ĐẠI CƯƠNG
DUY THỨC QUÁN
*******************************
----
Giảng thuyết tại Chùa Quy Nguyên nơi Hán Dương
Vào
tháng 3 năm 11---
MỤC LỤC
* LỜI
DỊCH GIẢ….
I.- Dẫn
Luận,
II.- Năm
ngôi vị, một trăm pháp của Duy Thức Quán.
III.-
Nương tựa chân có huyễn hoàn toàn huyễn tức là chân của duy thức
quán.
IV.- Ngộ
vọng cầu chân giác chân vọng không là của duy thức quán
V.-
Không mây một chỗ mộng tỉnh nhứt tâm của duy thức quán
VI.- Năm
tầng cấp của duy thức quán.
***********
LỜI DỊCH
GIẢ
Trong
Phật Giáo có nhiều phương pháp tu tập quán chiếu, như Thiền Quán,
Ngũ Uẩn Quán, Pháp Hoa Tam Quán vân vân, trong đó có Duy Thức Quán.
Trong Duy Thức Quán có nhiều nhà đã giải thích, nhưng ở đây có Quy
Nguyên Tự ở
Hán
Dương thuyết pháp với nhan đề “DUY THỨC QUÁN ĐẠI CƯƠNG” và được hai vị
Tôn Thiệu Cơ, Triệu Hội Thù hợp ghi.
Duy Thức
Quán Đại Cương, nội dung giải thích biện chứng phối hợp rõ ràng dễ
tiếp thu. Điều đặc biệt, trước khi đi vào chủ đề giải thích năm lớp
duy thức quán, giảng giả dẫn dắt đọc giả đi vào phương trời mới,
phong cảnh mới, quán chiếu mới, nhật thức mới, để dọn đường cho
bước vào quán chiếu năm lớp duy thức quán.
Trong Duy
Thức Quán Đại Cương có một số danh từ chuyên môn, tôi giải thích
thêm cho rõ nghĩa bằng chữ nằm nghiêng trong dấu ngoặt (……), đồng
thời xin giới thiệu đến quí đọc giả nào tu thiền một phương pháp tu
tạâp kiểu mới này để thực tập. Đường đi khó hay không khó vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi sợ sông, người muốn tu
dù khó khăn đến mấy quyết tâm cũng thành quả.
Một lần
nữa, tôi chân thành gởi đến quí đọc giả một món quà Duy Thức Quán
Đại Cương này để gieo duyên trên con đường tu tâp. Chân thành kính
chúc quý đọc giả sớm thành công trong vườn hoa hương đạo.
Thích
Thắng Hoan cẩn bút.
Ngày 24
tháng 12 nâm 1921
VÀO ĐỀ
I.- VẪN
LUẬN
Nếu tu
duy thức quán, đương nhiên phải phối hợp cùng các kinh luận duy thức
của Bồ Tát Di Lặc, luận sư Bồ Tát Thiên
Thân,
chỗ phát huy tín nguyện giống nhau với Bồ Tát Di Lặc, mở đầu có thể
thành tựu. Bài đầu tiên nên phát tâm, với mục tiêu là tạo phương
tiện: (1) Một là quy mạng Tam Bảo, để tín tâm quyết định. (2) Hai là
cầu khắp cả tự lợi và lợi tha, dùng năng lực phát nguyện rộng
lớn, như Thành Duy Thức Luận nói: [Cúi đầu duy thức tánh, viên mãn,
từng phần chứng giác; làm tự lợi và lợi tha, khiến cho pháp trụ
được lâu dài.]
Duy thức
tánh đây là đối với duy thức tướng mà nói. Thức của năng lực biến
hiện cùng pháp của chỗ biến hiện, tức là duy thức tướng; nhất chân
pháp giới thì chân như bình đẳng, tức là duy thức tánh vậy. Nơi duy
thức tánh, chỉ có Phật mới có khả năng chứng giác viên mãn, nên
gọi là duy thức tánh chứng giác viên mãn. Các Bồ Tát cũng có thể
từng phần chứng giác, nên gọi là duy thức tánh từng phần chứng
giác. Chỗ chứng duy thức tánh, là tánh, có thể chứng tánh trí, là
tướng; tổng quát đây là tánh tướng chân thật vô lậu, nghĩa là Pháp
và Phật, Tăng. Phật có thể nơi Pháp viên chứng viên thuyết, Tăng
có thể hoằng truyền Phật pháp, như thật tu chứng. Nên Tam bảo đây
đều cần quy y. Cúi đầu tức là nghiêng mình quy mạng đến nơi đó, dùng
tín tâm quyết định. Nghĩa là quy mạng Phật Pháp Tăng của tánh tướng
duy thức, thực tế muốn đem thân tâm và cảnh giới quy về khuôn đúc
nơi biển tánh tướng của duy thức vô lậu.
Phát
nguyện lực rộng lớn, thề quyết chứng tất cả pháp tánh chân thật
cứu cánh của duy thức, đó là tự lợi vậy. Quán tất cả chúng sanh
đồng nương tựa nơi một duy thức tánh làm thể, dẫn đạo khắp hàm linh,
mau thành chánh giác, đó là lợi tha. Chứng tánh giác đây, giải trừ
phiền não, đã từ chối sanh tử, thành tựu viên mãn phước đức và trí
huệ, khiến
Phật
pháp khắp nơi tu hành, hạt giống Phật không dứt, đây là thông lợi
tự tha vậy. Là vì nương đại tín tâm, phát đại nguyện lực, tu để nương
nơi đây, tức là nhân chỗ pháp hành, phát tâm sung mãn chân thật,
tự có thể không bị khó khăn bế tắc.
Là vì
nương tựa đại tín tâm, phát đại nguyện lực, tu nương tựa nguyện lực
đây là chổ nhân của pháp hạnh; phát tâm thật sung mãn, tự khả
năng không có khó khăn bế tắc.
