KHÉO DÙNG CÁI TÂM
---------------------------------------------
· Hội Niệm Phật Bát Nhã biên soạn
· Hội Quỹ Giáo Dục Phật Đà sửa
chữa, trình bài và ấn tống.
· Thích Thắng Hoan dịch ra tiếng
Việt.
LỜI TÂM NIỆM
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột
nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do nhóm
Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu.
Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái
Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò
mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian
để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý
đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối
với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và
đối trị.
Quyển sách “Khéo Dùng Cái Tâm” là
quyển sách không phải sáng tác mà chỉ sưu tầm những kinh luận nói
về Ma Nhập như Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Thiên Thai
Chỉ Quán vân vân gom góp lại in thành quyển sách. Nội dung quyển
sách nói về Ma Nhập gồm có:
*- Nguồn gốc phát sanh ra Ma,
*- Danh bộ của Ma.
*- Lý do Ma Nhập,
*- Hiện tượng con người bị Ma Nhập,
*- Phương pháp đối trị Ma Nhập.
Trong quyển sách này có chữ nằm
nghiêng trong dấu ngoặc đây (…...) chính là lời của tôi thêm vào để
cho rõ nghĩa, còn lại là của tác giả. Hơn nữa tôi dịch theo lối
thoát văn, chỉ lấy tư tưởng của tác giả mà không theo lối văn của
Trung Hoa, cố gắng làm sao đọc giả dễ hiểu và nắm được ý tưởng của
tác phẩm.
Nhằm để giúp cho nền văn hoá Phật
Giáo càng thêm sáng ngời qua nhiều lăng kính tư tưởng sáng tạo,
tiếp theo giúp cho nền văn học
Phật Giáo Việt Nam càng thêm phong phú qua nhiều tư liệu tinh thần
giá trị giúp cho những người hậu học khai mở trí tuệ sáng soi, hơn nữa
giúp cho những người tu hành biết Ma để tránh né, biết Ma để ngăn
ngừa và biết Ma để trị liệu, tôi bất cứ giá nào với tuổi già sức
yếu cố gắng dịch cho xong tác phẩm này.
Tôi tuy đã dịch xong tác phẩm này
nhưng cảm thấy chưa hoàn mỹ ý của tác phẩm mà tác giả muốn gởi
gấm, nhưng dù sao đi nữa cũng là một cẩm nang đáng giá cho những thế
hệ hậu học. Cuối lời, tôi thành tâm sám hối những bậc tác giả,
những bậc cao minh và quý đọc giả, vì đạo pháp nhận thấy có chỗ
nào còn thiếu xót và sai trái xin chỉ bảo cho. Thành tâm kính bái.
Dịch giả Thích Thắng Hoan.
Ngày 04 tháng 03.dl năm 2020
Chùa Phật Quang
Trung Tâm Phiên Dịch và Sáng Tác.
MỤC LỤC
*- Lời Tâm Niệm
*.- Lời Tựa
1.- Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh, quyển 9,
II.- Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh, quyển 10,
III.- Đại Thừa Khởi Tín Luận,
IV.- Thiên Thai Tiểu Chỉ Quán,
V.- Huệ Hạnh Tập Luyện Khắc Huệ
Thành Niệm Ký,
VI.- Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương
Luận,
VII.- Mộng Du Tập,
VIII.- Niệm Phật Trước Ma Biện,
IX.- Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
X.- Phòng Trước Ma.
KHÉO DÙNG CÁI TÂM
---------------------------------------------
· Hội Niệm Phật Bát Nhã biên soạn
· Hội Quỹ Giáo Dục Phật Đà sửa
chữa, trình bài và ấn tống.
· Thích Thắng Hoan dịch ra tiếng
Việt.
LỜI TỰA
Trên con đường tu hành, hành giả
thường gặp phải những thứ chướng ngại và những thứ chướng ngại đây
gọi chung là “Ma”. Những thứ Ma đây có thể cướp đoạt huệ mạng (mạng
sống trí huệ) của con người và phá hoại công đức lành căn bản của
đạo pháp. Cho nên hành giả phải tiến hành như thế nào để hàng phục
ma quấy rối, nhằm mục đích bảo vệ giới thể và an trụ bản tâm. Đây
chính là đại công quả hàng đầu tu trì của hành giả.
Nói thêm nữa, Ma có thể phân làm
nhiều loại như, Ma Phiền Não, Ma Ngũ Uẩn, Ma Tử, Thiên Ma và Ma Oan
Gia Trái Chủ..v..v..... Ba loại Ma trước là hiện tượng thuộc nơi thân
tâm và thân tâm đây cũng chính là chỗ sanh ra chúng nó; thân tâm
sở dĩ sanh ra ba loại Ma nói trên đầu mối là do sự chống đối lẫn
nhau cùng với sự bất bình của hoàn cảnh. Hai loại Ma sau là do hành
giả tinh tấn tu hành mà lại lìa tâm để hành trì Lục độ vạn hạnh.
Từ sự tu hành lạc lối đó của hành giả dẫn đến phát khởi Thiên Ma
hoặc Oan Gia Trái Chủ làm chướng ngại.
Tuy nhiên, không luận như thế nào,
những loại Ma quấy rối nói trên sở dĩ vọng hiện chính là từ trong
tâm của con người, trên căn bản đều là do sự chấp trước nơi tham,
sân, si,..v..v...; ngã chấp nếu như vượt qua nhẹ nhàng thì những Ma
chướng nói trên sẽ tránh khỏi càng xa mà hành giả tu tập không thể
nào không biết.
Vui mừng gặp duyên thù thắng, Bổn
Hội chúng tôi may mắn được một học nhơn tịnh nghiệp chỉ dẫn, người
đã tiếp thu kinh luận rộng xa và được Tổ đức khai thị trong đó có
pháp ngữ quan hệ về việc đối trị Ma sự, những yếu chỉ pháp ngữ đây
theo ý chúng tôi cần nên sắp xếp nhặt lại, trong đó có lý sự tánh
tướng đầy đủ viên dung, cạn sâu tinh tế mầu nhiệm, trước sau thâu
nhiếp quan hệ lẫn nhau. Những yếu chỉ pháp ngữ này người mới học
nghe đến thì tâm thần càng vui vẻ thoải mái, người già tham khảo
nghiền ngẫm đến sẽ có ý nghĩa sâu xa và lợi ích không lường. Ngưỡng
mong các Ngài gần xa lãnh hội được khổ tâm của chúng tôi, băn
khoăn buồn lo, những yếu chỉ pháp ngữ này nếu không được in ra phổ
biến, để lâu sẽ bị lạc mất, thật là hối tiếc lớn! Bổn Hội vì muốn
thêm phần tư lương mở cửa cho các học giả vào đạo, mới đem những
yếu chỉ pháp ngữ đây kết tập thành sách, khuyến khích cùng nhau tham
cứu, mong mau chứng quả Bồ Đề, thì không phụ lòng chúng tôi tạo
dựng vậy!
Văn của quyển sách đây chia làm
tám phần, các bạn sơ học có thể từ “Phòng Trước Ma” của Sám Công
Thượng Nhơn, “Văn Sao” của Ấn Tổ, “Niệm Phật Trứ Ma Biện” của Đại sư
Tỉnh Am và nghiên cứu đọc tụng thọ
trì “Đại Thừa Khởi Tín Luận”, cho
đến chỗ khai thị thấm thiết về công phu niệm Phật của Đại sư Hám Sơn
và chỗ pháp yếu nhắc nhở niệm ba thân phá ba chướng của “Niệm Phật
Tam Muội Bảo Vương Luận”, càng đọc đến càng trở nên thân thiết.
Các bạn hữu muốn năng lực công
phu tham khảo có được nhiều kinh nghiệm thì cần nên nghiền ngẫm kỹ
càng 50 Ấm Ma trong “Kinh Lăng Nghiêm” và chỗ giáo giới nguyên nhân
24 Ma nhập của Đại sư Năng Hải, gia công hành trì Ma Cộng Tướng, Bất Cộng
Tướng và 6 phần phương tiện diệt Ma..v..v... Ngọc Uẩn Châu Tạng Toàn
Thư không chỉ đã bao hàm bảo dưỡng Luật Nghi (Chỉ Ác), bảo dưỡng
Thiện Pháp, lại còn bão dưỡng pháp Biệt Giải Thoát, đây thật là
lợi ích tròn đầy cho chúng sanh và cũng thật là điểm then chốt của
cánh cửa hành trì, tu học.
Tuổi thọ con người đâu có bao lâu?
Chúng ta nếu nhàn rỗi buông trôi qua ngày, rồi một sớm vô thường
bỗng nhiên đến, than ôi làm sao trở tay kịp! Xin các bạn hữu chớ phụ
lòng hồng ân Phật Tổ, đồng thời trân quý thiện căn huệ mạng tu
lâu của mình. Các bạn nên chú ý, nơi đây là một cánh cửa vượt
khỏi con đường diệu trang nghiêm, để cùng tiến dần trở về Chân Như,
trong đó lẽ đương nhiên nhất định có phần các bạn vậy!
Dân Quốc thứ hai, năm canh thìn
(Tây Nguyên năm 2000), mùa Hạ, ngày An Cư.
Hội Niệm Phật Bát Nhã,
Cẩn Thức.
I.- “KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG
NGHIÊM”,
Quyển Thứ 9 (Trích Đoạn)
NĂM MƯƠI ẤM MA.
Liền lúc đó, đức Như Lai đem pháp
toà đến nơi giường sư tử xong, liền dời bàn ghế bảy báu, chất cao
như núi tử kim, trở lại ngồi tựa ghế. Đức Như Lai bố cáo khắp đại
chúng và A Nan rằng: các ông là bậc có học như Duyên Giác, Thinh
Văn, nhưng tâm các ông hôm nay còn cách xa nơi Đại Bồ Đề và Diệu
Giác vô thượng mà trước kia ta đã giảng pháp tu hành chân thật cho
các ông. Các ông còn chưa thức tỉnh, còn tu Xa Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na,
thì Ma Sự vi tế, Ma Cảnh hiện tiền mà các ông không thể biết, sẽ
dẫn dắt tâm các ông tắm gội không phải chánh pháp, lạc vào tà
kiến. Hơn nữa chúng Ấm Ma, chúng Thiên Ma, chúng Quỷ Thần, cho đến
chúng Yêu Tinh Quỷ Mị trở lại dựa vào và an trụ trong Tâm của các
ông, nếu các ông không thấu rõ thì sẽ nhận giặc làm con. Hơn nữa
các ông được chút ít điều chi liền cho là đủ, như ở Thiền thứ tư
chẳng hạn, Tỳ Kheo các ông không chịu nghe, sai lầm cho là chứng
Thánh, liền bị Thiên Ma bám vào báo thù khiến tướng suy bại của các
ông bắt đầu hiện ra, từ đó A La Hán các ông đều bị dị nghị và kiếp
sau các ông sẽ bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Các ông nên lắng nghe, tôi
nay vì các ông mà phân biệt tỉ mỉ. Các vị A La Hán đều đứng lên,
đồng thời trong hội chúng gồm các bậc có học, cùng hoan hỷ đảnh
lễ, khép nép lắng nghe và từ tâm sám hối.
(Khoa văn trở xuống trích từ Đại sư
Ngẫu Ích “Lăng Nghiêm Văn Cú”).
Phật bảo A Nan cùng các đại chúng
rằng: Các ông phải biết, thế giới hữu lậu thì có 12 loại sanh ra.
Còn ánh sáng mầu nhiệm của bản giác cùng với Tâm Thể giác ngộ viên
mãn của chư Phật trong mười phương so sánh thì không có hai thứ riêng
biệt nhau.
Các ông do vọng tưởng, mê lý làm
tội lỗi, từ đó si mê ái dục phát sanh, liền sanh mê vọng tràn khắp
nơi, cho nên tánh không được thành lập; mê vọng vì biến hoá không
dứt liền sanh ra thế giới và vi trần quốc độ trong mười phương. Thế
giới và vi trần quốc độ trong mười phương không phải thuộc vô lậu,
đều do mê vọng ngoan cố vọng tưởng sáng lập an bài. Các ông nên
biết, hư không đều sanh ra nơi nội tâm các ông, dụ như cụm mây chỉ
một điểm nhỏ trong bầu trời trong xanh; huống hồ các thế giới ở
trong hư không? Một người trong các ông nếu phát nguyện trở về nguồn
chân thì mười phương hư không đây tất nhiên đều tiêu mất, làm gì
trong hư không lại có quốc độ không bị chấn động tan vỡ? Những kẻ tu
thiền các ông nhờ trang sức Tam Ma Địa (Tam muội: là Đại Định) cùng
các vị Bồ Tát trong mười phương và các bậc Đại A La Hán vô lậu, tất
cả nhờ tâm thanh tịnh cho nên vẫn dung thông với nhau không bị ngăn
ngại và chỗ an trụ của họ đương nhiên vẫn bền vững tự tại. Riêng
tất cả ma vương, các quỷ thần, các phàm phu, các cõi trời, bỗng
thấy cung điện của họ vô cớ tan vỡ, đại địa chấn động nứt ra, đường
bộ đường thủy bay vút lên cao, họ thảy đều hoảng sợ; còn hạng phàm
phu thì mờ ám, không biết động đậy cho nên không dời đi chỗ khác.
Còn số chúng sanh ma vương..v..v...kia nhờ được năm thứ thần thông,
chỉ trừ lậu tận, cho nên họ biến hoá và di chuyển chỗ an trú của
họ khắp cõi trần, nhờ thế chỗ an trú của họ không bị ảnh hưởng sự
chấn động của đại địa. Bởi thế các quỷ thần và các Thiên Ma (Ma
Trời), yêu tinh Vọng Lượng, lợi dụng khi các ông vào Tam Muội (Chỉ
quán) chúng liền đến làm não loạn các ông. Các Ma kia mặc dù hay
giận dữ, nhưng chúng ở trong trần lao, đối với Diệu Giác của các
ông hoàn toàn không chút ảnh hưởng nhau cũng giống như gió thổi ánh
sáng, như cầm dao chặt nước; so sánh các ông như nước sôi và bọn
chúng như băng cứng,cứng không bao lâu tan mất. Các ông đừng ỷ lại
vào thần lực, vì thần lực chỉ là khách. Sở dĩ sự thành công tu tập
của các ông bị sự rối loạn phá hoại là do Ngũ Ấm trong tâm của
các ông làm chủ nhân điều khiển, chủ nhân Ngũ Ấm nếu bị mê muội
thì khách thần lực rất được tiện lợi thúc đẩy sự mê muội lớn mạnh
trong Tâm các ông để làm rối loạn sự tu tập. Các ông nên xử dụng
Thiền Na (Dhyana: thiền định) để giác ngộ không cho mê muội lôi cuốn
phá hoại công trình tu tập của các ông; các ông khi giác ngộ mê
muội thì Thần Lực không có cơ hội thúc đẩy sự rối loạn để phá
hoại các ông, chừng đó Ngũ Ấm không còn cơ hội làm chủ để điều
khiển. Nên biết rằng bóng tối nếu che khuất ánh sáng thì chúng Ma
Sự kia cảm thọ được khí u ám của bóng tối nuôi dưỡng; ngược lại
ánh sáng càng phát triển thì bóng tối càng bị phá trừ và khí u ám
tự tiêu tan vinh dưỡng, chừng đó Ma Sự kia không thể nào làm tổn
hại để nhiễu loạn thiền định của các ông! Hơn nữa, các ông nếu
không tỏ ngộ những đều tai hoạ đã trình bày trên, bị Ấm Ma mê hoặc
thì các ông kể cả A Nan lẽ tất nhiên sẽ làm Ma con để trở thành
người Ma. Thí dụ như Ma Đăng Già, rất kém tỉnh ngộ, nó chuyên dùng
thần chú mê hoặc ông, phá giới luật của Phật, đây là một trong
tám vạn hành động phá hoại, ở đây chỉ làm hại có một giới, nhưng
nhờ tâm thanh tịnh của ộng nên chưa bị chìm đắm. Ma Đăng Già đây chỉ
mới lôi cuốn ông đi vào con đường hư hỏng; từ hiện tượng trên cảnh
cáo, ông và đại chúng nên biết rằng, toàn thân dù quý trọng đến
đâu, giống như Đại Thần, Tể Tướng về thăm quê hương, thình lình họ gặp
lại quê hương đều tiêu tàn mất dạng, lúc đó họ hình như cảm thấy bơ
vơ lạc lõng, không thể thương tiếc và cầu cứu.
(Trình bày sáng tỏ tổng quát do Ma
Sự tạo nên).
Này A Nan nên biết: ông ngồi nơi
đạo tràng đây, các niệm của ông đã buông xả và trong lúc đó các
niệm khác của ông không xuất hiện tiếp thì chứng tỏ các niệm khác
của ông đã xa lìa, từ đó tất cả ánh sáng tinh tường (tinh minh) tự
nhiên xuất hiện, động và tịnh không bị ảnh hưởng, ký ức của ông
dường như đã quên. Ông đang an trụ trong hiện tượng này, ngay lập tức
đi vào Tam Ma Địa (Tam muội: Đại Định), cũng giống như mắt người đang
sáng tỏ đi vào chỗ đại tối tăm; trong lúc đó tinh thể chân tánh
thanh tịnh mầu nhiệm của ông mặc dù tâm chưa phát ra ánh sáng, nhưng
chứng tỏ Sắc Ấm của ông đã bị phân tán khắp vũ trụ; tiếp theo đến
khi mắt ông trở nên trong sáng thì bao nhiêu hang động trong mười
phương đều mở ra và tối tăm không còn trở lại. Đây gọi là Sắc Ấm
đã chấm dứt, lúc đó ông có thể vượt qua Kiếp Trược. Nhưng ông lại
tiếp tục quán sát chỗ căn nguyên của Sắc Ấm; hành động quán sát
đây của ông là do vọng tưởng kiên cố dùng làm bổn mạng cho mình.
(Cảnh sắc ấm đây biểu thị tổng
quát là ấm tưởng).
Này A Nan! Đang ở trong Pháp Tòa,
ánh sáng mầu nhiệm (diệu minh), nghiên cứu kỹ càng thì không có Tứ
Đại kết hợp; trong thời gian đó ít nghiên cứu chọn lọc, thân tâm
của họ có thể ra khỏi chướng ngại, đây gọi là ánh sáng tinh tường
(tinh minh), tuôn chảy tràn đầy trước cảnh tượng, công dụng này chỉ
tạm thời đạt được như thế, mặc dù không phải chứng Thánh, không
tạo được tâm của bậc Thánh, đây chỉ gọi là cảnh giới thiện; nếu
giải thích cho là đã tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng của
bọn tà.
(Một, ánh sáng tinh tường lợi ích
bên ngoài, thân có thể ra khỏi chướng ngại).
Này A Nan! Lại nữa dùng tâm này
nghiên cứu tinh tường ánh sáng mầu nhiệm và ánh sáng này thấu suốt
trong thân; người đó thình lình, nơi trong thân của họ lần lượt xuất
hiện lãi kim và trong lúc đó thân tướng của họ vẫn không cảm thấy
trạng thái thương tổn và hủy diệt chút nào; hiện tượng đây gọi là
ánh sáng tinh tường (tinh minh), tuôn chảy tràn đầy trong hình thể.
Muốn được như thế họ chỉ cần thật hành thuần thục thì tạm thời đạt
được như ý, mặc dù không phải chứng Thánh, không tạo được tâm của
bậc Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh giới thiện; nếu giải thích cho là đã
tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng của bọn tà.
(Hai, ánh sáng tinh tường lợi ích
bên trong lần lượt xuất hiện lãi kim).
Lại nữa, dùng tâm này nghiên cứu
tinh tường trong và ngoài tâm linh; lúc ấy tinh thần ý chí của Tâm,
ngoại trừ chấp lấy thọ thân, còn lại đều là liên quan nhau, lẫn
nhau làm chủ khách. Bỗng nhiên nơi trong hư không nghe tiếng thuyết
pháp, hoặc nghe mười phương ban bố mật nghĩa, đây gọi là khí phách
tinh anh lần lượt lẫn nhau lìa và hợp, thành tựu giống lành, tạm
thời được như thế, mặc dù không phải chứng Thánh, không tạo được
tâm của bậc Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh giới thiện; nếu giải thích
cho là đã tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng của bọn tà.
(Ba, thần phách tinh anh lìa hợp nghe
pháp trong không.)
Lại dùng Tâm này gạn lọc và hiển
lộ trong sạch thấu suốt; ánh sáng bên trong phát sanh tác dụng biến
khắp mười phương, hiện bày màu sắc Diêm Phù Đàn (sắc vàng); tất cả
chủng loại hoá làm Như Lai. Lúc bấy giờ bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá
Na ngồi trên đài Thiên Quang, có ngàn Phật bao quây chung quanh và
trăm ức quốc độ cùng hoa sen lúc đó đều xuất hiện; đây gọi là Hồn
Tâm, kết quả giác ngộ chỗ nhiễm ô, dùng Tâm quang sáng suốt nghiên
cứu, chiếu soi các thế giới. Các vị được như thế chỉ là tạm thời,
mặc dù không phải chứng Thánh, không tạo được Tâm của bậc Thánh,
nhưng cảnh giới đó chính là cảnh giới thiện; nếu giải thích cho là
đã tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng của bọn tà.
(Bốn, hồn tâm giác ngộ chỗ nhiễm
ô thấy Phật ngồi Đài Thiên Quang.)
Lại dùng tâm này, nghiên cứu tinh
tường ánh sáng mầu nhiệm, quán sát không ngừng nghỉ, hàng phục dìm
xuống, ngăn ngừa, vượt qua, nơi lúc đó mười phương hư không, hiện
thành màu sắc bảy báu, hoặc màu sắc trăm báu, đồng thời biến hiện
đầy khắp, không ngăn ngại nhau; xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi thuần
túy hiện ra. Đây gọi là Dìm Xuống, công lực càng thêm phân tán ,
tạm thời được như thế, mặc dù không phải chứng Thánh, không tạo
được tâm của bậc Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh giới thiện; nếu giải
thích cho là đã tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng bọn tà.
(Năm, ánh sáng tinh tường ép buộc
hiện ra trong hư không thành màu sắc báu).
Lại dùng tâm này, nghiên cứu gạn
lọc tẩy trừ, ánh sáng tinh tế không loạn, bỗng nhiên nơi nữa đêm ở
trong nhà tối, thấy các vật, không khác bức tranh màu trắng, mà các
vật ở trong nhà tối cũng không bị mất, đây gọi là Tâm Vi Tế, do
Mật Lực gạn lọc thấy nó, chỗ trông thấy hang động tối tăm, tạm
thời được như thế,
mặc dù không phải chứng Thánh,
không tạo được tâm của bậc Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh giới thiện;
nếu giải thích cho là đã tạo nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng bọn
tà.
(Sáu, tâm nhìn thấy vật trong nhà
tối là mật lực gạn lọc).
Lại dùng tâm này hoà lẫn trọn
vẹn vào hư không, tứ chi (hai tay hai chân) bỗng nhiên giống nhau với
cỏ cây, bị lửa thiêu, dao chặt, chưa từng cảm biết, ngược lại ánh
sáng của lửa thì không thể thiêu đốt, dù xẻo thịt của nó, dụ như
cắt cây. Đây gọi là Vi Trần Tụ Lại, sắp xếp thành tánh Tứ Đại,
xưa nay vẫn thuần chất, tạm thời được như thế, mặc dù không phải
chứng Thánh, không tạo được tâm của bậc Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh
giới thiện; nếu giải thích cho là đã tạo nên cảnh Thánh, tức là
chịu ảnh hưởng bọn tà.
(Bảy, vi trần tụ lại vào thuần
chất thiêu đốt dao chặt trong trở ngại).
Lại dùng tâm này thành tựu thanh
tịnh, công phu tịnh tâm đến tột cùng, bỗng thấy đại địa, sông núi
mười phương đều thành Phật quốc, đầy đủ bảy báu, ánh sáng đầy
khắp; lại thấy hằng sa chư Phật Như Lai, hiện khắp không giới, cung
điện hoa lệ; dưới thấy địa ngục, trên thấy cung trời, đều không
chướng ngại. Đây gọi là Hoan Hỷ Vô Hạn, do tưởng ngày càng thâm
sâu ngăn ngại, tưởng lâu hoá thành, không phải là chứng
Thánh, không tạo được tâm của bậc
Thánh, đấy chỉ gọi là cảnh giới thiện; nếu giải thích cho là đã tạo
nên cảnh Thánh, tức là chịu ảnh hưởng bọn tà.
(Tám, tưởng ngăn ngại hoá hiện
khắp thấy các cõi).
Lại dùng tâm này nghiên cứu sâu xa,
bỗng nhiên nơi trong đêm tối, trông thấy phương xa, khu chợ hẻm phố,
thân tộc quyến thuộc; hoặc nghe họ nói chuyện. Đây gọi là Ép Buộc
Tâm, cưỡng bức cực độ bay ra, cho nên phần nhiều thấy cách xa, không
phải là chứng Thánh, không tạo được tâm của bậc Thánh, đấy chỉ gọi
là cảnh giới thiện; nếu giải thích cho là đã tạo nên cảnh Thánh,
tức là chịu ảnh hưởng bọn tà.
(Chín, ép bức tâm bay ra, đêm thấy
phương xa).
Lại dùng tâm này nghiên cứu tinh
tường tột độ, thấy các thiện tri thức, hình thể biến đổi, ít chọn
lọc nên không đoan trang, mỗi mỗi dời đổi, đây gọi là Tâm Tà, gồm
chịu ảnh hưởng Li Mị, hoặc gặp phải Thiên Ma, nhập vào tâm bụng của
nó, cho nên thuyết pháp không đứng đắn, không thông đạt nghĩa mầu
nhiệm, cho nên không phải chứng Thánh, không tạo được tâm của bậc
Thánh, Ma Sự (Ma chuyên lo mọi việc) nung nấu không thôi; nếu giải
thích cho là chứng Thánh, tức là chịu ảnh hưởng bọn tà.
(Mười, tâm tà gồm li mị vọng thấy
thuyết pháp mê vọng).
Này A Nan! Mười thứ hiện cảnh
Thiền Na (Thiền định: Dhyana) như thế đều là Sắc Ấm, đều do dụng tâm
giao lưu lẫn nhau, cho nên hiện ra sự việc này. Chúng sanh mê chấp,
không tự suy nghĩ kỹ, gặp nhận duyên này mê không tự biết, gọi là
nói chứng Thánh, thành ra đại vọng ngữ, đọa địa ngục Vô Gián. Các
ông sau khi Như Lai diệt độ, ở trong thời mạt pháp, nên căn cứ theo
đây, truyền bá biểu hiện nghĩa này thì khiến Thiên Ma không đạt được
phương tiện, cho nên mới bảo trì và che chở cho người tu hành sớm
thành đạo vô thượng.
(Khuyến cho biết lỗi ở kết họp).
Này A Nan! Các thiện nam tử kia tu
Tam Ma Đề (Tam muội:Đại định), trong Xa Ma Tha khi Sắc Ấm đã dứt thì
thấy Tâm của chư Phật giống như tấm gương trong sáng, các hình tượng
của chư Phật hiển hiện rõ nét trong đó. Có người nào nếu đạt được như
thế mà chưa có thể sử dụng được thì cũng giống như người bị ếm bùa,
họ thấy nghe quần chúng nói chuyện mà không bị mê hoặc, tâm họ
tiếp xúc khách tà mà không bị năng động, trường hợp đây gọi là
Thọ Ấm phổ biến khắp vũ trụ. Cũng giống như người bị ếm, mọi tai
họa đều đình chỉ, trong lúc đó tâm của họ liền lìa khỏi thân, họ
nhìn lại con người của họ vẫn đi đứng tự do, không cảm thấy chướng
ngại cản trở, đây gọi là Thọ Ấm đã dứt; người này có thể vượt
qua Kiến Trược, quán sát chỗ lý do của nó rõ ràng là do tưởng
tượng hư vọng chọn làm căn bản cho nó.
(Cảnh Thọ Ấm biểu thị chung là
Tưởng Ấm).
Này A Nan! Các thiện nam tử kia,
thường ở trong Định được ánh sáng to lớn soi tỏ, Tâm của chúng lúc
đó tự nhiên phát sáng, hiện tượng đây là do nội tâm của chúng đè
nén quá đáng và thêm nữa chúngï phát lòng thương vô cùng, đồng
thời chúng quán thấy muỗi mòng hiện ra; những trường hợp trên, dụ
như con nhỏ mới ra đời, Tâm của người mẹ phát sanh thương mến và
thương đến nỗi không biết mình rơi lệ. Đây gọi là Công Dụng, công
dụng đây nếu như sử dụng vượt quá hạn thì phá vỡ đè nén; hành
động trên nếu được giác ngộ thì không bị tai họa, nhưng không phải
đã được chứng Thánh; giác ngộ hoàn toàn không bị mê lầm thì lâu
ngày tự nhiên tiêu mất. Nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có Ma
Bi Thương vào tạng phủ của chúng, thấy người thì hay thương xót, khóc
than vô hạn, do đó chúng mất nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Một, đè nén quá sanh thương hại).
Này A Nan! Lại nữa trong Định kia
các thiện nam tử thấy Sắc Ấm tiêu mất và Thọ Ấm lộ lên rõ ràng,
hình tướng thù thắng hiện bày trước mặt, biết ơn quá đáng, bỗng
nhiện nơi trong chúngï, phát sanh dõng mãnh không hạn chế, tâm của
chúng lanh lợi mãnh liệt, ý chí so sánh bằng chư Phật, nghĩa là trong
ba a tăng kỳ, một niệm có thể vượt qua. Đây gọi là Công Dụng, tùy
tiện leo trèo vượt qua, nếu được giác ngộ thì không bị tai họa, nhưng
không phải đã được chứng Thánh, giác ngộ hoàn toàn không bị mê lầm
thì lâu ngày tự tiêu mất. Nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có
Ma Điên Cuồng vào tạng phủ trong Tâm, thấy người thì khoe khoang, ngã
mạng không thể so sánh, cho đến Tâm của chúng, trên thì không thấy
Phật, dưới thì không thấy người, do đó chúng mất nơi Cháng Thọ, đương
nhiên bị trầm luân.
