PHẬT
GIÁO LUẬN LÝ HỌC-------------
NHÂN MINHNHẬP CHÁNH LÝLUẬN NGHĨA QUÁN
-----------------------------------------------------------------------------
* Tác giả:
Bồ Tát Thương Yết La Chủ
* Dịch giả:Đại
Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
* Soạn giả (kiêm chú giải): Sa Môn Thích Thành
Quan.
* Việt dịch: Sa Môn Thích Thắng Hoan.
*************
THỨ MỤC
*- Lời Dịch Giả:......................................................................
A)- Lời
Tựa Chung Của “Hệ Thống Tướng Tông”..................
I.- Kinh Điển Cùng Truyền Thừa Căn
Bản
Của Tướng
Tông............................................................
II.- Tuyển Chọn Và Chú Giải Duyên
Khởi
“Hệ Thống Tướng
Tông”.............................................
III.- Sao Gọi Là Duy Thức
Học?.......................................
B)- Nguyên
Văn “Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận”............
C)- Cổ
Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận................................
********
Phật Giáo Luận Lý Học:
Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Nghĩa
Quán
A.- LỜI NÓI
ĐẦU..................................................................
1.- Quy Tắc Thật Dùng Nhân Minh Phá
Ngoại Đạo.......
2.- Trình Bày
Tổng Quát Luận Lý Học...........................
a. Cách Đơn Giản Của Luận Lý
Tây Dương.............
b. Cách Đơn Giản Của Luận Lý
Trung Quốc.............
c. Cách Đơn Giản Của Luận Lý
Phật Giáo................
B.- NHÂN MINH
NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN NGHĨA
QUÁN....................
1A.- Giải
Thích Đề Luận, Luận Chủ, Dịch Giả................
2B.- Giải
Thích Văn Luận................................................
I.-Nhập Môn
Có Hai Lợi Ích............................................
II.- Pháp Môn Chân Năng
Lập.........................................
III.- Bộ Môn Tợ Năng
Lập...............................................
1/- Tợ Tông.................................................................
A, Tợ Tông Có Chín
Lỗi......................................
1, Hiện Lượng trái
ngược nhau......................
2, Tỷ Lượng trái
ngược nhau.........................
3, Tự Giáo trái
ngược nhau............................
4, Thế Gian trái ngược
nhau..........................
5, Tự Ngữ trái
ngược nhau.............................
6, Năng Biệt Bất
Cực Thành..........................
7, Sở Biệt Bất Cực
Thành...............................
8, Cau Bất Cực
Tành.......................................
9, Tương Phù Cự
Thành...................................
B, Tổng Kết Chín
Lỗi...........................................
2/- Tợ Nhân................................................................
A,Bốn Thứ Tợ Nhân Bất
Thành.....................
A1, Lưỡng Câu
không thành.....................
A2, Tuỳ Nhất không
thành........................
A3, Do Dự không
thành...............................
A4, Sở Y không
thành..................................
B, Sáu Thứ Tợ Nhân Bất
Định.........................
B1, Cộng Bất Định
(Nhân của hai bên tạo để
chung nhau dùng mà trở thành
bất định).......
B2, Bất Cộng Bất
Định (Nhân của hai bên tạo
mà không
chung nhau dùng liền trở thành
Bất
Định)........................................................
B3, Nhân Bất Địng nơi
Trong Đồng Phẩm Dụ
một phần
chuyển, mà nơi trong Dị Phẩm Dụ
biến
chuyển...........................................
B4, Nhân Bất Định nơi trong Dị
Phẩm Dụ
Một phần
chuyển, mà nơi trong Đồng Phẩm Dụ
Biến
chuyển...........................................................
C, Bốn Thứ Tợ Nhân Trái Ngược
Nhau...........
C1, Tợ Nhân cùngTự
Tướng của Pháp trái ngược
nhau.....................................................................
C2, Tợ Nhân cùng Tướng
Sai Biệt của Pháp
trái ngược
nhau....................................................
C3, Tợ Nhân cùng
Tự Tướng của Hữu Pháp
sai biệt
nhau........................................................
C4, Tợ Nhân cùng
Tướng Sai Biệt của Pháp
Trái ngược
nhau.................................................
3/- Tợ Dụ.................................................................
A, Tợ Đồng
Dụ.................................................
A1, Tợ Đồng Dụ
của Pháp Năng Lập
không
thành................................................
A2, Tợ Đồng Dụ
của Pháp Sở Lập
Không
thành.............................................
A3, Tợ Đồng Dụ
của Câu không thành.............
A4, Tợ Đồng Dụ
của Không Hợp.............................
A5, Tợ Đồng Dụ
Phối Hợp Bị Điên Đảo ................
B, Tợ Dị
Dụ................................................................
B1, Tợ Dị Dụ của
Sở Lập không lìa bỏ..............
B2, Tợ Dị Dụ của
Năng Lập không lìa bỏ..........
B3, Tợ Dị Dụ của
Câu không lìa bỏ....................
B4, Tợ Dị Dụ Không
Lìa Bỏ.....................................
B5, Tợ Dị Dụ
của lìa bỏ bị đảo ngược.....................
4/- Lời Kết Luận...................................................
IV.- Hai Môn Lượng Của Tự
Ngộ...................................
A, Hai Môn
Lượng Chân.......................................
B, Hai Môn
Lượng Tợ...........................................
V.- Bộ Môn Chân Năng
Phá............................................
VI.- Bộ Môn Tợ Năng
Phá...............................................
VII.- Kệ Tụng Tổng
Kết...................................................
C.- PHỤ LỤC:
Thư Mục Tham Khảo....................................
*************
LỜI TỰA CHUNG CỦA “HỆ THỐNG TƯỚNG TÔNG”
--------- ---- --- Sao gọi là Duy Thức
Học.---------------------
*- Lời Dịch Giả:
Giáo lý Phật Giáo trong ba Tạng Kinh, Luật,
Luận, nhất là Tạng Tuận kể cả giáo lý Tiểu Thừa và Đại Thừa đều
được xây dựng trên nền móng Nhân Minh Luận để phát huy tư tưởng sâu
rộng trong dân gian nhằm minh định chân vọng, cánh tà, thiện ác, đúng
sai, phải quấy, tốt xấu..v..v...... ngỏ hầu giúp cho người mới vào
đạo nhờ đó tư duy được chân chánh.Cũng nhờ luận chứng của Nhân
Minh, tư tưởng Phật Giáo, đi đến đâu ảnh hưởng đến đó, ảnh hưởng lan
rộng đến mọi tầng lớp xã hội, đồng thời trở thành chất liệu sống
ăn sâu vào tâm huyết con người từ bao giờ như tư tưởng từ bi, bình
đẳng, thiện ác nghiệp báo, nhân quả luân hồi..v..v..... đã trở
thành phương châm, luân lý, đạo đức trong nếp sống xã an lạc.
Ngày
nay trong thời kỳ mạt pháp, con người đang đứng trước quả mù của vạn
hoa tư tưởng tha hồ tung bay khắp mọi chân trời gốc biển. Một số con
người hầu như bị rơi vào trong thế giới ảo tưởng quá nặng của vạn
hoa tư tưởng ấy lung lạc, làm cho tâm trí bị mờ tối, không biết hướng
đi nào đích thực để chọn. Thế mà họ không nắm vững yếu điểm tư
tưởng của mỗi luận thuyết, đã vậy họ tự mình lại còn đem những
kiến giải thiếu kiểm chứng tung ra những luận thuyết phi luận thuận
thuyết, trong đó vay mượn, vá víu, nối kết những tư tưởng phi tư tưởng
chân chánh để trang điểm cho luận thuyết của mình, rồi tự hào cho
luận thuyết của mình là chân chánh.Khi nhìn vào nội dung những luận
thuyết vay mượn, vá víu, nối kết nói trên, chúng ta nhận thấy trong
đó những tư tưởng mâu thuẫn, tạp nhạp, không liên kết nhất quán,
theo Nhân Minh Học gọi là tự ngữ tương vi, hay nói theo ngôn từ bình
dân là “Râu ông này cắm càm bà kia”, mà những thứ đó hiện nay sản
xuất quá nhiều, nếu người sơ cơ khó bề lựa chọn.
Nhằm
mục đích giúp những người muốn học Phật pháp chọn đúng tư tưởng hoa
Ưu Đàm Bát Nhãchân thật trước cao trào vạn hoa tư tưởng ảo giác nói
trên, tôi cố gắng chọn tác phẩm Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Nghĩa
Quán của Bồ Tát Thương Yết La Chủ do Sa Môn Thích Hành Quan biên soạn
và chú giải dịch ra tiếng Việt để làm cẩm nam cho việc khảo cứu,
đồng thời cũng làm tư liệu cho văn học Phật Giáo Việt Nam. Tôi dịch
theo lối thoát văn, chỉ chọn lấy ý tưởng hơn là chọn lấy văn chương
cú pháp, đồng thời những chữ nằm nghiêng và nằm nghiêng trong dấu
Ngoặc(chữ nằm nghiêng) chính là
lời dịch giả thêm vào để người đọc dễ nhận định hơn. Lối dịch của
tôi dường như có nhiều thiếu sót kính xin quý ngài cao minh chỉ giáo
để tu chỉnh lại cho được hoàn bị hơn.
Cẩn bút.
Thích Thắng Hoan
I.- KINH ĐIỂN
CÙNG TRUYỀN THỪA
CĂN BẢN CỦA TƯỚNG TÔNG.
Chủ
yếu là giải rõ Tướng Tông (tức là Pháp Tướng Tông, cũng gọi là Du
Già Tông, hoặc gọi là Duy Thức Tông), tất nhiên cũng phải dần dần
giải rõmột thứ dưới đây là học phái Trung Quán; nhân vì chính như Tam
Tạng Đường Đại Nghĩa Tịnh ở nơi chỗ trình bày trong Nam Hải Ký Quy Nội
Pháp Truyện do Ngài trước tác nói rằng: “Chỗ gọi Đại Thừa, không
ngoài hai thứ: một là Trung Quán, hai là Du Già. Trung Quán thì thông
thường có chân không, thể thì hư vọng như huyễn; Du Già ở ngoài thì
không nhưng ở trong thì có, sự vật đều là Duy Thức.” Do đó có thể
hiểu biết, Phật pháp đại thừa thì có hai Đại Pháp Phái hoặc Học
Phái, một là Trung Quán Học Phái, hai là Du Già Học Phái. Trung Quán
Học Phái thì tôn vinh Bồ Tát Long Thọ là Tổ đầu tiên, đem Trung Quán
Luận và Thập Nhị Môn Luận của Bồ Tát làm căn bản luận điển, về
sau học phái của Bồ Tát truyền đến Bồ Tát Đề Bà, Bồ Tát Đề Bà trước
tác thành Bách Luận, nghĩa là cùng với hai bộ Luận của Long Thọ
hiệp nhau lại gọi là “Tam Luận”; người truyền thừa phái của Bồ Tác Đề
Bà là La Hầu La Bạt Đa La, Thanh Mục, Bà Tẩu, Phật Hộ, Thanh
Biện..v..v....... Người hoằng truyền tại Trung Quốc thì có Cưu Ma La
Thập, truyền cho đến đời Đường.Đại sư Kiết Tạng nhơn vì muốn khai
sáng “Tam Luận Tông” nên mới gom góp chúng lại trở thành to lớn.