Như trên
chỗ nói, nương tựa sức của mình quán lý. Lại có duyên sự có thể
sẽ giúp đỡ thành tựu: Như đọc tụng kinh luận đại thừa, đọng tâm
thánh giáo, trì niệm Bổn Sư Thích Ca, Bồ Tát Di Lặc, lễ bái các
Thánh, để cầu nguyện gia trì; đồng thời sám hối, từ vô thỉ đến nay
tất cả nghiệp chướng, khiến tu quán bị khởi nạn ma. Thí dụ như xây
bờ đê, đã gầy dựng địa điểm vững chắc, lại chấn chỉnh lỗi lầm khô
cạn có thể đã lâu xa. Từ nhân trợ duyên, cũng lại như thế.
Nói
quán hạnh đây, tức là đầy đủ có hai phần: (1) Trí Năng Quán, (2)
Cảnh Sở Quán. Lại tóm thâu hai quán hạnh đây, là có thể chứng vào
chỗ then chốt, nhờ chứng vào pháp chỗ đã chứng vào, đó là quán
thứ nhất, có thể đầy đủ chỗ quán thứ hai. Trí Năng Quán đây, các
tông phái đều giống nhau: Thiên Thai, HiềnThủ, Thiền Tông, Tịnh Độ,
không ai không phải nương tựa nơi Tâm sở Huệ của Tâm Vương Thức thứ
sáu tương ưng, làm chủ thể của nó. Còn lại như năm Biến Hành và
Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, cùng Tín của thiện pháp, Tâm Sở Tinh
Tấn đây
II.- DUY
THỨC QUÁN CỦA NGŨ VỊ BÁCH PHÁP.
Cảnh để
quán đây, nơi duy thức quán chính là thông quán tất cả pháp đều chỉ
là thức. Cho nên các pháp trong tất cả pháp giới đều là cảnh để
quán. Nói tất cả pháp đây, rộng lớn hoàn toàn không cùng tận, thế
giới mặc dầu thí dụ nó nhiều như số vi trần, sợi tơ nhiều như thế,
làm sao có thể tóm thâu nắm lấy! Vì thế Đấng Từ Tôn tạo Du Già Sư
Địa Luận, rút gọn thành 665 pháp, Đại Sĩ Vô Trước nương nơi Du Già
đó, sáng tác Hiển Dương Luận, lại rút gọn thành 106 pháp, đến Đại
Sĩ Thiên Thân liền thành lập100 pháp, dùng 100 pháp đây tóm thâu
hết tất cả. Trăm pháp đây là chỗ chứng pháp của Bồ Tát Sơ Địa,
chỗ chứng của sơ địa, đều là chỗ then chốt của trăm pháp, như thấy
một trăm thế giới, cúng dường một trăm đức Phật vân vân, đều dùng
100 số. Nhị Địa thì 1000, Tam Địa chính là một vạn, cho đến đại giác,
số không thể cùng. Là vì tu quán đương nhiên phải xác minh một trăm
pháp, hiểu rõ toàn bộ các pháp, thế nào là tánh, thế nào là
nghiệp, mặc dầu trong tâm đã hoàn thành quán cảnh. Nay đề cử đại
cương, xác minh nó là duy thức.
Một
trăm pháp, lược phân ra có hai:
1- Hữu
Vi Pháp,
2- Vô Vi
Pháp. Hữu Vi Pháp, lại riêng biệt chia làm hai:
1/- Pháp
thật,
2/- Pháp
giả.
Pháp
thật có hai, Tâm cùng Sắc. Pháp giả có một, phó thác tại tâm sắc
giả lập phân chia ngôi vị, tâm không tương ưng hành. Tâm lại có hai:
1] Tâm Vương, 2] Tam Sở Hữu.
Tâm
vương đây, chính chỗ nói là thức. Xác minh là hoàn toàn phân biệt,
là thể dụng của nó, nên gọi nó là tâm, hoặc gọi là thức. 20 luận
nói: [ Tâm, ý, thức liễu biệt, gọi nó là sai biệt]. Mặc dầu tâm
vương đây, là chỉ cho tám thức như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt
na, a lại da.
Tâm Sở
Hũu đây, không thể tự có, theo tâm vương mà có, nó cùng tâm vương
tương ưng không cách ly; tâm vương là chủ, tâm sở là đầy tớ theo
chủ. Nói tương ưng đây, không phải một không phải khác, nghĩa là thể
tuy hai mà sự thường là một, đồng nương tựa nơi một căn, đồng duyên
một cảnh. Tám thức tâm vương, nơi trong 51 tâm sở đều cùng tâm vương
tương ưng mà thay đổi; tâm sở cùng thức tương ưng, theo thức mà có,
nên gọi là duy thức.
Thứ đến
luận về sắc pháp, nay nói là vật chất, nơi nghĩa của Phật pháp nói
có hai tánh: một là tánh biết diệt, hai là tánh chướng ngại. Vạn
hữu vũ trụ, trước có sáu tâm vương đối cảnh, đều có thể gọi là
sắc, là đối với sáu thức gọi là liễu biệt cảnh, nghĩa là cảnh
hoàn toàn khác nhau, dùng pháp số mà nói nó, là năm căn năm trần
và pháp là sắc chỗ bị tóm thâu, gồm có mười lẻ một, Năm căn phát
hiện ra thức làm duyên tăng thượng không chung, biến hiện năm trần
làm chỗ để duyên. Nhãn thức chỗ duyên thấy đối tượng, nhĩ thức vân
vân chỗ duyên nghe đối tượng, ý thức chỗ duyên không thấy không
đối tượng. Nếu duyên tán vị, độc đầu, mộng trung, định trung, đều là
pháp thuộc sắc chỗ tóm thâu. Các sắc đây đều do tâm biến hiện, sao
lại nói điều đó! Tâm từ thể tướng làm phần tự chứng, nó tác dụng
sẽ là có năng và sở, năng là kiến phần, sở là tướng phần.
Tướng
phần biến hiện, chỉ kiến phần chỗ nắm lấy, tâm tự chứng biết, nên
gọi là duy thức.
Lại
nữa, pháp giả tâm không tương ưng hành. Hành đây tiêu biểu cho hành
uẩn, che dấu không phải vô vi và sắc, thọ, tưởng, thức uẩn; tâm
không tương ưng, che dấu không phải những pháp chỗ có của tâm sở.