(Hai, cảm khích sanh dũng mãnh).
Lại nữa trong Định kia, các thiện
nam tử thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, trước đã
không có thì mới chứng ngộ và khi trở về thì mất chỗ ở xưa, trí lực
suy kém, vào trong hủy hoại đất đai, xa xôi không thể thấy, trong tâm
bỗng nhiên sanh ra khô khan khát nước, nơi tất cả thời gian bịnh nhớ
nhung không tan biến, sẽ chọn đây làm chuyên cần tinh tấn. Đây gọi
là Tu Tâm, nếu không có trí huệ thì tự tiêu mất, nếu được giác ngộ
thì không bị tai họa, nhưng không phải đã được chứng Thánh. Nếu giải
thích cho là chứng Thánh thì chúng Ma Ký Ức vào tạng phủ trong tâm,
sớm tối bám lấy cái tâm, treo ở một chỗ, khiến mất nơi Chánh Thọ,
đương nhiên bị
(Ba, trí suy yếu trở thành ký ức).
Lại trong Định kia, các thiện nam tử
thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, huệ lực quá yên
định, mất nơi lanh lợi mãnh liệt, dùng các tánh thù thắng nhớ nơi
trong tâm, tự tâm đã nghi ngờ chính là Lô Xá Na, được chút ít lại
cho là đủ. Đây gọi là Dụng Tâm, quên mất xét kỹ luôn luôn, yếu
kém nơi tri kiến, nếu được giác ngộ thì không bị tai hoạ, nhưng không
phải đã được chứng Thánh. Nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có
chỗ yếu kém, dễ bị Ma Thái Quá vào tạng phủ trong tâm, hễ thấy
người thì tự nói ta đã chứng đặng Đệ Nhất Nghĩa Đế của bậc Vô
Thượng, do đó chúng mất đi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Bốn, huệ thù thắng thì trở thành
yếu kém).
Lại trong Định kia, các thiện nam
tử, thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, chỗ chứng ngộ
chưa thu hoạch được, cho nên Tâm đã bị quên lãng, trải qua xem ngắm
hai bên ranh giới của vũ trụ tự cảm thấy gian nguy, nơi Tâm bỗng
nhiên phát sanh ưu lo vô cùng, giống như ngồi trên giường sắt, như
uống độc dược, Tâm không muốn hoạt động, thường đi cầu cứu nơi
người khác mong sớm được giải thoát, do đó khiến tổn hại mạng sống
của mình. Đây gọi là Tu Hành Khiến Mất Nơi Phương Tiện, nếu được
giác ngộ thì không bị tai hoạ, nhưng không phải đã được chứng Thánh.
Nếu giải thích
cho là chứng Thánh thì có một phần
bị Ma Ưu Sầu vào tạng phủ trong Tâm của chúng, tay chúng tự cầm đao
kiếm cắt thịt của mình, vui mừng mình đã được Xã Thọ, hoặc chúng nó
thường ưu sầu, chạy vào núi rừng, không cho người gặp mặt, do đó
chúng mất nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Năm, mất bảo vệ sanh lo).
Lại trong Định kia, các thiện nam
tử, thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, chỗ thanh tịnh
trong suốt, sau khi Tâm an ổn, bỗng nhiên tự có phát sanh hoan hỷ vô
hạn, trong Tâm vui mừng, không thể tự ngừng nghỉ. Đây gọi là Khinh
An, không có trí huệ nào ngăn cấm được mình, nếu được giác ngộ thì
không bị tai hoạ, nhưng không phải đã được chứng Thánh. Nếu giải
thích cho là chứng Thánh thì có một phần Ma Vui Mừng Tốt Lành, vào
tạng phủ trong Tâm, khi thấy người thì cười, nơi bên đại lộ tự ca
múa hát, tự cho mình đã được giải thoát vô ngại, do đó chúng mất
nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Sáu, Huệ yếu kém nên trở thành
hui mừng).
Lại trong Định kia, các thiện nam tử
khi thấy Sắc Ấm tiêu mất và Thọ Ấm lộ lên rõ ràng liền tự cho
mình đã đầy đủ; bỗng nhiên chúng thấy trong Tâm của chúngï Đại Ngã
(Thượng Đế) hiện hữu không có điểm khởi đầu; Đại Ngã hiện hữu
bằng cách từ từ khởi lên và từ từ đi qua, hoặc từ từ tăng lên,
hoặc từ từ
xuống thấp. Từ đó chúng tôn sùng
Đại Ngã trên hết và xem thường Như Lai trong mười phương; đối với Như
Lai chúng còn xem thường, hà huống Thinh Văn, Duyên Giác thuộc cấp
dưới. Đây gọi là Thấy Tốt Đẹp, nhưng chúng không có trí huệ để tự
cứu lấy, nếu được giác ngộ thì không bị tai hoạ, nhưng không phải đã
được chứng Thánh. Chúng nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có một
phần Ma Đại Ngã từ từ vào tạng phủ trong Tâm của chúng, cho nên
đối với chùa tháp, chúng không chịu đảnh lễ, lại còn phá hủy Kinh
Tượng; chúng lại bảo Đàn Việt nói rằng: hình tượng Như Lai đây bằng
vàng, bằng đồng, bằng cây bằng đất, kinh tụng thì bằng cây bằng lá,
hoặc bằng thảm hoa (thảm để trải đất); thân xác thịt chúng ta thì
chân thường, không thể cung kính đối với những tượng vô tri đó.
Chúng hiềm khích cho sự tôn sùng tượng bằng đất bằng cây của Đàn
Việt là điên đảo. Kẻ thâm tín bảo hạng này là bọn chuyên môn phá
hoại, nguyên vì chúng nó đi chôn bỏ những tượng vô tri đó trong đất,
khiến mọi người nghi lầm, chúng sẽ bị đọa vào địa ngục Vô Gián, mất
nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Bảy, thấy thù thắng thành ngạo
mạn).
Lạy nữa trong Định kia, các thiện
nam tử thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, nơi sáng
trong, giác ngộ viên mãn lý trong sach, đặng Đại Tùy Thuận. Tâm
chúng bỗng nhiên phát sanh khinh an vô lượng, liền
nói đã thành bậc Thánh, đặng đại
tự tại. Đây gọi là Nhân Huệ, đạt được các thanh khiết nhẹ nhàng,
nếu được giác ngộ thì không bị tai họa, nhưng không phải đã được
chứng Thánh. Nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có một phần Ma
Nhẹ Nhàng Thanh Khiết vào tạng phủ trong Tâm của chúng, tự cho mình
đã thành công, liền chẳng cầu tiến, tất cả đây đa phần không chịu
nghe lời khuyên của các Tỳ Kheo, nghi lầm chúng sanh, cho nên bị đọa
vào địa ngục A Tỳ, mất nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Tám, được khinh an tự cho là đủ).
Lại nữa trong Định kia, các thiện
nam tử thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, nơi trong tỏ
ngộ, đạt được thể tánh ánh sáng lớn như hư không, trong chúng bỗng
nhiên hướng về chỗ tiêu diệt vĩnh viễn, đưa ra thuyết không có nhân
quả, giải thích rằng, lâu nay vấn đề lý Không vẫn thích hợp, tâm từ
nơi lý Không hiện tiền, cho đến tâm sanh trưởng và đoạn diệt. Nếu
được giác ngộ thì không bị tai hoạ, nhưng không phải đã được chứng
Thánh. Nếu giải thích cho là chứng Thánh thì có Ma Không vào tạng
phủ trong tâm của chúng, liền chê bai cho giữ giới là hạng Tiểu
Thừa; còn Bồ Tát đã ngộ được lý Không thì làm gì có Trì (giữ giới
thanh tịnh) và Phạm (Phạm giới)? Người của chúng thường ở nơi Đàn
Việt có tín tâm, chuyên uống rượu ăn thịt, hành dâm nhơ bẩn lan
rộng, nhân vì trước
kia Ma Lực thu hút lấy người của
chúng, cho nên chúng chẳng sợ nghi ngờ chê bai, Tâm Quỷ nhập vào
lâu ngày, hoặc ăn phân, uống nước tiểu, cùng uống rượu thịt vân
vân, mọi thứ đều cho là Không cả, phá luật nghi của Phật, người bị
tội lỗi, liền Chánh Thọ bị mất đi, đương nhiên bị trầm luân.
(Chín, lý Không giải thích trở
thành đứt đoạn)
Lại nữa trong Định kia, các thiện
nam tử thấy Sắc Ấm tiêu mất, Thọ Ấm lộ lên rõ ràng, mùi vị của
nó rõ ràng hư vọng; Thọ Ấm thâm nhập cốt tủy của Tâm; Tâm của
chúng bỗng nhiên ái dục phát sanh không hạn chế được, ái dục cực
thạnh thì phát điên cuồng, đây là cơ hội hành động tham dục và đây
cũng gọi là Định Cảnh (hoàn cảnh đã định) an tâm thuận lợi tiến
vào, lúc đó nếu không có trí huệ tự kềm chế thì bị sai lầm lâm vào
các việc hành dục; trường hợp này nếu giác ngộ thì không bị tai
hoạ, nhưng không phải đã được chứng Thánh. Nếu giải thích cho là
chứng Thánh thì có Ma Ái Dục nhập vào tạng phủ trong Tâm của chúng.
Lâu nay chúng thường nói dục là đạo bồ đề; khi chúng hoá thành các
Bạch Y (Các cư sĩ), chuyên đi hành dục không chừa ai; những đứa con do
chúng hành dâm sanh ra, gọi là Trì Pháp Tử. Vì năng lực của quỷ
thần, cho nên nơi trong đời mạt thế, khiến con cháu của chúng trở
thành kẻ phàm ngu; con cháu phàm ngu của chúng số đếm đến cả trăm,
như thế cho đến một trăm hai trăm người, hoặc năm sáu trăm người,
nhiều đến nỗi đầy khắp ngàn vạn nơi. Tâm Ma của chúng cũng sanh ra
vô hạn, Tâm Ma khi lìa thân thể, oai đức của chúng đã không còn,
chúng bị lâm vào nạn vua chúa (quốc gia), bị chúng sanh nghi lầm và bị
vào ngục Vô Gián, mất nơi Chánh Thọ, đương nhiên bị trầm luân.
(Mười, ái cùng cực trở thành
tham).
Này A Nan! Mười thứ Thiền Na (Thiền
Định) hiện cảnh đã được trình bày trên đều là do Thọ Ấm dùng Tâm
giao tiếp lẫn nhau hiện lên. Chúng sanh vì mê muội ngoan cố, không
chịu cân nhắc kỹ lưỡng, hễ gặp nhân duyên đây thì si mê không tự
hiểu biết, đại vọng ngữ lại xưng hô rằng đã được chứng Thánh.
Chúng sanh nếu xưng hô như thế sẽ bị đọa vào địa ngục Vô Gián. Các
ông cũng phải đem lời nói của Như Lai rằng, sau khi Như Lai diệt độ,
thông báo mười thứ thiền na hiện cảnh truyền đến đời mạt pháp phổ
biến khắp chúng sanh khiến được khai ngộ nghĩa này, đồng thời cũng
khiến không cho Thiên Ma ( Ma Trời) có cơ hội nắm được phượng tiện
đây, nhằm mục đích che chở bảo trì việc thành đạo vô thượng.
(Lời khuyên bảo về việc kết hợp
thái quá).
Này A nan! Các thiện nan tử kia tu
Tam Ma Địa (Tam muội: Đại Định), khi Thọ Ấm đã dứt, mặc dù hữu lậu
chưa dứt, Tâm của chúng đã lìa hình thể, cũng giống
con quạ được thoát ra khỏi lồng,
chúng có thể thành tựu từ thân phàm phu, trải qua sáu mươi bậc
Thánh của Bồ Tát đạt và được Ý Sanh Thân (nghĩa là thân thể được
sanh ra theo như ý muốn của mình) và đi lại tùy ý không bị ngăn ngại.
Thí dụ như có người nhiệt tình quá ngủ mê mớ rằng, con người mặc dù
sống có nguyên tắc, nhưng không phân biệt được chỗ hiểu biết thì
lời nói của họ đã trở thành âm vận có mạch lạc đấy thôi; họ khi
không còn ngủ mê thì lời nói của họ cảm nhận đó chỉ là Tưởng Ấm
khu biêt không gian. Niệm động nếu đã dứt thì tư tưởng mộng kia bị
Tâm sáng suốt giác ngộ khiến tiêu trừ, khác nào tẩy bỏ trần cấu,
giống như vấn đề sanh tử quán chiếu đầu đuôi trọn vẹn đều là do
Tưởng Ấm tận diệt. Con người thì có thể vượt qua phiền não trược,
quán chiếu thấy chỗ sanh ra nó đều quan hệ vọng tưởng làm căn bản.
(Cảnh Tưởng Ấm tiêu biểu chung
chính là Tướng Ấm).
Này A Nan! Các thiện nam tử kia, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm của họ
tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại định), Tâm của họ
vì quý yêu ánh sáng hoàn mỹ đây, cho nên tư duy tinh tế, tham cầu
lanh lợi tài giỏi. Lúc bấy giờ Thiên Ma chờ cơ hội, lén bay đến bám
vào người của họ, điều khiển miệng họ thuyết kinh pháp. Lúc đó họ cũng
không biết mình đã bị Ma
dựa vào, tự cho mình đã chứng Niết
Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần chúng trải tọa cụ khéo bảo quần
chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Họ đến thuyết pháp với nhiều hình thể,
hoặc làm Tỳ Kheo, hoặc làm Đế Thích, hoặc làm phụ nữ, hoặc làm Tỳ
Kheo Ni, hoặc ở trong nhà tối hay âm thất tối, để khiến mọi người
nhìn thấy thân thể của họ có hào quang. Riêng người ngu mê cho họ
là Bồ Tát và tin họ giáo hoá, chịu họ điều khiển cái tâm, phá
hoại giới luật của Phật, lén hành tham dục. Miệng của họ đối với
quần chúng luôn luôn nói những lời hoa mỹ như nói, những điều tai
họa sẽ biến thành phước lành, hoặc nói Như Lai xuất thế chỗ họ; họ
nói đến kiếp lửa, hoặc nói nói đến đao binh để khủng bố mọi người
và khiến tư gia của mọi người hao tốn vô cớ. Đây gọi là Quỷ Quái
(Quỷ kỳ lạ), chỉ người già mới thành quỷ này và quỷ này chuyên
môn làm não loạn mọi người, cho nên mọi người cảm thấy không yên,
sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá nhân thể của mọi người, đệ tử của họ
cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa (của quốc gia). Các ông
phải giác ngộ sớm thì không bị luân hồi. Còn các ông nếu mê hoặc
không biết thì nhất định phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Một, khéo tưởng tham thiện).
Này A Nan! Lại nữa các thiện nam
tử, khi Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm
của họ không còn lo nghĩ gặp phải
gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm của họ tự nhiên phát sanh
ánh sáng. Trong Tam Ma Địa, Tâm ái của họ buông lung, khiến họ suy
nghĩ tinh tế, tham cầu muốn trải nghiệm (muốn yêu). Lúc bấy giờ
Thiên Ma may mắn gặp tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ,
điều khiển miệng họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ cũng không
biết mình đã bị ma dựa vào, tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng,
rồi đến chỗ quần chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu
thuyết pháp. Họ thuyết pháp với hình thể không biến đổi và thính
giả nghe pháp bỗng nhiên thấy họ ngồi trên toà Liên Hoa, toàn thân
hoá thành Tử Kim Quang (Ánh sáng vàng tía); hội chúng nghe pháp ai
cũng đều thấy chưa từng có như thế. Riêng người ngu mê cho họ là Bồ
Tát, khiến dao động cái tâm, phá hoại giới luật của Phật, lén hành
tham dục. Miệng của họ đối với quần chúng luôn luôn nói những lời
hoa mỹ, như nói chư Phật ứng hiện nơi chỗ của họ, nơi người họ, họ
chính là Phật hoá thân đến đây; người họ tức là Bồ Tát đến hoá
độ nhân gian. Người đời thấy họ sanh tâm khao khát ngưỡng mộ. Những
người như thế đã bị tà kiến hưng thịnh, hạt giống trí tuệ tiêu mất.
Đây gọi là Quỷ Bạt (Quỷ chuyên gây tạo nắng hạn). Chỉ người già
mới thành quỷ này, quỷ này chuyên môn làm não loạn mọi người, cho
nên mọi người cảm thấy không yên, sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá
nhân thể của mọi người, đệ tử của họ cùng họ đều bị lâm vào tai
nạn của vua chúa (của quốc gia). Các ông phải giác ngộ sớm thì
không bị luân hồi. Còn các ông nếu mê hoặc không biết thì nhất định
phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Hai, tham đắm đi đến vọng tưởng).
Lại nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa, Tâm luyến ái
của họ chìm đắm và lôi cuốn tư duy tinh tế, tham cầu những điều quán
chiếu mong đạt được hợp lý. Lúc bấy giờ Thiên Ma may mắn gặp tiện
lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển miệng họ thuyết
pháp. Lúc đó người của họ cũng không biết mình đã bị Ma dựa vào,
tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần chúng
trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Họ thuyết
pháp với hình tướng và người nghe pháp kia, bên ngoài cả hai đều
không có biến đổi thái độ, khiến thính giả trước kia chưa từng nghe
pháp tâm tự khai ngộ. Nhưng tâm của họ thuyết pháp thì luôn luôn dễ
bị biến đổi, tự quảng cáo cho mình có Túc Mạng Thông, hoặc có Tha
Tâm Thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết những sự việc tốt xấu của
nhân gian; còn miệng họ giảng thi k đều tạo được nguồn vui chưa từng
có trong quần chúng. Riêng người ngu mê cho họ là Bồ Tát, Tâm luyến
ái của họ chìm đắm nhiễm ô, phá hoại luật nghi của Phật, lén hành
tham dục. Miệng của họ đối với quần chúng luôn luôn nói những lời
hoa mỹ, như nói có Phật lớn Phật nhỏ, tôi chính là Phật, tôi trước
cũng là Phật, tôi sau cũng là Phật. Theo họ Phật cũng có thiệt và
giả, cũng có nam và nữ, cho đến Bồ Tát cũng như thế. Người họ vì
thấy như thế, cho nên bản tâm của họ bị chìm đắm trong nhơ bẩn, dễ bị
vào đường tà. Đây gọi là Quỷ Mị, chỉ người già mới thành quỷ này,
quỷ này chuyên môn làm não loạn mọi người, cho nên mọi người cảm
thấy không yên, sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá nhân thể của mọi
người, đệ tử của họ cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa
(của quốc gia). Các ông phải giác ngộ sớm thì không bị luân hồi.
Còn các ông nếu mê hoặc không biết thì nhất định phải bị đọa vào
địa ngục Vô Gián.
(Ba, do tham hoà hợp với tưởng).
Lại nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa, Tâm luyến ái
căn bản của họ, xem xét đến cùng tánh chung thủy của mọi vật
chuyển hoá như thế nào khiến chúng nó trở nên trong trắng tinh xảo
bằng cách tham khảo phân tích mổ xẻ. Lúc bấy giờ, Thiên Ma may mắn gặp
tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển miệng họ
thuyết pháp. Lúc đó người của họ cũng không biết mình đã bị Ma dựa
vào, tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần
chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Trên
toà thuyết pháp, thân họ hiển lộ oai thần, chinh phục người cầu
pháp, khiến những kẻ chưa từng nghe pháp ở dưới pháp toà tự nhiên
tâm phục và họ bảo mọi người, các vị cũng sẽ được Phật đem về
Niết Bàn và cũng sẽ được Pháp Thân Bồ Đề; như hiện tiền đây, nhục
thân của ta, cùng với cha và các con, lần lượt thay nhau sanh ra, đấy
tức là pháp thân thường trụ không dứt và cũng đều chỉ hiện tại
đây tức là Phật quốc, không phân biệt tịnh cư (ở cõi tịnh) cùng
tướng kim sắc (tướng màu vàng anh). Quần chúng nghe họ thuyết pháp
liền tín thọ phụng hành mà quên mất đi trước kia tâm thân của mình
đã quy y và đã chứng được pháp Vị Tằng Hữu (Pháp chưa từng có).
Riêng người ngu mê cho họ là Bồ Tát, nhưng suy cứu đến cùng Tâm họ
phá hoại luận nghi của Phật, lén hành tham dục. Miệng của họ đối
với quần chúng luôn luôn nói những lời hoa mỹ như nói mắt, tai,
mũi, lưỡi đều là tịnh độ; hai căn của nam nữ tức là chỗ chân thật
Bồ đề Niết bàn; còn những kẻ không biết thì tin lời nói dơ bẩn
này. Đây gọi là Cổ Độc (đầu độc mê hoặc), ác quỷ này chuyên mê
hoặc ếm bùa và chỉ người già mới thành quỷ này, quỷ này chuyên
môn làm não loạn mọi người, cho nên quần chúng cảm thấy không yên,
sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá nhân thể của mọi người, đệ tử của họ
cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa (của quốc gia). Các ông
phải giác ngộ sớm thì không bị luân hồi. Còn các ông nếu mê hoặc
không biết thì nhất định phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Bốn, do tưởng, nên hay tham cầu
phân tích mổ xẻ).
Lại nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa, Tâm luyến ái
của họ ưa thích chạy theo nghiên cứu tinh tường những chỗ nguy hiểm
khắp nơi, tham cầu cảm thấy những chỗ sâu kín tối tăm. Lúc bấy giờ
Thiên Ma may mắn gặp tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ,
điều khiển miệng họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết
mình bị Ma dựa vào tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến
chỗ quần chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết
pháp. Họ thuyết pháp khiến quần chúng, lần lần thấy thân họ sống
lâu giống như trăm ngàn tuổi, liền sanh tâm ái nhiễm không thể xa
lìa họ, nguyện làm nô bộc và tứ sự cúng dường không biết mệt mõi;
quần chúng hết lòng kính trọng họ xem họ như tiên sư (thầy tiên tri),
như thiện tri thức; đặc biệt lời pháp của họ giảng ra phát sanh ái
ngữ dính vào quần chúng giống như băng keo, nước sơn, hấp dẫn chưa
từng có. Riêng những người ngu mê cho họ là Bồ Tát, rồi thân cận
với tâm của họ cùng nhau phá giới luật của Phật và lén hành tham
dục. Miệng của họ đối với quần chúng luôn luôn nói những lời hoa
mỹ như nói rằng, tôi ở đời trước được sanh ra từ nơi người nào đó
để độ họ trước; còn tôi ngày nay cùng vợ con và anh em hiện thời
đang độ lẫn nhau, cùng dẫn nhau đi về thế giới nào đó để cúng dường
đức Phật nào đó; họ hoặc nói họ đặc biệt có trời Đại Quang Minh
và chư Phật đang trụ nơi chỗ họ; cho đến chỗ ở nghĩ ngơi của tất cả
Như Lai, các người đều không biết đến, cho là hư dối bịp bợm, khiến
mất đi bản tâm. Đây gọi là Quỷ Lệ (Quỷ Ôn Dịch), chỉ người già mới
thành quỷ này và quỷ này chuyên môn làm não loạn mọi người, cho
nên quần chúng cảm thấy không yên, sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá
nhân thể của mọi người, đệ tử của họ cùng họ đều bị lâm vào tai
nạn của vua chúa (của quốc gia). Các ông phải giác ngộ sớm thì
không bị luân hồi. Còn các ông nếu mê hoặc không biết thì nhất định
phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Năm, do tham cho nên cảm tưởng tối
tăm).
Lại nữa, này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại Định), Tâm
luyến ái của họ ham thích sống tĩnh lặng, tự mình đi sâu vào rừng tìm
chỗ thanh vắng nghiêm khắc chăm chỉ tu tập. Lúc bay giờ Thiên Ma may
mắn gặp tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển
miệng họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết mình bị Ma dựa
vào, tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần
chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Họ
thuyết pháp khiến quần chúng đều biết bổn nghiệp của mình; nhân lúc
đó, ở nơi chỗ quần chúng, họ nói có người bảo rằng, ông này (chỉ
một ông trong chúng), ngày nay mặc dù chưa chết, nhưng đã tạo nhiều
nghiệp súc sanh, cho nên ông cuối cùng cũng bị chà đạp; rồi ngay lập
tức, họ khiến người đó đứng dậy không được, trước đại chúng ai
cũng đều chân thành khâm phục. Nhưng trong đại chúng đó, có người
khởi tâm đã biết mưu toan của họ liền nói, ngoài luật nghi của
Phật, người tu hành chú trọng gia công tinh tấn khổ hạnh, ai hủy bán
Tỳ Kheo, mạ lỵ đồ chúng, bới móc việc riêng của người khác, không
tránh khỏi mỉa mai thù hiềm. Nhưng họ vẫn tự nhiên và miệng của họ
đối với quần chúng luôn luôn nói những lời hoa mỹ như nói, nên
phòng ngừa trước họa phước, nguyên vì hoạ phước khi đã đến một chút
cũng không tránh khỏi. Sức mạnh của quỷ đây khiến người già thành
ma, chuyên đi não loạn mọi người, làm cho quần chúng cảm thấy không
yên, sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá nhân thể của mọi người, đệ tử
của họ cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa (của quốc gia).
Các ông phải giác ngộ sớm thì không bị luân hối. Còn các ông nếu
mê hoặc không biết thì nhất định phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Sáu, tư tưởng tham tĩnh mịch).
Lạy nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại Định), Tâm
luyến ái của họ ham thích về việc thấy và biết cho nên họ chuyên
cần kham khổ tham cầu Túc Mạng Thông. Lúc bấy giờ Thiên Ma may mắn
gặp tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển miệng
họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết mình đã bị Ma dựa
vào, tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần
chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Họ
là người không đứng đắn, nơi chỗ thuyết pháp, lại tuyên bố mình có
được Đại Bảo Châu; người Ma của họ có khi hoá làm súc sanh và
miệng súc sanh kia phun tràn ra Đại Bảo Châu, trong đó lẫn lộn Trân Bảo.
Còn sổ sách thư từ phù hiệu giấy tờ và các vật kỳ lạ khác, trước
cho người kia, sau ghi vào của riêng, rồi họ lại còn dụ người nghe
bảo rằng, ở dưới đất có tàng trử Minh Nguyệt Châu chiếu sáng nơi
chỗ của họ. Các thính giả nghe qua chuyện chưa từng có. Họ còn tuyên
bố với mọi người chính họ phần nhiều ăn dược thảo, không ăn những
món ngon sang quí, mỗi ngày chỉ ăn khoai sắn và dầu mè, nhưng ai cũng
đều nhìn thấy hình tướng của họ vẫn tròn đầy mập béo; họ sở dĩ
được hình tướng như thế là nhờ Ma lực bảo hộ, rồi từ đó họ đi bán
rao các Tỳ Kheo, mạ lỵ đồ chúng; những hành động và nói năng tội
lỗi vừa kể trên, họ không tránh khỏi người đời mỉa mai hiềm ghét.
Đã vậy, miệng của họ đối với quần chúng luôn luôn nói những lời
hoa mỹ rằng, nào ở phương kia có Bảo Tạng Như Lai, có mười phương
Thánh Hiền, hiện đang còn ở chỗ kín đáo không ai thấy. Nhưng riêng
họ đôi khi họ chỉ thấy có vài người kỳ lạ xuất hiện nơi chỗ sơn
lâm, nơi thỗ địa, nơi thần hoàng, nơi sông núi, đó là những loại Ma
hiện hình và những loại Ma này phần nhiều do người già biến thành.
Hơn nữa, họ tuyên bố cho rằng, hành dâm là hợp lý, rồi đi phá hoại
luật nghi của Phật, lại còn dụ dỗ những người phụng sự đạo pháp,
lén hành động ngũ dục, mặc dù những người phụng sự đạo pháp đây
đã tinh tấn tu hành thuần ăn rau cải, lúc đầu không chịu hành động
tội lỗi, nhưng vì bộ não của những người tu hành này bị Ma làm rối
loạn, lôi cuốn họ hành động theo. Từ đó quần chúng cảm thấy không
yên, sanh tâm nhàm chán. Vì đi phá nhân thể của mọi người, đệ tử
họ cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa (của quốc gia). Còn
các ông nếu mê hoặc không biết thì nhất định phải bị đọa vào địa
ngục Vô Gián.
(Bảy, vì vọng tưởng tham Túc Mạng
Thông).
Lạy nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định hoàn mỹ thì Tâm
của họ tự nhiên phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại Định), Tâm
luyến ái của họ ham thích Thần Thông, nhằm để mỗi mỗi đều biến hoá
cho quần chúng thấy và nghiên cứu nguồn gốc biến hoá đầu tiên, vì
thế tham cầu mau được thần thông. Lúc bấy giờ Thiên Ma may mắn gặp
tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển miệng họ
thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết mình đã bị Ma dựa vào,
tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần chúng
trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu họ thuyết pháp. Họ liền
biểu diễn trước quần chúng tay của họ cầm lấy ngọn lửa cháy sáng,
rồi đem ngọn lửa cháy sáng đó, rải trên đầu quần chúng, tức thì
trên đầu quần chúng ngọn lửa cháy sáng đó kéo dài cả thước mà không
cảm thấy nóng. Họ còn biểu diễn nào tự thiêu không cháy, hoặc đi
trên nước giống như đi trên đất bằng, hoặc ngồi yên bất động nơi
trong hư không, hoặc vào trong bình, hoặc ở trong bị, hoặc vượt qua cửa
sổ, xuyên thấu vách tường, mà không bị chướng ngại, cho đến ở trong
đao binh mà vẫn tự tại. Họ tự tuyên bố trước quần chúng rằng, họ
chính là Phật, thân họ là cư sĩ bạch y nhưng vẫn đắp y Tỳ Kheo,
thường huỷ bán Thiền Luật, mạ lỵ đồ chúng, bới móc việc riêng tư
của người khác, rồi đây họ không tránh khỏi người đời mỉa mai hiềm
ghét. Miệng của họ đối với quần chúng thường nói họ có thần thông
tự tại, có thể khiến mọi người nương nơi họ thấy được cõi Phật. Họ
sở dĩ có những hành động và lời nói tội lỗi như đã kể trên đều
là do năng lực của quỷ dụ dỗ, hoàn toàn không có chân thật. Họ
còn tán thán và khuyến khích việc hành dâm, không cần đoạn âm và
cho các việc môi giới hèn hạ là truyền pháp. Họ là Quỷ Đại Lực
Thiên Địa (Quỷ năng lực lớn của Trời Đất), trong đó bao gồm có:
năng lực của núi, năng lực của biển, năng lực của gió, năng lực
của sông, năng lực của đất, năng lực quỷ mị của tất cả cỏ cây
chất chứa tai hoạ; riêng quỷ mị chuyên báo thù, khiến các vị tiên
qua đời trở lại làm quỷ mị, như vị tiên chuyên trách kỳ hạn lâm
chung, tính tuổi phải chết; các quỷ này không biến đổi hình tướng,
kèm theo hành động quáy dị, chuyên làm não loạn mọi người và những
người già có khi trở thành loại quỷ này. Vì đi phá nhân thể của
mọi người, đệ tử họ cùng họ đều bị lâm vào tai nạn của vua chúa
(của quốc gia). Các ông nếu giác ngộ trước thì không bị luân hồi,
còn mê hoặc không biết thì bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Tám, vì mơ tưởng tham thần thông).