Trung Quán Học Phái tại đây được gọi là Hiệp Nghĩa Đích Trung Quán
Phái; phái này mặc dù gọi là “Trung Quán”, kỳ thật là sử dụng
pháp Không Quán (Đệ Nhất Nghĩa Không, Nhất Thiết Pháp Không)trong đó
bao hàm ba pháp quán là Không, Giả, Trung, cho nên gọi là “Trung
Quán”, cũng xưng là “Không Tông”. Kinh điển căn bản của tông này là
các kinh Bát Nhã cùng Tam Luận.
Nghĩa
rộng của Trung Quán Học Phái hoặc Không Tông thì bao quát cả Thiên
Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông..v..v......, nhân vì những tông
phái ấy đều chọn lấy Trung Quán Học Phái để mở đầu sáng lập và
chủ yếu là căn cứ kinh điển của Trung Quán Học Phái để lập Tông,
cho nên ở trong tám Đại Tông Phái Đại Thừa, ngoại trừ Pháp Tướng
Tông và Luật Tông, kỳ dư các Tông Phái trên cơ bản đều lệ thuộc
chỗ nhiếp lấy nơi Tánh Không (Không Tông) (dùng nó làm tương đối nơi
“Tướng Tông”, lại còn nghiên cứu bản tánh của các pháp huân tập,
cho nên lại xưng là “Tánh Tông”.
Nói
đến Pháp Tướng Tông (Hoặc là Du Già Tông) kinh điển tối chủ yếu
chính là “Một Kinh một Luận”: Giải Thâm Mật Kinh và Du Già Sư Địa
Luận. Kinh điển căn bản của nó chính là căn cứ Thành Duy Thức Luận
Thuật Ký, đó là 6 Kinh 11 bộ Luận:
A.- 6
Kinh gồm có:
1,
Kinh Giải Thâm Mật,
2,
Kinh Hoa Nghiêm,
3,
Kinh Mật Nghiêm (cũng gọi là Kinh Hậu Nghiêm)
4,
Kinh Lăng Già,
5,
Kinh Như Lai Xuất Hiện Công Đức
6,
Kinh Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma
(Hai
Kinh sau cùng chưa dịch thành Hán Văn).
B.- 11 Bộ Luận:
1,
Luận Du Già Sư Địa (Bồ Tát Di Lặc giảng)
2,
Luận Hiển Dương Thánh Giáo
3,
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh,
4,
Luận Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập.
5,
Luận Nhiếp Đại Thừa (Từ đây trở về trước do Bồ Tác Vô Trước sáng
tạo).
6,
Luận Biện Trung Biên (Bổn Luận do Bồ Tác Di Lặc giảng giải, Thế
Thân
sáng tạo và giải thích luận)
7,
Luận Phân Biệt Du Già (Bổn Luận này cũng do Bồ Tác Di Lặc giảng, Thế
Thân sáng tạo và giải thích Luận, Luận
này chưa dịch và truyền thừa)
8, Luận Duy Thức Nhi Thập (do Thế Thân sáng
tạo).
9,
Luận Thập Địa Kinh (do Thế Thân sáng tạo, giải thích quan hệ nơi
phẩm
Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm)
10,
Luận Tập Lượng (do Bồ Tát Trần Na sáng tạo, Nghĩa Tịnh giải thích, đã
thất lạc mất, Luận Điển này liên hệ với Nhân Minh Học, phát huy hai
Lượng, Hiện Lượng và Tỷ Lượng, và học
thuyết 3 Phần của Duy Thức)
11,
Luận Quán Sở Duyên Duyên (do Trần Na sáng tạo).
Do
đây có thể biết, kinh điển căn bản của Du Già Tông, trong đó sáu
Kinh đều là Phật nói; còn 11 Luận kia thì do Bồ Tát nói hoặc sáng
tạo, bao quát gồm có Di Lặc, Vô Trước, Thế Thân, Trần
Na..v..v........
Cho
đến sự truyền thừa của Du Già Tông, ngoại trừ Thích Tôn và Bồ Tát
Di Lặc, chủ yếu chính là hai Bồ Tát Vô Trước và Thế Thân. Bồ Tát
Vô Trước quan hệ nơi khoảng (thời
gian cuối thế kỷ thứ IV)sau Phật nhập diệt, Bồ Tát đản sanh nơi
nước Kiền Đà La Bắc Ấn Độ, xuất gia sau khi chứng nhập Sơ Địa, bằng
trên sức thần thông bay lên cõi Trời Đâu Xuất, đích thân lắng nghe
Bồ Tát Di Lặc thuyết pháp, ngộ được Đại Thừa Nghĩa Không của nhân
duyên vô tánh, liền thỉnh Bồ Tát Di Lặc nơi giữa đêm gián thần
xuống nơi thiền đường của ngài ở nước A Du Đà trung Ấn Độ, vì ngài
mà thuyết pháp 5 bộ Luận (tức là Du Già Sư Địa Luận, Phân Biệt Du
Già Luận Tụng, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, Biện Trung Biên
Luận Tụng, Vương Pháp Chánh Lý Luận). Bồ Tát Vô Trước thừa
tiếp giữ vững yếu chỉ chỗ thuyếp
pháp của Bồ Tát Di Lặc liền sáng tạo Hiển Dương Thánh Giáo Luận,
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập Luận,
Nhiếp Đại Thừa Luận..v..v...... Thế Thân liên hệ chính là em của Vô
Trước, đầu tiên tu học Tiểu Thừa, về sau chịu sự giáo hoá của Vô
Trước, quy y Đại Thừa, đồng thời thừa hành sự chỉ giáo của Vô
Trước, hoằng dương rộng lớn giáo pháp của Đại Thừa, được gọi là
chủ của trăm Luận, trước tác gồm có: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích,
Thập Địa Kinh Luận, Biện Trung Biên Luận, Duy Thức Nhị Thập Luận, Duy
Thức Tam Thập Tụng..v..v..... Nổi bật của Thế Thân là Duy Thức Tam
Thập Tụng, đối với Trung Thổ lại có ảnh hưởng rất lớn không có gì
hơn, nguyên nhân là từ khi Thế Thân sáng tạo những bài Tụng trở về
sau lại có 10 Đại Luận Sư tiếp nối (Hộ Pháp, Đức Huệ, An Huệ, Thân
Thắng, Nan Đà, Tịnh Nguyệt, Hoả Biện, Thắng Hữu, Tối Thắng Tử, Trí
Nguyệt), các vị trước sau sáng tạo thích luận để giải thích văn Tụng
của Thế Thân, do đó tông phong của Du Già liềnngổn ngang toàn cõi
Ấn Độ. Thời đại nhà Đường, Pháp sư Huyền Trang vào Ấn Độ cầu pháp,
Pháp sư liền tôn thờ Giới Hiền là người của môn phái Hộ Pháp,
toàn bộ đều được thầy truyền thừa cho Pháp sư.Sau khi trở về Đường,
Pháp sư phiên dịch và truyền thừa kinh luận của Bản Tông, hoằng dương
yếu chỉ Pháp Tướng Duy Thức. Gom lại sự giải thích tạp nhạp của mười
Đại Luận Sư uốn nắn văn luận của Duy Thức Tam Thập Tụng, tạo thành
bộ luận là “Thành Duy Thức Luận”, nhân đó liền thành lập Pháp
Tướng Tông. Từ đây Pháp Tướng Tông ở Trung Thổ, nói giản đơn tức
là căn cứ nơi năm ngôi vị Bách Pháp phê phán phân biệt các pháp
hữu vi và vô vi, mà tu chứng yếu chỉ giáo pháp của Duy Thức.
Kẻ
được chỉ bảo kế thừa Duy Thức của Đại sư Huyền Trang tương đối hơi
nhiều, những kẻ trứ danh là: Khuy Cơ, Thần Phưởng, Gia Thượng, Phổ
Quang, Thần Thái, Pháp Bảo, Huyền Ứng, Huyền Phạm, Biện Cơ, Ngạn
Tông, Viên Trắc..v..v...... Khuy Cơ là người tiếp nối kế thừa chính
thống của Huyền Trang, trụ tại chùa Đại Từ Ân ở Trường An, người
đời gọi ngài là Đại Sư Từ Ân, cho nên Pháp Tướng Tông cũng lúc đó
xưng là Từ Ân Tông. Tân La (tên xưa của Hàn Quốc) Tăng Thái Hiền
theo làm đệ tử của Viên Trắc và học pháp với Đạo Chứng, trước tác
Duy Thức Cổ Tích, người đời gọi ngài là “Tổ của Hải Đông Du Già”.
Trên
đây là kinh điển và truyền thừa của Hiệp Nghĩa Đích Pháp Tướng Tông.
Cho đến nghĩa rộng của “Pháp Tướng”, chung chung thì chỉ có Đại Thừa
Duy Thức Tông, Tiểu Thừa Câu Xá Tông và Lục Túc Luận, Phát Trí
Luận, Đại Tỳ Bà Sa Luận..v..v.......
Riêng đem chỗ trình bày ở trên, giải thích đơn giản theo Đồ
Biểu như dưới đây:
Phật
Pháp Đại Thừa Trung Quán Học Phái (Tánh Tông) Du Già Học Phái (Tướng Tông) Long Thọ Di Lặc Tam Luận Tông Hoa Nghiêm Tông Thiên Thai Tông Thiền Tông Đề
Bà..... Bát Nhã các kinh, Tam Luận Vô Trước Thế Thân Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, Du
Già Luận
Truyền Thừa của Du Già Học Phái:
Thích Tôn Di Lặc Vô Trước Thế Thân Trần Na Vô Tánh Hộ Pháp Giới Hiền Huyền Trang
Rốt
cuộc kể từ được thấyLục Kinh của kinh điển căn bản Du Già Tông,
ngoại trừ hai kinh sau cùng ở Trung Thổ chưa được dịch, còn bốn Kinh
(Giải Thâm Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Mật Nghiêm Kinh, Lăng Già Kinh), đều
được gọi là “Tánh Tướng Viên Dung”, cũng tức là có Tánh có Tướng,
đều không phải thuần nhất là môn học của Pháp Tướng. Lại có tiến
bộ hơn, bốn bộ Kinh đây đồng thời cũng là kinh điển căn bản của
Tánh Tông; nổi bật nhất là Lăng Già Kinh, Tổ sư Thiền Tông Đạt Ma
thay đổi bằng cách sử dụng Tâm Ấn để truyền thừa, nơi Lục Tổ trở
về trước vốn là Tánh Tướng Viên Dung, Tánh Tướng không phân
chia. Chẳng những Tánh Tướng không
phân chia, mà lại cũng là Hiển Mật không phân chia: nhân vì Hoa
Nghiêm, Mật Nghiêm, Giải Thâm Mật, cho đến Lăng Già cũng là hai
giáo pháp Hiển Mật được chung cùng tôn vinh với nhau. Nhưng mà chúng
nó về sau, do căn khí chúng sanh chuyển hướng đần độn, không có thể
thọ trì toàn thể đại pháp, nhân đây phân ra môn phái để tu học mỗi
sở trường của nó. Nhưng mà nương nơi bổn nguyên của pháp cùng được
thấy phát triển, sự nối kết đây đã không được như ý, đồng thời phi
pháp đã có mầm phân phái, mà thật tế người nối kết căn cơ nông
cạn gây nên: cùng một lúc phi pháp có hai thứ, ba thứ hoặc nhiều
thứ; mọi thứ giáo pháp thật tế đều nối kết một thể của Pháp Thân
Như Lai; chúng sanh không kham nổi toàn thể đại pháp, cho nên mới
tiếp thọ pháp môn bộ phận riêng biệt của nó. Nhưng yếu điểm của
nó đều muốn cầu Bồ Đề vô thượng thì cần thiết chớ nên sử dụng
một bộ phận pháp nào để tự tu tập,như hoặc tánh hoặc tướng,hoặc
hiển hoặc mật, chấp lời giải thích hình tượng mô phỏngmà nói rằng:
“Đây chính là toàn bộ của pháp Như Lai!” nhân vì chỉ được ít mà lại cho
là đủ, thậm chí hoặc là chính mình không phải người nào khác, mọi
thứ vọng tưởng phân biệt, cho đến công kích tranh đấu lẫn nhau, người
như thế đúng là bị mê hoặc, uổng công chọn lấy sự chăm chỉ mà
không vào được chánh lý.