Trên đã nói tâm chỗ có, phần nhiều là hành tương ưng, nhưng so cùng
với pháp chánh đây trái ngược và khác biệt nhau. Trong tâm chỗ có,
ngoài ra vẫn còn thọ, tưởng, hành uẩn đều tóm thâu. Trong đây được
đẳng cấp, mặc dầu ở hành uẩn mà cùng tâm không tương ưng, cho nên
lập tên hành uẩn đây. Tường tận một pháp đây chỉ là tâm, sắc phân
ranh giới vị trí, đối với thật pháp mà nói, nghĩa là pháp giả đây so
sánh nó thuộc về bộ phận thông qua có khác: như mạng căn thuộc về
phần vị của tâm, còn như sanh chỗ khác không phải mạng căn, tánh
của nó thuộc về phần vị tâm sở, nếu vô tưởng định vân vân thì
thuộc về phần vị tâm và tâm sở, nếu như thời, số, sanh, diệt, vân
vân thì thông qua phần vị tâm và sắc. Cho nên phải biết các pháp
giả đây, chỉ căn cứ nơi phần vị tâm và sắc mà thành lập, không
riêng tự thể, nên cũng đều là duy thức.
Vô vi
đây, không có sanh diệt, không thể biến khác, cũng không tác dụng,
không thể biểu hiện; liệt kê có sáu pháp. Năm pháp tùy theo tướng
mà thành lập, còn một pháp là chân như. Trong hư không đây, không
phải phân không ra phương hướng, chính là trí quán không, không cảnh
vô tướng, chỉ tâm chỗ biến hiện, rồi trở lại tự duyên lấy, tuy
sáng chiếu sâu dày mà không phải chân như, chính là duy thức chỗ
biến hiện tợ như tướng chân như. Chân như tánh đây, nó chỗ nói
pháp, không thể nói suy nghĩ, cách ly tất cả tướng, không
thể nghĩ
bàn, thấy không chỗ được, không thể kiến lập, đều thường như pháp,
đều hiển bày khắp nơi. Đây chính là tánh chân thật của duy thức,
chính là duy thức.
Các
pháp của tất cả vô lượng pháp giới, chỗ thành lập đều từ một
trăm pháp đây; quán một trăm pháp duy thức đây, tức là quán khắp
tất cả pháp đều chỉ là thức. Trên trí năng quán cùng cảnh để quán,
tức là khả năng chứng vào nơi pháp môn quán của pháp duy thức. Mà
nhờ pháp môn quán đây làm chỗ chứng nhập pháp duy thức, đầu tiên
là quán thấy hoàn toàn các pháp của tất cả pháp giới, đều là
tướng của duy thức biến hiện, kế đến tức là cách ly tất cả tướng
duy thức nhiễm ô, để chứng tánh chân thật của duy thức; thứ đến do
chứng tánh chân thật của duy thức, mà có thể chiếu soi các pháp
hoàn toàn như thật [Cũng như những việc không thật, tuy có mà không
phải thật]; lý do là chứng hạnh thanh tịnh viên mãn thay đổi chỗ
nương tựa, tánh tướng không hai, thân thể quốc độ như một, là vì cứu
cánh của duy thức.
III.-
NƯƠNG TỰA CHÂN THẬT CÓ KHÔNG THẬT, HOÀN TOÀN
KHÔNG
THẬT TỨC LÀ CHÂN THẬT CỦA DUY THỨC QUÁN.
Vạn hữu
bao la chỉ là nhất tâm; tức là nhất tâm đây, dung hợp thông suốt
phàm thánh, mà có thể tùy ý xoay vần chủng tử của tất cả pháp,
và của căn thân, khí giới, hữu tình và vô thình, nên gọi là thức a
lại da. Thức này không phải chân không phải giả, hoàn toàn chân
hoàn toàn giả, là chỗ nương tựa của chân giả, thông suốt nơi ngôi
vị Phật và ngôi vị chúng sanh. Bảo trì khắp cả các pháp, chỉ có một
chân tâm, nên cũng gọi là nhất chân pháp giới. Một đây dứt đối
đãi;
chân đây, không biến khác, là tất cả pháp trên căn bản chỉ nương tựa
nơi một chỗ, cho đến quả Phật trên căn bản chỉ cách ly chỗ cấu
trược để trở thành thanh tịnh, lại gọi là Am Ma La Thức, thức đây
thanh tịnh viên mãn cách ly pháp nhiễm ô, chính là nhất tâm chân tịnh
của trí vô lậu tương ưng. Nhất tâm chân tịnh đây, tại ngôi vị chúng
sanh tên là như lai tạng, đến chỗ như lai mới có thể chứng minh cứu
cánh hiển hiện, tại ngôi vị chúng sanh bao gồm chứa tại trong tâm
chúng sanh. Biểu hiện nhấttâm đây không phải hư vọng, gọi là chân,
không bị biến khác, gọi là như; chân như đây đích thực chỉ thể tánh
của nhất tâm đây. Trên nói Thức A Đà Na, Thức Am Ma La, Nhất Chân
Pháp Giới vân vân, tuy đồng một thể, tùy theo tướng tên khác. Chỉ
nhất tâm đây, thông suốt tất cả vị. Nương nơi chân có giả, nên gọi
là nhất tâm sanh diệt; hoàn toàn giả tức chân, nên gọi là nhất
tâm chân như. Muốn quán nhất tâm chân như, thể dụng của sanh diệt,
nay riêng liệt kê đồ biểu như dưới đây:
ĐỒ BIỂU
NHẤT TÂM CHÂN NHƯ SANH DIỆT.
Trong
hình vẽ, hình vòng tròn lớn, tức là tiêu biểu Nhất Tâm Chân Như ---
vốn không có hình tướng, ranh giới, đo lường có thể nói, hơn hết tạo
hình vẽ đo lường đây tỏ bày biểu thị sự xác định.