Lại nữa này các thiện nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định được hoàn mỹ thì
Tâm của họ phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại Định), Tâm luyến
ái của họ đã chấm dứt, họ bắt đầu nghiên cứu tánh chuyển hoá của
vạn vật, tham cầu đi sâu vào tánh Không. Lúc bấy giờ Thiên Ma may
mắn gặp tiện lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển
miệng họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết mình đã bị Ma
dựa vào, tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, rồi đến chỗ quần
chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết pháp. Nơi
trong đại chúng, hình tướng của họ bỗng nhiên biến mất, khiến đại
chúng ngạc nhiên nhìn mọi nơi không thấy họ, rồi lại từ nơi hư
không, hình tướng của họ đột nhiên xuất hiện, họ điều khiển hình
tướng của họ xuất hiện hay biến mất một cách tự tại; họ hiện
thân, nhìn thấu suốt như lưu ly và tay chân rủ xuống phát ra mùi thơm
chiên đàn; họ đại tiểu tiện to như đá mật ong; họ thường huỷ bán
chê bai giới luật và khinh khi người xuất giacủa họ thường nói,
không có vấn đề nhân quả, con người đã chết thì tất cả không còn,
cũng không có kiếp sau và cũng không có phàm thánh. Họ mặc dù đạt
được lý không tịch tịnh (lý tĩnh lặng của tánh không), nhưng họ dần
dần tiến hành tham dục. Dù rằng, họ là kẻ tham dục, ngược lại tâm
của họ cũng đạt được lý Không và phủ nhận lý nhân quả. Họ sở dĩ
bị tham dục lôi cuốn chính vì họ đã bị Nhật Nguyệt che khuất tinh khí.
Còn những cỏ thơm kim ngọc, lân phượng quy hạc (con kỳ lân, chim
phượng, quy là con rùa, hạc là chim hạc), nhờ Nhật Nguyệt che khuất
tinh khí, trải qua ngàn vạn năm không chết liền trở thành vật linh,
xuất sanh nơi quốc độ, khiến người già thành quỷ chuyên làm não
loạn mọi người, cho nên quần chúng cảm thấy không yên, sanh tâm nhàm
chán. Vì phá nhân thể của mọi người, đệ tử họ cùng họ đều bị lâm
vào tai nạn vua chúa (quốc gia). Các ông nếu giác ngộ trước thì
không bị luân hồi, còn mê hoặc không biết thì bị đọa vào địa ngục
Vô Gián.
(Chín, mơ tưởng tham cái không sâu
thẩm).
Lại nữa này các thiên nam tử, khi
Thọ Ấm của con người trở nên trống rổng tuyệt đối, thì Tâm của họ
không còn lo nghĩ gặp phải gian tà. Họ thiền định được hoàn mỹ thì
Tâm của họ phát sanh ánh sáng. Trong Tam Ma Địa (Đại Định), Tâm của
họ liền khởi lên sự luyến ái, muốn sống trường thọ, cho nên ra sức
khổ sở nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng để đạt đến mục đích; sự gia
công nghiên cứu của họ như trên là do tham cầu sống lâu, không muốn
chết yểu, họ luôn luôn hy vọng có khả năng biến đổi tình thế,
khiến hình tướng của mình sống lâu xinh đẹp. Lúc bấy giờ Thiên Ma may
mắn gặp tiên lợi, liền bay đến bám vào người của họ, điều khiển
miệng họ thuyết pháp. Lúc đó người của họ không biết mình đã bị Ma
dựa vào, rồi tự cho mình đã chứng Niết Bàn vô thượng, tiếp theo đến
chỗ quần chúng trải tọa cụ, khéo bảo quần chúng thỉnh cầu thuyết
pháp. Nơi trong đại chúng, họ khéo nói rằng, ở phương kia, con người
đi đi về về không bị vướng mắc ngừng trệ, trải qua vạn dặm và lặp
tức trở về chỗ cũ trong chớp mắt. Nơi phương kia con người mỗi khi
lấy đặng một vật gì từ nơi một xứ, hoặc nơi trong một nhà, đi nhanh
chỉ trong thời gian vài bước là lập tức mang vật đó từ nơi phía đông,
liền đến vách tường phía tây, so với người thường họ phải trải qua
nhiều năm chưa chắc đạt được như thế. Người tín tâm nghe họ nói ở
trên không bao giờ tin có Phật hiện tiền.
Họ thường thuyết giảng rằng, chúng
sanh trong mười phương đều là con của tôi và tôi cũng sanh ra chư
Phật; tôi ra đời một cách tự nhiên không giống như loài người, tôi
là Phật đầu tiên và tôi thành Phật không phải do tu hành. Họ chính
là Thiên Ma trụ thế tự tại, khiến quyến thuộc của họ giống như Già
Văn Trà, Tứ Thiên Vương, Tỳ Xá Đồng Tử. Còn những kẻ chưa phát tâm
thì trợ giúp cho họ công khai dối trá, hành động nhơ bẩn đi bú tinh
khí của người ta, họ tu hành không cần có thầy chỉ dạy, tự đích thân
quán chiếu, rồi xưng mình là Thần Chấp Kim Cang cũng sống trường thọ.
Họ hiện thân mỹ nhân chuyên hành tham dục. Họ chưa vượt qua năm
tuổi nhưng lá gan và bộ não của họ đều khô hết, Miệng họ luôn
luôn nói những lời ác độc, người nghe đều cho là Ma quái là Quỷ mị;
trước kia mọi người chưa biết họ đa số lâm vào tai nạn vua chúa
(quốc gia), còn những người chưa bị hình phạt thì trước hết cũng bị
chết khô và trước khi bị chết khô thì cũng đã làm não loạn mọi
người cho đến khi chết. Các ông nếu giác ngộ trước thì không bị luân
hồi, còn mê hoặc không biết thì bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
(Mười, do tưởng tham cầu sống
trường thọ).
Này A Nan phải biết, đây là mười
loại Ma, ở nơi đời Mạt Pháp, trong giáo pháp của ta, người xuất gia
tu hành, hoặc bị chúng Ma bám vào nhân thể (nguyên thể của con
người), hoặc chúng Ma tự hiện hình, đều nói với mọi người rằng,
chúng đã thành bậc Chánh Biến Tri Giác. Chúng khuyến khích cho việc
dâm dục là hợp pháp, phá hoại luật nghi của Phật, trước kia chúng
chính là thầy Ác Ma, cùng các đệ tử truyền bá thay nhau dâm dục;
chúng là bọn Tà Tinh, tâm của chúng bị Quỷ Mị bám vào, nếu tính gần
thì trải qua chín đời,
còn tính nhiều thì hơn trăm đời, khiến
người tu hành chân chánh trở thành quyến thuộc của Ma. Chúng sau khi
mạng chung lẽ tất nhiên làm dân của Ma, mất đi sự biết khắp chân
chánh, bị đọa vào địa ngục Vô Gián. Các ông trước kia chưa từng tịch
diệt, dầu cho là bậc vô học (là bậc đã đạt đến trình độ đạt đạo
không còn học nữa), đã phát nguyện lưu lại trong đời mạt pháp, đem
lòng đại từ bi cứu độ chúng sanh có chánh tâm thâm tín, khiến chúng
không bị vướng mắc nơi Ma Chướng, mau đạt đến Chánh Tri Kiến. Ta nay
độ ông (A Nan) ra khỏi sanh tử, ông lại tôn vinh lời Phật, gọi là
Báo Ân Phật. Này A Nan! Mười loại Ma nói trên, chúng hiện cảnh khi
Thiền Định, những cảnh đây đều là Tưởng Ấm, nếu đem tâm giao lưu với
chúng nó thì hiện ra các việc như kể trên. Chúng sanh cố chấp mê
muội, không tự cân nhắc, gặp nhân duyên đây không tự giác ngộ, mê
lầm tự cho mình đã chứng Thánh, đó là đại vọng ngữ, sẽ bị đọa vào địa
ngục Vô Gián. Các ông nhất định phải đem lời nói của Như Lai đây,
sau khi ta diệt độ, trình bày truyền bá cho đời mạt pháp, khiến chúng
sanh khắp nơi khai ngộ nghĩa đây, ngăn ngừa Thiên Ma, không cho chúng
nó có cơ hội, để bảo trì và che chở con đường thành đạo vô thượng.
(Kết luận những lời khuyên đã
trình bày ở trên).
II.- KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG
NGHIÊM
Quyển Thứ 10 (Trích Đoạn)
Này A Nan! Các thiện nam tử kia tu
Tam Ma Địa (Tam muội: Đại định), khi Tưởng Ấm đã chấm dứt, người bình
thường thì mộng tưởng bị tiêu diệt, riêng vấn đề giác ngộ và mê
muội nếu hiểu rõ nguồn cơn, luôn luôn chỉ có một đặc thù là thanh
tịnh và hư vọng; thanh tịnh dụ như hư không trong sạch sáng suốt, trong
đó hoàn toàn không có chút hình ảnh của các hiện tượng thô sơ, to
lớn và nặng nề trở lại hiện bày trong hư không, những hiện tượng
trong sạch sáng suốt đó là tiêu biểu cho thanh tịnh. Còn hư vọng dụ
cho các pháp trong thế gian, như sơn hà đại địa chẳng khác nào những
cảnh trong gương không có vật nào dán dính vào gương và những cảnh
đó đi qua không để lại vết tích trong gương, các pháp hư vọng đó tiêu
biểu cho mê muội; hư không khi tiếp nhận những cảnh vật của các
pháp chiếu hiện lên thì những cảnh vật của các pháp đó hiện bày
không chồng lên nhau và không vướng mắc nhau. Bản tánh của hư không
duy nhất tuyệt đối là hoàn toàn thuần chân không bị vướng mắc các
pháp và không bị các pháp lưu lại vết tích . Nguồn gốc của sanh diệt
khi choàng lên trong hư không liền biểu hiện cho thấy chính là mười
hai loại chúng sanh trong mười phương, mười hai loại chúng sanh đó nếu
xét cho cùng mặc dù chưa thông suốt mạng sống của mình như thế nào,
nhưng nhận thấy đầu mối nền tảng cơ bản sự sống của họ đều giống
như ngựa hoang nhảy lung tung,
chuyên quấy nhiễu làm ô nhiễm sự
trong sạch của thế gian, ngựa hoang đây ám chỉ cho Phù Trần Căn của
mười hai loại chúng sanh nói trên trong mười phương (tức là mười hai
loại giác quan nổi lên bên ngoài như con mắt, lỗ tai..v..v...). Phù
Trần Căn của mười hai loại chúng sanh trong mười phương đây chuyên
môn buông này bắt kia không dừng một chỗ (tức là chuyên môn phang
duyên); nhưng nghiên cứu then chốt mười hai loại chúng sanh trong mười
phương kia rốt ráo vô cùng phiền toái, tất cả đều do Hành Ấm trong
vũ trụ phân chia chủng loại. Nếu như quán chiếu vấn đề quấy nhiễu
(phang duyên) của ngựa hoang Phù Trần Căn nơi mười hai loại chúng sanh
kia gây tạo, họ sẽ thấy nguồn gốc quấy nhiễu (phang duyên) chính là
do Tánh Nhảy Lung Tung (tức là chỉ cho Tánh Phang Duyên) của ngựa hoang
Phù Trần Căn. Tánh nhảy lung tung (tánh phan duyên) một khi bị thanh
trừng (bị gạn lọc) thì không còn biến động nữa, điều duy nhất ở đây
chỉ thanh trừng những tập khí cặn bã nguyên thủy để trở lại thanh
tịnh, cũng giống như sóng ba đào không còn bị gió làm biến động nữa
thì trở lại yên lặng, chừng đó nước đục trở nên hoá thành nước
trong, hiện tượng thanh tịnh đây gọi là Hành Ấm bị tiêu diệt. Khi
Hành Ấm bị tiêu diệt, con người có thể vượt khỏi Chúng Sanh Trược
và quán chiếu trở lại nguyên do của Chúng Sanh Trược đều do vọng
tưởng ẩn khuất sâu kín bên trong chọn làm bổn mạng của con người.
(Cảnh Hành Ấm gọi chung là Ấm
Tưởng biểu thị.)
Này A Nan phải biết: Khi được hiểu
biết chân chánh thì trong Thiền Xa Ma Tha (Samatha: chỉ quán), các thiện
nam tử, tâm chân chánh sáng suốt của họ tích tụ vững chắc, vì thế
mười loại Thiên Ma không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo, nhờ đó
các thiện nam tử mới nghiên cứu được tinh tường; cuối cùng chúng Ma
kia sanh được một giống Ma để làm căn bản. Giống Ma căn bản đây,
đầu tiên sanh ra sương móc, nếu quán sát chỗ thanh vắng sâu thẫm kia,
giống Ma căn bản này cũng đầu tiên tạo sự biến động nhiễu loạn
khắp nơi đã được hoàn mỹ và trong sự biến động nhiễu loạn hoàn mỹ
đó, con người liền bị lôi cuốn theo và phát khởi tâm niệm tính toán
so lường, thế là con người bị rơi vào mê lầm hai luận thuyết không
có nguyên nhân:
1, Là con người, sự thấy của họ
vốn không có nguyên nhân. Tại sao thế? Nguyên vì khám phá toàn bộ
cơ quan sanh tồn của con người, họ liền biết, sự thấy của họ nương
nơi nhãn căn (giác quan con mắt), nhờ tám trăm công đức, thấy được
tám vạn kiếp và thấy được nguồn gốc sanh ra chúng sanh, đều do
nghiệp lực lưu chuyển tròn khắp, tiếp theo không dừng lại, thúc đẩy
con người chết chỗ này rồi lại sanh chỗ kia, đồng thời quán chiếu
chỗ khởi điểm luân hồi của chúng sanh, ngoài tám vạn kiếp ra, chính
là nơi sâu kín mà con
người không thể thấy đến được. Vì
con người không thể thấy được chỗ sâu kín đó, liền giải thích rằng:
tất cả chúng sanh trong mười phương nơi thế gian, từ tám vạn kiếp trở
lại đây đều không có nguyên nhân. Do sự tính toán so lường của họ,
con người mất đi Chánh Biến Tri (hiểu biết chân chánh phổ biến),
liền bị lạc vào ngoại đạo, hoặc mất đi tánh Bồ Đề.
2, Là con người, cuối cùng sự thấy
của họ không có nguyên nhân. Tại sao thế? Nguyên vì con người sanh
ra, họ chỉ thấy bằng căn (bằng giác quan) của họ, họ chỉ biết con
người sanh ra con người, con quạ sanh ra con qua, quạ từ trước đến nay
là đen thì không thể trắng, thiên nga từ trước đến nay là trắng
không thể đen, con người so với trời vốn hèn mọn, súc sanh vốn hung
dữ, màu trắng không phải do tắm gội mà thành, màu đen không phải do
nhiễm ô tạo nên, trải qua từ tám vạn kiếp đến nay màu sắc không
bao giờ thay đổi, hình tướng đây cuối cùng lại cũng như thế; còn các
ông chẳng thấy Bồ Đồ mà sao lại nói có thật Bồ Đề? Ngày nay các
ông nên biết, con người do sự tính toán so lường cho tất cả hiện
tượng sự vật trong thế gian đều không có nguyên nhân. Vì thế con
người họ mất đi Chánh Biến Tri (hiểu biết chân chánh phổ biến), sẽ
bị lạc vào ngoại đạo, hoặc mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo
thứ nhất họ lập luận không có nguyên nhân.
(Một là sự tính toán, hai là không
có nguyên nhân).
Này A Nan! Trong Thiền Tam Ma Đề (Tam
muội: Đại định), các thiện nam tử, tâm chân chánh sáng suốt của họ
tích tụ vững chắc, vì thế Thiên Ma không được tiện lợi để lôi cuốn
chỉ đạo, cuối cùng họ sanh được một giống Ma để làm căn bản. Nếu
quán sát chỗ thanh vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn bản này đầu tiên
thường tạo sự biến động nhiễu loạn khắp nơi và ở trong sự biến
động nhiễu loạn hoàn mỹ đó, con người bị lôi cuốn phát khởi tâm
niệm tính toán so lường, từ đó con người rơi vào sự mê lầm bốn
Thường Luận Biến Khắp (Luận về bốn thứ thường tại biến khắp).
1, Là con người, Tánh tận cùng nơi
Tâm và Cảnh của họ, cả hai chỗ đều không có nguyên nhân. Người tu
tập nên biết: trong hai vạn kiếp, chúng sanh trong mười phương, chỗ có
sanh và diêt, nhưng Tánh của Tâm và Cảnh cả hai đều xoay vần, chưa
từng bị tan biến và tiêu diệt, tính ra đều cho Tánh của Tâm và Cảnh
là Thường Tại.
2, Là con người, Tánh Tứ Đại của
con người, đầu tiên và sau cùng đều Thường Tại. Người tu tập nên
biết, trong bốn vạn kiếp, chúng sanh trong mười phương, chỗ có sanh diệt,
nhưng Thể của cả hai đều Thường
Tại, nghĩa là chưa từng bị tan biến
và tiêu diệt, nếu tính ra đều cho Tánh Tứ Đại là Thường Tại.
3, Là con người, Thức Mạt Na của
họ chấp thọ; Tâm, Ý, Thức, Tánh của chúng nó từ chỗ căn bản đầu
tiên là Thường Tại. Người tu tập nên biết, trong tám vạn kiếp, tất
cả chúng sanh đều bị xoay vần nhưng không mất, cho nên là Thường Tại
, Tánh của nó cuối cùng vẫn không mất, tính ra đều cho Tánh của nó là
Thường Tại.
4, Là con người, Tâm Tưởng của họ
đầu tiên đã tận diệt, Nguyên Lý Tự Nhiên liền xuất hiện, họ cho
Nguyên Lý Tự Nhiên đó là Thường Tại. Sự chuyển động và đình chỉ
của Tâm Tưởng này đã diệt vĩnh viễn, nhưng trong đó Nguyên Lý Tự
Nhiên của tâm trở thành không sanh diệt, Nguyên Lý Tự Nhiên đây là
chỗ của Tâm vượt qua, nếu tính toán suy cùng đều cho Nguyên Lý Tự
Nhiên là Thường Tại.
Do sự tinh toán cho Nguyên Lý Tự
Nhiên là Thường Tại đây, khiến làm mất đi Chánh Biết Tri (Sự hiểu
biết chân chánh phổ biến), liền bị lạc vào ngoại đạo, hoặc mất đi
tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo thứ hai, họ lập luận cho vấn đề
Thường Tại đã hoàn hảo.
(Hai, tính toán bốn thứ thường phổ
biến).
Lại nữa, trong Tam Ma Đề, các thiện
nam tử, Tâm chân chánh của các ông tích tụ kiên cố, vì thế Thiên Ma
không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo, cuối cùng họ sanh được
một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán sát chỗ thanh vắng sâu thẫm
kia, giống Ma căn bản này đầu tiên thường tạo sự biến động nhiễu
loạn khắp nơi, nơi trong sự biến động nhiễu loạn đó, con người khởi
lên tâm niệm tính toán so lường về vấn đề mình và người, thế là con
người từ đó bị rơi vào thấy bốn thứ điên đảo; trong bốn thứ điên
đảo đó chia làm hai phần: một phần là Vô Thường và một phần là
Thường Tại. Bốn thứ điên đảo gồm có:
1, Là con người, quán thấy Tâm
sáng suốt mầu nhiệm của họ biến khắp các cõi trong mười phương cho
là sáng suốt, cứu cánh chính là Thần Ngã, từ đây họ tính toán Thần
Ngã biến khắp mười phương, ánh sáng của Thần Ngã kết tụ không biến
động; tất cả chúng sanh ở nơi trong Tâm của Thần Ngã tự sanh tự
diệt. Tánh của Thần Ngã là Tâm, được cho là Thường. Còn Tánh của
sự sanh diệt kia mới là Vô Thường.
2, Là con người, họ quán chẳng
thấy cái Tâm của họ biến khắp hằng sa quốc độ trong mười phương;
nhưng họ chỉ thấy chỗ Kiếp Hoại (Kiếp Hoại, tức là một trong bốn
Trung Kiếp: Khiếp Thành, Kiếp Trụ, Kiếp Hoại và Kiếp Không. Thời
gian của mỗi Trung Kiếp gồm có
335.960.000 ngàn năm theo Tự Điển
Phật Học Hán Việt của Đoàn Trung Còn), và Chủng Tánh của Kiếp Hoại
cứu cánh là Vô Thường, còn chỗ Kiếp chẳng hoại cứu cánh của nó
là Thường.
3, Là con người, họ riêng quán cái
Tâm của Ngã nơi họ, tinh tế sâu kín mầu nhiệm, dụ như vi trần, lưu
chuyển khắp mười phương, Tánh của Tâm không bị cải biến dời đổi, có
thể khiến thân này liền sanh liền diệt, vì Tánh của Tâm không biến
hoại, cho nên gọi Tánh của Ngã là Thường. Tất cả sanh tử từ Ngã
lưu xuất nên gọi Tánh của sanh tử là Vô Thường.
4, Là con người, họ đã biết Tưởng
Ấm của họ chấm dứt, liền thấy Hành Ấm của họ lưu chuyển, vì Hành
Ấm thường lưu chuyển nên họ tính toán cho là Tánh Thường, còn Sắc,
Thọ, Tưởng..v..v... nay đã diệt mất, nên gọi là Tánh Vô Thường.
Do tính toán so lường đây, họ lý
luận cho là có một phần Vô Thường và có một phần Thường. Vì thế
họ bị lạc vào ngoại đạo hoặc mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo
thứ ba, họ lập luận cho một phần thuộc về Thường.
(Ba, tính toán một phần Thường).
Lại nữa trong Tam Ma Địa (Tam muội:
Đại Định), các thiện nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ
kiên cố, vì thế Thiên Ma không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo,
cuối cùng họ sanh được một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán sát
chỗ thanh vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn bản này, đầu tiên thường
tạo sự biến động nhiễu loạn khắp nơi; nơi trong sự biến động nhiễu
loạn đó, con người khởi lên tâm niệm tính toán so lường về vấn đề
Phần Vị (địa vị mỗi phần), thế là con người từ đó bị rơi vào bốn thứ
điên đảo là bốn thứ Biện Luận Hữu Biên (Bốn thứ biện luận có
biên giới). Bốn thứ biện luận hữu biên gồm có:
1, Là con người, đầu tiên tâm của
họ phát sanh tính toán, sử dụng lưu động không dừng. Tính toán sẽ
chấm dứt gọi là Hữu Biên ( có biên giới) và tính toán liên tục
gọi là Vô Biên (không có biên giới).
2, Là con người, họ quán thì thấy
có chúng sanh, còn trước tám vạn khiếp đều vắng lặng không nghe
thấy, chỗ không nghe thấy gọi là Vô Biên (không có biên giới), còn
chỗ có chúng sanh gọi là Hữu Biên (có biên giới).
3, Là con người, qua sự tính toán,
họ biết được cái Ngã rất phổ biến, nhờ Ngã phổ biến, họ biết
được tánh Vô Biên (Tánh phổ biến). Hơn nữa tất cả người
kia đều biết được cái Ngã (Ngã
Tri) chính là Tâm của họ hiểu biết, nhưng chính cái Ngã tự nó không
biết được nó (Ngã Bất Tri); còn Tánh biết của cái Ngã kia chính là
Tâm mà Tâm không thể đạt được gọi là Bất Đắc. Tâm của của cái
Ngã thì Vô Biên (không có biên giới) chỉ có Tánh của cái Ngã thì
Hữu Biên (có biên giới).
4, Là con người, Hành Ấm của nó
rốt cuộc đều là không, do nó thấy đường lối của tâm trù tính cân
nhắc nơi tất cả chúng sanh, trong một thân của họ gồm có phân nửa
sanh và phân nửa diệt, từ đó chứng minh thế giới của họ, tất cả
đều có một nửa Hữu Biên (có biên giới) và một nửa Vô Biên (không
có biên giới). Do sự tính toán so lường đây, vấn đề Hữu Biên và Vô
Biện lôi cuốn con người bị lạc vào ngoại đạo, hoặc mất đi Tánh Bồ
Đề. Đây là ngoại đạo thứ tư, họ lập luận có Hữu Biên.
(Bốn, tính toán có bốn Hữu Biên).
Lại trong Tam Ma Đề (Tam muội: Đại
Định), các thiện nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ kiên
cố, vì thế Thiên Ma không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo, cuối
cùng họ sanh được một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán sát chỗ
thanh vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn bản này, đầu tiên thường tạo
sự biến động nhiễu loạn khắp nơi; nơi trong sự biến động nhiễu loạn
đó, con người khởi lên tâm niệm so
lường luận về tính toán khắp hư không như:
1, Là con người, đầu tiên họ quán
về sự biến hoá, thấy chỗ di chuyển biến đổi, gọi đó là Biến, thấy
chỗ nối liền nhau gọi đó là Hằng, thấy chỗ nơi thấy gọi đó là
Sanh, thấy chỗ không thấy gọi đó là Diệt. Nguyên nhân nối liền
nhau, chỗ tánh của nguyên nhân không đứt đoạn, gọi đó là Tăng.
Chính trong chỗ nối liền nhau, lại có chỗ ly cách nhau gọi đó là
Giảm. Chỗ mỗi mỗi sanh ra gọi đó là Có, chỗ luôn luôn tiêu mất
gọi đó là Không. Vấn đề cũng có cũng không, cũng tăng cũng giảm,
nơi tất cả thời gian, lời nói của họ đều rối loạn, khiến người
trước kia đánh mất câu văn.
2, Là con người, họ nên để tâm
chăm chú quán sát nó, chỗ luôn luôn là Không, vì họ không chứng
đắc, lại có người hỏi, chỉ đáp một chữ là Không (không có họ) ,
ngoại trừ cái Không ra, không có chỗ để bàn luận.
3, Là con người, họ nên để tâm
chăm chú quán sát nó, chỗ mỗi mỗi đều Có, vì họ có chứng đắc,
lại có người hỏi, chỉ đáp một chữ là Có (họ có chứng đắc). Ngoại
trừ cái Có ra, không có chỗ để bàn luận.
4, Là con người, họ thấy Có không
được đầy đủ, nguyên vì cảnh của họ thấy quá nhiều nhánh lá khiến
tâm của họ cũng bị rối loạn, lại có người hỏi, chỉ đáp một câu là
Cũng Có, nhưng trong câu Cũng Có lại có Cũng Không, ngược lại trong
Cũng Không chưa chắc là Cũng Có; tất cả câu hỏi và đáp trên đây
chỉ lừa dối để làm rối loạn con người, cuối cùng họ không nên tiếp
nhận những câu có tánh cách cật vấn (câu hỏi vặn ngược). Do sự
tính toán so lường đây, những câu lừa dối để làm rối loạn đều là
không thật. Nếu không khéo họ bị lôi cuốn lạc vào ngoại đạo hoặc
mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo thứ năm, họ lập luận có bốn
tánh điên đảo, vấn đề bốn tánh điên đảo lừa dối để làm rối loạn
không bị tiêu diệt thì sự tính toán so lường sẽ biến khắp hư không.
(Năm, sự tính toán tạo bốn thứ
lừa dối làm nhiễu loạn).
Lại nữa trong Ta Ma Đề, các thiện
nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ kiên cố, vì thế Thiên Ma
không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo, cuối cùng họ sanh được
một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán sát chỗ thanh vắng sâu thẫm
kia, giống Ma căn bản này đầu tiên thường tạo sự biến động nhiễu
loạn khắp nơi; nơi lưu chuyển vô tận kia, con người khởi lên tâm niệm
vọng tưởng, liền bị rơi vào Hữu Tướng (Tướng Có), cho nên sau khi
chết, lại phát tâm điên đảo, cho sắc chất nơi thân kiên cố của mình
là Ngã, hoặc thấy
cái Ngã đã được hoàn mỹ, liền
bảo khắp cả các quốc độ đều cho cái Ngã là thuộc về sắc chất,
hoặc bảo duyên trước kia cũng theo Ngã luân hồi trở lại; cho sắc
chất là thuộc về Ngã, hoặc cái Ngã căn cứ nơi trong hành động liên
tục nhau, đều cho nó (ngã) ở nơi sắc chất. Còn căn cứ nơi Hữu
Tướng, họ tính toán so lường cho rằng Hữu Tướng sau khi chết, theo sự
xoay vần, gồm có mười sáu Tướng (Xem lại Tự Điển Phật Học). Căn cứ
theo đây mà tính toán, con người sau khi chết, cuối cùng rơi vào phiền
não hoặc cuối cùng không đạt đến bồ đề, nhưng hai tánh phiền não
và bồ đề đều riêng biệt nhau, cả hai không lệ thuộc nhau. Do đó tính
toán so lường, con người sau khi chết vì có Tướng cho nên bị rơi vào ngoại
đạo, hoặc mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo thứ sáu, vì tâm họ
điên đảo liền lý luận căn cứ trong năm Ấm thành lập con người sau
khi chết đều có Tướng.