II.- TUYỂN CHỌN VÀ CHÚ GIẢI
DUYÊN
KHỞI “HỆ THỐNG TƯỚNG TÔNG”
Bốn cửa lớn tu hành của Phật pháp tức là:
Tin, Hiểu, Hành và Chứng. Cho nên nếu Tin mà không hiểu, hiểu mà
không thật hành, tức là không nhờ đoạn trừ để chứng đắc. Lại thêm
nữa không tin, không hiểu, không hành,hoặc là tuy xem đầy đủ kinh
Phật,nhưng lỗ hỏng nơi chánh pháp của Như Lailà không thể phát khởi
tin chân chánh, hiểu chân chánh, cho đến mọi thứ đều hiểu không có lý,
hiểu không chánh đáng,hiểu sai lầm; như thế không chỉ tự mình đã không
thể phát khởi tu hành chân chánh và lại còn chỉ đạo sai lầm cho
người khác.
Hiển
Giáo của Phật pháp dẫn đến phân chia trầm trọng là hai bộ phái
Tánh Tông và Tướng Tông mà Tướng Tông tức là Duy Thức Học, hoặc là
Pháp Tướng Học, hoặc hai học phái Duy Thức và Pháp Tướng hợp nhau
lại gọi là “Pháp Tướng Duy Thức”. Nhưng mà “Pháp Tướng” cùng “Duy
Thức” thì không giống nhau: như trước đã nói tất cả Du Già Bộ, cho
đến Đại Tỳ Bà Sa Luận của Tiểu Thừa, Lục Túc Luận và Câu Xá Luận
thì nằm ở giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, đều có thể sử dụng học
thuyết “Pháp Tướng” và “Duy Thức”. Cho đến “Duy Thức” thì không cộng
pháp với Đại Thừa và không có pháp của Tiểu Thừa. Nhân vì Duy Thức
Học là chỗ nghiên cứu phân tích rất nhiều “Danh Tướng”, cũng là
thuộc nơi chỗ nhiếp lấy của Pháp Tướng, cho nên cũng gọi chung Đại
Thừa Duy Thức Học là “Pháp Tướng Tông”, mà “Pháp Tướng Tông” là
một từ lại nghiễm nhiên trở thành đại danh từ của Duy Thức Tông.
Thật thì, căn cứ nơi lý mà nói “Duy Thức” được thành danh một Tông
Phái, nhân vì trong một từ “Duy Thức” liền tự có chủ trương của Tông
phái. Nhưng một từ “Pháp Tướng” thì mảy may không đặc sắc, không chủ
trương; vả lại chỗ công dụng đều quan hệ nhiều Tông, cho nên thật
tế không thích hợp thành danh là một Tông phái. Nhưng vì trải qua
nhiều thời đại cho đến nay đều tương truyền như thế, cho nên cũng tạm
thời tùy thuận “truyền thống”, cũng thường theo đó mà xưng là “Pháp
Tướng Tông” hoặc “Tướng Tông”; nhưng quý đọc giả các vị phải biết
“Pháp Tướng” cùng “Duy Thức” khác biệt nhau.
Tánh
Tông trong Hiển Giáo, đại lược khái quát thì tất cả trong Hiển Giáo
đều hoàn toàn liên quan đến “Pháp Tánh”, hoặc dùng để tham cứu
“Pháp Tánh”, hoặc tông phái là chủ của “Bản Tánh” xin đề cử, phàm
các học phái Thiền Tông, Trung Quán, Tam Luận, Bát Nhã, cho đến Hoa
Nghiêm, Thiên Thai..v..v..... đều có thể chọn lấy học thuyết đây để nghiên
cứu tu học “Tánh Tông”. Tại Trung Quốc trải qua thời đại học phái
Tánh Tông có thể sử dụng thuyết “Độc Chiếm”, cho nên tất cả hoàn
toàn trở thành “Phật Giáo Thị Trường”; còn “Tướng Tông” thì chỉ có ở
thời gian đầu của Nhà Đường, nơi Đại sư Huyền Trang và Pháp sư Khuy Cơ
đệ tử của ngài, Pháp sư Phổ Quang (Đại Thừa Quang)..v..v...... cùng
nhau hoằng truyền một thời ở Xương Thịnh, sau Đường xu hướng cung cách
huyền bí, con người hỏi han yếu đuối; cho đến cuối nhà Minh, mới có
Đại sư Ngẫu Ích, Đại sư Hám Sơn, Pháp sư Minh Dục..v..v..... đề xướng nghiên cứu tìm cầu, vừa mới
hơi hơi chấn hưng; về sau Tánh Tông chỗ sơ hở lại tuyên bố cung cách
huyền bí. Cho đến đầu Dân Quốc, lại có một số nhà Phật học, chủ
yếu chọn lấy Bạch Y làm đầu, nổ lực lớn đề xướng truyền bá Pháp
Tướng Duy Thức Học, đây là Duy Thức Học lại tái dẫn độ đại gia
phát khởi hứng thú nghiên cứu. Nhưng một số học giả Duy Thức đây,
họ ban đầu phát tâm nghiên cứu Duy Thức Học, thì lúc đó lại có bài
học nơi Thiền Tông tại Trung Quốc họ lại ngã theo và phát triển cao
độ, nhưngtrào lưu mạt phái của Thiền Tông thì lại rơi vào trào lưu
nhàn đàm trống rỗng, không chính xác, không xác thực,cho đến Khẩu
Đầu Thiền quyết không thật tế, nhân đây muốn đề xướng Pháp Tướng
Duy Thức Học chính xác, nên sửa chữa hủ bại của trào lưu mạt phái Thiền
Tông. Các vị phát tâm đây nguyên do không thể sai lầm to lớn, nhưng
mà chỗ sơ hở là sửa chữa quá đáng, chỉ thấy đến sự hủ bại của
trào lưu mạt phái Thiền Tông, mà không thấy cái khéo cái hay của
chánh pháp Thiền Tông; nơi đấy lý do bởi vì mất sự trợ giúp của
Thiền lưu, mà chỉ Nhất Tâm, dốc toàn lực công kích chỗ có của Thiền
Tông, cho đến nghĩa rộng của Tánh Tông, cũng dùng thêm lời mỉa mai
huỷ báng. Phần nào học giả đây, một số xuất gia làm đệ tử, kế
thừa ý chí của Thiền Tông, phát huy quang đại học thuyết của họ, sự
nghiệp quan trọng là “dùng Tướng phá Tánh”, thực tại đây là nghĩa
hướng về Duy Thức Học, phần nhiều giải thích sai lầm và dẫn đến chỗ
giải thích không có lý. Kỳ thật, các bạn trí giả chỗ hiểu biết
chung đều cho là đại pháp của Như Lai cũng như “một thể của Như Lai”,
mà hai tông Tánh và Tướng thì cũng giống như “tay trái tay mặt của
Như Lai”; chúng sanh làm sao không giải thích nghĩa này, chỗ sơ hở là
đem chỗ xuất sắc của Như Lai để “tay trái
đập tay phải, tay phải đập tay trái”, hơn nữa “dùng hai tay đập
lên đầu”;phải chăng đây là ý của Như Lai thuyết pháp hay sao? Như Lai
nói mọi thứ pháp, đâu là yếu tố khiến chúng sanh chấp một bộ phận
pháp của Như Lai nói, mà đấu tranh lẫn nhau và thị phi lẫn nhau? Đây
thật là trái ngược rất to lớn yếu chỉ của Như Lai thuyết pháp. Bởi
vì chỗ Như Lai tuyên dương thuyết pháp là diệu nghĩa vô lượng, đều là
dùng đại bi, đại trí, căn cứ nơi căn cơ của chúng sanh, phương tiện
thâu nhận dẫn dắt, đều khiến vào hạnh Bồ Đề vô thượng, tức là
chỗ gọi: “Tất cả pháp đều là một pháp Phật Thừa”; khá thương hại
chúng sanh ngu muội, nghe nói diệu pháp, không tự tu hành, liền nương
nơi ngã chấp ngã kiến, phát khởi đại đấu tranh, lý do những kẻ nói
xấu pháp, phá hoại pháp, mỉa mai hủy báng chánh pháp hiện tại có
rất nhiều.
Nguyên do nơi Duy Thức Học trải qua thời
đại kẻ nghiên cứu cũng ít, thật tại có thể cung cấp những chú giải
để tham khảo thì không nhiều, vả lại phần nhiều là văn thuộc văn
nói, thêm nữa văn căn bản và văn chú giải trên kinh điển, phần
nhiều đều thâm áo khó giải thích, nhơn đây người hiện đại liền
khiến cần yếu phát tâm tu học Duy Thức, cũng khó khăn chồng chất.
Tác giả có bài học nơi đây,
1, Muốn khiến đệ tử Phật thường phát tâm
mong học Duy Thức đều có cửa có thể vào, ít nhất nơi văn của kinh
luận đều có thể giải được, vả lại nơi yếu chỉ của nó đều được
thông đạt chánh tín;
2,
Chúng sanh nếu muốn phổ biến có thể xem điển Phật, nơi trong đó đạt
được tín giải chân chánh, tức là không lo lắng bị mê hoặc cho là ác
tri thức và không bị lừa dối.
3,
Chọn đây để tuyên dương yếu chỉ Duy Thức chân chánh của Như Lai, khiến
chúng sanh trong pháp giới được phổ biến chánh tri, tín giải chân
chánh: Như Lai chỗ nói tất cả diệu pháp, thật không trái nghịch lẫn
nhau, không hoang đường xa cách; vì pháp của Như Lai chọn “trước đã
thiện, giữa đã thiện và sau cũng thiện”; này các Phật tử nơi thánh
giáo của Như Lai chớ tự đấu tranh, chớ khởi ý trái nghịch, lại chớ
phát động huỷ báng; nên theo Phật giáo tin hiểu phụng hành, diệt độ
vượt qua các chướng: phiền não chướng, sở tri chướng, báo chướng, ác
nghiệp chướng, pháp chướng, ma chướng, thẳng đến Bồ Đề vô thượng.
III.- SAO GỌI LÀ DUY THỨC HỌC?
Nghĩa
của “Duy Thức Học” nói duy nhất là bao trùm hết, tức là “Trợ Đạo
Tâm Lý Học” hoặc là “Tu Đạo Tâm Lý Học”. Nay xin giải thích như dưới
đây.