Thức A Đà
Na là thế xuất thế gian, các pháp hữu lậu vô lậu là chỗ nương tựa
bảo trì, có năng lực riêng biệt phát sanh tất cả pháp, chỉ năng lực
riêng biệt đây gọi là tất cả chủng tử, làm trong vòng tròn chỗ
tiêu biểu chiều dài của đường cong. Mà tất cả chủng tử đây, cũng
biến khắp tất cả chỗ trong mười pháp giới. Do tất cả chủng tử đây
có vô minh căn bản phát sanh ở trong, chỗ gọi là [ Do bất giác nên
tâm độïng, bỗng nhiên niệm khởi], như [ẤT] chỗ tiêu biểu, nghĩa là
căn bản của Mạt Na là pháp ngã si kiến. Ất mặt của nó phía trong
đường mép, là chỗ tiêu biểu cho [Bính], tức là niệm niệm chấp kiến
phần a lại da làm tự ngã bên trong. Như [Giáp] đường bên trong bộ
phận tức là phạm vi của thức a lại da, hoàn toàn là chỗ chấp ngã
ái chấp tạng của mạt na. Đồng thời a lại da lại biến khởi căn
thân, khí giới, thay đổi thành thức dị thục Thức chưa chín mùi), đây
là tam tế, tam tế đây thật không phân biệt trước sau, khái quát mà
nói, động đây là mat na, a lại da dùng năng lực phát khởi, làm cho
tất cả chủng tử, chỗ phát khởi thành thức dị thục. Bỗng nhiên một
niệm tác động, vô minh tương ứng, mạt na liền chấp kiến phần (Phần
tác dụng thấy) a lại da làm ngã, niệm này qua niệm kia không dứt,
khiến chủng tử bên trong thức a lại da đều thành hữu lậu, là nơi hiện
khởi tát cảthân căn khí giới, đây tức là nghĩa của chỗ nuơng tựa
đều giả.
Theo
phương diện mặt trái, mạt na nương tựa nội chủng tử a lại da , mà
hiện khởi, như đồ hình [Đinh] biểu hiện, đây là ý thức. Ý thức mới
hướng cùng mạt na phản nhau, mạt na hướng kiến phần a lại da, còn ý
thức hướng về chỗ biến căn thân và khí giới của a lại da; mạt na
sao không nội chấp làm tự ngã, ý thức lại nhận bên ngoài làm các
cái ngã. Mà còn mạt na làm cho ý thức không cùng tăng thượng duyên
(Duyên
tăng
trưởng) để nương nhờ nơi căn, nhưng ý thức cũng có chấp ngã; tuy mặc
dầu ý thức nương nơi mạt na làm căn, thật ra ý thức của chủng tử
hữu lậu chỗ hiện khởi từ trong a lại da, như đồ hình đường thẳng do a
lại da thông suốt phát khởi nơi ý thức.
Như đồ
hình [Mậu] chỗ biểu hiện cho năm căn thân, tức là thân chánh báo.
Mà căn thân đây tuy trải qua ý thức mà thành, từ chối vẫn theo
chủng tử sắc pháp của a lại da mà sanh, nên căn thân đây không
phải căn phù trần, chính là bốn đại thanh tịnh tạo thành năm căn
tịnh sắc, làm thức chứa an nguy cùng chung tóm thâu làm tự thể. Vì
sao hiện năm căn đây? Nguyên nhân mạt na chấp ngã, vì muốn có chỗ
thấy có chỗ hiện, mặt chánh do tạng thức biến khởi căn thân và khí
giới, mặt trái do căn thân và khí giới phát sanh ý thức, liền kiến
lập hữu tình thế gian và khí thế gian. Sức của mạt na năng lực chấp
trước, băn khoăn trong biển Phật có một thứ trống sức rung động có
thể phát khởi làn sóng, lại như gỏ chuông sức đánh mà phát tiếng,
là vì hữu tình thế gian và khí thế gian, sanh khởi, đều do mạt na động
lực ngầm mà phát xuất vậy.
Như đồ
hình [Kỷ] chỗ biểu hiện làm khí thế gian, tuy khí thế gian bên cạnh
cũng do chấp trước nhiễn ô của mạt na, mà trực tiếp chỉ chỗ biến
hiện chủng tử và chỗ duyên của kiến phần a lại da; chính là hiện
tượng vi tế lưu hành chuyển hóa, sát na sát na sanh diệt không dừng,
không dễ cảm thấy. Sơn hà đại địa chỗ chúng ta thấy, chính là biểu
thị sự xác định thuộc tướng thô. Thì như thế nào? Do mạt na chấp
trước tạng thức, biến động không dứt, tướng phần của mạt na biến
hiện cũng biến động không ngừng. Phàm thuộc thân căn, khí giới, đều
là như thế, mà không một sát na tạm trụ.
Như đồ
hình [Canh] chỗ biểu hiện là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, năm thức,
theo chủng tử a lại da trải qua mạt na, ý thức mà sanh ra. Nên năm
thức trước dùng a lại da làm chỗ nương tựa căn bản, dùng mạt na làm
chỗ nương tựa nhiễm tịnh, dùng ý thức làm chỗ nương tựa phân biệt,
năm thức đều dùng tịnh sắc căn không nương tựa chung, mà nhiễm sắc
căn lại dùng phù trần căn làm ký thác. Năm thức trước khi hiện nơi
năm trần, tức là ý thức hiện cùng một lúc, nên ý thức phân biệt
biến khắp năm thức vậy.
Như đồ
hình [Nhâm] chỗ biểu hiện độc đầu ý thức chỗ duyên cảnh giới pháp
trần. Phân biệt có ba, nghĩa là vị trí phân tán, trong định, trong mộng
vân vân là vậy. Như thế tiêu chuẩn tâm của ý thức hiện tiền suy
xét duyên cảnh, cách ly phân biệt nơi tùy theo niệm, tùy theo tính
toán so lường, ở đây phải liền vào ý thức độc lập đứng đầu để
duyên lạc tạ ảnh tử của năm tiền trần, mà không phải trở lại
hiện tiền suy xét tánh cảnh. Liền do ý thức bên trong nương tựa nơi
mạt na chấp ngã và trong thức tạng chứa nhóm danh ngôn, biến tạo
làm chỗ hiện cảnh pháp trần cho ý thức. Phàm tướng của các thứ
trần cảnh hiện tiền, đều là chỗ hiện của chủng tử a lại da; ý
thức độc lập đứng đầu là chỗ duyên nơi hình ảnh cảnh của trần cảnh
hiện tiền. Cảnh chỗ hiện của ý thức độc lập đứng đầu, đa phần là
cảnh tương tợ mang từ cảnh vật có thật chất, tức là chúng ta hiện
tiền thấy cảnh vật trước mắt.