(Sáu, tính toán có mười sáu
Tướng).
Lại nữa trong Tam Ma Đề, các thiện
nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ kiên cố, vì thế Thiên Ma
không được tiện lợi để lôi cuốn chỉ đạo, cuối cùng nó sanh ra được
một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán sát chỗ thanh vắng sâu thẫm
kia, giống Ma căn bản này đầu tiên thường tạo sự biến động nhiễu
loạn khắp nơi; nơi trong Sắc Thọ Tưởng, có người trước hết tính toán
so lường tìm cách trừ diệt cho hết; vì muốn
diệt trừ Sắc Thọ Tưởng, họ bị rơi
vào ấn tượng sau khi chết không có Tướng, cho nên tâm của họ trở
nên phát sanh điên đảo như, khi thấy Sắc bị diệt thì biết hình tướng
con người không lý do tồn tại, khi thấy Tưởng bị diệt thì biết tâm
con người không bị trói buộc, khi biết Thọ bị diệt thì con người không
còn quan hệ để trở lại, khi Tánh Âm của con người bị tiêu tán thì
Tánh Dương của con người không có cơ hội giao kết với nhau, lúc đó
giả sử con người không có Thọ Tưởng thì chừng đấy so với cỏ cây
không khác nhau. Trên thực tế hiện tiền đây nếu không có Sắc Thọ
Tưởng thì làm thế nào, con người sau khi chết lại có các Tướng? Nhưng
đối chiếu tra xét của nguyên nhân, cuối cùng con người sau khi chết thì
không có Tướng, từ đó xoay vần có tám cái không Tướng. Từ tám cái
không Tướng đây nếu tính toán, theo nhân quả của Niết Bàn, tất cả
đều là Không, nghĩa là không có tên chữ của Sắc Thọ Tưởng, cuối
cùng tất cả đều đoạn diệt. Con người vì tính toán so lường đây cho
nên sau khi chết bị rơi vào ngoại đạo, hoặc mất tánh Bồ Đề. Đây là
ngoại đạo thứ bảy, vì tâm họ điên đảo liền lý luận căn cứ trong
năm Ấm, thành lập con người sau khi chết thì nhất định không có
Tướng.
(Bảy, tính toán tám không Tướng).
Lại nữa trong Tam Ma Đề, các thiện
nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ kiên cố, vì thế Thiên
Ma không được tiện lợi, cuối cùng
nó sanh ra được một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán chỗ thanh
vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn bản này, đầu tiên thường tạo sự
biến động nhiễu loạn khắp nơi, khiến Hành Nghiệp, bao gồm cả Thọ,
Tưởng chịu ảnh hưởng đều bị tiêu diệt. Từ đó con người tính toán cho
thấy, cả hai vấn đề Có và Không, tự thể của nó nếu tách ra nhau,
thì bị rơi vào lý luận điên đảo cho rằng, con người sau khi chết đều
không phải có (tức là không) và cũng không phải không (tức là
có), nghĩa là Hành Nghiêp của họ trôi chảy bên trong, do đó họ xét
thấy không có con người (không phải có) nhưng không phải không có
Hành Nghiệp (không phải không). Xoay vần như thế đến cùng tận trong
cõi Âm đầy đủ có tám loại không phải Tướng, tuỳ theo được một
duyên nào đó liền nói con người sau khi chết, có Tướng (không phải
không) của không Tướng (không phải có). Hơn nữa, lại tính toán các
Hành Nghiệp, vì tánh Hành Nghiệp di chuyển sai lầm cho nên tâm họ
phát sanh hiểu biết thông suốt, cho rằng Có (Hành Nghiệp) và Không
(không có Hành Nghiệp) đều không phải (không đúng), hư và thật mất
đi sự sắp xếp. Cũng do tính toán so lường đây, con người sau khi chết
đều không phải (không phải có con người), sau bên bờ tối tăm, vì
không thấy đạo, nên họ bị rơi vào ngoại đạo, hoặc mất đi tánh Bồ
Đề. Đây là ngoại đạo thứ tám, vì tâm họ điên đảo liền lý luận
căn cứ trong năm Ấm thành lập con người sau khi chết đều không phải
(không phải có năm Ấm)
(Tám, tính toán tám điều không
phải).
Lại nữa trong Tam Ma Địa, các thiện
nam tử, tâm chân chánh của các ông kết tụ kiên cố, vì thế Thiên Ma
không được tiện lợi, cuối cùng nó sanh ra được một giống Ma để làm
căn bản. Nếu quán chiếu chỗ thanh vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn
bản này, đầu tiên thường tạo sự biến động nhiễu loạn khắp nơi,
khiến con người đời sau không có con cháu nối dòng; cho nên con người
sanh tâm tính toán so lường liền bị rơi vào luận thuyết của bảy đoạn
diệt như là, thân đoạn diệt, thọ đoạn diệt, dục đoạn diệt, khổ
đoạn diệt, lạc đoạn diệt, ưu đoạn diệt, bi đoạn diệt, cho đến cuối
cùng là xả bỏ đoạn diệt; tính toán xoay vần như thế cho đến cùng
tận là bảy ranh giới. Hiện tiền bảy đoạn diệt bị tiêu diệt và đã
tiêu diệt thì không trở lại. Do tính toán so lường cho con người sau
khi chết đều bị đoạn diệt, vì thế họ liền bị lạc vào ngoại đạo,
hoặc mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo thứ chín, tâm họ điên
đảo liền lý luận căn cứ trong năm Ấm thành lập con nggười sau khi
chết đều bị đoạn diệt.
(Chín, tính toán có bảy đoạn diệt).
Lại nữa trong Tam Ma Đề, các thiện
nam tử, tâm chân chánh của các ông
Ma không được tiện lợi, cuối cùng
nó sanh ra được một giống Ma để làm căn bản. Nếu quán chiếu chỗ thanh
vắng sâu thẫm kia, giống Ma căn bản này, đầu tiên thường tạo sự
biến động nhiễu loạn khắp nơi, khiến con người đời sau có con cháu
nối dòng; cho nên con người sanh tâm tính toán so lường, liền bị rơi
vào luận thuyết năm Niết Bàn. Hoặc cho Dục Giới chính là nơi Chuyển
Y (nơi chỗ lưu chuyển), quán thấy ánh sáng hoàn mỹ, sanh tâm ái mộ;
hoặc chọn sơ thiền vì nơi đó không có tánh buồn lo; hoặc chọn nhị
thiền vì nơi đó không có tâm khổ não; hoặc chọn tam thiền vì nơi đó
bất kỳ lúc nào cũng rất thích thú; hoặc chọn tứ thiền vì nơi đó
khổ vui đều không còn và nhờ thoát khỏi tánh sanh diệt cho nên
không bị luân hồi. Vì mê cõi Trời Hữu Lậu (cõi còn bị luân hồi),
con người tu tập pháp giải thoát Vô Vi (pháp không còn bị luận hồi)
thì đạt được năm chỗ an ổn, rồi cho năm chỗ an ổn đó là Niết Bàn
đáng nương tựa, nhưng năm chỗ an ổn đó xét cho cùng còn bị xoay vần.
Hiện tại con người tu tập nếu nương tựa năm chỗ an ổn Niết Bàn đây
liền bị rơi vào ngoại đao, hoặc mất đi tánh Bồ Đề. Đây là ngoại đạo
thứ mười, tâm họ điên đảo liền lý luận chọn lấy năm Ấm thành lập
năm chỗ an ổn hiện tại cho là Niết Bàn.
(Mười, tính toán cho năm chỗ an ổn
là Niết Bàn).
Này A Nan! Mười thứ thiền định giải
thích cuồng loạn như thế, đều do dùng tâm qua lại với Hành Ấm, cho
nên hôm nay mới được tỉnh ngộ. Chúng sanh vì mê muội cố chấp, không
tự ngẫm nghĩ suy xét, hiện tiền gặp mê muội cho là giải thoát, liền
tự phát ngôn bảo mình đã chứng Thánh, như thế thành đại vọng ngữ,
bị đọa vào địa ngục Vô Gián. Ông nhất định phải đem lời nói của Như Lai,
sau khi ta diệt độ, chỉ thị truyền đến đời mạt pháp, khiến chúng sanh
khắp nơi giác ngộ hoàn toàn nghĩa đây, khiến tâm Ma của chúng sanh
không cho tự đâm chồi mọc lên, để duy trì che chở bảo hộ sự tiêu
diệt tà kiến khiến được chấm dứt, đồng thời giáo dục thân tâm họ,
khai mở giác ngộ chân nghĩa nơi đạo vô thượng, không bị cành lá khác
nhau, khiến tâm của họ chớ mong cầu được chút ít cho là đủ, cần
phải tu tập bày tỏ đạt đến chỉ tiêu là thành vua Đại Giác thanh
tịnh.
(biểu thị kết quả vượt qua chuyên
cần).
Này A Nan! Thiện nam tử kia tu Tam Ma
Đề, khi thấy Hành Ấm đã dứt, các tánh thế gian liền bị chỗ thanh
vắng sâu thẫm kia làm biến động nhiễu loạn, đồng thời phân chia các
tánh thế gian sanh ra những điểm then chốt, rồi bỗng nhiên hủy hoại
tan vỡ rất nhanh; nhưng trong đó chỉ còn lại Bổ Đặc Già La là điểm
chủ yếu, họ liền nắm bắt nó rất rất kỹ càng, cùng lúc họ bị
nghiệp lực lôi cuốn thực hiện say đắm thâm sâu,
cảm ứng nguy hiểm tuyệt đối nơi
cõi Trời Niết Bàn mà nơi đó họ muốn hiểu biết rõ cùng khắp; bỗng
nhiên họ nghe tiếng kêu giống như gà con, liền ngửa mặt ngoảnh lại trông
nhìn về phương đông, đã thấy màu sắc tuyệt đẹp. Khi sáu căn của họ
tĩnh lặng trống rỗng, họ lại không trở về sử dụng nhàn hạ mà cứ
tiếp tục đi vào nơi trong ngoài đều sáng suốt sâu dầy, nhưng trong đó
họ không thấy chỗ nào cả chỉ thấy chỗ thông suốt sâu xa khắp mười
phương kia có mười hai giống loại, mười hai giống loại đây, chúng nó
đầu tiên thọ mạng đều do sự chấp trước kết thành; chúng nó đã
không tập hợp lại mà tản mát khắp mười phương cõi, mặc dù chúng
nó đã đạt được những thứ sắc đẹp không tĩnh lặng giống nhau. Thiện
nam tử kia phát hiện chỗ thăm thẳm bí mật đó chính là Thức Ấm chia
cắt vũ trụ; nếu nơi mười hai giống loại nói trên không tập hợp thì
trong những thứ sắc đẹp không tĩnh lặng giống nhau đó, Thức Ấm của
chúng nó tiêu diệt sáu cửa (nhãn thứ, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức) và chỉ hợp lại nhau khai mở thành hai cửa
là nhãn thức và nhĩ thức, hai thức này của chúng nó sử dụng thấy
nghe lân câïn lẫn nhau thông suốt thanh tịnh. Mười phương thế giới và
cùng thân tâm của chúng nó trong ngoài ánh sáng thấu suốt giống như
lưu ly, bỗng nhiên chúng nó cảm thấy nghe tiếng lưu ly khua động, tức
là báo hiệu Thức Ấm của chúng nó bị tiêu diệt. Trong mười hai giống
loại,
chúng nó nếu là con người thì có
thể siêu thoát khỏi Mạng Trược, liền nhận thấy chỗ của nó hiện
tượng không có gì khác ngoài hư vô, tất cả đều do vọng tưởng điên
đảo chọn làm bổn mạng.
(Cảnh Thức Ấm toàn bộ biểu thị
Tưởng Ấm).
A Nan nên biết: Là thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng đều trở về Không thì Thức của các ông đầu
tiên trở lại tiêu diệt được sự sanh diệt mà nơi chỗ tịch diệt đó,
tinh thần mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, cũng có thể
khiến thân căn ngăn cách của mình phối hợp cùng với mười phương khai
mở các loại tri giác dung thông, tri giác khi được dung thông cùng
khắp thì đã vào chỗ hoàn mỹ. Các ông nếu muốn trở về chỗ chân
thể thì phải phát nguyện thiết lập nhân của chân thường để nhờ đó
phát sanh lý giải thù thắng; các ông nếu chấp lấy chỗ nhân chân
thường cho đó là lý tưởng thì bị đoạ vào nơi của Sa Tỳ Ca La, tức là
chỗ tối tăm chân thật và chọn Sa Tỳ Ca La là bạn lữ của mình. Thế
là các ông đam mê Phật Bồ Đềâ cho nên quên mất tri giác. Đây là
thứ nhất, chấp tâm chỗ đạt được cho là đã thành quả nơi chốn trở
về, nhưng thật ra các ông đã cách xa ngược lại với sự dung thông
hoàn mỹ, đó là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông
đã sanh vào giống ngoại đạo.
(Một là lý do chấp chỗ nhân chân
thường).
Này A Nan! Lại nữa các thiện nam
tử, các Hành khi cuối cùng đều trở về Không thì Thức của các ông
đầu tiên trở lại tiêu diệt được sự sanh diệt mà nơi chỗ tịch diệt
đó, tinh thần mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, các ông
nếu muốn về nơi chỗ chân thể để xem ngắm tận hư không cõi, trong đó
có mười hai loại chúng sanh đều nằm trong tự thể của các ông và
trong ngã thân của các ông có một loại lưu xuất sanh ra kẻ lý giải
thù thắng, nếu họ là người thì bị đọa chỗ chấp trước không thể
không chấp (năng phi năng chấp) nơi Ma Ê Thủ La. Hiện tại thân của
các ông rộng lớn vô biên và Ma Ê Thủ La là bạn lữ của các ông.
Các ông đam mê Phật Bồ Đề, cho nên quên mất tri kiến. Đây là thứ
hai, các ông cho khả năng thành lập chính là tâm và khả năng thành
tựu sự việc chính là quả. Các ông vì đam mê chấp trước lý giải thù
thắng, cho nên cách xa và ngược lại với sự dung thông hoàn mỹ, đó
là mặt trái của thành trì Niết Bàn, cho nên các ông liền sanh vào
cõi Trời Đại Mạn (Cõi Trời ngạo mạn to lớn), nơi đây thứ ngã mạn
khắp cả đều đã hoàn mỹ.
(Hai là chấp trước không thể không
chấp).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng đều trở về Không thì Thức của các ông đầu
tiên trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ tịch diệt đó, tinh
thần mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa
hoàn mỹ, các ông nếu muốn trở về
nơi chân thể để có chỗ nương tựa, nhưng các ông tự nghi ngại nơi
thân tâm của mình, vì mười hai loại chúng sanh kia lưu xuất khắp mười
phương hư không, cùng chúng nó sanh khởi; liền từ nơi cùng sanh khởi
với chúng nó, các ông lại muốn tạo ra cái thân chân thường không
sanh diệt ở trong chỗ vô thường sanh diệt lưu chuyển. Các ông ở trong
chỗ sanh diệt mà lại tính toán mình được thường trụ, mặc dù các ông
không bị ràng buộc bởi sự sanh diệt nữa nhưng còn nằm trong vòng mê
hoặc sanh diệt, còn an trụ chìm đắm trong vòng mê lầm. Các ông nếu
còn an trụ chìm đắm trong vòng mê lầm mà lại đam mê chấp trước lý
giải thù thắng thì bị đọa vào sự chấp trước không phải thường trụ
cho là thường trụ; hoặc tính toán ở cõi trời mà lại tự cho mình là
bạn lữ của các vị tiên. Các ông vì đam mê Phật Bồ Đề cho nên quên
mất tri kiến. Đây là thứ ba, các ông thành lập chọn nương nơi tâm
làm nguyên nhân và trở thành vọng chấp làm kết quả, cho nên còn
cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn mỹ, đó là mặt trái
của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát sanh hạt giống điên
đảo hoàn mỹ.
(Ba là không phải thường chấp là
thường).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh
thần mầu nhiệm của các ông mặc
dù chưa hoàn mỹ, các ông ở nơi chỗ hiểu biết, nhờ sự hiểu biết đã
được phổ biến trọn vẹn, liền chọn lấy sự hiểu biết làm nhân để
thiết lập lý giải, cho cỏ cây trong mười phương đều có tình cảm,
cùng với con người không khác, cỏ cây chính là con người, con người
chết lại trở thành cỏ cây trong mười phương, không cần sự hiểu biết
cùng khắp. Các ông nếu sanh ra sự lý giải thù thắng trên đây, chính
là người bị đọa vào chấp trước cho sự hiểu biết là vô tri, như Bà
Tra, Tán Ni đều chấp trước tất cả sự giác ngộ đều là nạn nhân của
chúng. Các ông vì đam mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri kiến. Đây là
thứ tư, tính toán chấp tâm hiểu biết hoàn mỹ trở thành kết quả sai
lầm hư vọng, còn cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn mỹ,
đó là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát sanh
hạt giống điên đảo.
(Bốn là chấp hiểu biết là vô
tri).
Lại nữa, này các thiện nan tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần
mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, các ông ở nơi chỗ dung
thông hoàn mỹ và ở trong các căn sử dụng lẫn nhau đã được tùy
thuận, đồng thời ở chỗ chuyển hóa viên dung, liền phát sanh mong cầu
tất cả ánh sáng của lửa, thanh tịnh của nước an
lạc, lưu chuyển khắp của gió yêu
thương, thành tựu thấy quần chúng khắp cõi trần, mỗi mỗi sự việc
đều đầy đủ; do đây các ông phát khởi tạo lập nguyên nhân căn bản
để lý giải thường trụ thì sẽ bị đọa vào chấp trước chỗ sanh tử cho
là vô sanh. Các ông cũng giống như các vị Ca Diếp Ba, Bà La Môn,
chuyên dùng tâm sai khiến bản thân, phụng sự lửa để cầu nước và
cầu ra khỏi sanh tử, đồng thời cho Ca Diếp Ba, Bà La Môn đều là bạn
lữ của các ông. Các ông vì mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri kiến.
Đây là thứ năm, do các ông dùng tâm mê vọng tính toán sự việc
chạy theo vật chất, nương tựa nguyên nhân mê vọng thiết lập mong cầu
thì đi đến kết quả sau lưng của mê vọng mong cầu, cách xa và trái
ngược với sự dung thông hoàn mỹ, đó là mặt trái của thành trì Niết
Bàn, thế là các ông phát sanh hạt giống điên đảo biến hoá.
(Năm là sanh tâm chấp trước vô
sanh).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần
mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, nhưng các ông ở chỗ ánh
sáng hoàn mỹ, tính toán ánh sáng trong hư không, không tiêu diệt
quần chúng chuyển hoá để nương tựa vĩnh viễn nơi sự tiêu diệt làm
chỗ quy về. Nơi chỗ nương tựa vĩnh viễn sự tiêu diệt, các ông nếu
phát sanh giải lý thù thắng thì sẽ bị đọa
vào sự chấp trước trở về nơi chỗ
không trở về. Trong Vô Tưởng Thiên, các ông cho các vị Thuấn Nhã Đa
là bạn lữ của các ông. Các ông đam mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri
kiến. Đây là thứ sáu, tâm hoàn mỹ hư vô liền trở thành quả mất
hẳn lý Không, cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn mỹ, đó
là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát sanh hạt
giống đoạn diệt.
(Sáu là chấp trước trở về chỗ
không trở về).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần
mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, nếu các ông thường ở
nơi hoàn mỹ, kiên quyết bảo vệ thân thể cho được thường trụ, đồng
thời ở nơi tinh thần hoàn mỹ, lớn lên nhất quyết không nghiêng đổ.
Các ông phát sanh giải lý thù thắng thì sẽ bị đọa vào chỗ chấp
trước cho tham không phải là tham, đồng thời cho các vị A Nan Đà, Cầu
Trường Mạng đều là bạn lữ của các ông. Các ông đam mê Phật Bồ Đề
mà quên mất tri kiến. Đây là thứ bảy, các ông chấp trước mạng
sống đầu tiên, kiên quyết thành lập nguyên nhân mê vọng đi tới kết
quả lớn lao khó nhọc, cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn
mỹ, đó là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát
sanh hạt giống đoạn diệt.
(Bảy là chấp trước cho tham không
phải là tham).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần
mầu nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, các ông nếu nhận thấy
mạng căn dung thông lẫn nhau, nhưng vẫn muốn lưu lại trần lao, sợ nó
bị tiêu diệt hoàn toàn, lại ở nơi bờ mé sanh tử này, các ông ngồi
ở trong cung Liên Hoa, rộng hoá hiện bảy báu, thêm nhiều báu vật
của mỹ nữ, tâm tha hồ thích thú, liền phát sanh lý giải thù thắng
thì bị đọa vào chấp trước cho chân thật trong chỗ không chân thật,
đồng thời cho các vị Tra Chỉ, Ca La trở thành là bạn lữ của các ông.
Các ông đam mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri kiến. Đây là thứ tám,
các ông phát sanh tâm tư không chánh đáng, thành lập quả vi trần
sôi sục bừng bừng, cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn
mỹ, đó là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát
sanh hạt giống Thiên Ma.
(Tám là chấp trước cho chân thật
trong chỗ không chân thật).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành khi cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên
trở lại tiêu diệt sự sanh diệt, mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần
mầu nhiệm của các
các ông nơi trong mạng sống sáng
suốt, phân biệt được nào là tinh tế nào là thô sơ, trình bày rõ
ràng quả quyết nào là chân nào là ngụy và nhân quả giao tiếp với
nhau, chỉ cầu cảm ứng. Mặt trái của đạo thanh tịnh: chỗ gọi là thấy
khổ thì đoạn tập, chứng diệt nhờ tu đạo, ở chỗ diệt đã ngừng nghỉ,
lại không chịu tiến về phía trước, mà những nơi đó các ông chỉ chú
trọng phát sanh lý giải thù thắng thì bị rơi vào tánh định Thinh Văn.
Các ông nếu là Tăng sĩ không chịu nghe, lại thân cận kẻ tăng thượng
mạn, cho họ là bạn lữ. Các ông đam mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri
kiến. Đây là thứ chín, các ông mặc dù tâm đã cảm ứng tinh tấn
hoàn mỹ, đã đạt thành quả Thú Tịch (quả xu hướng tĩnh lặng), nhưng
còn cách xa và trái ngược với sự dung thông hoàn mỹ, đó là mặt
trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông phát sanh hạt giống
ràng buộc vào Tánh Không.
(Chín là Định tánh Thinh Văn).
Lại nữa, này các thiện nam tử,
các Hành cuối cùng trở về Không thì Thức của các ông đầu tiên trở
lại tiêu diệt sự sanh diệt, mà nơi chỗ sanh diệt đó, tinh thần mầu
nhiệm của các ông mặc dù chưa hoàn mỹ, các ông nơi chỗ dung thông
hoàn mỹ, giác ngộ được ánh sáng thanh tịnh, liền phát tâm nghiên cứu
mầu nhiệm sâu xa, lập tức thành lập Niết Bàn nơi đó, mà không chịu
tiến về phía trước. Đã vậy ở nơi đó các
ông còn phát sanh lý giải thù
thắng, nếu là người thì bị sa vào tánh định Bích Chi. Những kẻ mà tâm
họ chẳng cách xa các duyên cùng loại độc lập, trở thành là bạn lữ
của các ông. Các ông đam mê Phật Bồ Đề mà quên mất tri kiến. Đây
là thứ mười, tâm các ông thấm nhuần Viên Giác trở thành quả ánh
sáng sâu dày, nhưng còn cách xa và trái ngược với sự dung thông
hoàn mỹ, đó là mặt trái của thành trì Niết Bàn, thế là các ông
phát sanh được ánh sáng Viên Giác, chẳng qua chỉ là hạt giống hoàn
mỹ mà thôi.
(Mười là định tánh Viên Giác).
Này A Nan! Mười thứ Thiền Na (Thiền
Định) như thế, đều nằm trong con đường trở thành cuồng loạn, nguyên
nhân là do nương tựa nơi chỗ mê hoặc, nơi trong chỗ chưa đầy đủ mà
lại phát sanh quan niệm cho mình đã chứng đầy đủ viên mãn, đó chỉ là
Thức Ấm dụng tâm giao lưu lẫn nhau để sanh ra địa vị mới. Chúng sanh ở
đó mê muội ngoan cố, không tự suy xét tính toán kỹ, hiện tiền gặp
nơi đây đều do ái dục mà không tự biết, trước do tâm đam mê huân
tập mà tự dừng nghỉ cho là đã hoàn tất chỗ trở về an ổn, rồi
chúng nó trở thành đại vọng ngữ, tự cho mình đã đầy đủ viên mãn
Bồ Đề vô thượng. Đấy là chúng nó bị ngoại đạo tà ma chiêu cảm,
rốt cuộc bị đọa vào địa ngục Vô Gián. Các bậc Thinh Văn Duyên Giác
chưa hoàn thành sự tăng tiến , nghĩa là tâm các Ngài còn tiếp nối
phụng sự đạo Như Lai, đem pháp môn
này, sau khi Phật diệt độ, truyền dạy đời vị lai, giúp cho khắp chúng
sanh hoàn toàn giác ngộ nghĩa này, đồng thời khiến cho Ma không thấy,
nếu họ lỡ tạo tội lỗi trầm luân, họ thiết tha cầu cứu các Ngài
ngưỡng nguyện các Ngài bảo hộ bình yên, mong tiêu dứt tà duyên. Các
Ngài khiến thân tâm của họ nhập vào tri kiến của Phật, họ tuy mới
theo nhưng thành tựu ngay, không gặp lối rẻ.
Pháp môn như thế, trước đời quá
khứ, trong hằng sa kiếp, các đức Như Lai nhiều như vi trần, nối tiếp
tâm này mở bày phương pháp chứng đắc đạo vô thượng. Thức Ấm của
chúng sanh khi đã bị diệt tận thì hiện tiền các căn của chúng nó
được sử dụng lẫn nhau, từ trong khả năng sử dụng lẫn nhau đó, chúng
nó có thể nhập vào địa vị Bồ Tát, địa vị Kim Cương Càng Huệ (Trí huệ
cứng như Kim Cương), ánh sánh nơi tâm của chúng nó tinh tế hoàn mỹ
và nơi trong ánh sáng đây phát sanh hoá hiện một thứ lưu ly thanh tịnh
và trong lưu ly đó bao gồm mặt trăng quý báu; chúng nó nếu được như
thế chính là đã vượt qua các địa vị như: Thập Tín, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, Bồ Tát Sở Hành, Thập Địa Kim
Cang và ánh sáng hoàn mỹ của Đẳng Giác. Chúng nó đã được vào nơi
biển trang nghiêm mầu nhiệm bồ đề viên mãn của các đức Như Lai chính
là chúng nó đã trở về nơi Vô Sở Đắc (chứng đắc nơi chỗ không
chứng đắc).
(Bác bỏ tà nối kết chánh).
Đây là quá khứ, trước đức Phật
Thế Tôn, trong Thiền Xa Ma Tha (Samatha: Chỉ Quán), ngài Tỳ Bà Xá Na
đem ánh sáng giác ngộ phân tích Ma sự một cách vi tế, nhận thấy
cảnh Ma hiện tiền, có thể nhận thức rành rẽ nơi nó, nếu tâm cấu
uế bị tẩy trừ thì không bị lạc vào tà kiến nơi cảnh Ma. Âm Ma bị
tiêu diệt thì Thiên Ma bị phá tan, trong lúc đó đại lực của quỷ thần
sợ mất vía chạy trốn không quay đầu, còn các tiểu quỷ như, Li, Mị,
Vọng, Lượng thì không thể sanh trở lại nữa. Theo đó Ngài Tỳ Bà Xá
Na có thể đi thẳng đến Bồ Đề, không mất các sao lãng, yếu kém được
thăng tiến, nơi đại Niết Bàn, tâm không mê muội.
Còn các chúng sanh trong mạt thế,
họ ngu độn chưa biết thiền na, không biết thuyết pháp, nhưng thích tu
tam muội, lo sợ họ lạc vào đường tà, nên khuyên họ chuyên cần nhứt
tâm, cố gắng hành trì Thần chú Phật Đảnh Đà La Ni (Đà La Ni: tổng
trì) của ta; nếu họ chưa có thể trì tụng thì nên chép lại Thần chú
này nơi trong thiền đường, hoặc mang nó nơi trên thân thể thì tất cả
các Ma không có còn hành động.
A Nan ông phải cúi đầu cung kính
các đức Như Lai trong mười phương và tinh tấn tu hành cho đến cứu
cánh, cuối cùng A Nan cúi đầu tuân theo.
A Nan liền từ Pháp Tòa đứng lên,
nghe Phật chỉ bày khuyên răn, đảnh lễ cung kính tiếp nhận, và ghi nhớ
giữ gìn mãi không quên. Ở trong đại chúng, A Nan lại bạch với Phật
một lần nữa: như Phật đã nói, trong Tướng Ngũ Ấm có năm thứ hư
vọng, chính là do Tâm Tưởng gây ra; vấn đề đây con đang trông chờ
đức Như Lai giải bày, nhưng đức Như Lai chưa khai thị vi tế mầu nhiệm
của nó. Lại nữa năm Ấm này hoàn toàn tiêu trừ và tiêu trừ lần
thứ mấy? Như thế A Nan tác bạch năm lần, cho đến câu hỏi lần chót
là giới hạn của nó như thế nào? Ngưỡng nguyện đức Như Lai phát lòng
đại từ ban bố cho đại chúng đây, khiến mục tiêu của tâm được trong
sáng giúp cho tất cả chúng sanh trong đời mạt thế tạo huệ nhãn cho
họ trong tương lai.