Thời đại gần đây do khoa học xương thịnh,
nhân đó đại chúng mười phần đều tôn sùng hướng về khoa học. Mà nơi
trong Phật giáo cũng có cảnh tượng hướng về khoa học đây. Trong nó
do thấy một số học gia Duy Thức tỏ ra xuất sắc. Chúng nó thấy nhiều
pháp tướng trong Duy Thức Học, và nó quan hệ mạch lạc phân minh,
hiểu được Duy Thức Học “hết sức khoa học”, mà lại chủ đề chỗ
nghiên cứu của Duy Thức Học cũng đều dựa trên phương diện “Tâm Lý
Học” làm cơ sở, sở dĩ chúng nó lại xem Duy Thức Học như là “Phật
Giáo Tâm Lý Học” đem ra nghiên cứu. Kỳ thật điều đó không phải là chính
xác:
1.-
Duy Thức Học mặc dù “hêát sức khoa học”, nhưng nghiên cứu đến nó thì
không phải khoa học;nguyên vì Phật pháp tuy có thể cho là “rất khoa học”,
nhưng Phật pháp là siêu hơn khoa học. Cùng một lý, Duy Thức Học cũng
không phải là “Phật Giáo Tâm Lý Học”, nhân vì tâm lý học là thế
học (học vấn của thế gian), chỗ bàn chuyện chính là “Thế Đế”, mà
Duy Thức Học thì thuộc về “Pháp Xuất Thế”, chỗ sơ hở của tham cứucho
“Tâm Lý Học” là pháp “Xuất Thế Đế”,là đúng lý của xuất thế, cho
nên hai thứ đây không thể giống nhau bừa bãi;lại nữa không thể
nhân vì nơi đề tài trên của Duy Thức Học cùng Tâm Lý Học có chút
hứa hẹn chỗ tương tợ, lại nhân đó khiến Phật giáo đồ hiểu được
chính mình “thân có giá trị trăm lần”, hoặc theo kịp tân thời;những
người ấy quan niệm pháp đều sai lầm, nguyên do nếu tưởng như thế tức
là: “cho thế pháp là quý”, cho đến “dùng thế pháp phê phán phân
biệt cao thấp của Phật pháp”, cũng vậy thứ quan niệm sai lầm đây mà
khiến một số nhà học Phật nọ dùng tiêu chuẩn “Khoa Học” để làm
thước đo, lại một lần nữa là tiến hành công tác “Phán giáo” toàn
thể Phật pháp, rồi lại hướng dẫn người nghi ngờ, bàn tán mọi thứ
Phật pháp.
2.-
Nếu nhất định muốn nói Duy Thức Học một thứ “Tâm Lý Học” thì phải
biết nó đều không phải “Phổ Thông Tâm Lý Học”, mà là “Trợ Đạo
Tâm Lý Học” hoặc “Tu Đạo Tâm Lý Học”, đây là tất cả đệ tử Phật
học Duy Thức tất nhiên cần yếu phải biết rõ lý sự của nó. Nguyên
nhân Phật và Bồ Tát từ bi khai thị chánh lý của Duy Thức đều là vì
hoàn toàn trợ giúp đệ tử Phật tu tập chánh đạo Bồ Đề, không vì cá
biệt, cho nên gọi là “Trợ Đạo Tâm Lý Học”; lại nữa “vấn đề tâm lý”
chỗ xử lý của Duy Thức, đều là kẻ tu đạo phải ở trong quá trình tu
hành, cơ hội bắt gặp mọi thứ hiện tượng, mọi vấn đề, hoặc mọi khốn
nạn, cùng với đối diện như thế nào, bài trừ ra sao..v..v....... nhân
đây Duy ThứcHọc chính là “Tu Đạo Tâm Lý Học”. Cho nên “Trợ Đạo Tâm
Lý Học”, nội dung, đề tài và mục đích của nóvề phương diện lý vô
cùng không giống nơi “Phổ Thông Tâm Lý Học” của tâm lý phàm phu
thế gian. Nguyên do “Duy Thức Học” đây có thể nói là một cái vỏ bao
bọc chuyên môn thiết kế “Tu Đạo Tâm Lý Học” để giúp cho người tu hành
Phật pháp, thế nên không thể đem nó so sánh tương đương như một môn
“học thuật” để “nghiên cứu”.
Như
thế hai chữ “Duy Thức” của “Duy Thức Học” nghiên cứu thì ý nghĩa như
thế nào? Ý nghĩa của “Duy Thức” chính là: tất cả vạn pháp đều là
biến hiện của Thức, đều là “Tự Chứng Phần” (Bản Thể) nương nơi
Thức, là chỗ biến hiện ra “Kiến Phần” và “Tướng Phần”; ngoài đây
đều không có vật nào khác, cho nên nói “Chỉ Có Thức”. Dễ dàng để
nói, tức là “Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức” của Kinh Hoa Nghiêm
nói. Kinh Hoa Nghiêm đây nói: một nửalà bộ phận của “Duy Tâm”, ở
trong Thánh giáo tức là “Tánh Tông”, nói rộng là để khai sáng; còn
riêng một nửa là bộ phận của “Duy Thức”, ở trong Thánh giáo tức là
“Tướng Tông”,nói rộng là để khai sáng. Nên biết “Duy Tâm” của “Tánh
Tông” cùng “Duy Thức” của “Tướng Tông” ở trên nội dung chân thật thì
thực không sai biệt, chỉ là chỗ không giống nhau đối với căn cơ, và
chỗ phương tiện thực hành thì có sai biệt, đã là như thế; cho nên
phải biết hai tông Tánh Tướng đều không phải đối địch nhau, mà là
giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau thành công, cũng giống như hai cánh
của một con chim. Lại nữa, công dụng mà Như Lai thường nói pháp,chính
là “trong Tánh có Tướng”, hoặc là “trong Tướng có Tánh”, cho đến
“trong Hiển có Mật”, “trong Mật có Hiển”, “trong Thiền có Tịnh”, “trong
Tịnh có Thiền”, chỉ là mở rộng hay tóm lược, khai triển hay kết hợp
không giống nhau, chủ và bạn có khác nhau. Thí dụ như nếu đối với cơ
chế của Tướng Tông thì nói rộng pháp của Tướng Tông, mà lại nói
lược Tánh Tông, ngay cả điểm đến chính là đình chỉ.Ngược lại, nếu
đối với cơ chế của Tánh Tông thì ở nơi trong Kinh nói rộng pháp của
Tánh Tông, mà lại nói lược Tướng Tông, ngay cả điểm đến là đình chỉ.Ngay
cả mở rộng hay tóm lược, khai triển hay kết hợp của Hiển Mật thì
cũng như thế. Dụng ý nói pháp như thế của Như Lai là:
1, Khiến
học giả mở rộng giống thiện căn----- do vì các Bồ Tát không có
thiện căn họ chỉ tu học một pháp để được thành Phật,thì phải trải
quaba đại a tăng kỳ kiếp tu vô lượng tư lương phước đức, rộng độ
chúng sanh, dĩ nhiên sau đó mới được thành Phật.
2,
Khiến Bồ Tát nơi pháp biết rõ chỗ thấu triệt ------ thông suốt bản
tánh của các pháp, chúng sanh do tự tâm đóng chắc đình trệ, cho nên
nơi pháp đình trệ không thông: do tâm không thông đạt cho nên pháp
cũng không thông đạt; tâm họ nếu thông đạt thì pháp tự nhiên thông
đạt; Như Lai muốn khiến chúng sanh dựa vào thấu triệt xuất sắc nơi
Pháp Tánh, mà đạt đến mục đích của “Tâm Thông”, cho nên mới sáng
tạo học thuyết này.
3, Vì
khiến các Bồ Tát mau bỏ pháp chấp, đoạn trừ sở tri chướng, pháp
chướng, cho nên Như Lai thuyết pháp “trong Tánh có Tướng” “trong Tướng
có Tánh”, tất nhiên đối với pháp khiến đoạn trừ chấp thiên lệch.
Lại nữa, có một số kinh điển, đối với chỗ căn cơ là thuộc đại căn
cơ thành thục, nơi họ trong các kinh, Như Lai liền đem giáo pháp vô
thượng khai thị tánh tướng viên dung, thí dụ như Kinh Giải Thâm Mật,
Kinh Lăng Già..v..v...... đều là loại này.
Thứ
đến, ý nghĩa của “Duy Thức Học”, có thể trở lại từ hai chữ “Duy
Thức”, và lại nghiên cứu xét tìm “Ngũ Vị Bách Pháp”, liền có thể
làm cho thêm tường tận:
A.- Hãy Xem Từ Hai Chữ “Duy Thức”:
Tất cả vạn pháp Duy Thức thì không có
cảnh, do tất cả ngoại cảnh đều là “Tướng Phần” của các Thức biến
hiện, cho nên các cảnh giới vi trần, như sơn hà đại địa, hữu tình vô
tình, đều là “Tướng Phần” chỗ biến hiện của Thức này, đều không có
thật thể. Hành giả nên quán như thế tức là “chỉ quán Tâm Thức”,
thấu rõ tự tâm, không mê nơi cảnh, nơi đây từ trong tu đoạn, hai
chướng sở tri, mà không bị trói buộc nơi cảnh, tâm được giải thoát,
chứng “Duy Thức Thật Tánh” (tức là “Viên Thành Thật Tánh”), chứng đắc
Đại Bồ Đề.
B.-
Hãy Xem Năm Vị Bách Pháp.-
1.- Hãy Xem Từ “Pháp Hữu Vi” và “Pháp Vô
Vi”.
Duy Thức Bách Pháp, phân tích đại khái
“tất cả pháp” là “Hữu Vi Pháp” và “Vô Vi Pháp”, hai pháp đại khái
đây thì nhiếp lấy hết tất cả vạn pháp thế gian và xuất thế gian.
Thế Tôn khai thị pháp này là khiến các Phật tử hiểu hữu vi và
chứng vô vi, tông chỉ của nó thì ở nơi Thánh Đạo vô thượng xuất
thế, cũng tức là “Chân Như Vô Vi” trong “sáu pháp Vô Vi”, đây cũng
tức là “Tánh Thắng Nghĩa của Duy Thức”, cũng chính là Viên Thành
Thật Tánh (thấy trong Duy Thức Tam Thập Luận Tụng và Thành Duy Thức
Luận). Nên biết tất cả chỗ nói của Như Lai đều là hoàn toàn cứu
giúp tất cả hữu tình ra khỏi khổ luân của hữu vi sanh tử, đạt đến
nơi Thánh Đạo xuất thế của Niết Bàn, của Bồ Đề (đây tức là chỗ
gọi “Hai Chuyển Y”). Nên than thở rằng, hiện nay đời mạt pháp, có
người giảng nói pháp Như Lai, kẽ hở là tạo lời nói điên đảo, khiến
người tham trước pháp thế gian, nơi hữu vi có phước hữu lậu, mọi thứ
cầu vinh, lỗ hổng ở chỗ là tự khoe khoang “tu hành Đại Thừa”, hoặc
nói là “Phật pháp tại thế gian, không lìa khỏi thế gian để có giác
ngộ”. Thật không ngờ đây là giải thích sai lầm và giải thích quanh co
ý hướng của Đại sư Lục Tổ Thiền Tông. Lục Tổ thì nói: “không lìa
thế gian để có giác ngộ”, đồng thời chưa nói “không lìa khỏi thế
gian để có mê lầm”, đây là nghĩathứ nhất; vả lại ý nghĩa “không lìa
khỏi thế gian để có giác ngộ” là: không có thể lìa khỏi nơi Tâm Bi,
Tâm Bồ Đề đối với hữu tình thế gian mà có thể chứng đặng Đại
Giác; đây là nghĩa chính. Nguyên do ý của Tổ Sư đều không phải dạy
ông kế thừa liên tục tham ái, nhiễm trước thế gian, mà có thể
chứng đặng Đại Giác. Vì thế chớ dụng tâm sai lầm, nếu dụng tâm sai
lầm, giải sai kinh Phật thì tất cả chỗ tu uổng phí chăm chỉ. Nên biết
thiện căn của “Chánh Kiến” ở trên sự học Phật hết sức trọng yếu:
nên dùng chánh kiến, thường chánh tư duy, chọn lựa chánh pháp; như
thế tất cả chỗ tu học, công sức không bị tổn thương nói khoác.