Lại nữa
ý thức nhớ lại cảnh giới quá khứ, tức là hình ảnh cảnh giới cõi
trần trước mặt trải qua ý thức nhớ qua mà chứa nơi trong thức a lại
da, bỗng nhiên niệm khởi, hoặc nơi trong mộng hiện khởi, đều là ý
thức độc lập đứng đầu hiện khởi. Ngoại trừ vô tưởng định, tứ
thiền, bát định, cũng
đều chỗ
duyên cảnh của ý thức độc lập đứng đầu. Nguyên nhân không do tập
khí dị thục chỗ sanh, nên không thành quan hệ nghiệp quả. Như cảnh
chỗ hiện trong mộng, hoàn toàn là hư vọng, thì rất dễ thấy. Nếu do
tập khí dị thục chỗ phát sanh, thuộc nơi nghiệp kiếp trước, nên có
quả báo quan hệ. Tỷ như đốt pháo, đạn nương sức pháo bay lên trong
không, tất nhiên đến sức pháo suy hết đạn mới rớt xuống, duyên thì
bị động của sức khác, không thể tự do để dừng lại. Dị thục báo
cũng giống như đạo lý này. Người thường không biết, ngộ nhận cho là
tự nhiên, không biết chiêu cảm của nghiệp kiếp trước. Lại nữa cảnh
giới pháp trần của ý thức đây, cũng có thể vượt ra ngoài phạm vi
dị thục, mà đạt đến nơi cảnh giới không thể nghĩ bàn, do công dụng
của ý thức rất to lớn vâïy.
Tổng
hợp quán trên đồ hình, có thể tìm từ chân khởi giả, từ giả khởi
chân, người thường không thể xác minh lý này, chấp căn thân khí
giới đây cho là có thật, không biết đây đều là giả hiện của nhất
tâm thức a đà na. Nhất niệm kia tâm khởi, đều nương tựa nơi pháp
giới nhất chân mà có, từ vô thỉ vô minh niệm niệm không dứt, tức
là pháp giới hoàn toàn vô minh không cùng tận, là vì động của nhất
tâm, nên vạn pháp liền sanh khởi. Vạn pháp chuyển biến, tất nhiên
chỗ hiện của duy thức, nên gọi là vạn pháp duy thức, mà thật tánh
tức là chân như. Ở đây có thể dùng quán nương tựa nơi chân có giả,
hoàn toàn giả tức là chân của duy thức vậy.
IV.- NGỘ
VỌNG CẦU CHÂN GIÁC NGỘ CHÂN VỌNG TRỞ THÀNH KHÔNG CỦA DUY THỨC
QUÁN.
Trên đã
nói rõ nương nơi chân có giả, về mặt lý hoàn toàn giả tức là
chân, đây lại tiến thêm nữa giác ngộ biến
hóa
vọng cầu chân, nghĩa là giác ngộ chân thì vọng trở thành không. Chỗ
gọi vọng đây dựa vào đâu? Dựa vào ý thức thứ sáu chỗ phát khởi
cảnh tợ đới chất, tức là chúng ta hiện tiền chỗ gọi là trời đất
nhân vật vậy. Nguyên do ý thức nương tựa nơi mạt na làm căn, đều
chấp ngã chấp pháp, thường xuyên cùng năm thức trước nương nơi a lại
da để hiện ra thân căn và khí giới, biến duyên năm trần, theo liên
tục phân biệt, nguyên nhân tổng hợp cách ly mở bày kết quả, nhận
làm các thứ vật thể có thật; chính là chấp điều gì cho là dài,
ngắn, vuông, tròn, điều gì cho là đỏ, vàng, đen, trắng, điều gì cho
là ngã, điều gì cho là không phải ngã, nhiều lớp mê vọng sai lầm,
không ai có thể hạn chế hết sức! Như vọng chấp đây, là nghĩa tự
tánh biến kế sở chấp. Cảnh vọng chấp đây, ở nơi ý thức cùng năm
thức trước đều phát phởi trên hiện lượng,vốn không có thật, đúng
là ý thức lại duyên ảnh của năm trần, mà còn tự thêm phần phân
biệt vậy. Nên người tu duy thức quán, đầu tiên phải ngộ cảnh vọng
chấp hiện tiền đây, đều là tự tánh biến kế chấp. Đây là bộ phận
thứ nhất của ngộ nhập.
Nay lại
có thể dùng mộng để thí dụ: Chúng ta khi vào mộng, hoặc thấy hoa
chim nhân vật, hoặc cảm khổ vui buồn mừng, nó đương khi có điều gì
mà thường không cụ bị nêu rõ chất lượng, tình nhớ thật thiết tha,
sau khi đến tỉnh nam kha, đều trồng quả mơ không được. Cứu cánh chân
thật là vì? Vọng là gì? Chỉ hiện tiền chỗ thấy sự sự vật vật,
không phải không cốt ở là thật, mỗi mỗ gần như thật, như vô minh bị
phá sứt mẻ, huệ tự mở sáng, quán ngược lại cảnh hiện tại, cũng
thấy giống như trong mộng, cuối cùng không một chỗ được cả. Cho nên
đối với cảnh hiện tại, trước hết quán như mộng, do ý thức làm trái
ngược tính toán chấp ngã pháp
biến
khắp, đúng ra thân căn, khí giới đều hư giả do thức biến hiện mà
thôi. Hoặc gọi cảnh mộng là không thì tâm mộng cũng không, nên gọi
là duy không, sao gọi là duy thức? Không biết tâm trong mộng, tâm khi
tỉnh giấc, cảnh mộng mặc dầu khác, tâm tỉnh mộng thông suốt, cho nên
tâm sau khi tỉnh mộng cũng có thể biết rõ cảnh vật trong mộng, mà
muốn cầu cảnh vật trong mộng trở lại giống như cảnh vật tỉnh giấc,
thì tất nhiên không thể được; vì do cảnh mộng đúng là không thì tâm
mộng giả có. Cảnh đã không không cách ly tâm có, tâm có nguyên
tức là chân giác, cảnh không tâm có khéo thành duy thức. Mặc dầu
tâm thì có thể thông suốt điều giả, cũng có thể thông suốt điều
chân, thay đổi vọng thành chân, tất cả nương tựa nơi nhất tâm. Là vì
chúng ta bước vào thứ hai của duy thức.