Phật bảo A Nan: Ánh sáng mầu nhiệm
chân thật tinh khiết chính là nguồn gốc của sự giác ngộ thanh tịnh
hoàn mỹ, không bao giờ ở lại sanh tử. Nguyên nhân của các trần cấu
cho đến hư không đều do vọng tưởng của vọng tâm sanh khởi. Nhưng vọng
tưởng đây đầu tiên chính là ánh sáng mầu nhiệm bị mê vọng ô nhiễm
liền khiến vọng tâm phát sanh các pháp thế gian, như ông Diễn Nhã
Đạt Đa ban đầu vì mê lầm nhận lấy ảo ảnh liền sanh ra mê vọng; sự
mê vọng không có nguyên nhân, nhưng nơi trong vọng tưởng của vọng
tâm, sự mê vọng điều khiển vọng tâm thành lập tánh nhân duyên và
chúng sanh vì mê lầm cho nhân duyên là tự nhiên sanh, còn tánh không
hư vọng kia đã không thật đều do huyễn sanh huống hồ là tự nhiên.
Để xác định nhân duyên, tự nhiên đều là do vọng tâm của chúng sanh
tính toán so lường tạo nên. Này A Nan! Ông đã biết chỗ sanh khởi mê
vọng của vọng tâm đều là nhân duyên mê vọng; mê vọng đầu tiên
nếu là không thì nhân duyên mê vọng hoàn toàn không có. Tại sao
ông không biết mà lại đi tìm thuyết Tự Nhiên? Thế nên Như Lai và
ông cùng nhau phát minh nguyên nhân gốc của năm Uẩn đều là do vọng
tưởng của vọng tâm tạo nên. Thân thể của ông nguyên nhân đầu tiên
do vọng tưởng của cha mẹ ông sanh ra ông; nhưng tâm của ông không
phải do vọng tưởng sanh ra thì không bao giờ trở lại trong vọng tưởng
để truyền đến sanh mạng của ông. Như ta trước đã nói: Tâm tưởng ghen
ghét mùi vị thì nước dãi trong miệng chảy ra; tâm tưởng leo trèo lên
cao thì tâm nơi đôi chân cảm thấy mệt mỏi; còn một vật treo vách
núi không thấy thì ghen ghét cho vật đó chưa đến; thân thể của ông
tất nhiên không phải thông đồng với luân thường (cùng giống nòi) hư
vọng, giống như nước miếng trong miệng của ông từ đâu ghen ghét chảy
ra khi nói chuyện? Cho nên ông phải biết, hiện tại sắc thân của ông
nếu cho là kiên cố thì đây thuộc loại vọng tưởng thứ nhất.
Nói tiếp theo, tâm tưởng của ông
gặp phải chỗ quá cao thì khiến thân thể của ông cảm thấy mệt mỏi
khó hiểu; đó là do nguyên nhân cảm thọ phát sanh; cảm thọ phát sanh
có hai lý do: một là có thể động đến sắc thân, khiến ông hiện tiền
gặp phải tổn hại là cách xa thuận lợi, hai là ông đang bôn ba dong
ruỗi chạy theo ánh sáng hư vọng, hai lý do đây thuộc về vọng tưởng
thứ hai.
Nói tiếp theo, tâm niệm của ông
thì lo nghĩ, nhưng thân thể của ông không phải lo nghĩ luân thường
(cùng giống nòi), như vậy nguyên nhân gì từ nơi thân thể của ông,
tâm niệm của ông lại nhớ nghĩ đến những thứ hình tượng nào đó mà
ông đã thâu nhận từ lâu, thì những thứ hình tượng đó liền theo tâm
niệm của ông sanh ra để cùng tương ưng (cùng thích ứng với nhau) với
tâm niệm của ông. Ông ngủ thì cho là tâm ông nằm mộng, còn ông
thức thì cho là tâm ông tưởng tượng, như thế thì niệm tưởng của ông
bị giao động niệm tình, đây gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.
Về phương diện nguyên lý, nguyên
lý chuyển hoá không dừng, vận hành di chuyển bí mật nơi trong thân
của ông, khiến chòm tóc của ông sanh trưởng, tinh khí của ông tiêu
tan thì dung nhan của ông trở nên nhăn nhó, ngày đêm chuyển hoá thay
nhau mà ông chưa từng giác ngộ. Này A Nan! Sự chuyển hoá thay đổi
nếu không phải là ông thì ai vào đây điều khiển, thân thể của ông
thay đổi như thế nếu nhất định cho là chân thật sao ông không biết?
Các Hành Uẩn của ông niệm niệm không dừng, gọi là thầm kín chuyển
hoá, đây là vọng tưởng thứ tư.
Lại nữa, chỗ ánh sáng tinh tế của
ông trong suốt thanh tịnh không bị dao động, được gọi là thường hằng,
ánh sáng tinh tế thường hằng không bao giờ xuất hiện nơi thân thể
của ông; còn vấn đề thấy, nghe giác ngộ hiểu biết, nếu là chân
thật tinh tế thì không bao giờ dung nạp huân tập những thứ vọng niệm.
Các ông vì lý do gì, một vật kỳ lạ đã thấy ở năm xưa, đã trải qua
nhiều năm tuổi vẫn hiện đầy đủ không quên trong ký ức của ông? Về
sau bỗng nhiên, chuyện lạ đã thấy trước kia mặc dù bị che phủ, nhưng
ký ức chuyện lạ nói trên không dời mất, điều đó cho thấy ánh sáng
tinh tế đây hoàn toàn trong suốt thanh tịnh đang ở phía trong của ông
không bị dao động, nhờ thế những hiện tượng mới vẫn tiếp tục được
ông mỗi niệm đón nhận huân tập, từ những hiện tượng đã nói ở
trên, ông có ý nghĩ ra sao?
Này A Nan ông nên biết: Trong suốt
thanh tịnh đây không phải chân thật chỉ là dòng ánh sáng tuôn chảy
liên tục, giống như dòng nước chảy gấp, xem
giống như yên tịnh, không thấy chảy
gấp, nghĩa là không phải không chảy; đầu tiên nếu không có tâm
tưởng làm gì có sự mê vọng tiếp nhận tánh trong suốt thanh tịnh của
dòng ánh sáng tuôn chảy liên tục huân tập vào tâm? Sáu căn của
ông không phải lẫn nhau sử dụng khai mở và đóng lại vọng tưởng đây
không lúc nào được chấm dứt. Cho nên hiện tại, thấy, nghe, giác
ngộ, hiểu biết, của ông huân tập bao nhiêu liền xâu chùm lại để
trong nôi tạng của ông thì bao nhiêu huân tập đó đều hoàn toàn nằm
yên ở trong, hình dáng giống như lưới đánh cá hư ảo không thật; đây
là điên đảo thứ năm, vọng tưởng vi tế tỉ mỉ.
Này A Nan! Năm Thọ Ấm thành năm
vọng tưởng. Nay ông muốn biết nguyên nhân sâu cạn của thế giới: chỉ
có sắc cùng hư không là bờ mé của Sắc; chỉ có tiếp xúc cùng ly
cách là bờ mé của Cảm Thọ; chỉ có ghi nhớ cùng quên mất là bờ mé
của Tưởng; chỉ có diệt cùng sanh là bờ mé của Hành; chỉ có tĩnh
lặng hoà hợp vào trong tĩnh lặng là trở về bờ mé của Thức. Đầu
tiên năm Ấm đây nhiều lần xây đắp sanh khởi, nguyên nhân sanh khởi
là do Thức và tiêu diệt cũng do Thức ngoại trừ Sắc ra, đây là
nguyên lý giác ngộ ngay lập tức. Nương nơi giác ngộ và tiêu trừ thì
sự việc không phải loại trừ ngay lập tức mà nguyên nhân diệt trừ
theo thứ lớp. Ta đã bảo ông, Kiếp Ba buộc thắt (Kalpa: nghĩa là trăm
vạn năm, Tự Điển Đoàn Trung Còn), chỗ nào mà không rõ, sao ông lại
hỏi vấn đề này lần nữa?
Ông mong ta trả lời vấn đề đây,
căn nguyên của Kiếp Ba đều là do vọng tưởng của tâm, tâm nếu được
khai thông đem truyền đến đời mạt pháp, giúp cho những kẻ tu hành
khiến họ tỏ ngộ vấn đề hư vọng ở trong sâu thẫm vô hạn tự sanh ra
Kiếp Ba; còn Niết Bàn ông nên biết không bao giờ có luyến ái của
ba cõi. Này A Nan! Nếu có người có mặt khắp mười phương, chỗ có hư
không, đồ dùng tràn đầy bảy báu, họ đem bảy báu đó phụng sự dâng
lên cúng dường chư Phật trong mười phương nhiều như vi trần mà tâm họ
không tính toán hư vọng, qua hiện tượng trên ý ông thế nào, người
này dùng nhân duyên bố thí Phật thì có được nhiều phước đức không?
A Nan đáp rằng: hư không đã không cùng tận thì trân bảo nhiều cũng
không ranh giới, trước kia có chúng sanh chỉ bố thí cho Phật bảy đồng
tiền mà khi bỏ thân mạng còn thâu hạch được ngôi vị Chuyển Luân
Vương, huống hồ hiện tiền, giả sử hư không có cùng tận mà cõi Phật
có cùng khắp, nếu đem trân bảo đây bố thí cúng dường đến chư Phật
cùng khắp trải qua nhiều kiếp số cuối cùng có thể nghĩ bàn, nhưng
phước đức cúng dường đó không thể sánh kịp thì như thế phước đức
làm sao có ranh giới?
Phật bảo A Nan: Chư Phật Như Lai nói
không bao giờ hư vọng, Nếu có người, thân họ giữ đầy đủ bốn giới
trọng (bốn giới cực ác) và mười giới Ba La Di (Mười giới Tăng tàn),
trong chớp mắt họ lập tức trải qua đây đó, từ địa ngục A Tỳ cho đến
mười phương không gián đoạn, không chỗ nào không trải qua. Họ có
thể đem pháp môn Nhất Niệm (Một niệm) này đến cuối Trung Kiếp (Theo
Tự Điển Đoàn Trung Còn, một Trung Kiếp gồm có ba vạn ba ngàn sáu
trăm vạn năm= 336.000.000) khai thị cho những người chưa học, chính là
những người tội chướng nặng nề, nên niệm Nhất Niệm này để tội
chướng được tiêu trừ và biến chỗ địa ngục là nơi họ cảm thọ nhân
đau khổ trở thành nước An Lạc. Họ là những người bố thí trước kia,
đặng phước đức siêu việt, gấp bội một trăm lần, gấp bội một ngàn
lần, gấp bội một ngàn vạn ức, gấp bội như thế cho đến tính số thí
dụ không thể so sánh kịp.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh nào
siêng năng tụng Kinh này, siêng năng trì chú này, như ta đã rộng
nói, siêng năng trì tụng đến số kiếp cùng tận, y như lời ta dạy, y
như đạo giáo dục thật hành, thẳng đến thành Bồ Đề, không còn trở
lại nghiệp Ma. Phật nói Kinh này xong, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, tất cả trời người trong thế gian, A Tu La và các Bồ Tát ở
phương khác, cho đến Nhị Thừa, Đồng Tử Thánh Tiên,
bao gồm cả Đại Lực Quỷ Thần mới
phát tâm, tất cả đều hoan hỷ đảnh lễ lui ra.
III.- ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(Tiết Mục Sao Lục)
Sáng tác: Bồ Tát Mã Minh,
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế
Thiên Trúc, đời Lương.
1,- Ba cõi là hư ngụy (giả dối
không thật) đều do tâm tạo tác. Nếu lìa khỏi tâm thì cảnh giới sáu
trần hoàn toàn không có. Nghĩa đây như thế nào? Tất cả pháp đều do
vọng niệm sanh ra và do tâm phát khởi. Tất cả có sự phân biệt đều
là do tự tâm phân biệt. Tâm thì không thấy được tâm, vì tâm không
có hình tướng cho nên không thể thấy được tâm. Nên biết tất cả cảnh
giới trong thế gian, đều nương nơi vọng tâm vô minh của chúng sanh mà
được giữ gìn và tồn tại. Cho nên tất cả pháp đều giống như hình
tượng ở trong gương và không thể nắm bắt được chúng nó. Chỉ có tâm
hư vọng, do tâm hư vọng sanh thì tất cả pháp mỗi mỗi đều được sanh
và do tâm hư vọng diệt thì tất cả pháp đều bị diệt.
2,- Nếu người mặc dù tín tâm tu
hành, do từ trước đến nay, đa phần vì có nhiều lớp nghiệp chướng tội
ác
là chỗ nhiễu loạn của các Quỷ Tà
Ma, hoặc vì công viêc của thế gian dẫn dắt quấy phá, hoặc vì chỗ
não loạn của bệnh khổ, có rất nhiều chướng ngại như thế. Cho nên
cần phải dõng mãnh tinh tấn, ngày đêm sáu thời, lễ bái các đức Phật,
thành tâm sám hối, cần xin tùy hỷ, hồi hướng Bồ Đề, thường không
nghỉ ngơi bỏ phế. Nhờ đó được khỏi các chướng, và tăng trưởng thiện
căn.
3,- Hoặc có chúng sanh không có
sức thiện căn, đúng là chỗ mê hoặc rối loạn của các ma quỷ thần
ngoại đạo; nếu ngồi ở trong hiện hình khủng bố, hoặc hiện các tướng
nam nữ đoan chánh. Phải niệm đến duy tâm thì cảnh giới bị diệt, kết
cuộc không bị phiền não.
Hoặc hiện ra hình tượng trời, hình
tượng Bồ Tát, cũng có thể hình tượng Như Lai, tướng hảo đầy đủ;
hoặc giảng Đà La Ni (Đà La Ni: là tổng trì), hoặc giảng bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; hoặc giảng bình đẳng,
không, vô tướng, vô nguyện; không oán hờn, không thân thuộc, không
nhân không quả, tất cả rốt ráo hoàn toàn không và tĩnh lặng, đây
tức là Niết Bàn chân thật.
Hoặc khiến con người biết được
mạng sống đã qua và những sự việc quá khứ, cũng biết những sự
việc
vị lai, biết được tâm trí người
khác, tài biện luận không ngăn ngại, có thể khiến cho chúng sanh
dứt bỏ tham trước những sự việc danh lợi của thế gian.
Lại nữa, con người thường hay giận,
thường hay mừng là nhất định tánh vô thường; hoặc thương yêu nhiều,
ngủ nhiều, bệnh nhiều, khiến tâm họ giãi đãi; hoặc cuối cùng phát
khởi tinh tấn, sau lại ngừng nghỉ bỏ cuộc. Những hiện tượng đó sở dĩ
phát sanh là do nơi không có niềm tin, phần nhiều nghi ngờ phần nhiều
lo nghĩ; hoặc bỏ thắng hạnh (Pháp hạnh thù thắng) căn bản lại chạy
theo tu tạp nghiệp, vì bị trói buộc các thế sự.
Cũng có thể khiến con người đặng
chút ít các Tam Muội (Đại Định) tương tợ, đó đều là chỗ đạt được
của ngoại đạo, không phải Tam Muội chân thật. Hoặc lại khiến con
người nếu một ngày, nếu hai ngày, nếu ba ngày, cho đến bảy ngày đều
an trụ nơi trong Định, ăn uốn đặng tự nhiên thơm ngon, thân tâm cảm
thấy thích thú, không đói, không khát, khiến con người đắm trước ưa
thích. Hoặc cũng khiến người ăn uống, không phân biệt đồ trai, ăn
lúc nhiều lúc ít, do đó khiến nhan sắc của họ bị biến đổi khác đi.
4,- Qua những ý nghĩa và lý do kể
trên, hành giả thường phải quán sát trí tuệ của mình, chớ khiến tâm
mình bị sa vào lưới tà; phải chuyên
cần chánh niệm, không nắm bắt và không đắm trước thì có thể xa lìa
các nghiệp chướng. Cũng nên biết, ngoại đạo cũng có Tam Muội, nhưng
họ không lìa khỏi tâm ái kiến ngã mạn, tham trước danh lợi cung kính
của thế gian.
IV.- HIỂU BIẾT VIỆC MA.
“Thiên Thai Tiểu Chỉ Quán”
Đời nhà Tùy. Đại sư Trí Giả trước
tác.
(Căn cứ theo “Đại Chánh Tạng” ,
quyển sách thứ 416 “Phương pháp tu tập tọa thiền Chỉ Quán” đã tu
chỉnh).
Ma La là tiếng Phạn, đời nhà Tần
gọi là kẻ sát sanh. Kẻ chuyên môn đi cướp đoạt tiền tài công đức
của con người. Họ còn chuyên đi giết hại sanh mạng của người có trí
tuệ. Cho nên gọi là Ác Ma. Sự đây nghĩa là như Phật dùng công đức
trí tuệ độ thoát chúng sanh được vào Niết Bàn gọi là Phật Sự. Còn
Ma nghĩa là những kẻ thường đi phá hoại thiện căn của chúng sanh,
khiến chúng sanh bị lưu chuyển sanh tử đó gọi là Ma Sự. Nếu có thể
an tâm chánh đạo thì cố nhiên đạo cao mới có thể biết được Ma thạnh
hành như thế nào, điều kiện là phải khéo biết Ma Sự. Nhưng Ma Sự có
bốn thứ:
1, Phiền Não Ma;
2, Ấm Nhập Giới Ma;
3, Tử Ma;
4, Quỷ Thần Ma.
Ba thứ Ma, như Phiền Não Ma, Tử Ma
và Quỷ Thần Ma, đều là những việc thông thường của thế gian. Những
Ma này sở dĩ sanh ra đều từ nơi tâm của con người, cho nên con người
phải chính từ nơi tâm của mình trừ khử đi. Hiện nay không thể phân
biệt được hình tướng của quỷ thần. Nhưng những Sự của quỷ thần đây
có thể biết, nay đương nhiên xin nói lược, Quỷ Thần Ma gồm có ba
loại:
1,- Tinh Mị: Mười hai giờ loài thú
biến hoá tạo thành các thứ hình sắc; hoặc tạo hình tướng cô gái
nhỏ hay bà lão già xin ngủ trọ. Cho đến có thể sợ thân người vân
vân không phải một, làm não loạn mê hoặc những hành giả. Các Tinh
Mị đây muốn não loạn hành giả thì phải đúng lúc mới đến. Phải khéo
léo đặc biệt hiểu biết, nếu ở nơi giờ dần trở lại, tức là của
các hổ thú vân vân; nếu ở nơi giờ mẹo trở lại chính là của hưu nai
vân vân; nếu ở nơi giờ thìn trở lại chính là của con rồng, con ba ba
vân vân; nếu ở nơi giờ tỵ trở lại chính là của con rắn, con trăn
vân vân; nếu ở nơi giờ ngọ trở lại chính là của con ngựa, con lạc
đà vân vân; nếu ở nơi giờ mùi trở lại chính là con dương vân vân;
nếu ở nơi giờ thân trở lại chính là của con vượn, con khỉ vân vân;
nếu ở nơi giờ dậu trở lại
chính là của con gà, con quạ vân
vân; nếu ở nơi giờ tuất trở lại chính là của con chó, con chó sói
vân vân; nếu ở nơi giờ hợi trở lại chính là của con heo vân vân;
giờ tý trở lại chính là con chuột vân vân; giờ sửu trở lại chính
là con bò vân vân. Hành giả nếu thấy thường dùng thời gian trở lại
đây thì liền biết thú tinh nào. Trình bày danh tự đây xin chớ trách
móc liền phải đa tạ để chấm dứt.
2,- Quỷ Đôi Dịch: Loại quỷ này
cũng tạo các thứ xúc não cho hành giả. Hoặc như đem sâu bọ thằn
lằn cho bám vào đầu mặt con người, hoặc nơi chuồng ngựa nhấp nháy
chui luồn châm chít công kích dưới hai nách của con người; hoặc bỗng
chợt ôm ấp giữ gìn con người; hoặc nói năng tiếng tăm ồn ào náo
nhiệt và tạo ra các hình thú tướng mạo dị kỳ không phải một; khiến
làm não loạn hành giả. Trước tình thế đó nên lập tức biết rõ liền
nhất tâm đóng con mắt cho tối lại mà mắng chửi rằng: ta nay đã biết
nhà ngươi, nhà ngươi là người trong diêm phù đề con người có mùi hôi
và chuyên môn ăn lửa. Bọn trộm cắp mũi nhọn sai khiến tốt với bọn
tà, thấy giống người phá giới hoan hỷ. Ta nay trì giới thanh tịnh
không sợ nhà ngươi. Nếu người xuất gia nên tụng Giới Bổn. Nếu người
tại gia nên tụng Tam Quy Ngũ Giới vân vân, thì quỷ liền rút lui và
Bò Xổm (Bò Bồ Bặc) đi chỗ khác. Như thế nếu bọn chúng tạo ra các
thứ tướng mạo lưu lại làm não
loạn khó khăn cho người và muốn
đoạn trừ chúng không gì khác hơn dùng phương pháp trì Giới Bổn (cho
người xuất gia) và tụng Tam Quy Ngũ Giơi thanh tịnh (cho người tại gia)
đồng thời giảng rộng phương pháp Thiền trong kinh.
3,- Quỷ Não Loạn: là loại Ma phần
nhiều hoá làm ba thứ hay năm thứ cảnh giới cõi trần. Chúng sẽ đến
phá hoại thiện tâm.
a,- Làm sự tình (công việc thường
tình) trái ngược thì có thể lo ngại năm trần (Năm Trần (Ngũ Trần)
gồm có: sắc, thinh, hương, vi xúc) khiến người sợ hãi.
b,- Làm sự tình thuận lợi thì có
thể luyến ái năm trần khiến tâm con người đắm trước.
c,- Những sự tình không phải trái
ngược và cũng không phải thuận lợi thì năm trần hành động rối loạn
bình đẳng, đó gọi là Ma Sát Hại, cũng gọi là Ma Hoa Tiễn (Hoa Mũi
Tên), cũng gọi là Ngũ Tiễn (Năm Mũi Tên). Những mũi tên này bắn
ra giết hại năm tình của con người (Năm Tình, theo T.Đ. Đoàn Trung Còn:
năm tình dục; nghĩa là năm căn tiếp xúc với năm trần tạo ra năm
tình dục). Như trong sắc tạo ra các thứ cảnh giới để làm não loan
hành giả. Trường hợp như,
*- Tạo ra những cảnh thuận tình, như
tạo ra hình ảnh cha mẹ anh em, tạo ra những cảnh, như tạo ra các hình
tượng chư Phật đoan chánh, tạo ra nam nữ khả ái, kiến tâm con người
đắm trước.
*- Tạo ra những cảnh giới trái
ngược sự tình, như tạo ra những hình ảnh nào hổ lang (con hổ và chó
sói), sư tử, la sát, các thứ hình tượng khiến cho sợ hãi đến khủng
bố hành giả.
*- Tạo ra những cảnh giới không
phải trái ngược và cũng không phải thuận lợi, tức là nhưng sự tình
bình thường, cũng làm não loạn động tâm của con người, khiến con người
mất đi thiền định, đó cũng gọi là Ma. Hoặc tạo ra các thứ âm thanh
hay và dỡ, tạo ra các thứ mùi thơm và mùi hôi, tạo ra các thứ vị
ngon và dỡ, tạo ra các thứ cảnh giới khổ và vui, những thứ hiện
tượng đó đến tiếp xúc con người đều cũng gọi là Ma Sự. Tướng trang
của chúng rất nhiều hôm nay không thể trình bày đầy đủ.
Xin đê cử những yếu điểm như, nếu
tạo ra các thứ Ngũ Trần làm não loạn nơi người khiến họ mất đi
thiện pháp, phát khởi các thứ phiền não, đều gọi là Ma Quân (quân
lính của Ma). Lý do, chúng có thể phá hoại sự bình đẳng của Phật
Pháp, khiến cho các thứ tham dục, ưu sầu, sân hận, ngủ nghỉ vân v ân
phát khởi.
Các chướng đạo Pháp đã được trình
bày trong Kinh Kệ như:
“ *- Tham dục là quân đội hàng đầu
của các ông,
*- Ưu sầu là quân đội hạng nhì,
*- Đói khát là quân đội thứ ba,
*- Khát yêu là quân đội thứ tư,
*- Ngủ nghỉ là quân đôi thứ năm,
*- Lo sợ là quân đội thứ sáu,
*- Nghi ngờ ăn năn là quân đội
thứ bảy,
*- Sân hận là quân đội thứ tám,
*- Lợi dưỡng xứng với hư vọng là
quân đội thứ chín,
*- Người ngã mạn tự cao là quân
đội thứ mười,
Các chúng Ma như thế,
Đè nén người xuất gia chìm lặn,
Ta dùng trí tuệ thiền lực,
Đả phá các quân Ma của ông,
Đã được thành Phật đạo,
Độ thoát tất cả chúng sanh.”
Hành giả đã giác ngộ biết Ma Sự
tức thì phải rút lui. Pháp rút lui có hai:
1)- Tu Chỉ để rút lui. Phàm thấy
tất cả ngoại cảnh của các Ác Ma, tất nhiên biết đều là hư vọng
lừa dối nên không lo không sợ, c
không buông bỏ. Vọng niệm tính
toán phân biệt liền dứt và tâm vắng lặng tự nhiên diệt chúng nó.
2)- Tu Quán để rút lui. Nếu thấy
các thứ cảnh Ma như đã nói ở trên, nếu dùng Chỉ chẳng dứt đi liền
dùng Quán trở lại, có thể chỉ thấy tâm mà không thấy chỗ hiện
khởi thì bọn kia làm sao não loạn được. Khi quán như thế bọn chúng
trước khi bị tiêu diệt phải tìm cầu để xin lỗi. Nếu chúng chậm chậm
không đi thì chỉ còn phải Chánh Tâm, nghĩa là chớ sanh tư tưởng sợ
hãi và cũng không quý trọng mạng sống, tức là chánh niệm không cho
bị động, quán biết cảnh giới Ma như thế tức là biết cảnh giới Phật
cũng như thế. (cảnh giới Ma là vọng hiện của cảnh giới Phật, cũng
như mặt trăng dưới đáy nước tức là vọng hiện của mặt trăng thiệt).
Nếu cảnh giới Ma như thế và cảnh giới Phật cũng như thế thì một như
thế không có hai như thế (mặt trăng dưới đáy nước như thế thì mặt
trăng trên bầu trời cũng như thế, nghĩa là chỉ có một mặt trăng mà
không có hai mặt trăng). Nếu liễu ngộ như thế thì cảnh giới Ma không
cần phải xả (loại bỏ) và cảnh giới Phật cũng không cần thủ (nắm
bắt). Lúc đó pháp của Phật đương nhiên tự hiện ra trước mặt và cảnh
Ma tự nhiên bị tiêu diệt.
Lại thứ nữa, nếu thấy cảnh giới
Ma không xin lỗi, không cần phải sanh lo buồn và nếu thấy cảnh Ma
đến
xin lỗi để vĩnh biệt thì cũng chớ
sanh vui mừng. Tại sao thế, chưa từng thấy có người ngồi thiền thấy
Ma hoá hiện con cọp và chó sói đến ăn thịt người bao giờ, cũng chưa
từng thấy Ma hoá hiện nam nữ đến làm vợ chồng; đương nhiên tất cả
đều là huyễn hoá. Người ngu không biết, nên sanh tâm kính sợ và
khởi tâm tham trước. Nguyên nhân tâm loạn thì mất định liền phát sanh
cuồng loạn. Tự gây mối lo cho mình. Đây đều là hành giả không có
trí tuệ nên tự chịu lấy hoạn nạn mà không phải Ma gây ra.
Nếu các cảnh Ma vẫn não loạn hành
giả, hoặc trải qua năm tháng mà không đi, hành giả chỉ cần đoan tâm
chánh niệm kiên cố, chẳng quý trọng thân mạng, chớ ôm lòng lo sợ,
phải tụng các kinh Đại Thừa Phương Đẳng để đối trị Ma chú, tụng bằng
cách mật niệm. Ngoài ra còn niệm Tam Bảo. Nếu xuất thiền định, hành
giả cũng phải tụng chú, để tự hổ thẹn sám hối phòng ngừa và tụng
Ba La Đề Mộc Xoa (Biệt giải thoát) đểâ cho cảnh Ma lâu lâu tự diệt,
nguyên vì tà không thể liên can với chánh. Ma sự rất nhiều nói
không thể hết, khéo phải hiểu biết nó. Đây cố nhiên là chỉ cho
hành giả mới phát tâm, nhất định phải thân cận thiện tri thức; vì
có những nạn sự như thế, chính là Ma nhập vào tâm con người khiến
hành giả tâm thần rối loạn, hoặc vui hoặc buồn, là nguyên nhân suy
tính cho đến chết. Hoặc lúc bấy giờ khiến hành giả được các
trí huệ của tà thiền định, như thần
thông Đà La Ni (thần thông Tổng Trì: nghĩa là thần thông giữ gìn tất
cả pháp lành). Nhờ thần thông này, thuyết pháp giáo hoá mọi người
đều tín phục; rồi sau đó mong mỏi con người thực hiện việc lành là
đi xuất thế, đồng thời phá hoại chánh pháp. Các việc lạ như thế
không phải một lần có thể nói hết được. Nay chỉ trình bày sơ lược
những yếu điểm của nó, cũng đủ để giúp hành giả nơi trong thiền
định, không tiếp nhận các cảnh giới vọng, chỉ lấy những yếu điểm đã
nói ở đây. Nếu muốn bỏ tà về chánh, phải quán thật tướng của các
pháp, khéo tu Chỉ Quán thì không bị tà phá hoại. Cho nên Thích Luận
nói rằng, ngoại trừ thật tướng của các pháp, phần còn lại tất cả
đều là Ma Sự. Như trong Kệ nói:
“Nếu phân biệt nhớ tưởng,
Tức là võng lưới Ma,
Không động không phân biệt,
Đây tức là Pháp Ấn”’
V.- “HUỆ HÀNH TẬP LUYỆN KHẮC Ý
THÀNH NIỆM KÝ” (Tiết Lục: trích lại)
Dân quốc, Đại sư Năng Hải trước
tập (Tập trước tác).