2.- Lại Xem
Từ Tâm Pháp, Tâm Sở Hữu Pháp,
Sắc Pháp, Và Tâm Bất Tương Ưng
Hành Pháp.
Pháp
của bốn vị trí đây gọi chung là “Hữu Vi Pháp”, cũng chính là nói pháp
của bốn vị trí đây đều nhiếp lấy cai quản suốt tất cả pháp hữu vi.
Như Lai khai thị là vì khiến chúng sanh hiểu rõ “Tâm” là căn bản,tất
cả các pháp hữu vi khác, nếu là sắc nếu là tâm..v..v...... đều là
tác dụng và biến hiện của Tâm Thể (Tâm Vương). Đã hiểu như thế,
Hành giả trở lại cầu tự tâm, không thể chạy cầu bên ngoài, để
đạt được căn bản của nó.
3.- Xem từ
Tâm Sở Hữu Pháp.-
a.- Xem
từ Biến Hành Tâm Sở:
Nghĩa của Duy Thứ Học là khiến hành giả
biết rõ trong tác dụng của Tâm Thức, điều kiện phổ biến chung cộng
có 5 thứ: Tác ý, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư.
b.- Xem
từ Biệt Cảnh Tâm Sở:
Nghĩa của Duy Thức Học là khiến hành giả
trong khi tu hành biết tướng, trạng và điều kiện của các thiện pháp
sanh khởi, cộng chung có 5 thứ: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ. Sở
dĩ, người tu hành tưởng nên cần yếu là tu thiện pháp, hoặc “đoạn ác
tu thiện”, hoặc “diệt tội sanh thiện”, tất nhiên phải cụ bị cho đủ 5
thứ điều kiện đây, mới có thể đạt được công lao.
c.- Xem
Từ Thiện Tâm Sở, Phiền Não Tâm Sở Và
Tùy Phiền Não Tâm Sở:
Đây
chính là hiển bày rõ mục đích tối căn bản của Duy Thức Học: nơi đây
khiến người “đoạn ác tu thiện”. Trong Phật pháp, chỗ gọi là “Thiện”,
không phải thiện trong pháp thế gian, hoặc phước báo hữu lậu, mà
chính là thiện pháp cứu cánh có thể thành tựu Thánh Đạo vô lậu,
cộng chung có 11 thứ: (Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh
Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại). Cho đến “Phiền Não”
mọi người quen tai có thể hiểu rõ “Học Phật là vì hoàn toàn đoạn
phiền não”, xét đến cùng thì như thế nào? “Phiền Não” căn cứ Duy
Thức Bách Pháp thì thường phân làm hai loại: Căn Bản Phiền Não và
Tùy Phiền Não. Căn Bản Phiền Não lại xưng là Đại Phiền Não, gọi
đơn giản là Phiền Não, cộng có 6 thức Căn Bản Phiền Não: Tham, Sân,
Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến. Tùy Phiền Não cộng có 20 thứ: Phẫn, Hận,
Phú, Não, Tật, San, Cuống, Siểm, Hại, Kiêu, Vô Tàm, Vô Quý, Trạo
Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn,
Tất Chánh Tri.Các đại đức đọc giả quý ngài nếu tử tế xem một cái
nội dung của 6 Đại Phiền Não và 20 thứ Tùy Phiền Não đây, liền
biết thế nào Duy Thức Học chính là nhân của “Tu Đạo Tâm Lý Học”;
nguyên vì một số Phiền Não và Tùy Phiền Não đây chỉ có người tu
hành đối với Phật pháp (người cần chứng bồ đề), chỉ vìđại bệnh, chỉ
vì ác, chỉ vì phải đoạn trừ mới chú ý đến; nếu là người phàm phu
thế gian và người ngoại đạo đều không dùng đến vì bệnh phải trừ;
nhân đây, theo nghĩa hẹp mà nói, việc tu đoạn trên Duy Thức Học, cho
đến nghĩa rộng mà nói, việc tu đoạn trên tất cả Phật pháp, chỗ ác,
chỗ phiền não, chỗ pháp bất thiện muốn đoạn trừ, đều phải dùng 6
căn bản và 20 tùy Phiền Não này làm đại biểu. Cho nên tu học Pháp
Tướng Duy Thức không chỉ không hội ngộ cùng tông khác để chống đối,
mà chỉ hội ngộ cùng tông khác để khiến chỗ tu, chỗ hiểu biết để
chân thật, minh bạch, thích đáng được sung mãn; nói dễ hiểu, tức là
khiến hành giả lại thêm rõ ràng muốn “tu cái gì thiện, đoạn cái gì
ác”. Vì thế 3 vị trí Tâm Sở Hữu Pháp đây (Thiện, Phiền Não, Tùy
Phiền Não), tức là chỉ bày rõ ràng cơ bản nòng cốt của tất cả Duy
Thức Học: tu thiện đoạn ác. Nói ngược lại, mục đích cơ bản của Duy
Thức Học là gì? Tức là dạy người tu thiện đoạn ác, vì chọn đoạn
hoặc, cho nên có thể chứng chơn, thông đạt vào đến “Vô Vi Pháp” của
vị trí thứ sáu. Nếu thông đạt Vô Vi Pháp chính là hiền thánh của ba
Thừa.
d.- Xem
Từ Sắc Pháp và Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp:
Nghĩa
của Duy Thức là khiến hành giả hiểu rõ: ngoại trừ Tâm Sở Hữu
Pháp, còn có pháp của Hành Uẩn nhiếp lấy mà không tương ưng cùng
tâm, cùng với 11 thứ Sắc Pháp của trong và ngoài để khiến cho tâm khi
tu hành không mê các pháp cả trong lẫn ngoài của sắc.
e.- Xem
Từ Vô Vi Pháp:
Đây là khiến hiểu biết mục đích sau cùng
của Duy Thức Học, không ở nơi lời nói danh tướng, mà là cùng một
thứ chỗ thuyết pháp của tất cả Như Lai, đều ở nơi “đoạn hoặc chứng
chơn”, đạt đến nơi cảnh Vô Vi. Đây chính là Duy Thức Tông cùng Tướng Tông
chung của tất cả Phật pháp. Mà lại do vì nơi Duy Thức Học là pháp đại
thừa, cho nên so với pháp đại thừa khác cũng cùng một thứ,cùng một
mục đích sau cùng của nó là tu chứng, tất nhiên ở nơi “Chân Như Vô
Vi” của trong “sáu pháp Vô Vi”. “Chân Như Vô Vi” đây tức là “Duy Thức
Thật Tánh” nơi chỗ Duy Thức Tam Thập Luận Tụng nói của Bồ Tát Thế
Thân (Duy Thức Tam Thập Luận Tụng nói rằng: “Các pháp Thắng Nghĩa
đây cũng tức là Chân Như, vì tánh của nó thường như, tức là Duy
Thức Thật Tánh.), cũng gọi là “Viên Thành Thật Tánh”. Nhân đây chỗ
muốn tu chứng của hành giả Duy Thức Du Già tức là “Chân Như Vô Vi”
của “Đại Thừa Cộng Pháp”; nhưng pháp Chân Như đây chỗ sơ hở là nó
không cùng cộng pháp với bốn Thừa khác: không chỉ không cùng Nhân
Thừa, Thiên Thừa, cho đến không cùng chung Thinh Văn, Duyên Giác
Thừa, lại không cùng chung với ngoại đạo. Chỉ có người căn cơ Đại
Thừa mới có thể tín giải, tu chứng, vào đến chân chánh. Đây cũng
là “Mật Nhân” của tất cả Như Lai Thành Phật(Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm Kinh), “Nhân Địa Pháp Hạnh”, “Tịnh Viên Tánh Giác” của tất cả
chư Phật (Đại Phương Quảng Viên Giác Kinh). Cho nên phải biết Thích Ca
Như Lai và Di Lặc Bồ Tát (Phật vị lai) nơi trong các kinh luận Duy Thức
khai thị Chân Như và Duy Thức Tánh, đích thật cũng là cùng Chân Như
trong các kinh luận đại thừa khai thị, cả hai không hai không khác,
tất nhiên là pháp tối cao tối thượng, do các Như Lai đều “nương nơi
đạo Chân Như mà khai thị (Lai), cho nên xưng là Như Lai”, các đệ tử
chánh kiến của Phật đều phải biết như thế.
Nhờ đem “Duy Thức” và “Ngũ Vị Bách Pháp” ở
trên để phân tích, cho nên có thể biết rõ ý nghĩa và mục đích thực
tế của “Duy Thức Học”, đều là vì hoàn toàn tu chứng Bồ Đề vô
thượng, cũng vì hộ trì chánh nghĩa như thế, khiến khắp cả hữu tình
thảy đều đạt được tín giải chân chánh, mới có biên soạn chú giải
“Hệ Thống Tướng Tông”, để mong mỏi tất cả hữu tình, nơi chánh pháp
Như Lai tất nhiên được hiểu và thực hành một cách tương ưng, cùng
nhau hộ trì chánh pháp, lìa xa ma sự, gấp rút vào Bồ Đề vô thượng.
Đây là lời tựa.
THÍCH THÀNH QUAN
Thiên Chiếu Tự,
Châu Mật Tây Căn, Mỹ Quốc
Ngày mùng 4 tháng 4năm 2546 Phật Lịch.
(Ngày 15 tháng 5 năm 2002 Tây Nguyên)
NHÂN
MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN
---------------
(Cổ Nhân Minh)
Tác giả: THƯƠNG YẾT LA CHỦ
Dịch giả: ĐƯỜNG TAM TẠNG PHÁP SƯ HUYỀN TRANG
Việt dịch: THÍCH THẮNG HOAN
Năng thành lập và năng đả phá, cho đến ngộ
tha tương tợ; hiện lượng và tỷ lượng, cho đếntự ngộ tương tợ. Như
thế yếu nghĩa của các luận đều được nhiếp lấy chung.
Trong
đây các Tông phần nhiều được nói đến gọi là năng lập. Do phần nhiều nói đến Tông, Nhân, Dụ,
là khai thị các câu hỏi chưa được rõ nghĩa.
I.- TÔNG: Chữ Tông, trong đây tức là Tông Chỉ,
nghĩa là có pháp đã được Cực Thành, Cực Thành nghĩa là có khả năng
phân biệt tánh sai biệt của một pháp, đồng thời tuỳ theo chỗ sở thích
của mình mà thành lâp tánh của pháp đó, nên gọi là Tông.