Kìa, chỗ
gọi là chân giác, dựa vào chứng biết của ý thức hiện tại mà nói.
Ý thức khi hoàn toàn không hiện hành, nếu gọi là năm chỗ vô tâm,
thế nào nếu không tâm thì cảnh cũng không, như thế làm sao được
thành duy thức? Cho nên phải tiến thêm quán sát ý căn của của ý
thức chỗ nương tựa, và chủng tử của tâm. Hơn hết ý thức nương tựa
nơi mạt na làm căn, theo chủng tử của thức a đà na sanh khởi, hai
thức đây thường xuyên lúc nào cũng hiện hành, ý thức cùng các
chủng tử cũng nương tựa thức a đà na này tồn tại không gián đoạn,
nên cho đến khi ngủ mê và ngất xỉu chết giả, ý thức mới không khởi;
trong tri giác đức đoạn, mà sau khi tỉnh giấc ký ức mới có thể tiếp
tục sinh hoạt, nhớ được những sự việc trải qua truớc đây, không sai
lầm nhau. Có thể biết mạt na thường xuyên xét kỹ ý nghĩ so lường,
niệm này qua niệm kia chấp a lại da làm tự ngã bên trong, chưa thường
nghỉ; mà a lại da chịu nhận dị thục, bảo trì chủng tử, từ vô thỉ đến
nay chưa
thường
nghỉ. Sáu căn trần ở trước cùng tâmthức, nương tựa chủng tử của
tạng thức làm nhân, nương tựa mạt na làm duyên, tiếp tục nối kết
liên lục sanh khởi mà không gián đoạn. Ngoại đạo kia không biết
cách quán này, bằng sức thiền định, cưỡng ép ý thức không cho hiện
hành, đợi khi định lực hết, chính bị đọa sang tử lưu chuyển! Giống như
người ngủ mê, ngất xỉu chết giả, sau khi tỉnh giấc nhưng lại bị ý
cảnh phan duyên (phân tâm), sẽ không thể cách ly xả bỏ. Đây có thể
dùng ý thức giác ngộ chinh phục đình chỉ, có thế lực ngầm khác tồn
tại dưới căn điều khiển ý thức, chính là mạt na và a lại da, chúng
thường xuyên thay đổi nó từ vô thỉ. Đây là ngộ nhập bước thứ ba
của duy thức.
Từ vô
thỉ đến nay, mạt na chấp kiến phần của thức căn bản a lại da, làm
ngã thể từ bên trong, mà có pháp chấp cùng sanh, để làm vô minh
căn bản. Bản thức a lai da là chỗ chấp của mạt na, biến làm thức
của ngã ái chấp tàng, tiếp nhận chứa nhóm những pháp tạp nhiễm
của sáu thức trước, mà tàng trử bảo trì pháp chủng tử của các tạp
nhiễm đó, cố chấp không cho mất, hạ mình chịu trói buộc. Sáu thức
tiếp nhận nghiệp tạo bụi trần, nếu trong gương sáng đưa tay lên ảnh
hiện mà nắm lấy ảnh đó, tạng thức tiếp nhận chứa nhóm bảo trì
chủng tử, nếu gương sáng diệt, cố nắm lấy tay của nó làm cho ảnh ở
lại. Che lấp tạng thức không cho sáng tỏ là do vô minh căn bản, vô
minh căn bản, một khi sáng soi, thì thức a lại da chuyển thành am ma la
thức của thanh tịnh ly khai dơ bẩn; thức đây tùy ý bảo trì tất cả
pháp mà không làm chỗ che lấp của tất cả pháp, gương trí tương ưng,
được đại tự tại. đây là cứu cánh của duy thức quán.
V.-
KHÔNG MÂY MỘT CHỖ MỘNG TỈNH NHẤT TÂM
CHỈ DUY
THỨC QUÁN.
Hợp lại
hai cách quán trên dùng thí dụ để xác minh:
1/- Dụ
nương nơi chân có giả, hoàn toàn giả tức là chân, nghĩa là nương nơi
không có mây, hoàn toàn mây tức là không, mây có không phải tự
có, nương nơi không có vậy. Không của không mây dụ tâm nhất chân,
không khởi căn thức thân khí hoàn toàn như hư không, căn thức thân
khí khởi như trong không sanh mây, lập tức hiện ra tướng tối tăm mờ ám.