(Tiết Lục từ Thượng sư Năng Hải,
thuộc hệ thống “Huệ Học”, Xã Phương Quảng xuất bản).
Lời văn nói rằng: Đây là tâm yếu
giáo giới của Thượng sư giáo thọ, tất cả là Thánh giáo, tất nhiên
đều tự tại viên mãn. Nếu giống nhau hoặc nếu khác nhau mỗi mỗi đều
ghi trong Lục Thư Tả, khắc in nơi trong chùa Triết Bang, đây là bài
tập tự sáng suốt khắc ghi trong ý không quên. (Đề án.... của chùa
Triết Bang, tức là một của Lạp Tác Tây Tạng nơi trong chùa Tam Đại).
Nay đây là những người tu Pháp
Hành, khai thị nguyên nhân Ma nhập có 24 trường hợp:
1)- Nếu ở trong đạo không sanh tinh
tấn là nguyên nhân Ma Nhập,
2)- Nếu trí tuệ quá nhỏ là nguyên
nhân Ma nhập,
3)- Nếu phiền não quá thạnh hành
là nguyên nhân Ma nhập,
4)- Nếu phân biệt rộng lớn là
nguyên nhân Ma nhập,
5)- Nếu tâm tình quá nhiều là
nguyên nhân Ma nhập,
6)- Nếu không có thiện tri thức để
giữ gìn bảo dưỡng là nguyên nhân Ma nhập,
7)- Nếu giáo thọ không sâu (thời
gian ngắn ít) là nguyên nhân Ma nhập,
8)- Nếu bạn hữu xấu ác là nguyên
nhân Ma nhập,
9)- Nếu tham chấp quá lớn là nguyên
nhân Ma nhập,
10)- Nếu phần nhiều vướng mắc tham
(dâm) là nguyên nhân Ma nhập,
11)- Nếu phần nhiều ưa thích rượu
thịt là nguyên nhân Ma nhập,
12)- Nếu trí tuệ rộng lớn mà chí
hướng thấp hèn là nguyên nhân Ma nhập,
13)- Nếu tư tưởng nhỏ mà hy vọng
không lớn là nguyên nhân Ma nhập.
14)- Nếu kiêu ngạo mà ngã mạn lớn
là nguyên nhân Ma nhập,
15)- Nếu kẻ sự nghiệp mới lập mà
kén chọn thích ở chỗ cô độc là nguyên nhân Ma nhập,
16)- Nếu ở gần thương trường và
thành thị lớn là nguyên nhân Ma nhập,
17)- Nếu chỗ hoạn quan và lẫn lộn
với Bổ Đặc Già La (Tiếng Phạn: là thường trụ) không hạp chỗ là
nguyên nhân Ma nhập,
18)- Nếu thọ trì mà không nguyện theo
tông chỉ là nguyên nhân Ma nhập,
19)- Nếu không giáo thọ, chỉ ít thí
dụ mà có thể chấp hành tu tập là trở thành buôn bán Bồ Đề là
nguyên nhân Ma nhập,
20)- Nếu huệ không vững chắc mà ở
nơi trung tâm cao quý không được gia trì (do tín tâm) là nguyên nhân Ma
nhập,
21)- Nếu chấp cảnh mộng cho là
thật là nguyên nhân Ma nhập,
22)- Nếu vui mừng cho tướng hảo là
điềm tốt là nguyên nhân Ma nhập,
23)- Nếu do trái duyên trí tuệ yếu
kém xấu hổ lo sợ mà tâm không vui là nguyên nhân Ma nhập,
24)- Nếu do vì duyên của mình và
của người khác mà tâm chịu khốn khổ hoặc ưu sầu đều là nguyên nhân
Ma nhập vậy.
Hiểu tỉ mỉ kỹ càng như thế, nếu
khốn khổ bị các Ma nhập thì tất nhiên đều phải đoạn trừ.
Đối với Ma đây, phụ giúp và giữ
gìn có hai cách: một là cộng tướng; hai là bất cộng tướng.
A.- Cộng Tướng (tướng chung) đây có
26 cách: nghĩa là từ bên trong nối tiếp nhau, năm phiền não trước
đặc biệt to lớn hừng hực hơn thì những duyên kia phát khởi sanh
trưởng, tất cả đa số đều là tướng của Ma Gia Trì (gia hộ và giữ
gìn).
1/- Nếu không duyên riêng biệt, do
năng lực của cảnh ngộ vân vân mà mất đi chánh định, đây là tướng
của Ma Gia Trì.
2/- Nếu cuối cùng tự nhiên sanh
bệnh nóng vân vân, không hy vọng mong cầu nhiều duyên (điều trị mà
đưa đến bất hạnh), đây là tướng của Ma Gia Trì.
3/- Nếu mất chánh niệm, mà vì ngu
si nên che dấu, đây là tướng của Ma Gia Trì.
4/- Nếu không có việc gì cho nên ý
không vui mà tâm lại không hoan hỷ, đây là tướng của Ma Gia Trì.
5/- Nếu tự độc chiếm chết mà tạo
gia hành tự sát vân vân, đây là tướng của Ma Gia Hành.
6/- Nếu ở nơi chỗ khác không đúng
lúc mà tự xả bỏ thân máu huyết vân vân, đây là tướng của Ma Gia
Trì.
7/- Nếu mình bị khinh khi chê trách
chửi mắng mạ lỵ, vô nghĩa đi cắt hại nhục thân và tay chân để thực
hiện các thứ cúng kỵ, đây là tướng của Ma Gia Trì.
8/- Nếu là vì Pháp phải mất tâm
Bồ Đề, mà miệng không nhẫn nại được, đây là tướng của Ma Gia Trì.
9/- Nếu sanh tà kiến mà làm tà
hạnh thạnh hành, đây là tướng của Ma Gia Trì.
10/- Nếu ở nơi các pháp, thấy
không rộng lớn mà thật hành nhiều nghi ngờ xuy xét, mưu kế ý kiến
không thành, đây là tướng của Ma Gia Trì.
11/- Nếu tâm phát nguyện mà thế
gian tiền của đầy đủ viên mãn, đây là tướng của Ma Gia Trì.
12/- Nếu ở ngoài thọ dụng và ở
bên trong có tình cảm, thế là đai tham lam bừng cháy, đây là tướng
của Ma Gia Trì.
13/- Nếu thân miệng thực hành các
thứ lời nói và hành động đều không hổ thẹn, đây là tướng của Ma
Gia Trì.
14/- Nếu hành giả tánh đoản hậu,
lúc nào cũng dễ lười biếng mà nói năng vô phương kể, tự ăn tự
nói, đây là tướng của Ma Gia Trì.
15/- Nếu tiêm nhiễm ngưng trệ do ăn
uống là đại tham đốt cháy, thậm chí mộng mị không mất, đây là tướng
của Ma Gia Trì.
16/- Nếu ý chí thực hành ở những
chỗ doanh nghiệp thương trường vân vân (doanh trại thương mãi), và nơi
hành thiện tâm không thích thú gia nhập, ngược lại vui thích tạo ra
các chỗ du hí ăn chơi lười biếng, đây là tướng của Ma Gia Trì.
17/- Tâm vẫn tiến thêm không bỏ,
nhưng trong ngoài gặp phải những duyên trái ngược nhau quá nhiều, đã
giải thoát mà tránh né không khai báo, đây là tướng của Ma Gia Trì.
18/- Nếu tu tâp bậc ba huệ là văn,
tư và tu, do sợ các duyên trái ngược nhau ma sanh khiếp nhược (như con
dê), đây là tướng của Ma Gia Trì.
19/- Nếu chẳng nói mộng thiện ác,
đây là tướng của Ma Gia Trì.
20/- Nếu năm độc phiền não mà chỉ
một được vắng lặng, nguyên vì chỉ đối trị có một mà thôi, nhưng
ngoài ra các phiền não khác mặc tình khiến sanh khởi bừng cháy, đây
là tướng Ma Gia Trì.
21/- Nếu tự khen ngợi sự hủy hoại
kẻ khác, nơi Tam Bảo phân biệt tốt xấu, nơi sư trưởng mất đi sự tin
tưởng cung kính, do tâm tham lợi danh nói những lỗi lầm của họ, đây
là tướng của Ma Gia Trì.
22/- Nếu sân nơi chỗ mồ mã là
tướng của Ma Gia Trì.
23/- Nếu ham thích tuồng hát ca vũ
sâu đậm và thích chỗ ồn ào náo nhiệt là phản lại nơi Phật pháp,
không thích thực hành Tư, Tu, trái lại mong được thuyết pháp cho người
khác nghe, đây là tướng của Ma Gia Trì.
24/- Nếu kẻ nghe pháp cùng kẻ trì
tụng, tụng kinh lớn tiếng, thường thích ngủ nghỉ, đây là tướng của Ma
Gia Trì.
25/- Kinh sợ pháp tướng suy luận
vân vân, tâm sanh vứt bỏ, đây là tướng của Ma Gia Trì.
26/- Nếu lợi vô nghĩa, tổn hại sắc
thân cùng oai thế, đây là tướng của Ma Gia Trì.
Nếu đối với bạn tốt không che dấu
tội lỗi, không ác khẩu lưỡng thiệt, thường trình bày sâu xa, mà hoan
hỷ thân cận thuận theo với đệ tử thân thuộc nịnh hót lừa dối kia,
nên biết đây cũng là tướng của Ma Gia Trì.
B.- Bất Cộng Tướng (không tướng
chung) đây, gọi là đối với tất cả pháp đầu tiên tu tập chuyên
nghiệp tức là đại tinh tấn, nhờ Ma Gia Trì mới được thành tựu như
thế, như là hiện thấy tướng của bổn tôn Phật và Bồ Tát và dùng
tiếng ngựa kêu cho là phép lạ của Phật trong người ta đây; nó tuyên
bố với mọi người sẽ truyền dạy pháp khai thị khác lạ đặc biệt là
trình bày rõ muốn ao ước những lợi gì sẽ kết quả nhanh chóng mau lẹ
và nó đã phát sanh được thần thông vi tế, thấy được ý của sanh tử
hữu tình vô tình, trí của nó thấy nơi trong và ngoài các pháp Bát
Nhã vô trước, thấy hư không phân định chữ vàng, nếu nhiều người tập
hợp thì tiền tài rải xuống như mưa, đồng thời các thiên long tiên nữ
cầm dù lộng và tràng phang vân vân rải mưa hoa đảnh lễ cúng dường.
Có khi nó khai thị cho ăn thịt những thứ sợ hãi vân vân, hoặc dùng
bánh xe hiện hình cha mẹ sư trưởng vân vân khiến tâm mọi người biến
sắc sanh nghi ngại và lo sợ. Ngoài ra nó dùng ánh sáng tự thân so
sánh với ánh sáng thân người khác rồi tự tăng trưởng lớn rộng, bao
vây bức tường không ngăn ngại vân vân; nó thấy mười phương chư Phật
dùng tay màu vàng rờ trên đỉnh đầu nó và thấy chư Phật khai thị điều
phục và cũng thấy Phật phái vô số hoá thân, tự tưởng nhớ các
thân trước và sau, có đầy đủ sức vô ngại, có thể làm những việc
nghĩa vụ lợi ích cho chúng sanh, trong đó có bàng sanh và cho đến cuối
cùng loài hữu tình thấp nhất, tất cả đều hứa hẹn ít bị bệnh hoạn;
mà cũng có thể dùng sức thiền định tĩnh lặng để tăng thêm sự bảo
trì tiêu trừ và khiến tự mình liên tục sanh khởi ngã mạn, sanh khởi
tâm say đắm kiêu căng, có thể làm cho pháp trong lúc đoạn trừ
chướng ngại, gặp thời cơ liền sanh trưởng ngăn ngại và khiến tâm
trở nên ngần ngại trong lúc đoạn trừ chướng ngại.
Những Cộng Tướng của Ma ở trên thì
dễ biết, còn những Không Cộng Tướng thì từ đâu sanh ra? Những Không
Cộng Tướng được sanh ra đều do tâm ngã mạn và nghi kỵ cùng với tâm
ngần ngại làm nguyên nhân. Nếu hoàn toàn không có những yêu tố
đây thì biết tất cả pháp giống như giấc mộng, như huyễn hoá, như
ngọn lửa mặt trời, như koảng cách trong hang và tiếng dội trong hang,
như ảnh tượng, như không hoa (bóng hoa trong hư không), như tìm mùi hương
trên vách thành, thì các Ma trở ngại kia từ đâu sanh ra?
Hôm nay trình bày phương tiện tiêu
diệt các Ma kia. Những phương tiện tiêu diệt các Ma được phân làm
sáu cách:
1/- Sử dụng Thiền Định Pháp Không
để tiêu diệt. Nghĩa là các hành giả nên tự quán sát chỗ tự sanh ra
chướng, có thể là Ma Chướng và trong khoảng cách đều có pháp
chướng, ba thứ chướng đây (chỗ sanh ra
chướng, ma chướng và pháp chướng)
đều là tự tâm phân biệt, tức là phân biệt ba thứ đây thảy đều
không thật, chúng thí dụ như huyễn hoá, tự thể huyễn hoá cũng hoàn
không có, vì thế từ đầu cho đến cuối cùng, tất cả đều là không,
có chỗ gọi là ba chỗ chướng, chỗ chướng thứ nhất là tự phân biệt
thuộc một vị huyễn hoá; chỗ chướng thứ hai là kia phân biệt cũng
thuộc một vị huyễn hoá; chỗ chướng thứ ba là pháp tánh cũng thuộc
một vị huyễn hoá; nguyên vì ngoại trừ pháp tánh, duy nhất chỉ có ma
điên đảo cũng không có, ngoại trừ ma nghi ngại, pháp tánh điên đảo
cũng không thể tìm được nguyên tố, trang nghiêm ma chính là pháp,
nghĩa là thay đổi chuyển hoá hằng triệu các tướng ma phát xuất từ
pháp giới trở thành pháp tánh và từ đó pháp tánh an trrụ vào pháp
giới ẩn mất nơi pháp giới. Nguyên do hành giả vì quá phân biệt mong
cầu và sợ hãi hai chấp thủ và xả (hai chấp lấy và bỏ), cho nên
mới có huyễn hoá. Hiểu rõ ràng thì không còn chấp, lúc đó hai thủ
và xả tự nhiên bỏ đi; hành giả nên quán tất cả loại ma vốn không
chướng ngại, nếu hành giả quán đầy đủ ma thì ma không được tiện
lợi. Như kinh Bát Nhã nói: “Vì không tánh không, không được phương
tiện”.
2/- Sử dụng Tâm Từ Bi và Bồ Đề
để tiêu diệt. Nghĩa là các hành giả nếu tổng hợp nơi các hữu tình
mà tu tâp tâm từ, tâm bi, tâm đại Bồ Đề, tu tập giống như dòng
nước chảy không dứt thì có thể tiêu diệt tất cả sự tổn hại của
đối phương mà không làm tổn hại đối phương. Vì thế tâm tổn hại phẩm
giá của các ma bị các năng lực khiến chúng hổ thẹn mà rút lui và nhờ
đó những bệnh tật mau chóng tiêu trừ. Xưa kia, đức Thế Tôn dưới cây
Bồ Đề bị quân ma tập hợp hàng vạn người mang theo hàng vạn gươm giáo
cung tên bắn xả vào như mưa chỗ Thế Tôn ngồi nhập định, lúc đó Thế
Tôn vào Định Tâm Từ thì tất cả gươm giáo cung tên hoá làm mưa hoa,
bỏ các tiếng giết hại mà trở thành tiếng Tam Bảo, các quân ma do
đây thua chạy.
3/- Sử dụng năng lực tín tâm cung
kính thù thắng, cùng năng lực duyên khởi thậm thâm, cùng năng lực
thần chú tiêu trừ, nghĩa là các hành giả tận tâm đối với Thượng sư
căn bản tin hiểu cung kính xem như xem Phật, liên tục không gián đoạn,
khiến ma không có cơ hội để làm tội lỗi tổn hại. Nếu hành đạo thậm
thâm không gặp các chướng ngại là do cung kính tín tâm thượng sư giáo
thọ giáo giới. Nếu ở nơi Tam Bảo cung kính tín tâm cúng dường liên
tục không đứt đoạn thì ma không thể làm hại, đây là nhờ Tam Bảo gia
trì. Nếu ba nghiệp thân, miệng, ý, không lìa đàn tràng bổn tôn mà
tụng mật chú viên mãn số luợng thì ma không thể làm hại. Trong Mật
Tụng nói rằng: “Cho nên trì chú phải tinh tấn”.
4/- Đại phước nghiệp đặc biệt đầy
đủ để tiêu trừ, nghĩa là các hành giả sao chép đọc tụng kinh điển
Hiển Mật Thậm Thâm, tu bổ Tháp, Tự, cúng dường Tam Bảo, thừa hành
công việc Tăng chúng, cúng củi (ủng hộ ma chay), bố thí nước, tu bổ
đường xá, tăng trưởng phước đức, nhờ đó các chướng ngại tự nhiên
tiêu trừ.
5/-Do tự mình kiên cố năng lực tín
tâm để tiêu diệt, nghĩa là các hành giả giác ngộ tự tâm sanh khởi,
bên ngoài thù oán, thân thiện, tham lam, sân hận, và bên trong tất
cả phân biệt những điều xấu ác, phải nên hiểu biết hoàn toàn chân
chánh những thứ kể trên đều là ma và tùy theo đó tâm niệm tu tập
vô thường tử biệt, đồng thời suy nghĩ luân hồi cõi ác quả khổ, đặc
biệt cái khổ nơi địa ngục lạnh nóng, phải luôn luôn tư duy, khiến
tâm sanh khởi mặc áo giáp để chống đỡ sức nóng hung dữ tàn bạo,
nơi trên thì có Thượng sư Tam Bảo đầy đủ tín tâm kiên cố thanh tịnh,
nhờ đây loại ma thanh tịnh không thể làm ngăn ngại.
6/- Sử dụng tâm thường tu Du Già
(Yoga: tương ứng) để tiêu diệt, nghĩa là các hành giả thường cùng
bốn oai nghi tương ưng, nếu khi ở nơi tất cả chỗ tự tâm phải thường
nương tựa nơi chánh tri và chánh kiến, liên tục quán sát, tâm nếu
không trụ nơi tam độc phiền não, thì tám pháp thế gian (Bát Chánh
Đạo) phải thường ở nơi Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Đại Bồ Đề, hiểu hoàn
toàn trên tánh Không, hiểu biết chân chánh để an trụ, tự tâm liên
tục thanh tịnh không bị các lỗi lầm, thì lúc đó các ma trong ngoài
không thể nào sai khiến được.
VI.- NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG
LUẬN
(Tiết Mục sao lục)
Đời nhà Đường, Đại sư Phi Tích
Nếu muốn niệm ba thân để phá ba thứ
chướng, nay so sánh sẽ rõ. Nhà ngươi sanh thân Phật là sanh từ chỉ
quán. Chỉ quán không đều thì chướng tất nhiên sanh khởi. Người niệm
Phật tu Chỉ mà tâm trầm mê, hôn ám là chướng sanh khởi, mà chướng
lại hoá thành thân Phật. Lại nữa, phải dùng tâm quán để sách tấn,
niệm ánh sáng của bạch hào để phá trừ chướng hôn ám. Tâm tu quán
quá nhiều thì không xấu ác, không tạo tác (nghĩa là không vọng niệm
phân vân) báo chướng thân Phật. Lại tu nơi Chỉ, tức là chận đứng
tất cả điều ác. Nguyên nhân niệm các Phật Tích thì có công đức
hằng sa, trí tuệ viên mãn, làm nguyên nhân báo đáp hàng ngày, để
phá nghiệp ác phá niệm chướng. Nếu chướng động nhị biên (hai bên mê
và ngộ), hình trạng vô cùng xảo quyệt, vạn tướng phân chia trói
buộc, hai giặc (phiền não chướng và sở tri chướng) mạnh yếu, chướng
ngại Pháp Thân Phật. Sử dụng cái Không thuộc nghĩa Trung Đạo Đệ
Nhất (Trung Đạo đệ nhất là Trung Đạo trên hết; Trung Đạo nghĩa là
không phải vọng mà cũng không phải chân) để đả phá nó. Kệ nói
rằng: không màu sắc không hình tướng, không nguồn gốc không chỗ an
trụ, vì không sanh cũng không diệt, kính lễ không chỗ quán.
V.- MỘNG DU TẬP
Vâng theo trong sự phúc đáp Trịnh
Côn Nghiêm (Tiết
lục) Đời nhà Minh, Đại sư Hám Sơn.
Công án tuy nhiều, chỉ thoại đầu
riêng niệm Phật là thật tế thâm sâu, rất dễ đắc lực. Phải cần
yếu là tin cho bằng được, nhờ được định mới bắt chặt được an trụ,
quyết không thể do dự. Không được ngày nay như thế này, ngày mai như
thế kia, lại sợ không được đắc ngộ, lại nghi ngờ không được huyền
diệu, những tư duy tính toán này đều là chướng ngại. Trước tiên cần
nói là đả phá, nhưng gặp lúc không sanh nghi ngại lo âu. Cho đến nếu
công phu đạt được chỗ năng lực thì ngoại cảnh không thể nào xâm
nhập, chỉ có nội tâm còn phiền não, không có tình trạng ngang nhiên
sanh. Hoặc dục niệm ngang nhiên phát khởi, hoặc tâm sanh phiền não,
hoặc phát khởi các thứ chướng ngại, cho đến tâm lực mệt mõi không
thể làm gì được! Đây mới chính là trong ruộng tám Thức tàng trử vô
lượng chủng tử tập khí số kiếp đến nay, ngày nay công phu cưỡng bức
cấp tốc thì lại xuất hiện. Chỗ đây rất cần yếu phân biệt hiểu rõ,
ưu tiên cần Thức mới phá được, hiểu được lỗi, quyết không thể bị
họ bao che, quyết không thể bị họ sắp xếp, quyết không thể thật sự
đang làm. Nhưng chỉ tinh thần hăng hái, phấn đấu dũng mãnh, đưa ra đề
tài căn bản tham khảo thoại đầu, chính ở những chỗ phát khởi cảm
niệm đầu tiên này, duy nhất trực tiếp bị đuổi bắt sẽ bỏ đi. Hỏi,
ngòi rãnh từ chỗ nào đi đến? Cứu cánh là như thế nào? Quyết định
cần thấy một cái rớt xuống. Như thế duy nhất bị ép buộc sẽ bỏ đi,
chỉ khiến quỷ thần đều phải khóc, tiêu diệt dấu vết ẩn núp, toát
yếu cần phải đuổi tận giết tuyệt, không lưu lại một chút tất, được
như thế năng lực xuất sắc, tự nhiên được thấy tin tức tốt đẹp. Nếu
một niệm ép buộc phá được thì tất cả vọng niệm ngay lúc đó giải
thoát tạ lỗi lập tức, như không hoa, như ảnh rơi rớt, như lửa mặt
trời, ngư ngọn hải đăng, mỗi lần vượt qua đây liền đặng khinh an vô
lượng, tự tại vô lượng, đây mới là chỗ được năng sơ tâm. Hơn nữa lại
không thể sanh tâm hoan hỷ, nếu sanh tâm hoan hỷ thì tâm ma hoan hỷ
nương cậy phát sanh một trong nhiều thứ chướng ngại. Cho đến nếu trong
Tạng Thức tập khí chủng tử căn bản ái dục tiềm ẩn thâm sâu kiên
cố, dùng năng lực Thoại đầu thì không được đúng chỗ, dùng tâm quán
chiếu cũng không kịp chỗ, tự mình ra tay cũng không được, chỉ có phải
lễ Phật tụng kinh sám hối thì mới đươc. Lại nữa, tâm cần trì chú
Lăng Nghiêm, nương nhờ mật ấn của Phật để tiêu trừ nó. Sử dụng
các mật chú đều là tâm ấn Kim Cang của Phật, chúng ta dùng nó như
cầm chày báu kim cang, đánh vỡ tất cả vật, vì đồ vật quá nhiều như
vi trần. Theo trên Phật Tổ, tâm ấn bí truyền đều không ra khỏi đây;
cho nên gọi mười phương Như Lai đều trì tâm chú này được thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tuy nhiên Phật thì nói rõ, môn hạ (đệ
tử) của Tổ sợ bị lạc vào thường tình, cho nên giữ bí mật mà không
nói, nhưng không phải không sử dụng. Ở đây thường ngày phải có qui
định thời khoá, tu tập lâu lâu cho thuần thục, để năng lực được
nhiều thâm sâu, nhưng không thể hy vọng mong cầu thần linh ứng nghiệm
gia hộ.
1/- Phàm kẻ tu hành, có kẻ trước
ngộ rồi sau mới tu, có kẻ trước tu rồi sau mới ngộ, do đó kẻ ngộ
có chỗ chứng giải (giải bày sự chứng ngộ) không giống nhau. Nếu y
cứ nơi lời dạy của Phật Tổ chính là Minh Tâm, đó tức là giải ngộ vậy,
nhưng phần nhiều họ lạc vào tri kiến nơi tất cả cảnh duyên, mà
không tự có năng lực để chứng ngộ, cho nên khiến tâm và cảnh đứng
chỗ rẻ và sự hỗn tạp không được dung thông, đụng phải đường liền
trơ Bát Nhã tương tợ mà không phải chỗ chân thật để tham cứu. Kẻ
nếu chứng ngộ, từ trong tâm của tự mình đích thực tỏ ra giản dị thì
sự hỗn tạp sẽ bỏ đi, còn như cưỡng bức ép buộc thì đi đến chỗ nước
cùng núi tận, bỗng nhiên một niệm lập tức nghỉ ngơi; tâm nếu tự
hoàn toàn thấu suốt vấn đề này thì cũng giống như mười chữ ở đầu
đường phố đích thân thấy to lớn, lại không còn nghi ngờ nữa, chẳng
khác nào người uống nước lạnh nóng tự biết, cũng không thể ngoài
đường nhổ nước miếng lên người, đây mới chân thực tham cứu chứng
ngộ. Rồi sau đó liền sử dụng chỗ ngộ đó dung hợp tâm cảnh, trừ
sạch hiện nghiệp vọng tưởng thường tình đang tuôn chảy trong Thức,
cùng nấu lại thành một vị chân tâm, đây mới thực là chứng ngộ
vậy. Chứng ngộ đây cũng có sâu cạn không giống nhau, nếu từ nơi
trên căn bản, thực hiện công phu đả phá khuôn sáo cũ của tám
Thức, chỉnh đốn lật đổ hang động vô minh, một mặt siêu thoát trực
tiếp vào thẳng chân tâm, không còn để lại pháp nào, đây mới chính
là lợi căn trên hết, chỗ chứng ngộ rất sâu. Ngoài ra chỗ chứng
của kẻ tiệm tu thì rất cạn. Rất sợ họ được chút ít cho là đủ, cũng
rất sợ họ bị rơi vào đầu cửa ngỏ của ánh sáng ảo ảnh, là sao thế?
Nguyên do căn bản của tám Thức chưa phá vỡ, dù cho có tạo tác được
những gì đều là những sự việc bên cạnh của Thần Thức, nếu cho đó
là chân thật thì cũng tương tợ to lớn như nhận giặc làm con. Cổ nhân
nói rằng: người học đạo chẳng nhận thức chân thật, lâu nay chỉ nhận
cho là Thần Thức, từ vô lượng kiếp đến nay vốn vẫn bị sanh tử, thế
mà con người si mê cho rằng, con người sanh trở lại vẫn là con người.
Nơi đây là một điểm then chốt tối cần yếu phải xuyên qua. Chỗ nói
đốn ngộ tiệm tu đây, chính là nói trước ngộ đã thấu triệt, chỉ có
tập khí chưa có thể thanh tịnh ngay lập tức, chính ở nơi trên tất cả
cảnh duyên, dùng lý để ngộ, do năng lực phát khởi quán chiếu, tâm
trải qua nghiệp cảnh, hoà hợp lại được một phần cảnh giới, chứng
được một phần pháp thân, tiêu được một phần vọng tưởng, hiển bày
được một phần bản trí, chính là lại hoàn toàn ở nơi công phu chín
chắn, xuất ra ở trên cảnh giới, đây là đạt được do năng lực vậy.
2/- Phàm người lợi căn tín tâm
dũng mãnh, thường siêng năng công phu tu hành, sự chướng thì dễ trừ,
còn lý chướng thì khó diệt, trong đây tật bệnh sơ lược đề cử một
hai:
a/- Thứ nhất không được tham cầu
sự mầu nhiệm trên hết, do vì những sự việc ổn thoả đây xưa nay vẫn
bình thường, đích thật là chững chạc, một vị bình thường thì lại không
có mầu nhiệm đầu tiên. Lý do chúng ta biết hoá giải tập khí chưa
được thanh tịnh, bên trong huân tập Bát Nhã thì Bát Nhã chính là tập
khí được huân tập và Bát Nhã đây sẽ sanh khởi các huyễn hoá, phần
nhiều thấy sanh ra những giả dối và tâm liên tục chấp trước, sẽ
giải thích mầu nhiệm đầu tiên rồi thâm nhập sẽ không xả bỏ.
b/- Thần Thức đây chính là ánh
sáng ảo ảnh, là căn nguyên của vọng kiến phân biệt, cũng gọi là
kiến sắc (thấy sắc bén). Tỷ như trước hết vọng tưởng thô phù không
giống nhau, ở đây chính là vi tế chảy vào sanh diệt, cũng gọi là trí
chướng, chính là nghi ngại Chánh Tri Kiến. Nếu người nhận cho là chân
thật thì phát khởi những thứ thấy cuồng loạn, nhất là ở nơi chỗ
ghen ghét.
