đại chúng của Phật hoàn

toàn không giống nhau. Chúng ta muốn sanh về

cõi Phật này để an trụ tu tập thì nhất định phải

thay đổi hình tướng Tự Ngã con người của chính

mình mới hoà nhập được đại chúng trong cõi đó.

      2,- Lúc sanh tiền người nào đó suốt cuộc đời

chuyên gây tạo duy nhất một thứ nghiệp cực ác

như tội ngũ nghịch thập ác, ngoài ra không gây

tạo nhiều nghiệp thiện ác nào khác của thế

gian, Thần Thức của họ sau khi xả bỏ thân mạng

liền xuất ra nơi cửa hai lòng bàn chân là báo

hiệu kiếp sau đi thẳng vào Địa Ngục mà không

qua trung gian bảy tuần lễ xét định tội phước,

nhưng họ cũng phải thay đổi Tự Ngã hình tướng

con người thế gian để trở thành Tự Ngã hình

tướng chúng sanh của cõi đó.

      3,- Phương thức tái sanh của Tây Tạng là

phương thức do Ý Thức của con người chỉ định

chỗ tái sanh và Thần Thức của họ sau khi xả

bỏ thân mạng liền đi thẳng đến chỗ quy định tái

sanh cũng là cõi người, không qua trung gian bảy

tuần lễ xét định tội phước và cũng không biến

đổi Tự Ngã con người.

      Có kẻ bảo rằng con người sau khi xả bỏ

thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ chỉ đi

33

đầu thai thẳng không qua trung gian bảy tuần lễ

để định nghiệp và cũng không thay đổi Tự Ngã.

Nếu quả đúng như thế thì luật nhân quả và

luân hồi không còn giá trị nữa, nghĩa là họ cứ

gây nghiệp sát hại sanh mạng chúng sanh mà

không sợ nhân quả và cứ làm tội ác mà

không sợ luân hồi, nguyên vì nhân quả và luân

hồi không bao giờ ảnh hưởng đến hành động

của họ. Quan niệm này vô cùng sai lầm đối với

luật nhân quả luân hồi của Phật Giáo.

V.- TÓM LẠI:

      Tổng hợp những điều đã trình bày qua ở trên

cho ta nhận thức, học thuyết vô ngã của Phật

Giáo chủ trrương đầu tiên là một phán quyến

thật tại của đức Phật Thích Ca nhằm đánh giá

cụ thể sanh mạng con người cũng như sanh mạng

các hữu tình khác, tất cả đều mang tánh chất

giả hợp của ngũ uẩn. Từ học thuyết vô ngã đó

dùng làm nền tảng căn bản, các trào lưu tư

tưởng Phật Giáo sau này cùng nhau thi đua phát

triển, khai thác tận nguồn nguyên lý vạn pháp

để rồi đi đến kết luận “Ngã Pháp Câu Không

Luận” của Đại Thừa. Phải biết rằng Học thuyết

Vô Ngã của Phật Giáo đứng trên lập trường

nhân tướng của vạn pháp để phán quyết mà

không phải đứng trên quả tướng của vạn pháp

34

để luận giải. Xét cho cùng thuyến vô ngã so

với thuyết nhân quả luân hồi không bao giờ

mâu thuẩn với nhau trong lãnh vực chuyển hoá

duyên sanh nơi ba cõi mà còn biện minh cụ thể

cho thuyến nhân quả luân hồi qua sự quyết định

của nghiệp báo.

      Có thể nói tất cả Tâm Thức dù cho dưới

bất cứ hình thức nào, như sanh vào Địa Ngục,

Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Nhơn, Thiên, A Tu La luôn

luôn vẫn ở trạng thái năng lượng tuyệt đối

không có bản ngã cố định nhất là Kiến Phần

Thức A Lại Da thứ tám. Kiến Phần Thức này sở

dĩ được mang danh Tự Ngã chính là do Kiến Phần

Thức Mạt Na thứ bảy dán lên nhãn hiệu danh

xưng qua nghiệp tướng của mỗi loại chúng sanh, vì

thế nghiệp tướng luôn luôn thay đổi hình tướng

theo nghiệp quả thì Tự Ngã cũng thay đổi theo nhu

cầu của nghiệp nhân.

      Tự Ngã dù cho có biến tướng để sanh vào

thế giới nào cũng vẫn là ở tư thế vô ký (trung

tính) trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch, thiện ác

mà chính nó không có vấn đề ký ức tốt xấu

hay cảm thọ khổ lạc. Chỉ có Ý Thức thứ sáu

sanh sau đẻ muộn mới có vấn đề ký ức tốt

xấu và cảm thọ quả báo khổ vui theo nhân quả

nghiệp báo mà thôi. Đây là những bằng chứng

35

cụ thể được lý giải tận tường để biện chứng

thuyết Vô Ngã của Phật Giáo xin tặng các đọc

giả bốn phương làm món quà gieo duyên trao

tặng:

Viết xong ngày 11 tháng 11. Năm 2015

Tác Giả Thích Thắng Hoan

MỤC LỤC:

I.- VÀO ĐỀ......................................................................... 

II.-VẤN ĐỀ VÔ

NGÃ..............................................................................

III.- NHẬN THỨC THUYẾT TỰ NGÃ..................................................

      a, Thuyết Nhân Quả Luân Hồi....................................... 

      b,  Giá Trị Thuyết Vô Ngã.............................................. 

      c,  Nguyên Nhân Có Tự Ngã......................................... 

IV.- TỰ NGÃ QUAN HỆ LUÂN HỒI....................................

      a, Tự Ngã Luân Hồi Theo Luật Nhân

Quả....................... 

      b,  Điều Kiện Biến Tướng Của Tự

Ngã............................ 

V.- TÓM LẠI:.........................................................................

NHỮNG SÁCH THAM KHẢO

*- Vô Ngã và Luân Hồi của giáo sư Hoàng

Tuấn Oai, Việt                                        

36

     dịch Thích Hạnh Bình.

*- Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ của Đại sư Tulku      

     Thondrup Rinpoche, Việt dịch: HT. Thích Như Điển

và TT. 

     Thích Nguyên Tạng.

*-  Liễu Sanh Thoát Tử của dịch giả Hoà Thượng

Thích Quang 

     Phú.

*-  Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hoà Thượng

Thích Thanh 

      Kiểm.

*-  Kinh A Hàm

*-  Phật Học Phổ Thông Khoá II của Hoà Thượng

Thích Thiện    

     Hoa.

*-  Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức

tác giả 

      Thích Thắng Hoan.

*-  Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I tác giả

Thích Tháng 

      Hoan.

*-  Kinh Địa Tạng

*-  Lịch Sử Triết Học Ấn Độ của Hoà Thượng

Thích Mãn Giác

*- Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ tác giả Wille Durant,

gịch giả 

     Nguyễn Hiến Lê.

37