Mặc dầu mây không theo hư không sanh mà theo hơi nước sanh, dụ căn
thức thân khí không theo chân như sanh, mà theo thức a đà na và tất
cả chủng tử sanh vậy. Hơi nước do ba động mà đọng lại làm mây, tức
là bản thức do mạt na và vô minh chuyển động mà hiện ra các uẩn
các giới vậy. Mây kia là giả, nguyên là không thật thể, do so sánh
nương nơi khác mà khởi tánh, giả không ly khai chân, như mây nổi trên
không, mà không tự không thể nói vậy. Mặc dầu mây khởi nơi không,
thật không trở ngại nơi không, dùng mây tại chỗ, không chưa từng
không tại chỗ. Hơn nữa, không rộng lớn vô biên, mảnh mây sao đủ che
lấp, chẳng qua người thường mắt chỉ thấy dưới hiểm hóc, một là mây
chỗ trong chuồng đậy nấp, tức là không thể thấy khắp, chỉ thấy
tướng mây trong không của nước trong. Giả sử có người đứng ở nơi
mây biểu hiện, thì mây tự nổi mờ ám, ánh sáng tự mờ dày đặc,
tướng hoàn toàn không liên quan. Dụ đây thức sanh các pháp, không
biến chân như, nếu vọng chấp ngã pháp, theo nghiệp lưu chuyển, thì
không hiển tánh chân như. Giả sử một ngày nào giác ngộ, thì giả tự
hư vọng, chân tự thường vắng lặng, vô tướng cũng hoàn toàn liên
quan. Chính nghĩa trên, có thể
dùng hư
không rộng lớn, dụ như thân pháp tánh của như lai, dùng hư không xác
minh thân, như lai dụ thân tự thọ dụng, dùng mây ráng khởi lên, dụ
thân tha thọ dụng và thân ứng hóa. Nhưng mây có màu sắc sáng, sáng
soi mắt nhân tâm, là làm mây khanh, mây thụy, không phải mây điểu,
mây nông vậy. Hơn nữa Phật ứng hóa như mây, nên thân, nên cõi đều
đồng giả hiện, chư Phật chứng chân, chân có thể dung nạp giả, chúng
sanh ở nơi giả, giả cũng hàm chứa chân. Chân giả không hai, thì tánh
chân tức là tánh giả, không và mây không hai, thì xứ không tức là
xứ mây; giả tức là đồng chân, chân tức là đồng giả, chân giả hợp
nhau, giả giả hợp nhau, chỗ gọi là chân tục không hai của lý sự vô
ngại, sự sự vô ngại, đây là cách quán vậy.
2/- Dụ
ngộ vọng cầu chân giác chân vọng không, nghĩa là ngộ mộng cầu tỉnh,
giác tỉnh mộng không. Như quán vật hiện tỉnh, đều đồng cảnh mộng, thì
vật trong mộng cũng đồng cảnh tỉnh. Mộng không biết mộng, là vì trong
vọng chấp vọng, định tỉnh chấp tỉnh, cũng lại chưa ra khỏi trong mộng.
Cảnh tỉnh cảnh mộng, không cách ly nhất tâm, là nhất tâm trực tiếp
thông suốt thế gian và xuất thế gian, Tổng trì mười pháp giới mà
không thể dùng phân biệt. So sánh dùng mộng làm dụ: Bồ Tát Sơ Địa,
biết mộng mà chưa cách ly tướng mộng, Bồ Tát Thất Địa trở lên, tỉnh
mộng mà chưa cách ly tướng tỉnh mộng, theo sau Kim Cang tâm đến Phật
Địa, mới có thể đại giác, mộng hay tỉnh không ngăn ngại. Chúng sanh
tại mê vọng trong điên đảo, mộng hay tỉnh đều mộng, chư Phật tùy
duyên mà độ chúng sanh, tỉnh hay mộng đều tỉnh. Là đồng cảnh nhất
tâm, mà phàm thánh thấy lẫn nhau, đều không ngang nhau.
Lại
nữa, dùng tâm làm dụ: tâm trong mộng là tâm phàm phu, tâm trong
mộng biết mộng là tâm bồ tát tâm tĩnh giác mộng, Phật cũng vậy;
tuy mặc dầu ba thứ tâm cảnh, nhưng là chỗ hiện chỉ nhất tâm. Hơn nữa
cảnh trong mộng do tâm chỗ hiện, cảnh trong tĩnh giác cũng do tâm chỗ
hiện, cho nên tâm trong mộng chính là tâm khi tỉnh giác, tâm chúng
sanh tức là tâm Phật, [ Tâm Phật tâm chúng sanh tâm mộng, ba không
sai biệt]. Nhất tâm hiện khởi, tức là thể hoàn toàn của tâm, đều
không phải phần nhỏ, sở dĩ Phật có thể biến khắp pháp giới mà độ
chúng sanh, chúng sanh cũng do đây đủ tạo mười pháp giới, mà chung
cuộc có thể ngộ nhập tri kiến của Phật.
Tóm lại
hai nghĩa trên, nói đổi lại, cũng có thể rằng, không có mây chỉ còn
một không, tỉnh giác mộng chỉ còn một tỉnh giác, thành là nhất chân
pháp giới không chướng ngại của duy thức quán. Lại nữa tiết mục
trên chỗ giảng giải cũng như làm thứ lớp dần dần, trong đây chỗ
nói phương pháp làm viên dung. Thì thế nào? Chúng sanh và Phật không
hai, không và mây chỉ còn một không, chân và vọng đều tiêu tan hết,
mộng và giác chỉ còn một giác, đây là nhất tâm viên mãn của duy
thức quán.
VI.- NĂM
LỚP THỨ TỰ CỦA DUY THỨC QUÁN.-
Trên
lại nhiều lần suy tìm nói rõ lý duy thức quán, không ngoài nơi từ
vọng mà hiển chân, tức là chân mà không giả, trở về đến chân giả
nhất tâm, nhất tâm thật tướng của chân giả. Là thật tướng chỉ có m
g dần
dần. Nay lại căn cứ nơi cổ đức chỗ dự thảo của “Năm lớp duy thức
quán”, đề ra tuyên bố lại nghĩa này.
1/- Trừ
bỏ hư vọng còn lại chân thật của duy thức quán. Như thế nào trừ bỏ
hư vọng còn lại chân thật? Tức là trừ bỏ hư vọng của biến kế sở
chấp (Chỗ chấp trước tính toán biến khắp), mà còn tồn tại thật có
y tha khởi ( Nương nơi nhân duyên sanh khởi) và viên thành thật (Thành
tựu chân thật viên mãn). Trước đã nói biến kế sở chấp, như nhận
cảnh mộng làm cảnh thật, như chấp mây cho là thể vững chắc, nhưng
chỉ là hư vọng; tánh y tha khởi, như tâm hiện cảnh mộng, như mây nổi
trên không, giả không cách ly chân mà không có tự thể. Đây nói
rằng trừ bỏ hư vọng của biến kế chấp, mà còn lại y tha khởi, viên
thành thật, dùng song qnán chân tục nhị đế, mà chuyên trừ bỏ hư
vọng chấp trước. Chính nói tục đế, y tha khởi cũng là thật, cũng
chính nói nghĩa thù thắng, viên thành thật mới là thật, đối với hư
vọng là nói thật, là vì đối với không có tướng của duy thức quán.