3/- Thứ đến không được đem tâm đối
đãi cho người tôi chân tâm mầu nhiệm hoàn hảo, cũng không được xưa
nay cư xử tuyệt đẹp, hướng về nguyên nhân vọng tưởng tụ lại chính
là tâm và cảnh, căn và trần đối đãi nhau đứng nơi chỗ rẽ để khởi
lên mê hoặc tạo lấy nghiệp lực. Nay người tu hành, chỉ cần một niệm
buông xuống thân tâm và thế giới, chỉ riêng đưa ra một niệm đây
hướng về trước, cốt yếu ở chỗ là không cần ai phụ trách giác ngộ
nó hay cùng không giác ngộ, chỉ phụ trách mỗi niệm mỗi niệm mỗi
bước mỗi bước làm cho nó mang đi. Nếu công phu đến chỗ thì tự nhiên
thấy đặng diện mạo xưa nay, cần gì phải tính toán mau sớm! Nếu đem
tâm đối đãi, tức là tâm chờ đợi đây chính là cội gốc của sanh tử,
chờ đợi đến cùng kiếp cũng không ngộ được, vì thế không nên tuyệt
đối hoàn toàn chờ đợi chân tâm, nếu chờ đợi đặc biệt sẽ là cố
tình mà thôi. Nếu đem tâm chờ đợi mà không loại trừ thì dễ sanh mệt
mỏi chán nãn, đi đến phần nhiều trở thành thối lui sa đọa, tí dụ như
tìm một vật gì đó mà không thấy, liền phát khởi ý tưởng thôi nghỉ
vậy.
4/- Thứ đến không được hy vọng mong
cầu kết quả mầu nhiệm, hơn hết tâm vọng sanh tử của chúng sanh,
nguyên là thể quả của Như Lai, hiện nay ở trong mê, đem thần thông
diệu dụng của chư Phật biến làm vọng tưởng lo nghĩ tình ý, phân biệt
tri kiến; đem pháp thân chân tịnh, biến làm thực chất nghiệp báo sanh
tử; đem cõi thanh tịnh mầu nhiệm, biến làm cảnh giới sáu trần. Như
hiện nay đem công phu, nếu như một niệm đốn ngộ được tự tâm thì cũng
giống như lò lửa luyện đồ sứ, nấu chảy thành vạn tượng, tức là
thân tâm và thế giới đây, nguyên là thể quả của Như Lai, tức là
vọng tưởng lo nghĩ tình ý, nguyên là diệu dụng của thần thông, đổi
tên không đổi thể vậy. Cho nên Vĩnh Gia nói rằng: Thật tánh của vô
minh tức là Phật tánh, thân không huyễn hoá tức là pháp thân, nếu
có thể ngộ pháp môn đây, tức là tình thủ xả đều quên mất, tâm vui
mừng đều ngừng lại, mỗi bước mỗi bước đều tịnh độ hoa tạng, mỗi
tâm mỗi tâm đều Di Lặc hạ sanh. Nếu muốn an được tâm trước hết lại
mông cầu quả mầu nhiệm, tức là tâm hy vọng mong cầu, lại là căn
bản của sanh tử, ngăn ngại Chánh Tri Kiến, càng chuyên môn mong cầu
thì lại càng chuyên môn đi xa, năng lực mong cầu mệt mỏi thì sanh mệt
mỏi chán ghét vậy.
5/- Thứ đến không thể tự sanh lo
nghĩ nghi ngờ, phàm tiến hành công phu, thứ nhất hướng thân tâm
buông xuống tuyệt đối ngăn chận thấy nghe hiểu biết giác ngộ, cố
bước bỏ đi, ngưỡng vọng về phía trước thì mịt mù tối tăm, không có
chỗ để an thân kiến lập mạng sống, tiến mà không có chứng chỗ mới,
trở thành ở chỗ thối lui biến mất. Nếu trước sau cứ mãi lo nghĩ trù
tính thì tâm phát sanh nghi ngại, khởi lên vô lượng tâm tư tính toán
so đo đặng mất, hoặc đặc biệt phát sanh thấy biết bằng ức đoán,
phát động ý nghĩ không chánh đáng, khiến ngăn ngại ChánhTri Kiến,
đây cần phải xem xét đả phá nó thì mới quyết định vào được chân
thật, nếu không chú ý lo nghĩ thì lại bị lãng quên. Còn công phu đại
khái làm được và làm không được, chính là được chỗ năng lực, lại
thêm màu sắc tinh tế thì không thối lui chịu phục, nếu không được như
thế thì bị đọa vào ma quỷ ưu sầu vậy.
6/- Thứ đến, không đặng sanh tâm
hoảng sợ, nghĩa là niệm lực công phu vô cùng cấp tốc thiết yếu, có
thể cưỡng bức ép buộc được vọng tưởng khiến một niệm lập tức dừng
lại, bỗng nhiên thân tâm giải thoát trở về tánh không, lại thấy
đại địa không còn tất đất và thấy thâm sâu đến vô cực (nơi không
có đầu mối), liền sanh đại lo sợ, nếu nơi đây không còn tra xét thì
dũng cảm hướng về trước. Muốn chọn cách hướng về trước đây, đương
nhiên phải tạo được sự mầu nhiệm thù thắng để đạt đến tánh không
rộng rãi, một khi nhận được tánh không đây thì đại tà kiến nếu
phát khởi liền bị trừ sạch không còn nhân quả, cách này thật nguy
hiểm vô cùng vậy.
7/- Thứ đến, quyết định tin nơi tâm
của mình là Phật, dĩ nhiên Phật không có Phật riêng biệt, duy tâm
tức là Phật, và Phật là pháp thân chân thật, cũng giống như hư
không, nếu đạt được mê vọng đầu tiên là hư vô thì vốn có pháp
thân tự nhiên hiện bày, ánh sáng tĩnh lặng tự nhiên chiếu soi, viên
mãn biến khắp không thiếu chỗ nào mà cũng không dư chỗ nào. Lại
nữa, chớ đem tâm hướng ngoại để tìm cầu, nếu đem tâm hướng ngoại
này riêng biệt tìm cầu thì trong tâm biến khởi các giống vô lượng
cảnh giới mộng tưởng, đây chính là Thần Thức biến hiện mà không
phải tâm biến hiện, nếu Thần Thức biến hiện thì nhất định không có
thể tạo tư tưởng lạ lùng này được vậy. Như thế, trong tâm tôi vốn
đã thanh tịnh thì không có một vật nào cả, lại cũng không có một
niệm để khiến khởi tâm động niệm, tức là trái nghịch với pháp thể
vậy. Hôm nay người tiến hành công
phu, nói chung họ không biết tâm mình vọng tưởng đầu tiên là hư
vọng, lại đem vọng tưởng đây sai lầm cho là chân thật, rồi chuyên
môn tạo tác đối đầu, giống như trẻ nhỏ đùa giỡn ảnh đèn không
khác, chúng quay đèn để đùa giởn và rồi lại không quay đèn đùa
giởn nữa. Giao thiệp chơi giởn lâu ngày thì tự nhiên sanh sợ hãi.
Lại có một hạng người sợ vọng tưởng, vì rất hận là họ hoàn toàn
không có một lần nào nắm bắt được nó để ném qua một bên, trường
hợp đây cũng giống người bắt gió nắm lấy ảnh, suốt ngày cùng qua
lại đánh nhau lộn nhào, tiêu hao hết khí lực, thêm nữa khi một niệm
chưa dừng lại vẫn vương vấn lâu ngày với nó thì tín tâm ngày thêm
mệt mõi, chừng đó lại nói tham thiền không linh nghệm, rồi sanh tâm
hủy báng, hoặc sanh tâm sợ hãi, hoặc sanh tâm thối đọa, đây chính
là tình trạng bệnh hoạn thông thường của những kẻ sơ tâm vậy. Đây
không ai khác, dường như họ lý do không đạt được chân tâm thường
trụ, không phát sanh được tánh diệt tận, chỉ đem vọng tưởng cho là
thật pháp vây. Trong đây, cần thiết phải hết sức vượt qua, nếu như
vượt qua được sự quan hệ này thì tự có một con đường hướng thượng,
chỉ cần phải ly khai Tâm Ý Thức tham gia, ly khai mong cầu cảnh giới
vọng tưởng. Chỉ có chỗ một niệm sanh khởi, không bảo đảm là Ác Bồ
Đề mà lập tức bỏ qua; cần thiết ở đây chớ cùng một niệm tạo tác
đối lập, chăm chú tin tưởng rằng tự trong tâm vốn không có sự việc
này. Trên căn bản chỉ đem câu thoại đầu để tham khảo, nhằm tạo năng
lực để tiến hành, như Kim Cang Bảo Kiếm, Ma và Phật đều bỏ. Chỗ này
quan trọng cần yếu là dũng mảnh phải đại lực, tinh tấn phải đại
lực, nhẫn nại phải đại lực, quyết không được tư duy trước rồi bỏ
cuộc sau, quyết không đặng khiếp nhược, chỉ đạt được chánh niệm trực
tâm, thân ngay thẳng hướng về phía trước, tự nhiên oai nghi chững
chạc, cao lớn đồ sộ, nhờ đây những vọng tưởng ràng buộc không thể
phá. Cũng như giải thoát bao tay của chim ưng, trong hai mươi sáu giờ,
nơi tất cả cảnh duyên tự nhiên không liên lụy vướng vấp, tự nhiên
đặng đại khinh an, đặng đại tự tại, đây chính là bước thứ nhất của
bậc sơ tâm, chỗ công phu là đạt được năng lực vậy.
8/- Theo số trên thì, ở vào một
thời kỳ chính phương tiện nghe nói, vốn không phải cứu cánh, cũng
không phải pháp thật, cũng tương tợ như trên bức hoạ, vẽ một con
rắn to lớn lại thêm bốn chân vào. Dường như ở bên đường mê, ra
khỏi cửa một bước, liền sợ lạc vào đường mòn lối rẽ khác nhau,
uổng phí tâm lực, hư mất thời gian, tất nhiên cốt yếu cần phải chân
chánh vượt ra khỏi một cửa nơi con đường của Diệu Trang Nghiêm, chỗ
gọi là lối đi chân chánh bình an; nhưng nơi đó bệnh tật như gióù,
bước đi lại giẩm lên chỗ nó. Quan trọng của Phật Tổ, hướng đi chỉ
có một con đường, không qua lộ trình nào khác, nó phương tiện chỉ ở
nơi sơ tâm, nhưng theo lý đây cũng phải vượt qua mới đạt được.
Bài này của Đại sư thuyết trình
mặc dù không chuyên về Tịnh Tông, nhưng người tu Tịnh Tông, muốn mong
cầu sống hiện tại cần nên chọn đây để nhận rõ; số bài đây tất
nhiên hết sức quan hệ, rõ ràng với xưng là Niệm Phật Trữ Ma Biện
của Pháp sư Tỉnh Am, tốt nhất là chỉ điểm vô cùng thân thiết. Nguyên
nhân của lời Phụ Lục này là giúp cho người học thường theo đó để thể
nghiệm.
Triệu Việt xin cẩn thức.
VI.- NIỆM PHẬT TRỮ MA BIỆN
(Niệm Phật phân biệt nhận rõ Ma)
Đời nhà Thanh, tác giả Đại Sư Tỉnh
Am. Hoặc hỏi Ngài Tỉnh Am rằng: “Một pháp môn tham thiền hoàn toàn
nương nơi sức của mình, cho nên mỗi mỗi có rất nhiều Ma Sự; còn niệm
Phật thì nương nơi sức của người khác, là nương nơi Phật hộ niệm, cho
nên Ma Sự không sanh, như vậy có các khó khăn chăng?”
Ngài Tỉnh Am đáp: “Vâng vâng! Khó
Khăn khó khăn! Vấn đề tham thiền niệm Phật, nếu luận đến nó thì
cũng khó và cũng dễ, để vững chắc có hai phần tự lực và tha lực;
nếu luận Ma Sự thì có đầy đủ cả hai không thể thoát khỏi”. Hoặc có
kẻ nói: “Dám hỏi nghĩa đây là thế nào?
Đáp rằng: “Ma Sự lại đến, có ba
nguyên do: (1) Một là giáo lý chưa rõ; (2) hai là không gặp bạn
lành; (3) Hôm nay vấn đề ở đây người tu đi theo con đường vạn lý mà
rất cẩu thả là không chịu cứu xét địa đồ và lại không có người
dẫn đường, hơn nữa không biết con đường phía trước lưu thông hay bế
tắc, họ lỗ mãng cứ mãi tiếp tục tiến tới, tôi biết họ rất khó ở
chỗ là không thoát khỏi tai họa sai lầm! Còn vấn đề tham thiền niệm
Phật, thí dụ như người đi đường, được kẻ kinh nghiệm chỉ dẫn thì cũng
không khác nào họ có bản đồ trong tay, họ có bạn hữu giúp đỡ cũng
giống như được người dẫn lối, còn tâm của họ khi được phát hiện thì
cũng giống như kẻ biết được đường nào lưu thông và đường nào bế
tắt, mặc dù hai đường đây chi nhánh khác nhau, bên thì bình yên và
bên thì nguy hiểm không giống nhau, nhưng cả hai không thoát khỏi tai
họa sai lầm lạc lối tham thiền thì lại đặt vào chỉ có niệm Phật,
mặc dù họ cố gắng đè nén tâm xuống cho được bằng phẳng mà rất kỳ
lạ họ trực tiếp xả bỏ tất cả và cắt đứt mọi thứ bao nhiêu thì
lại tìm cầu quanh co cong quẹo bấy nhiêu; hoặc trên hai con đường họ
lại thích đi bao gồm cả hai lối, cuối cùng tất cả đều mất hết; hoặc
chọn giữa đường để xây cất nhà cửa phòng xá, chọn chỗ đất bằng
để xây dựng núi cao, sự sai lầm như thế không thể nêu lên hết
được. Qua những lỗi lầm kể trên chung quy cũng đều do chưa hiểu rõ
giáo lý.
Một pháp môn niệm Phật rất hoàn
mỹ rất đốn ngộ (giác ngộ ngay lập tức), nhưng nó cũng rất dễ và
nó cũng rất khó, như trong Kinh Di Đà chỉ có bốn chữ “Nhất tâm bất
loạn”, nói nông cạn, cho dù chồng ngu, vợ dốt chăng nữa đều có thể
thật hành được; còn nói thâm sâu, như những bậc đại Thánh đại Hiền
rốt cuộc cũng không thể vượt qua. Ngày nay người tu hành bậc sơ tâm,
mặc dù họ tu tiệm, nhưng tâm họ được khinh an, nghĩa là tự họ đã
đạt được một sự Nhất Tâm. Có hạng người mới đầu hiểu theo lối
giải thích nông cạn, rồi sau đó lại tự bảo rằng đặng lý Nhất Tâm;
nhưng trên thực tế họ niệm lớn tiếng mà không phát sanh được nhất
tâm, còn niệm thầm vi tế thì làm sao phát sanh được nhất tâm. Dù cho
họ dũng mảnh quá đáng, tinh tấn gấp bội thông thường, nhưng không
biết ngoài tâm không có Phật, lại hướng ngoại mong cầu mau chứng
đắc, khi không đạt được phương tiện thiện xảo liền cấp tốc muốn
thân bỏ cuộc nửa chừng; Ma quỷ liền lợi dụng cơ hội đây nhập vào
thân thể của họ để làm gió làm cuồng loạn. Sở dĩ có những hiện
tượng xảy ra kể trên chung quy đều là do không giác ngộ hiểu biết
và cũng là lỗi không gặp được bạn lành vậy.
Sự sanh tử của chúng sanh kia là do
ngã kiến làm căn bản, ngã kiến nếu không trừ khử thì việc tu hành
không có lợi ích. Tuy nhiên ngã kiến sở dĩ góp mặt là do căn nguyên
thâm sâu của nó gặp thời cơ đã đến vững chắc liền từ manh nha phát
sanh thành thân cây và xuất hiện không có chỗ nào không có mặt;
cho nên hễ thấy đất cao thì ngã kiến đều cao, công phu nếu tiến lên
thì ngã kiến cũng tiến theo; ngã kiến nếu đúng lúc khi kiểm điểm,
tức khắc nêu ra xé gỡ thì mỗi niệm mỗi niệm phát sanh và mỗi tâm
mỗi tâm tăng trưởng; ngã kiến theo đuổi người tu hành như bóng với
hình như vang với tiếng, mặc dù họ đã chết nhưng ngã kiến cũng không
xa lìa. Cho nên người tu học, nếu tâm không trống rỗng thì tự không
phát hiện ngã kiến; nếu không phát hiện thì cố nhiên ngã kiến tăng
trưởng, ngã kiến nếu tăng trưởng thì chỗ đạt được ít có, từ đó
kiêu mạn phát sanh, liền mỉa mai và hiềm nghi bạn đồng học, phỉ bán
người tu hành, mặc dù họ có tu hành thêm nữa nhưng chung cuộc trở
thành Ma
Sự, rồi tự nghĩ họ cảm thấy có
lỗi vì không tự phát hiện được Ma Sự. Hoặc thưa rằng: “Người tu thiền
phải thân cận minh sự, nếu như không có minh sư thì phải xem kinh
giáo; còn niệm Phật chỉ quí nơi năng lực thực hành của thâm tín, đã
có năng lực thực hành của thâm tín thì quyết định vãng sanh, sao lại
dựa vào bạn hữu và kinh giáo?”
Ngài Tỉnh Am đáp: “Sao lại nói như
thế! Thế gian tài năng kém cỏi còn không thể không thầy, huống hồ
niệm Phật là pháp môn cần yếu ra khỏi sanh tử. Nếu không có thiện
hữu và kinh giáo thì theo chỗ nào để khai mở và phát huy? Ai là
người dẫn đạo? Xem Kinh có ba phẩm dưới đều là bạn hữu để khai mở
và phát huy mỗi khi có người lâm chung sớm được vãng sanh, còn phẩm
trung và phẩm thượng thì không nhất định phải nói! Phải biết từ phàm
đến bậc thánh, đều đi từ chỗ dễ đến chỗ khó, không ai không nhờ
thiện hữu và kinh giáo làm căn bản; nhà ngươi nếu không nhờ kinh
giáo thì do đâu mà biết được pháp môn Tịnh Độ và sanh tín tâm hướng
về?”
Hoặc hỏi rằng: “Nguyên nhân nếu
nhờ kinh giáo mà biết niệm Phật thì một Kinh Di Đà cũng đủ rồi, tại
sao dùng đến nhiều Kinh?”
Ngài đáp: “Bậc thượng căn thì có
thể chỉ cần một Kinh, còn người trung căn và hạ căn thì phải xem
khắp các sách Tịnh Độ để biết hoàn toàn ba tướng sai biệt của Tín,
Hạnh, Nguyện đồng thời cộng thêm thiện hữu để cảnh cáo và sách
tấn; bên trong họ dùng tâm trống rỗng để chiếu soi và hiểu biết.
Thông thường họ cần rất nhiều công phu niệm Phật để thoát khỏi Ma
Sự và từ đó về sau họ công phu niệm Phật mỗi ngày một thăng tiến.
Ngược lại công phu niệm Phật của họ mỗi ngày một thụt lùi thì Ma
Sự có cơ hội khiến họ trở thành tăng thượng mạn. Hơn nữa mỗi khi
Một Niệm của họ không được giác ngộ thì con người của họ liền bị Ma
Sự đè xuống chìm sâu dưới đáy biển sanh tử. Tai họa của Ma Sự là
như thế làm sao chịu đựng nỗi!”
Hoặc hỏi rằng: “Người tu hành tâm
họ đã niệm Phật thì Phật đâu không rủ lòng hộ niệm cho họ? Nếu như
họ được Phật hộ niệm thì Ma Sự làm sao bám theo được?”
Ngài Tỉnh Am đáp: “Người niệm Phật
kết quả phải được nhất tâm bất loạn thì mới được Phật hộ niệm
không hư dối; họ giả sử chưa được nhất tâm, mà lại dùng thiền định
để được khinh an, nếu giải thích theo nông cạn, họ đây chỉ là kẻ ngộ
sâu và tùy theo chỗ đạt được ngộ sâu, họ liền sanh tăng thượng mạn,
thế là họ tự chuốc lấy lỗi lầm mà không phải Như Lai trách móc.
Cho nên tôi nói, thiện hữu, kinh giáo và tâm phát hiện, ba điều
kiện này nếu thiếu một thì không thể đạt thành sở nguyện; mà trong
đây tâm phát hiện chỗ Một Niệm rất là tối cần yếu, không phải
trong chốc lát tạm xa lìa nó được; Một niệm điều kiện không giác
ngộ thì một niệm điên đảo; niệm niệm không giác ngộ thì niệm niệm
điên đảo. Điên đảo đã phát khởi thì Ma Sự cũng nổi lên theo, thế
nên người đời công phu lỡ một sớm ra đi thì được bao nhiêu công quả
cũng trở nên vô ích, có thể không lo sợ hay sao! Tịnh Độ Văn nói
rằng: “Thân không bệnh khổ, tâm không điên đảo”. Nên biết, thân
không bệnh khổ thì cầu Tịnh Độ nơi Phật; tâm không điên đảo thì cầu
tịnh nghiệp nơi ta. Ở nơi Phật thì tất nhiên không phải ta dũng cảm;
còn ở nơi chính ta thì có thể ta không tự gắng sức! Giả sử, người
khi lâm chung khiến họ một niệm điên đảo khởi lên thì không chỉ ở
nơi chín phẩm họ không được vãng sanh, nhưng tai nạn ở ba đường (địa
ngục, ngạ quỷ và súc sanh) họ tự nhiên cũng không thoát khỏi; Phật
dù cho có đại từ thì cũng không cứu ta được, thế thì than ôi chúng
ta có thể chịu được hay sao! Cho nên người tu tịnh nghiệp nhất định
không thể Một Niệm xa lìa phương tiện thiện xảo và cũng không thể
Một Niệm sanh tâm điên đảo vậy”.
VII.- ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO
(Mục Ghi Chép)
Năm Dân Quốc, Đại Sư Ấn Quang.
Quyển sách cầm tay đây, biết được
nguồn gốc quá khứ rất sâu xa là nhờ nhìn qua những cảnh đẹp hiện
tại đang hiện hành. Nhưng ngày nay hơn phân nửa quần chúng đều cần
thể diện, cho nên vô cớ họ xây dựng rất nhiều lầu cát chen trong
những cảnh đẹp thiên nhiên nói trên. Thế nhưng trong đó chỉ một phần
hai người phổ biến nói rằng có trăm ngàn vạn phần lầu cát tốt
đẹp, giống như ông cư sĩ kia ghi chép cho rằng, những cảnh giới trong
bức tranh của ông đều do tay bút của ông vẽ ra, nhưng xét chiều sâu
hơn nữa những bức tranh này không phải do tâm địa của ông tạo dựng.
Con người cố nhiên vì không hy vọng được tương lai, thành thử lo sợ
là họ có nhiều tập khí không nhỏ.
Riêng Phật giáo cho vọng ngữ nói
trên liệt vào nơi năm giới căn bản, chính là đề phòng sự dối trá
đây vậy. Nếu hoặc thấy lại nói là không thấy, không thấy lại nói
là thấy, đó chính là sa vào loại vọng ngữ; nếu vô cớ xây dựng lầu
cát mà lại nói xây dựng cảnh giới tốt đẹp, đây tức là phạm giới
đại vọng ngữ, cũng giống như chưa được gọi là được, chưa chứng gọi là
chứng, tội của nó gấp bội trăm ngàn vạn ức so với tội sát sanh,
trộm cắp và dâm dục. Người của nó nếu không tận lực sám hối, một
khi bỏ thân này thì không bao giờ sanh trở lại, tức là nó bị đọa
vào địa ngục A Tỳ, do vì nó có thể khiến cho Phật Pháp bị hết sức
lộn xộn bởi nghi lầm cho chúng sanh vậy. Các ông cần phải thận
trọng đối với những cảnh đã thấây có một phần không thể nói một
phần một, cũng không thể nói chín ly chín, có lỗi nếu nói cũng có
tội lỗi, mà ít nói cũng không được. Tại sao thế? Dùng tri thức chưa
được qua con mắt tâm đạo của người khác thì chỉ có thể dùng nhận
định để nói vậy. Thứ cảnh giới này, trước nay tri thức nói, nếu
chứng minh cho tà cho là chánh cho là không phải, thì không lỗi. Nếu
không chứng minh, chỉ muốn tự khoác lác thì cũng có lỗi. Nếu trước
nay tất cả người đều nói thì có lỗi. Ngoại trừ cầu đến tri thức để
chứng minh, nhưng nói đầy đủ thì cũng không được. Nếu nói đó là
cảnh giới thù thắng thì sau này lại vĩnh viễn không thể dùng được.
Người tu hành đây quan hệ rất lớn là chuyên nhất, mà chúng tôi đã
nói nhiều lần trong lời dạy. Sở dĩ gần đây người tu hành, đa số
nhiễm trước Ma, đều do dùng vọng tâm hấp tấp mong mỏi cảnh giới thù
thắng. Bỗng nhiên con đường của cảnh giới đó là con đường của Ma,
tức là cảnh giới thù thắng đó là cảnh giói của Ma, một khi sanh
tâm tham trước vui mừng tiếp nhận cảnh giới đó vân vân thì chính là
tiếp nhận sự tổn hại mà không tiếp nhận sự lợi ích vậy! Huống hồ
cảnh giới đó chưa xác thực là cảnh giới thù thắng? Giả sử người
họ có bao hàm được sự dinh dưỡng, cho nên vọng tâm của họ không
nóng nảy và không tham trước, cho dù họ thấy các cảnh giới thật
giống nhau chưa từng thấy, nhưng họ vẫn tự nhiên bình thản, không sanh
hoan hỷ và cũng không sanh tham trước, lại không sanh sợ hãi, hoảng
hốt và nghi ngại. Không nên cho con đường cảnh giới thù thắng hiện
có lợi ích, tức là vô tình cho hiện cảnh của Ma cũõng có lợi ích.
Tại sao thế? Lý do là không bị Ma chuyển liền có thể tiến lên được.
Lời đây không thường nói đối với người, nguyên do họ có những thứ
việc mà xưa ngay không được không nói vậy. Nhà ngươi đầu tiên lễ
Phật thực sự không thấy tượng Đại sĩ, nếu đó quả là thật thì không
nên nguyện niệm mà phải quán chiếu sự kiện đó trải qua lý do không
hoà hợp hay bí ẩn; nhưng nhà ngươi do tín tâm và lại thiết yếu, đấy
cũng là nhân duyên tốt, điều không thích hợp ở chỗ muốn thấy
tượng, mà lại chỉ có chí thành đảnh lễ mà thôi. Nhà ngươi vì chí
thành đảnh lễ mà thường không lo nghĩ người khác, đảnh lễ dẫn đến
mắt ngủ trước ánh sáng trắng và vẫn tiếp tục đảnh lễ Phật, trong
lúc đảnh lễ bỗng nhiên thấy tượng Phật đích xác đứng trên hư không,
mặc dù cảnh đó thuộc cảnh thiện, không thể tham trước; rồi tiếp
theo hiện tượng Phật đứng trên hư không không còn thể hiện nữa,
nhưng nhà ngươi không cho đó là do mong mỏi hy vọng ảnh hiện. Qua sự
kiện trên, nhìn đến căn tánh nhà ngươi, liền biết kiếp trước nhà
ngươi đã từng thực tập thiền định, cho nên ngày nay liên tiếp thấy
được có tướng này vậy. Cụ thể như Ngài Ngu Thường Chiếu tịnh tu nơi
Cao Phong Tử Quan trên Thiên Mục Sơn, Ngài tu nơi đó rất lâu liền ngộ
được tiên tri, có thể dự đoán tính tình tối tăm của Thiên đạo và
họa phước của con người. Ngài quy y với với Đại sư Liên Trì, Đại sư
nghe chuyện của Ngài kể, liền ghi lại trong sách hết sức bài xích,
cho Ngài đã bị Ma nhập, về sau không biết Ngài ở đâu.
Người học đạo phải hiểu, cần yếu
là phải biết chỗ quan trọng của nó, nếu phủ nhận tiên tri thì chỉ
được lợi ích nhỏ, tất nhiên nhận lấy tổn hại thì to lớn. Không nên
đối với những thứ cảnh giới của đạo này liền chấp nhận cho rằng,
họ thực tế có được Ngũ thông, điều đó còn phải đem nó ra để cân
nhắc thì mới có thể đạt được Lậu Tận Thông. Khổ nỗi duy nhất ở
chỗ là tham trước, cho nên khó tiến lên được, hoặc bị thụt lùi đến
chỗ đọa lạc, không thể không biết.