Thí dụ
như thành lập:
*- Tông :“Âm Thanh là vô thường”(Âm
thanh là một pháp và tánh của nó là
vô
thường),
*- Kết luận: Tông “Âm thanh là vô
thường” đây gọi là Cực Thành.
Chữ
Nhân, tức là nguyên nhân có hai lý do,gồm có ba thứ Tướng, những gì
là ba? 1- Nghĩa là Biến Thị Tông Pháp Tánh(Tánh biến khắp là tông chỉ của pháp), 2- Đồng Phẩm Định
Hữu Tánh(Phẩm vật nhất định có
tánh giống nhau),3- Dị Phẩm Biến Vô Tánh(Phẩm vật biến khắp không có tánh giống đồng phẩm).
Thế nào gọi là Đồng Phẩm, Dị Phẩm?
*- Đồng Phẩm, nghĩa là phẩm vật chính làpháp
được thành lập có ý nghĩa đều bình đẳng(đều giống nhau và có liên quan với Tông), nên gọi là
Đồng Phẩm. như thành lập ý nghĩa “vô thường” là Nhân, giống như
bình..v..v...... đều là vô thường, nên gọi là “Đồng Phẩm”.
*- Dị
Phẩm, nghĩa là phẩm vật chính là pháp được thành lậpkhông có tánh
phổ biến giống như Đồng Phẩm(đều
có ý nghĩa trái ngược với đồng phẩm và không liên quan với Tông).
Âm thanh nếu cho là thường, giống như hư không..v..v..... thì thấy không
phải là tánh của chỗ thành lập. Trong đây tánh của chỗ thành lập,
hoặc chỗ phát ra tánh phải siêng năng dũng cảm, chính là Tông pháp
có tánh phổ biến. Tông pháp có tánh phổ biến là Âm Thanh, nơi đồng
phẩm nhất định có tánh phổ biến là Vô Thường và nơi dị phẩm không
có tánh phổ biến là Thường. Nhân có tánh phổ biến chính là vô thường
có liên quan với Tông là âm thanh. Nhân không có tánh phổ biết là
thường và không có liên quan với Tông là âm thanh.
Chữ
Dụ, tức là thí dụ có hai thứ: 1- Đồng Pháp, 2- Dị Pháp. Đồng Pháp
đây, nếu ở nơi chỗ hiển bày Nhân (nguyên nhân) thì Đồng Phẩm quyết
định có tánh giống nhau, nghĩa là “nếu chỗ thành lập Tông (tông chỉ)
thấy nó là vô thường, thí dụ như cái bình..v..v.....” nên gọi là
Đồng Pháp.
Thí dụ:
*- Tông: Âm thanh vô thường,
*- Đồng Pháp (Đồng Dụ): Cái Bình
cũng vô thường
Dị Pháp đây, nếu nơi chỗ thành lập Tông
nói là không, tức là Nhân (nguyên nhân) của Tông không có phổ
biến, nghĩa là “Nếu là thường thì thấy không phải chỗ thành lập
Tông (âm thanh), dụ như hư không..v..v.....” Trong đây nói “thường” là tiêu biểu
“không phải vô thường”; nói “không phải chỗ thành lập” là tiêu
biểu “không có chỗ thành tập”; như có không phải “Có” là nói “không
có”.
Thí dụ:
*- Tông: Âm thanh là vô thường,
*- Dị Pháp (Dị Dụ): Dụ như hư không
là thường.
Đã
nói Tông và Nhân..v..v....., mặc dù nói nhiều như thế, đúng lúc là
để khai ngộ kẻ khác, gọi chung là “Năng Lập”.Năng Lập bao gồm cả
Tông và Nhân trong đó, như nói“Âm thanh vô thường” cũng được gọi là
Lập Tông (thành lập tông chỉ); “Chỗ thành lập tánh” đây là nói
tông pháp; “Nếu chỗ thành lập thấy nó là vô thường giống như cái
bình..v..v......” là nói theo đồng phẩm; “Nếu nó là thường, thấy
không phải chỗ thành lập, như hư không”, là nói xa lìa không giống
đồng phẩm. Ba phần Tông, Nhân, Dụ đây đều cũng được gọi là Năng
Lập.
Thí dụ
Năng Lập:
*- Tông: Âm thanh là vô thường
*- Nhân: Đồng Phẩm là vô thường
*- Dụ: Dị Phẩm: hư không là thường
Mặc
dù thành lập theo sở thích, nhưng so cùng hiện lượng..v..v..... thì mâu
thuẫn nhau, cho nên gọi là Tợ Lập Tông; Tợ Lập Tông (lập Tông tương tợ) đều phạm phải:
Hiện Lượng Tương Vi, Tỷ Lượng Tương Vi, Tự Giáo Tương Vi, Thế Gian Tương
Vi, Tự Ngữ Tương Vi, Năng Biệt Bất Cực Thành, Sở Biệt Bất Cực Thành,
Câu Bất Cực Thành, Tương Phù Cực Thành.
Tợ Lập Tông có 9 thứ:
1-
Trong đây
Hiện Lượng Tương Vi (sự nhận biết
hiện hữu mâu thuẫn nhau), như nói: “Tiếng không phải chỗ để
nghe”.
2-
Tỷ Lượng
Tương Vi (sự nhận biết qua so sánh
mâu thuẫn nhau), như nói: “Cái bình..v..v.....cho là thường”.
3-
Tự Giáo
Tương Vi (tự giảng dạy mâu thuẫn
nhau), như sư Thắng Luận lập luận: “Tiếng là thường”.
4-
Thế Gian
Tương Vi (lời nói thế gian mâu thuẫn
nhau), như nói: “Mong thỏ không có mặt trăng”.Lại nữa như nói:
“Xương đầu con người thanh tịnh, vì thành phần chúng sanh dụ như sò
ốc”.
5-
Tự Ngữ
Tương Vi (tự nói mâu thuẫn), như
nói: “Mẹ tôi là đàn bà bằng đá của nó”.
6-
Năng phân
biệt bất cực thành (năng phân
biệttột cùng không thành tựu), như đệ tử Phật đối với sư Số Luận
lập luận: “Âm thanh bị hoại diệt”.
7-
Sở phân
biệt bất cực thành(sở phân biệt tột
cùng không thành), như sư Số Luận đối với đệ tử Phật nói: “Ta
là nghĩ ngợi”.
8-
Câu bất
cực thành(cả hai tột cùng đều
không thành tựu), như sư Thắng Luận đối với đệ tử Phật lập
luận: “Ta cho là nhân duyên hoà hợp”.
9-
Tương phù
cực thành (thành tựu tột cùng ăn
khớp nhau), như nói: “Tiếng là chỗ để nghe”. Nói nhiều như thế thì
khiến cho bộ phận tự tướng các pháp không thể tiếp thu được, thành
lập không kết quả, nên cho là lỗi ở Tợ Lập Tông(lập tông tương tợ).
II.-NHÂN:
Đã nói Tợ Tông (Tông tương tợ) thì phải nói Tợ Nhân. Tợ Nhân: nghĩa là
không thành, không định, và cùng mâu thuẫn nhau nên gọi là Tợ Nhân.Không
Thành có bốn:
1-
Cả hai đều
không thành(Nhân đây mà cả chủ và
khách đều không chấp nhận),
2- Theo một bên không thành(thành lập nhân mà bên khách không công
nhận),
3-
Do dự
không thành(cái Nhân do dự không
nhất định),
4- Chỗ nương tựa không thành(chỗ nương tựa mà bên khách không công
nhận).
Không Định có sáu:
1-
Cộng không
định (Nhân này liên quan cả đồng
phẩm và dị phẩm vì không nhất định nên bị lỗi) ,
2-
Không Cộng
không định (Nhân này không liên quan
cả đồng phẩm và dị phẩm nên bị lỗi),
3-
Đồng phẩm
một phần chuyển mà Dị phẩm đều biến chuyển không định (Nhân này đối với đồng phẩm có một
phần liên quan và đối với dị phẩm hoàn toàn không liên quan nên bị
lỗi),
4-
Dị phẩm
một phần chuyển mà đồng phẩm đều hoàn toàn chuyển biến
không định (Nhân này đối với đị phẩn có một
phần liên quan và đối với đồng phẩm hoàn toàn không liên quan nên
bị lỗi),
5-
Câu phẩm
một phần chuyển biến không định(Nhân
này đối với đồng phẩm và dị phẩm đều chỉ có một phần liên quan nên
bị lỗi),
6-
Quyết định
mâu thuẫn lẫn nhau không định(Chủ
và khách lập lượng mâu thuẫn nhau nên có lỗi).
Lời Giải Thích 6 Không Định:
1-Trong
đây Cộng không định như nói: “Tiếng Thường là tánh của chỗ suy luận”;
Nhân (tiếng thường)đây đều liên
quan chung cả phẩm vật thường và vô thường, cho nên bị lỗi là không
nhất định. Như cái bình..v..v..... tánh của cái bình chỗ suy luận cho là
vô thường? Còn như hư không..v..v......tánh của hư không chỗ suy luận cho là thường? Cả hai Nhân
trên đều bị lỗi là không nhất định(Cộng
bất định).
2-Nói
Không Cộng Không Định đây, như nói: “Tiếng thường, vì chỗ nghe của
tánh”, phẩm vật thường và vô thường đều lìa khỏi nhân đây; thường và
vô thường ngoại trừ không có, đó chính là nhân do dự, chỗ nghe của
tánh đây nó do dự như thế nào đó?(Phẩm
vật là nhân, mà tánh nghe nhâncủa phẩm vật lại do dự không xác định
là thường hay vô thường, nên gọi là không định)
3-Đồng
phẩm một phần chuyển mà dị phẩm đều biến chuyển, như nói: “Chỗ phát
ra không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn, vì tánh của nó
là vô thường”. Trong đây “Chỗ phát ra không phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn” làm Tông, dùng điện..v..v...... làm đồng phẩm
và hư không..v..v..... làm dị phẩm của nó. Tánh vô thường đây ở nơi
điện..v..v...... thì có liên quan với Tôngvà ở nơi hư không..v..v......
thì không liên quan với Tông.
Thí dụ cho dễ hiểu:
*-
Tông: Chổ phát rakhông phải......Vô Thường
*- Đồng Phẩm: Điện là vô thường
*- Dị Phẩm: Hư Không là thường.
Đồng
phẩm điện một phần liên quan với Tông là vô thường; nhưnghư không
thì không liên quan với Tông vì nó lại là thường.
“Chỗ phát ra không phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn” làm Tông, dùngcái bình..v..v..... làm dị phẩm
của nó, nơi bình kia thì có phổ biến, dùng điện đây làm Nhân, dùng
bình làm đồng pháp, cho nên cũng là không định.
Thí dụ cho dễ hiểu:
*-
Tông: Chỗ phát ra không phải chuyên cần dũng mãnh......
*-Nhân:
điện là Đồng Pháp
*- Dị Phẩm: cái Bình là phổ biến.
Dị phẩm
là cái bình một phần liên quan với Đồng Pháp của Nhân là điện thì
phổ biến vì nó cũng phải chuyên cần...... mới phát ra; nhưng điện
làm nhân thì không liên quan với Tông vì điện phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn mới phát ra,còn Tông thì chỗ phát ra không
phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn, cho nên không định.