Lại kế đến, hai đế lại là hai pháp môn tánh tướng, tướng nương nơi
tánh mà thường hiển bày, tánh cách ly tướng mà thường trụ. Khởi Tính
Luận nói: [Nhất tâm sanh diệt môn] tức là y tha khởi tánh, [ Nhất
tâm chân như môn] tức là viên thành thật tánh; hai đây đều không
cách ly nhất tâm, đây là duy thức chỗ thành lập.
2/- Xả
bừa bãi giữ lại thuần duy thức quán, tất cả pháp đều cách ly thức,
thức chia tâm cảnh, cảnh riêng biệt trong ngoài. Trên nói rằng trừ
bỏ hư vọng, chỉ trừ bỏ tâm chấp cảnh hư vọng, đây nói xả bừa bãi,
chính đem cảnh tướng phân biệt của nội tâm duy nhất đều xả bỏ. So
sánh lại tiến thêm
một
tầng. Mặc dầu ngoài tâm vốn không có cảnh, phàm chỗ duyên đều là
tướng phần nội tâm, năng lực duyên đều là kiến phần, tất nhiên
tổng quát nơi trong 100 pháp, nay chính 100 pháp bỏ đi 11 sắc pháp, 24
bất tương ưng pháp, sáu vô vi pháp của biến tướng để duyên; chỗ lưu
lại đây là Tám Thức Tâm Vương và 51 Tâm Sở. Lưu lại tâm năng
duyên, xả bỏ cảnh chỗ duyên, là vì năng duyên và sở duyên tương đối
của duy thức quán.
3/- Tóm
thâu ngọn ngành quy về cội gốc của duy thức quán. Tâm và tâm sở
pháp đều phân thành gốc và ngọn, gốc đây là tự thể của tâm, ngọn
đây là tướng phần kiến phần chỗ hiện trên tự thể. Trên tuy đã xả
tướng phần, cũng như còn lại dụng của kiến phần, đây là tóm thâu
tướng và kiến hai phần kia chính quy về thể của tâm thức. Thể của
tâm như thế nào? Tức là tự chứng phần vậy. Nghĩa là tóm thâu nắm
lấy tướng phần và kiến phần của tâm thức trên, mà quy về tự chứng
phần. Dùng khuyến khích mở mang vào lý, so sánh hai tầng trên lại
tiến lên một tầng nữa. Chính là thể và dụng tương đối của duy thức
quán.
4/- Ẩn
nấp, yếu kém, hiển bày thù thắng của duy thức quán, tâm vương tâm
sở thù thắng yếu kém cách xa vô cùng, tâm vương thì thù thắng, tâm
sở thì yếu kém, nguyên vì tâm sở chỗ của tâm vương phụ trách lãnh
đạo. Chính là nói nghĩa thù thắng, hiển bày tâm vương của chủ thể,
còn tâm sở thì tánh lệ thuộc ẩn nấp, cũng do rộng mà rút gọn, từ
thô đến lý tinh tế. Để tiện lợi cho phép quán mà thôi. Đến đây
lại bỏ 51 tâm sở, chỉ còn lại tám thức tâm vương, là làm chủ chỗ
tương đối của duy thức quán.
5/- Trừ
bỏ tướng chứng tánh của duy thức quán. Tâm vương tuy được tôn vinh,
có sự có lý: Sự đây, tướng dụng sai biệt, tất nhiên phải trừ bỏ;
lý đây, pháp tánh không sai biệt, tất nhiên phải chứng. Là vì sự
lý tương đối, sự tận thì lý hiển, trí không có chỗ chứng đắc, nhập
chân duy thức của duy thức quán.
Năm lớp
duy thức quán trên, tổng hợp đối chiếu lý tánh của nó có thể rút
gọn làm ba nghĩa:
(a) Pháp
hư vọng của duy thức do tính toán so lường biến khắp, thuộc tánh vọng
chấp, thì cần nên cách ly trừ bỏ.
(b) Pháp
thế tục của duy thức làm duyên cho nó nương tựa, thuộc tánh duyên
khởi, là nên thay đổi để được thanh tịnh.
(c) Chân
thật viên mãn là pháp nghĩa thù thắng của duy thức, thuộc tánh chân
thật thù thắng, thì nên khai triển hiển bày. Chính ba nghĩa đây, lại
có thể gút gọn lưu lại còn hai pháp: Một là thế tục, hai là thắng
nghĩa. Mà hai pháp đây lại có bốn nghĩa: là [ hư vọng ], [ đạo lý ],
[ chứng đắc ], [ chân thật ]. Do hai pháp đây dung thông lẫn nhau
thành bốn nghĩa:
(1) Tầng
cấp (trùng) thứ nhất là thế tục hư vọng
(2) Tầng
cấp (trùng) thứ hai là đạo lý thế tục kiêm tóm thâu thắng
nghĩa (
danh ngĩa thù thắng) hư vọng.
(3) Tầng
cấp (trùng) thứ ba là thế tục chứng đắc kiêm tóm thâu đạo lý
thắng nghĩa.
(4) Tầng
cấp (trùng) thứ tư là thế tục chân thật kiêm tóm thâu chứng
đắc
thắng nghĩa.
(5) Tầng
cấp (trùng) thứ năm là chân thật thắng nghĩa. Chỗ gọi [ hư vọng ],
là cần cách ly xả bỏ. [ đạo lý ] là phải liễu ngộ thông đạt.
[ chứng
đắc ] là có tu hành, có thành công. [ chân thật ] là không đối
đãi, không biến đỗi. Tùy một pháp nào, không chẳng như thế, bản
tánh của các pháp, là tánh duy thức. Tuân theo quán tưởng đây,
người kia cũng có thể nhờ ngộ duy thức mà chứng chân như vậy.
(Tôn
Thiệu Cơ, Triêu Hội Thù Hiệp Ký) (Phật Học Viện Ấn Đơn Hành Bản).
Dịch xong
ngày.. 24..tháng ..12.. năm 2021
CHÙA
BẢO PHƯỚC
Trung
Tâm Phiên Dịch và Trước Tác