Cảnh mộng vào điện Phật có hai
câu Kinh Văn đã ghi nó, xưa nay thuộc về cảnh thiện, tuy nhiên hai
câu này nói rất rõ rành, muốn trở về Tánh Không thì phải nương nơi
con đường giác ngộ, muốn trở về giác ngộ chân thật thường Không thì
phải ra khỏi bờ mê vọng sanh tử. Bờ mê vọng sanh tử nghĩa là nơi,
người mê vọng chấp nhận các pháp thế gian cho là chân thật, vì mê
mới vào sanh tử, nếu có thể quán sát ngược lại các pháp thì nguồn
gốc của nó vốn Không và lại nương nơi con đường giác ngộ, để ra
khỏi bờ mê thì vào được nơi bến giác, trở về thật tướng chân không
của Chân Đế mà ngộ chân thường vậy. Phân biệt thắng cảnh của Ma
cảnh, nơi Kinh Giáo so sánh thì có hợp hay không có hợp. Cảnh của
Thánh quả đúng khiến con người một khi nhìn thấy thì tâm địa trực
tiếp thanh tịnh, lúc đó tâm hoàn toàn không nóng nảy không mê vọng
chấp trước. Nếu là cảnh Ma thì tâm thấy lại không thanh tịnh, tâm
liền phát sanh nóng nảy mê vọng chấp trước. Lại nữa hào quang của
Phật mặc dù rất sáng êm dịu, mà không êm dịu nơi con mắt; hào quang
nếu êm dịu nơi con mắt, lại không phải là hào quang chân thật của
Phật. Phật hiện chỗ phàm thì có tướng của phàm, nếu đối chiếu với
lý, càng hiển bày rõ đều là hư vọng. Còn Ma hiện, dùng lý đây để
đối chiếu thì lại ẩn núp, cũng giống như lò lửa luyện kim to lớn
đây là để đối chiếu xét nghiệm chân và giả vậy. Ban đêm thấy hào
quang trắng và cảnh hư không trắng xanh vân vân chính là tâm thanh
tịnh hiện ra, sao có thể cho là tướng của pháp giới, vắng lặng chiếu
soi; chỗ tâm thanh tịnh hiện ra và chỗ tướng pháp giới vắng lặng
chiếu soi nếu suy nghĩ thì không có hai và nếu cho có hai thì thành ra
bậc phàm và bậc thánh lộn ẩu bừa bãi! Nó quá khác xa không phải
hạng nông cạn biết được thấy chỗ xuất hiện, bởi vì dấu hiệu đây
đều do ký ức của kiếp trước sanh ra, chưa chắc đã là của văn tự
trong Kinh. Người tu tịnh nghiệp không dùng các thứ cảnh giới nói
trên làm sự nghiệp, cố nhiên cũng không cho cảnh giới nào phát
sanh. Nếu trong tâm chuyên muốn thấy cảnh giới thì cảnh giới đó lại
quá nhiều. Giả sử tâm không khéo sử dụng thì dẫn đến cảm thọ tổn
thương, không thể không biết. “Trên Văn Sao, quyển 2, đáp lại sách
của Huệ Chiêu”.
a/- Còn quán thì có 16 cách, hành
giả tu tập phải từ nơi dễ để tu hành. Hoặc quán bạch hào (hào quang
trắng) của Như Lai, hoặc quán 13 tạp tưởng (13 tư tưởng hỗn tạp). Cho
đến con người quán gặp được chín phẩm thì mới biết được nhân trước
quả sau của kẻ tu vãng sanh. Họ chỉ mong đợi hiểu rõ rồi thôi, chẳng
cần mong đợi tu quán. Về lý quán thì không thể không biết. Còn sự
quán thì tạm thật hành theo cách thong thả. Con đường lý quán thì lại
không hiểu rõ, quán cảnh thì không minh bạch, dùng tâm hấp tấp tu
bề ngoài không thiết thực, hoặc phát khởi Ma sự, hoặc thường quán
cảnh hiện tiền, do tâm niệm khởi vọng sanh vui mừng, cũng tức là
nguyên nhân sanh khởi hoan hỷ liền trở thành những chướng ngại, hoặc
lại gây thối lui công sức trước kia, đó là những hiện tượng giúp
cho Ma sự phát khởi. Thế nên Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: không tạo
tâm của bậc Thánh gọi là cảnh giới thiện, nếu từ giả bậc Thánh
tức là thọ nhận quần tà. Còn nhất tâm cầu xin trì danh là cho hành
trình ngàn vạn ức chịu đựng. Chờ đợi đến khi nào tâm trở về gặp
phải chuyên nhất thì tịnh cảnh tự hiện tiền. “Trên Văn Sao, quyển 2,
đáp lại sách Tôn Sùng Minh Hoàng Ngọc”.
b/- Bệnh cùng Ma đều do nghiệp kiếp
trước gây ra, nhà ngươi chỉ có thể tha thiết thành khẩn niệm Phật thì
bệnh tự giảm khỏi, Ma tự lìa xa. Giả sử tâm nhà ngươi không chí
thành, hoặc khởi niệm tà dâm bất chánh vân vân thì tâm nhà ngươi
toàn thể bị đọa vào nơi hắc ám, cho nên dẫn đến Ma quỷ quấy nhiễu.
Nhà ngươi nên ở nơi thời gian niệm Phật phải hoàn tất hồi hướng và
làm cho tất cả oán gia đều hồi hướng, khiến người kia nhờ nhà ngươi
niệm Phật được lợi ích siêu sanh thiện đạo. Ngoài đây tổng quát thì
không để ý tới, họ tạo ra tiếng vang cũng không để ý tới để khiếp
sợ, không tạo ra tiếng vang cũng không để ý tới để được hoan hỷ.
Chỉ niệm chí thành khẩn thiết thì tự nhiên nghiệp chướng tiêu trừ,
phước huệ đều tăng trưởng đầy đủ. Xem Kinh điển cần thiết là không
thể theo nó, khiến người đọc sách không chút cung kính; người đọc
Kinh sách tất nhiên phải xem như Phật tổ Thánh Hiền đang giáng lâm
chứng minh trước mặt thì mới có thật lợi ích vậy. Nhà ngươi quả đúng
có thể được như thế thì tâm địa của nhà ngươi chánh đại quang minh,
tà quỷ tà thần kia thì lại không chỗ có thể an thân vậy. Giả sử
tâm nhà ngươi trước kia theo tà mà ngày nay dùng tà để lôi cuốn tà,
như thế làm sao có thể khiến bọn tà ma quỷ thần kia lìa xa không
quấy nhiễu.Tôi nếu đã chứng được Tha Tâm Thông thì dù cho quỷ thần
có mặt cũng ít lại gần, nếu tôi nghiệp hết tình không thì cũng
giống như tôi đang soi gương báu, trong gương có hình ảnh của tôi. Nhà
ngươi không chí tâm niệm Phật mà lại cũng khước từ nghiên cứu chân
tâm này, tâm này nếu không biết thì lại trở thành giống Ma. Thí dụ
gương báu không mảy may vướng mắc bụi nhơ thì tự nhiên gặp trời
chiếu đất soi. Tâm của nhà ngươi đã bị bụi nhơ niêm phong che lấp
thâm sâu kiên cố mà muốn đặng trời chiếu đất soi giống như gương
báu sáng trong kia thì không thể được, hoặc có thể phát ra ánh sáng
được thì cũng chính là ánh sáng yêu quái, không phải là ánh sáng
giống như trong gương. Sự kiện đây mà lại đặt để nó ở gốc độ ngoài
chẳng quan tâm, không khác nào người bị rơi vào giữa nước và lửa,
như muốn cứu họ cấp tốc ra khỏi đầu tiên lại dùng cách niệm Phật,
mà cách niệm Phật đây nếu không phải nghiệp Ma thì cũng không tiêu
trừ để cứu được. “Trên Văn Sao, quyển 2, đáp lại sách của Mỗ Cư
Sĩ”.
c/- Người kia niệm Phật phát ra ánh
sáng đó chính là thuộc cảnh Ma, rồi cấp tốc viết lại niềm tin đó,
khiến chớ cho là thật, lâu ngày thì tự nhiên chấm dứt.
Giả sử đem sự việc đây cho là
cảnh Thánh hiện tiền thì tương lai sợ dẫn đến Ma quỷ bám vào thân
thể con người, dựa vào Ma phát điên, không thể uống thuốc cầu cứu.
Người kia nhờ có năng lực niệm Phật tu trì thì Ma không thể trực
tiếp báo oán. Nguyên do người kia tưởng đến cảnh giới tốt đẹp,
người kia tích trử nghiệp nhân liền hiện cảnh giới nghiệp quả, khiến
người kia khởi tâm hoan hỷ, nghĩa là tôi nhờ tu hành công phu cho nên
ảnh hưởng đến gia đình, hoặc nghĩa là tôi đã thành đạo Thánh; qua
những vọng niệm kiên cố đây liền mất đi chánh niệm và Ma quỷ nhơn
cơ hội đó liền nhập vào chỗ hở của tôi, thì tôi phát điên phát
cuồng, Phật cũng không thể cứu tôi.
Người đời phần nhiều có dụng công
tu hành, mà lại phát điên phát cuồng, đều do tự mình đã không biết
chỗ đình chỉ diệt trừ vọng tưởng và cũng không biết dụng công nhiếp
tâm chánh niệm. Mỗi mỗi đều còn chưa dụng công mà lại tưởng mình
đã thành Thánh; thêm nữa trọn ngày chỉ vọng tưởng Thánh cảnh làm
sự nghiệp, với những vọng tưởng kể trên giống như uống thuốc độc,
mê loạn không biết, cho là trời chuyển đất che, thần kỳ quỷ quái,
thật ra thì đều tự mình vọng tâm chiêu cảm chỗ tác dụng của Ma quỷ
vậy. Phải dạy họ nhất tâm niệm Phật, ngoại trừ danh hiệu của Phật
A Di Đà, tổng quát không mong đợi tâm sanh các niệm, tự nhiên giống
như hư không dài rộng đầy ngập sương mù đã bị tan biến liền mặt trời
hiện lên rõ rệt. Sự lợi ích nhất tâm niệm Phật của họ cùng sự
họa hại của vọng tâm xao động mong tưởng thấy những cảnh giới, đã
được ghi lại rõ trong Văn Sao mà tôi đã nhiều lần nói đến, cầu mong
quí vị dùng tín tâm đây chép lại để chuyển đi phổ biến. Lại nữa,
phải khiến năng lực trong đây nương nơi lời giảng của tôi, nhưng
không cho đây là cảnh thật, tức thì những cảnh giới đó phát hiện
trở lại, cũng không sanh hoan hỷ và cũng không sanh lo sợ thì những
cảnh đó tự nhiên tiêu diệt. Cũng như giặc vào nhà người, tự nhận
họ làm người nhà, cũng chịu hại bởi họ; biết nó là giặc mà mê
vọng sợ hãi, cũng chịu hại bởi họ. Nếu thái độ chẳng mừng mà
chẳng sợ, tổng quát là chẳng hiểu thì người kia lại không thiết lập
được chỗ đứng vậy. “Văn Sao trên Thiên 3, quyển 2, đáp lại 5 quyển
sách của Cư sĩ Trần Sĩ Mục.”
d/- Phật pháp lợi ích, không phải
phàm tình chỗ có thể đo đạt được. Người ngu kia chỉ biết dùng y dược
để trị bệnh, cho đến cầu thần cúng quỷ để cầu cho khỏi bệnh, trường
hợp đây có chỗ gọi là chuyên gánh vác dây đay mà bỏ lại vàng
(Dây đay là dây buộc lưng bằng vàng của nhà vua thời xưa), mặt trái
của đạo thì được lưu chuyển vang khắp. Nhà ngươi chỉ trị liệu một thứ
bệnh thì có thể biết được công phu không phải qua loa thong thả mà
có thể đạt được lợi ích thiết thực. Lại nữa, biết Phật pháp thật
có điểm đá thành vàng (đây là thí dụ chớ hiểu sai lầm), cũng từ
phàm phu có thể tạo lập công trạng lớn của bậc Thánh; cũng thuộc
chỗ sử dụng thiện căn của đời trước, có thể quan hệ chỗ chứng đắc
của sự tu trì hiện thế. Nên khéo dùng cái tâm, chớ để đến nỗi làm
những chuyện lạ lùng đây mà bao nhiêu công phu trước kia bị thối lui
sa đọa, thì tương lai đương nhiên lại có đạt được những lợi ích thâm
sâu. Chỗ nói thâm sâu đây không nhất định phải nơi cảnh giới của
sự mong cầu ở trên được cảm thông, đương nhiên là ở nơi chỗ nhận
định vãng sanh Tây Phương thì mói có thể không phụ lòng thâm ân của
Tam bảo lần lượt gia bị đây. Ông Chung Anh, túc căn của ông cố nhiên
thâm hậu, nhưng trí thức của ông thì không khai mở, cho nên nửa đêm
ông niệm Phật, ông thấy một vị Thần Kim Giáp, ông liền sợ Ma thăm
dò, nên không dám niệm Phật, một khi hiện tượng đó đã đến đây thì
sao lại không biết mà lo sợ. Phàm người niệm Phật chỉ nên chí thành
khẩn thiết, nhất tâm chánh niệm, tuyệt đối không vọng tưởng sự
kiện thấy Phật thấy cảnh giới. Dụng tâm quy về chuyên nhất thì dù
có thấy Phật thấy cảnh giới đều không nên vọng sanh hoan hỷ, nếu
vọng sanh hoan hỷ liền dẫn đến đặng ít cho là đủ và cũng liền trở
thành thối lui lười biếng. Không thấy Phật không thấy cảnh giới thì
cũng hoàn toàn không có chỗ thiếu, tâm chưa trở về chuyên nhất mà
cấp tốc muốn thấy Phật thấy cảnh giới thì điều đó không thể đạt
được. Không nên theo Đạo cho chỗ thấy đây chính là cảnh Ma, cũng
không quan hệ với cảnh Phật do vọng tâm sanh khởi, nếu sanh tâm hoan
hỷ tức là thọ lấy sự tổn hại (nghĩa là sanh hoan hỷ tức là thối
lui) và cũng không thọ lấy sự lợi ích. Phải dùng chí thành niệm
Phật làm sự nghiệp mà không nên đem tâm thấy Phật thấy cảnh giới
làm nhu cầu. Giả sử khi niệm Phật chân chánh, mặc dù thấy hiện ra
các tượng Phật, các tượng các Bồ Tát, các thiên long bát bộ vân
vân, nhưng phải giữ tâm chánh niệm, không nên sanh tâm chấp trước,
vẫn biết các tượng đã thấy chính là do tâm hiện ra. Cho đến dù trải
qua mỗi buổi sáng các tượng ấy vẫn hiện ra, vẫn thấy không phải
một miếng vật tự nhiên mà đích thực do tâm tịnh ảnh hiện, các cảnh
tượng ảnh hiện trên giống như nước trong sạch, ảnh mặt trăng liền
hiện vào, không mảy may lạ lùng. Trong lúc các cảnh tượng ảnh hiện
trên có đối diện, nhưng hoàn toàn không sanh tâm khoe khoang vui mừng,
mà lại phải khiến tâm chuyên nhất, nhận chân niệm Phật. Có thể
cũng nhờ đây mà tâm Ma không xuất hiện. Người niệm Phật tâm chuyên
nhất phải có thái độ không nên cho cảnh hiện của đạo Phật là có
lợi ích, nếu thế thì Ma hiện cũng có lợi ích. Vì cớ sao? Tâm nếu
không chấp lấy thì tất nhiên tâm có thể trở về chuyên nhất. Tâm
đã chuyên nhất khi thấy Phật hiện thì tâm thanh tịnh và Ma khi hiện
thì đem tâm thanh tịnh không chấp lấy,
chừng đó Ma không chỗ quấy rối. Ma
đã không chỗ quấy rối thì tâm lợi ích thanh tịnh và đạo nghiệp tự nhiên
tiến triển. Hôm nay nhà ngươi thấy lại các cảnh tượng ảnh hiện liền
sanh tâm lo sợ, không dám niệm Phật, thế là tâm nhà ngươi mất đi
chánh niệm. may mắn đây không phải là Ma hiện; giả sử Ma có hiện
là do nhà ngươi không dám niệm Phật, nhờ đó giúp Ma có thể vào chỗ
hở của tâm nhà ngươi và lôi kéo tâm nhà ngươi chấp trước lấy Ma
khiến phát sanh điên cuồng, làm tan mất chánh niệm. Chỗ duy nhất ở
đây là tại sao chẳng biết tốt xấu. Sợ Ma hiện thì phải nên nhận
chân khẩn thiết niệm Phật, nhờ đó Ma kia tự nhiên không chỗ dung
thân, cũng giống như ánh sáng đến thì bóng tối tự nhiên không còn,
chân chánh đến thì tà Ma tự nhiên tiêu diệt. Sao lại sợ Ma hiện mà
không dám niệm Phật? May mắn những cảnh tượng ảnh hiện trên không
phải là Ma. Nếu quả là Ma thì đã trao toàn quyền cho họ, rồi tự mình
dùng pháp đối trị bằng cách toàn thể không dùng đến nó bỏ quên nó
đi thì mặc tình Ma tướng quấy nhiễu trong không gian. Buồn thay buồn
thay! Niệm Phật tình cờ sanh bi cảm, cũng là chỗ tốt, nhưng không thể
chuyên tâm muốn phát động cảm tưởng này. Tâm nếu thường muốn phát
động cảm tưởng này thì tất nhiên bị Ma chấp trước bám lấy mà không
thể cứu. Phải giữ tâm giống như hư không, hoàn toàn không cho một
vật nào ở trong tâm. Dùng tâm thanh tịnh đây niệm Phật thì tự không
có tất cả cảnh giới nào. Nếu có cảnh giới Ma, ta liền dùng tâm
giống như hư không, không sanh kinh sợ và tâm vẫn niệm Phật thì Ma
tất nhiên tự tiêu diệt. Hôm nay sợ Ma nên không dám niệm Phật thì
cũng giống như sợ cường đạo đến nhà, tự mình trước hết đem binh lính
bảo hộ trong nhà chuyển đi phương xa, tiếp theo không cho gia đình ở
lại nhà, lúc đó cường đạo thay thế chủ nhà làm công việc bảo hộ
nhà cửa. Hôm nay nhà ngươi hoàn toàn không sợ đó chính là phơi bày
hành động chuyên môn cướp đoạt của cường đạo phải chấm dứt ngay
lập tức. Sao ngu si nhất trí để cho nó đến đây. “Trên Văn Sao thiên
thứ 3, quyển 2, đáp lại quyển sách thứ 6 của cư sĩ Trần Sĩ Mục”.
e/- Niệm Phật là phát nguyện đến
chỗ tịch tịnh thì có phần không thích hợp nghi lễ. Có thứ bệnh lại
nè nén không cho phát hiện, mà đã phát hiện thì thuộc về bệnh
tướng (bệnh tướng là bệnh hiện ra ngoài). Bệnh nếu vẫn như thế lâu
ngày về sau không có thuốc nào cứu chữa được. Bệnh duy nhất phải
yên tịnh và tránh ồn ào, đã ở chỗ yên tịnh thì cũng không sợ ồn
ào. Còn khi ở chỗ ồn ào, tâm ta vẫn yên tịnh mà không cảm thấy
chán ghét, thì lúc đó không sợ Ma sự chán ghét phát sanh; nếu có Ma
sự chán ghét phát sanh thì phải cấp tốc cải cách và nếu không cải
cách thì về sau phát sanh điên cuồng. Niệm Phật phát sanh bi thống
đây cũng là tướng thiện, nhưng cần thiết không thể thường thường như
thế được. Nếu thường khiến bi thống như thế thì tất nhiên Ma bi thống
nhiễm trước; Ma bi thống đã nhiễm trước thì suốt ngày luôn luôn bi
thống và bi thống cho đến chết, thứ bi thống đây đều do dùng tâm
bất thiện gây ra, chỗ then chốt đau ngứa đều cho lỗi rất nặng ở tinh
thần, chỗ gây ra viêm nhiệt đều từ nơi tâm lửa (tâm nóng như lửa).
Đương nhiên phải nhất tâm tịnh niệm, nên phổ biến khắp cả làng,
thường niệm ở trong chỗ đông người. Thì những thứ tâm kinh sợ và
những sự việc đau ngứa đều có thể hàng ngày thấy tiêu giảm vậy.
“Văn Sao thiên thứ 3, quyển 2, đáp lại quyển sách của Cư sĩ Lưu Huệ
Trác”.
VIII.- PHÒNG TRƯỚC MA.
Pháp sư Sám Vân
Giảng nơi Dân Quốc năm thứ 77, tại
Thử Giả Đại
Chuyên Nữ Sinh Trai Giới Học Hội.
(Văn Học Cảo Chuyên Tải Tự “Tạp
Chí Huệ Cự”,
kỳ thứ 301).
Không tu hành, có nhiễm trước Ma,
biểu tượng tinh thần phân chia liệt kê những chỗ quan trọng; còn tu
hành, cũng có lúc nhiễm trước Ma.
1/- Phát tâm chân thành:
Hiện tại là Ngũ Trược Ác Thế
(Thế gian có năm ác trược) gồm có: Kiếp trược Kiến trược, Phiền
não trược Chúng sanh trược và Mạng trược, tinh thần bệnh tật quá
nhiều. Chúng ta tu hành cần yếu ở chỗ phát tâm chân thành, làm
việc Phật pháp mà không lìa Phật pháp mới là tốt. Nếu như là “cần
tu thiện căn cúng dường, không bỏ nghiệp Bồ Tát cúng dường, không lìa
tâm Bồ Đề cúng dường”, có thể không bị nhiễm trước Ma.
2/- Tinh thần yên tĩnh:
Trên thế tục, chỗ gọi tinh thần
liệt kê phân chia, đại đa số đều là như thế cả: quý trọng ở chỗ
con người cho đến nơi nhà của chim, ân hận con người cho đến chim trên
nhà của người khác, ân hận được lợi hại như thế. Lúc thì quý trọng
lúc thì ân hận, tinh thần lại cần liệt kê phân chia. Cần yếu ở chỗ
là có thể bảo trì tinh thần tập trung, có thể là an định giới định
và huệ, an định yên ổn và tĩnh lặng, có thể không có những thứ
này. Chúng ta do tâm nhiễm trước mà bỏ đi, tình cảm nếu là ân hận
khích động mảnh liệt, một tham một sân, có thể gặp tinh thần liệt
kê phân chia, cho nên cần yếu tránh né những chỗ này.
3/- Chính đương lúc sinh hoạt:
Lại có, chức nghiệp theo sự nhất
định cần yếu là Chánh mạng. Chánh mạng chính là đang sinh hoạt, cũng
bao quát chức nghiệp ở trong, cần yếu là không chính đang sinh hoạt,
có thể khác nhau.
4/- Hành thiện tích đức hiếu thuận
nhơn hậu:
Phổ thông ở nơi thế tục, phần
nhiều làm việc thiện là đức hạnh thâm sâu, không ngoài hiển bày
mang đến trao cho người nhà xem, mặt ngoài hiển bày cung cấp người xem
là hoàn toàn làm để nêu danh, nêu lợi, hoặc là có tác dụng cho
việc làm. Tượng Đại sư Tán Hư quét nhà xí lại không cung cấp cho
người xem. Làm việc thiện, làm việc âm đức, có thể dùng cho việc
tiêu tai diên thọ. Đây lại chính là hiếu thuận cha mẹ vô cùng tốt,
nhiều nhơn nghĩa trung hậu, đây cũng là so sánh vậy.
Điều quan trọng trên, đây là ở nơi
thế tục cầu không nhiễm Ma, không được dùng biện pháp để trị bệnh
tinh thần và đây cũng là có quan hệ về phương diện thế tục.
5/- Tham sân vọng tưởng:
Ở trong Phật pháp, chủ yếu là rèn
luyện thời gian ngồi thiền và tận lực rèn luyện vọng tưởng, một
bên tâm tham, tâm dâm dục, một bên lại niệm Phật, đây cần yếu ở
chỗ là sợ nhiễm Ma và đây cũng chính là sợ tâm tham. Thứ đến là
tâm sân, ta tưởng bị báo thù, vì viết lời mờ ám cung cấp cho mũi
tên mờ ám, dạy người không biết đạo để nhường cho người khác đang
bị thiệt hại thọ khổ; việc đó vẫn tin ở ta thế nào cũng sắp xếp
và thế nào cũng phải viết, hoặc là ta thế nào cũng bị báo thù,
nhưng cũng ở đây chỉ cần yếu là sợ nhiễm Ma. Ở lúc niệm Phật phát
khởi thứ tâm cũng dễ dàng bị nhiễm Ma, đó là một tham, một sân.
6/- Biết tướng hư vọng:
Lại còn có hay sao? Thấy hoàn toàn
quỷ, thấy hoàn toàn thần, thấy hoàn toàn Bồ Tát, thấy hoàn toàn
Phật, để cho hoàn toàn không sanh khởi, chính là “thấy quái lạ không
quái lạ, nó quái lạ tự thua bại.” Trên sự thật, “Phàm chỗ có
tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng không phải tướng, tức là
thấy Như Lai”. Chỗ có tất cả tướng hảo, điềm báo chúng ta sẽ không
bị chấp trước, lại không đến chỗ chấp Ma. Có thể sợ mà nói: “Ờ!
Có thể hoàn toàn không lôi thôi! Phật đến là hoàn toàn rờ đầu
của ta!” Cho đến ở nơi “Phật đối với ta hoàn toàn nói pháp!” Cần
yếu là tự mình một khi đã chấp trước thì dù cho ngồi trên lưng ngựa
cũng chấp trước Ma, việc này trong Kinh điển lúc đầu có nói rõ. Lại
còn có hay sao? Có đời quá khứ hoặc đời nay tánh khác của sanh tử
hoàn toàn đã ra đi, bằng hữu sao lại tìm kiếm; hoặc là tánh khác
hoàn toàn của chồng vợ sao lại đi tìm kiếm, cần yếu duy nhất ở chỗ
là nhận chân, nếu không rồi cũng sẽ gặp trước Ma. Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí
huệ của Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước” – Việc đây chữ “Trước”
(âm là Trác là mổ xẻ), chính là “Trứ” (âm là chiêu là lôi cuốn)
“Chỉ do vọng tưởng chấp trước”, không thể chứng minh được.” Lìa khỏi
hoàn toàn vọng tưởng chấp trước thì “Tất cả trí, Tự nhiên trí, Vô sư
trí tự nhiên hiện tiền.”, đây chính là không chấp trước.
7/- Vượt ra khỏi đối đãi nhân ngã:
Ở trên sự việc của con người,
chúng ta cần xem rành mạch vượt ra khỏi hạng nhất không hoà hợp
giống như con người kiềm chế cái tâm khi đấu tranh cái tù và, khi
phát khởi ngã tướng, nhân tướng đối đãi nhau; có thể là ta đã biết
đạo, cũng không phải là người dại khờ. Cho đến ở nơi ngã vượt ra
khỏi bọn họ, xem được sáng sủa rành mạch, có thể cho lời nói chính
là lời nói, không thể dùng lời nói chính không phải lời nói, tránh
né sợ nhiễm trước mà ra xa. Ở trên sự việc của con người không bỏ
đối đãi, không bỏ vương víu.
Nhưng vương víu không trong sạch cũng
dễ dàng nhiễm trước Ma.
8/- Không nhiễm danh lợi năm trược:
Lại nữa chính là tham tài, tham danh
và một số sự việc đây. Đại gia vui mừng, gió táp lên xe mà vẫn
kêu ạ! Đấy đều có điểm điên cuồng, có điểm Ma nhiễm trước! Chiếu
theo lời thuyết pháp hiện tại, thì xã hội đây tình trạng bệnh hoạn;
theo Kinh A Di Đà cuối cùng đã nói, chính là kiếp trược, kiến trược,
phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, chỗ gọi là “Tâm
người không xưa thì gió đời ngày càng xuống”. Chúng ta nhận định rành
mạch thì hoàn toàn mới tốt. Đây là giảng nói đến sự kiện Ma không
thể nhiễm trước.
9/- Bát nhã không quán bỏ não
chướng:
Giả sử người có điểm Ma chướng
“không đòi hỏi” người khác dạy phải lễ Phật cho nhiều, tĩnh tọa cho
nhiều. Lễ Phật hoàn toàn cho nhiều, tọa thiền hoàn toàn cho nhiều,
người khác không thể dùng pháp Không quán đem tất cả phiền não đây
bỏ về hư không, mà phiền não và Phật hiệu cùng trì chú tụng kinh
nếu nắm lấy tất cả bỏ vào ở nơi một điểm để phát khởi thì trở
nên rối loạn và tan nát, đồng thời tinh thần cũng dễ dàng xuất ra
bệnh tật. Đòi hỏi ở chỗ không nên xuất ra tất cả nhiều lần công
sức để rồi phải bỏ đi. So sánh đây thì rất tốt đẹp!
10/- Lợi chúng tích đức điều thân
tâm:
Sở dĩ con người đã từng có nhiều
lần trải qua tinh thần bệnh hoạn, hoặc hiện tại tinh thần con người
nhiều ít có điểm tướng trạng khác lạ, thế mà họ lại còn quan tâm
khuyên bảo người khác nên làm thêm nhiều một số công đứùc, để lợi
ích sự việc cho đại chúng; nhờ có công đức việc ấy cho nên sự điều
phục thân tâm của họ có khả năng tiện lợi hơn nhiều, như vậy mới
có tốt đẹp, chung quy là như thế.
11/- Tu trì hồi hướng trả lại oan
trái:
Giả sử lại có vấn đề khiến hoàn
toàn nhiễm trước Ma ngủ không nhiễm trước, chính tại uống thuốc ngủ
an thần nơi thị trấn Tịnh Tể, nó ngủ bao nhiêu ngày rồi. Người bị
nhiễm trước Ma đại đa số đều không thể ngủ. Bình thường người ngủ trái
ngược lại thì không tốt và cần yếu là cũng sợ Ma nhiễm trước; điều
rất tốt có thể ngủ đầy đủ, nghĩa là nói ngủ nên ngủ, không ngủ
nên không ngủ, như vậy so sánh đây rất hay. Người không thể ngủ tốt
là vì đêm dài vô tận nên không thể ngủ và nó thường có lúc tức
giận, chung quy đều là sợ có oan gia. Một hôm, trời mưa tối, nó ngủ
không bị nhiễm trước, hoặc là nhân vì nó uống nước nóng, hoặc uống
trà rất đậm, hoặc đến lúc ngủ lại gặp phải những sự việc gì đó
trước đây, những hiện tượng trên chưa chắc là điều kiện để lo sợ.
Nếu thường thường sự đấu tranh là sợ có oan gia, hoặc giả là sợ Ma
chướng
Lúc bấy giờ cần yếu quan trọng là
tu trì ngắn hạng và xem như rất tốt là chỉ cần trì chú Vãng Sanh để
hồi hướng oan thân trái chủ; hoặc giả tụng kinh Kim Cang, chỗ tụng 16
phần hay 16 phần thêm một nửa hay một nửa, tất cả chưa chắc nhiều;
hoặc tụng kinh Địa Tạng 13 phẩm, chỗ tụng một phẩm, một phẩm và
tụng phần khai Kinh, không chắc quá nhiều.
Ngoài đây nên làm nhiều những sự
việc công ích, làm nhiều những sự việc âm đức, làm nhiều những sự
việc thiện, làm một cách thong thả chính có thể hoà hợp được những
điều tốt. (Uỷ Ấn Văn Hiệu: 95165).
Dịch xong ngày 04 tháng 03 dl năm
2020,
Chùa Phật Quang
Trung Tâm Phiên Dịch và Sáng Tác
Dịch giả Thích Thắng Hoan.