Như cái bình..v..v...... là tánh vô thường,
còn kia là chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn để làm chỗ phát ra
tiếng thì như thế nào, có liên quan là tánh vô thường của cái bình
không? Như điện..v..v...... là tánh vô thường, còn chỗ phát ratiếng kia
không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn thì như thế nào, có
liên quan là tánh vô thường của điện không?(Dị phẩm của cái bình vì tánh vô thường có liên quan với Tông
là vô thường, chỗ phát ra sức chuyên cần.....; Dị phẩm của điện
cũng là tánh vô thường,nhưng không liên quan với Tông là thường, chỗ
phát ra tiếng....., cho nên không định).
*- Tông: Vô thường, vì chuyên cần..v..v..
*- Dị Phẩm: là cái bình cũng vô
thường, có liên quan với Tông
*- Tông: là Thường, vì chỗ phát
sanh......
*- Dị Phẩm: là điện cũng vô thường,
nhưng không liên quan với Tông là
thường.
4- Dị
phẩm một phần chuyển mà đồng phẩm đều biến chuyển, như lập tông
nói: “Chỗ phát ra tiếng là chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn, là tánh vô thường” “Chỗ phát ra chuyên
cần dũng mãnh không gián đoạn” là Tông,dùng cái Bình..v..v...... làm
đồng phẩm, tánh nó vô thường, nó có chuyển biến. Dùng điện, hư
không..v..v..... làm dị phẩm, nơi hư không kia có một phần
điện..v..v....., nhưng hư không..v..v...... thì hoàn toàn không phải điện,
cho nên giống như trước cũng là không định. (Đồng phẩm là cái bình..v..v..... đều hoàn toàn quan hệ nơi
Tông, thảy đều vô thường, đều chuyển biến. Còn Dị phẩm là điện và
hư không thì có một phần quan hệ chuyển biến, trong hư không có một
phần điện mà hư không thì hoàn toàn không phải điện, nên cũng gọi
là không định).
5-Câu Phẩm (cả
hai phẩm) một phần chuyển, như nói: “Tiếng thường không có chất
ngại”. Trong đây chữ thường là Tông, dùng hư không, cực vi làm đồng
phẩm,tánh không chất ngại nơi hư không..v..v...... thì có, mà nơi cực
vi thì không, dùng bình, vui thích..v..v....... làm dị phẩm, ở nơi vui
thích thì có tánh không chất ngại, mà ở nơi bình..v..v...... thì không
có tánh không chất ngại, cho nên dùng vui thích đây làm nhân, dùng
hư không làm đồng pháp, cũng gọi là không định.
6- Quyết định mâu thuẫn nhau, như lập
tông nói: “Tiếng là vô thường; vì tánh của nó là chỗ tạo tác; thí
dụ như bình..v..v......” . Có thành lập “Tiếng thường; vì tánh của chỗ
nghe; thí dụ như tánh của tiếng”. Hai thí dụ đây đều là Nhân mâu
thuẫn nhau, nên gọi là không định.
Tương
vi (mâu thuẫn) có bốn: 1- Nhân của
pháp tương vi tự tướng, 2- Nhân của pháp tương vi sai biệt, 3- Nhân có
pháp tương vi tự tướng, 4- Nhân có pháp tương vi sai biệt.
1,
Trong đây, Nhân của pháp tương vi(mâu
thuẫn) tự tướng, như nói: “Tiếng
thường, vìTánh chỗ tạo tác, hoặc chỗ phát
sanh tánh phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn”. Nhân đây chỉ
có ở trong Dị Phẩm, cho nên là tương vi.
(Thí
dụ: Nhân: Tiếng Thường thì mâu thuẫn với Tạo Tác hoặc chỗ phát sanh
tánh......., nên gọi là Tương Vi)
2,
Nhân của pháp tương vi sai biệt, như nói: “Con mắt..v..v..... tất nhiên là người khác thọ dụng, vì
tánh nó chứa nhóm; như ngoạ cụ..v..v.......” . Nhân đây như con
mắt..v..v...... có thể thành lập “tất nhiên là người khác thọ dụng”,
và cũng có thể thành lập chỗ lập pháp sai biệt mâu thuẫn chứa
nhóm cho người khác thọ dụng: các ngoạ cụ..v..v...... vì chứa nhóm cho người khác thọ dụng.
(Thí
dụ: Nhân: Con mắt..v..v...... mâu thuẫn với chứa nhóm và toạ cụ.....
cho người khác thọ dụng, nên gọi là tương vi)
3,
Nhân có pháp tương vi tự tướng, như nói: “Có tánh không phải thật
không phải đức không phải nghiệp; vì có một thứ thật,có đức
nghiệp; như tánh đồng và dị”. Nhân đây có thể trở thành che đậy sự
thật..v..v....... và cũng có thể trở thành tánh che đậy, vì cả hai đều
quyết định.
(Thí
dụ: Nhân có tánh không phải thật hoặc che đậy sự thật, đối với
thật có mâu thuẫn, nên gọi là tương vi).
4,
Nhân có pháp tương vi sai biệt, như Nhân đây, nghĩa là nơi Tông trước
có pháp sai biệt là Tạo Tác Tánh Có Duyên và cũng có thể thành
lập Tạo Tác Tánh Không Có Duyên để mâu thuẫn với có duyên đây nhằm
che đậy sự thật, cả hai đều có thể quyết định.
(Thí dụ: Tông: tạo tác tánh có
duyên mà Nhân: tạo tác tánh không có duyên; Nhân đây so với Tông
thì mâu thuẫn, nên gọi là pháp tương vi sai biệt)
III.-DỤ:
Đã nói Tợ Nhân(Nhân tương tợ)thì phải nói Tợ Dụ(Dụ tương tợ).Tợ Dụ có hai : Tợ Đồng Dụ và Tợ Dị Dụ. Pháp
Tợ Đồng Dụ có 5 thứ: 1- Pháp năng lập không thành, 2- Pháp sở lập
không thành, 3- Câu không thành, 4- Không hợp (Không phối hợp), 5- Đảo hợp(Phối hợp đảo ngược).
A,-
Pháp Tợ Đồng Dụ có 5 thứ: 1- Pháp năng lập không thành, 2- Pháp sở
lập
không thành, 3- Câu không thành, 4- Không hợp, 5- Đảo hợp.
1,-
Pháp nănglập (chủ thể thành lập)không
thành, như nói “Tiếng thường, vì không có chất ngăn ngại, thấy các pháp
không có chất ngăn ngại gọi là thường. Dụ như “cực vi”. Nhưng cực vi
kia là pháp được thành lập mặc dù có tánh thường,mà là pháp thuộc
năng lập có chất ngăn ngại, lý do vì các pháp cực vi đều có tánh
chất ngăn ngại.
(Thí
dụ: Tông: tiếng thường là pháp sở lập; Đồng Dụ (Nhân): cực vi là
pháp năng lập. Tiếng Thường thì không có tánh ngăn ngại; nhưng Cực
Vi thì có tánh ngăn ngại, cho nên không thể thành lập để chứng minh
được Tánh Thường của Tông)
2,-
Pháp sở lập (đối tượng thành lập) không
thành, như nói: “như Giác ngộ ”. Tuy nhiên tất cả giác ngộ là pháp
không có chất ngăn ngại cho nên có thể thành lập, còn pháp chỗ
thành lập thì không có tánh thường trụ, vì tất cả Giác Ngộ đều vô
thường.
(Thí dụ:
Tông: Giác Ngộ là vô thường, Đồng dụ: vì không có chất ngăn ngại
là thường còn, vì thế Đồng Dụ là thường còn thì trái ngược với
Tông là vô thường, cho nên pháp Dụ không thể thành lập).
3,-
Câu không thành, lại có hai thứ: có và không có. Nếu nói: có “Như
cái bình” thì đều không thành. Nếu nói: đối với thứ tự thì không có
“Như hư không” đều không thành.
(Thí
dụ: Tông: Tiếng Thường. Nhân: vô thường như Cái Bình. Dụ: không
có thứ tự như Hư Không. Cái Dụ đây trái ngược với Tông và Nhân,
nên không thành).
4,-
Không Hợp, nghĩa là chỗ như thế mà không có phối hợp, chỉ ở nơi cái
bình..v..v...... hai pháp hiện song song với năng lập và sở lập, như
nói: “Nơi cái bình, thấy tánh chỗ tạo tácvà tánh vô thường”.
(Thí
dụ: Nhân (năng lập): Nơi cái bình; Dụ (sở lập): Thấy tánh chỗ tạo
tác và tánh vô thường. Dụ đây không phối hợp để ăn khớp với
Nhân, như cái bình không xác định rõ là thấy được tánh chỗ tạo
táccủa nó hay tánhvô thường của nó, cho nên không thành).
5,-
Đảo Hợp (phối hợp đảo ngược), nghĩa
là cần phải nói rằng: “Các chỗ tạo tác đây đều là vô
thường”, mà nói ngược lại rằng:
“Các vô thường đây đề là chỗ tạo tác” nên cũng không thành, như
thế gọi là loại pháp Tợ Đồng Dụ.
B,-
Pháp Tợ Dị Dụ cũng có 5 thứ: 1- Sở lập không trái, 2-Năng lập
không trái, 3-Câu không trái, 4- Không lìa khỏi, 5- Đảo ngược để lìa
khỏi.
1,- Sở
lập không trái. Trong pháp Tợ Dị Dụ, chỗ thành lập hoàn toàn khôngtrái
ngược. Vả lại như có chỗ nói: “Các vô thường đây thấy nó có chất
ngăn ngại(năng lập), thí dụ như
cực vi(sở lập)”. Theo lẽ cực vi
là chỗ thành lập(sở lập)tánh thường
thì không trái, nhưng họ lập cực vi là pháp có chất ngăn ngại (thì trái ngược với năng lậptrùng hợp
cũng có chất ngăn ngạicho nên không thành).
2,-
Năng lập không trái. Nghĩa là nói: “Như Nghiệp” chỉ trái với sở lập
mà không trái vơi năng lập; họ nói các nghiệp không có chất ngăn
ngại, đó là không trái.
3,-
Câu không trái. Đối với luận kia có nói: “Như hư không”. Do hư không
kia có tánh thường trụ không ngăn ngại, năng lập nói hư không là
thường tánh và sở lập nói khôngcó chất ngăn ngại, cho nên cả hai
không trái.
4,-
Không lìa khỏi. Nghĩa là nói: “Như cái bình, thấy tánh vô thường, có
tánh chất ngại.” (Thí dụ: Năng Lập:
như cái bình, Sở Lập: thấy tánh vô thường, Tợ Dị Dụ: Có tánh chất
ngại).
5,-
Đảo ngược để lìa khỏi. Nghĩa là như thuyết nói: “Các chất ngại đây
đều là vô thường.” (Câu này là
nói đảo ngược của câu “Như cái bình, thấy tánh vô thường, có tánh
chất ngại”).Như thế các Tợ Tông, Tợ Nhân, Tợ Dụ đây nói không
phải chính là Năng Lập.
Lại
nữa, vì tự khai ngộ, cho nên phải biết chỉ có hai lượng là Hiện
Lượng và Tỷ Lượng. Trong đây Hiện Lượng(cảm giác hiện tiền) nghĩa là không phân biệt, nếu có
chánh trí, nơi nghĩa của sắc..v..v......
không cần phân biệt, lìa khỏi thứ chỗ có phân biệt danh nghĩa,hiện
tượng chuyển biến lúc nào thì hiểu ngay lúc đó, nên gọi là hiện
lượng.
Nói Tỷ Lượng (so sánh phân biệt) đây, nghĩa là mượn các tướng mà quán
nơi nghĩa. Tướng có ba thứ, như trước đã giải thích. Do kia làm nhân,
nơi chỗ so sánh nghĩa có chánh trí phát sanh, hiểu rõ có lửa, hoặc
vô thường..v..v....... là gọi Tỷ Lượng. Nơi trong hai Lượng, Trí tức
là quả, vì là chứng tướng, như có tác dụng mà hiển hiện cũng gọi
là lượng.
Trí
có phân biệt nơi nghĩa biến chuyển khác, gọi là Tợ Hiện Lượng. Nghĩa
là các trí có hiểu biết cái Bình nương nơi các phân biệt mà sanh ra,
do nơi nghĩa kia vì không dùng tự tướng (cái
Bình) làm cảnh giới(mà lại dùng
tướng tương tợ khác như cái Nhà làm cảnh giới), nên gọi là Tợ
Hiện Lượng. Tợ Nhân có nhiều thứ như trước đã giải thích(như Hư Không). Nơi chỗ tợ so sánh
(tỷ) nên các trí liền phát sanh, nhưng không có khả năng giải thích
chân chánh(như Điện Chớp), nên
gọi là Tợ Tỷ Lượng.
Lại
nữa, nếu như hiển bày năng lập có sai lầm, gọi là Năng Phá. Nghĩa
là đầu tiên năng lập có tánh khuyết giảm, lập tông có tánh bị
lỗi, nhân không thành tánh, và dụ có tánh bị lỗi; hiển bày lời
nói này để mở bày cho người hỏihiểu biết, nên gọi là năng phá.
Nếu
lỗi ở lời nói là hiển bày năng lập không thật, gọi là Tợ Năng Phá.
Nghĩa là đối với năng lập viên mãn, nhưng hiển bày lời nói có tánh
khuyết giảm; ở nơi Tông không có lỗi(Tai
tôi nghe), chỉ có lỗi ở lời nói nơi Tông (nghe mùi thơm); ở nơi Nhân thì thành tựu, không thành tựu
ở lời nói nơi Nhân; ở nơi Nhân thì quyết định, không quyết định ở
lời nói nơi Nhân; ở nơi Nhân thì không mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn ở
lời nói nơi nhân; ở nơi Dụ thì không có lỗi, chỉ có lỗi ở nơi lời
nói của Dụ; nói những lời như thế gọi là Tợ Năng Phá, vì không
thể hiển bày những khuyết giảm của Tông kia, vì kia không bị lỗi, vả
lại chỉ tách riêng những sự việc.
“Đã
tuyên dương ít câu nghĩa,
Vì
đầu tiên lập cạnh vuông,
Nó
hỏi lý không phải lý,
Khéo
biện nơi chỗ thừa.”
Kết Thúc
CHÚ Ý: Những chữ nằm nghiêng trong dấu ngoặc (......) là lời chú thích
thêm của dịch giả để
nghĩa được rõ hơn.
-----------------------------------------
PHẬN
GIÁO LUẬN LÝ HỌC------
THÔNG SUỐT NGHĨA
NHÂN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN.
-------------------------------------------------------------------
Viết
và chú giải: Sa Môn Thích Thành
Quan
Việt
dịch: Thích Thắng Hoan
A.- LỜI NÓI ĐẦU.
1.- QUY TẮC THẬT DÙNG NHÂN
MINH PHÁ NGOẠI ĐẠO.
“Ông Tin Thượng Đế Không?”
Ngày
5 tháng 11 năm 2001, tôi từ phi trường quốc tế Để Đặc Luật, Châu
Mật Tây Căn Mỷ Quốc đáp phi cơ về Đài Loan. Khi tại phi trường đợi
phi cơ, có hai người nữ da đen ngồi thêm vào bên cạnh, niên kỷ ước
tính khoảng ngoài năm mươi. Nhân vì thời gian đợi phi cơ rất lâu, ước
tính có khoảng một tiếng rưởi đồng hồ, lại lần lần bắt đầu tán
dóc. Bắt đầu trước tiên là một vị trong số họ (lại xưng là nữ sĩ A)
hỏi tôi:
“Xin lỗi, xin hỏi ông mặc làáo
choàng gì?
Cô ta chỉ áo dài tôi đang mặc mà
nói. Tôi đáp: “Đây là áo choàng của Phật Giáo”. Tôi lại thêm một
câu giải thích: “Tôi là Hoà Thượng của Phật Giáo.”
Cô ta hỏi: “Ồ, ông là tín đồ Phật
giáo?”
Tôi đáp: “Đúng”
Cô ta lại hỏi: “Vậy ông là tín đồ
Tây Tạng đến đây chăng?”
Tôi đáp: “Không phải, tôi đến từ
Đài Loan.”
Từ lúc Đạt Lại Lạt Ma sau khi đồng
ý tặng tấm chăn quý giá khuyến khích hoà bình như thế, đại bộ phận
người già nước Mỹ đều chú ý đến Phật Giáo, ngay lập tức tưởng đến
Lạt Ma Giáo Tây Tạng, cho Phật Giáo chính là Lạt Ma Giáo.
Cô ta lại nói: “Tôi trước đây đã
ở nơi Để Đặc Luật một vị lão sư Nhật Bản trong đó học cách ngồi
nhập định, chỉ là chỗ họ giảng rất sâu, tôi đều nghe thật không
hiểu”.
Người Nhật Bản trao truyền Phật
Pháp, đều xưng là “Lão Sư” (Văn Nhật gọi là “Tiên Sanh”, nghĩa là
Lão Sư) nhân vì từ Minh Trị Duy Tân về sau, Phật Giáo Nhật Bản liền
rất nhiều, toàn diện đều tục hoá, bao quát cả Tăng Bảo.
Tôi hỏi các cô ấy: “Các cô trước
đó đi đâu?”
Các cô ấy đáp: “Đi đến nước Tần.”
Tôi hỏi: “Đi du lịch hay là làm
việc?”
Trong các cô ấy ngoài ra một vị (cô
xưng là nữ sĩ B) trả lời: “Di du lịch”.
Tôi
có một điểm ngạc nhiên, vì sao hai người nữ da đen đều trả lời có
hứng thú đi du lịch nước Tần, nhân vì nước Tần là quốc gia Phật
Giáo, trọng điểm của du lịch, chủ yếu tức là tham quan chùa Phật.
Hứng thú rõ rệt, nói đến sự kiện ở Nữu Ước khoảng 911 chủ nghĩa
khủng bố cương quyết phát sanh. Sau lại, tôi nói:
“Hiện tại vấn đề ở nơi nguyên
nhân: mỗi cá nhân đều bị cầm giữ bởi một vị thần chỗ tín ngưỡng
của chính mình, là vị “Chân Thần” duy nhất đang sáng tạo, mà người
khác chỗ tín ngưỡng của họ lại không cho là chân. Nhân vì chúng nó
không tin chân thần, sở dĩ chúng nó lại là tín đồ dị giáo, dị đoan,
mà dị đoan ở chỗ mặt tiền của chân thần không cho tồn tại, sở dĩ
chúng nó đều phải bị xẻng xúc trừ (They deserve to die ---- chúng nó
bị tội đang chịu giết); nhân đây, có Thập Tự Quân (Crusade) của Cơ
Đốc Giáo, có “Thánh Chiến” (Jihad) của Hồi Giáo. Nhưng mà, trên thế
giới có nhiều thứ chủng tộc như thế, mà rất nhiều dân tộc đều tín
ngưỡng vị thần riêng mình của chúng nó, vả lại đã chấp nhận là vị
thần của chúng nó thì Chân Thần chỉ có một------ có thể thấy “Chân
Thần chỉ có một” này, lạ thật đều không phải “Chỉ Có Một”, bởi vì
sự thật là như thế.”
Tại đây, nữ sĩ B đột nhiên hỏi tôi:
“Do you believe in God?” (Ông có tin Thượng Đế không?)
“Thượng Đế” tức là ý của Thần.
Tại Mỹ Quốc, một số người có tâm kỳ thị, khi gặp người ngoại quốc
thường hỏi vấn đề này. Đương nhiên, tôi cũng biết nữ sĩ B đây là
người có tâm kỳ thị. Mỹ Quốc rất kỳ quái, không những có số người
da trắng kỳ thị người da vàng, lại có người da đen cũng kỳ thị người loại
da vàng, người da đen chúng nó đem so sánh cũng đều chấp nhận cho là
người loại da vàng nào là ưu việt hơn. Lại nữa, quan hệ nơi nữ sĩ B
vấn đề chỗ hỏi, cũng là rất nhiều Phật Giáo đồ ở Mỹ Quốc thường
va chạm đến vấn đề này. Tại đây nhân duyên va chạm này có rất
khéo, tôi lại đem tôi cùng cô ta đối đáp, nêu lên cung cấp đại gia
tiến hành tham khảo.”
Tôi liền đáp rằng: “I believe in
Buddha” ( Tôi tin Phật).
Xin chú ý: Tôi đều không có trực
tiếp, trước mặt trả lời vấn đề của cô ta. Nhân vì, tôi nếu mỗi
lần trả lời “Tôi không tin”. Như thế cô ta lại lập tức giúp tôi bù
thêm một mục tiêu đánh đấu: “Ồ! Ông là một người không tin thần!”
Thứ người này ở trong thế giới Cơ Đốc Giáo của chúng nó sẽ chết vì
phe ương ngạnh, hạng người này ở nơi Trung Quốc tên trong giáo phái
họ gọi là “đại nghịch bất đạo”. Lại nữa, người không tin Thượng Đế
của Cơ Đốc Giáo, chúng nó gọi là Hethen (dị đoan), Atheist (kẻ học
thuyết vô thần), đây đều bị chê là rất xấu rất khó nghe, tội không
thể tránh, chết còn có tội hơn, như trong Da Giáo Cựu Ước Thượng Đế
chỗ đoạn diệt tín đồ Dị Giáo hoặc là gia tộc Dị Giáo. Tôi vì hiểu
rõ nên không bị chỗ “bản năng” của cô ta giúp tôi bù thêm trên
đây một số đánh dấu, cho nên tôi không trực tiếp trả lời vấn đề
của cô ta, đây cũng là vận dụng phương pháp “Trí Đáp” (đặt ra để
đáp) trong bốn thứ pháp hồi đáp của Thế Tôn ------ đối với chỗ hỏi
của cô ta, tôi chẳng sử dụng trí đáp mà riêng dùng một thứ phương
thức hồi đáp.
Sau đó, cô lại hỏi tôi: “Là gì?” Ý
tức là: là gì ông không tin Thượng Đế
mà
chỉ tin Phật sao?
Tôi hồi đáp: “Nhân vì Phật Giáo
chúng tôi nói: mỗi cá nhân đều nên chịu trách nhiệm hành vi của
chính mình; hoạ phước của ông đều là kết quả hành vi của tự chính
ông; tất cả đều là chỗ tạo của chính ông. Cho nên chúng tôi không cần
tin qua lại hoặc mong cầu lực lượng ở ngoài hoặc Tồn Tại (Being),
hoặc Thần Kỳ đến phụ trách hoạ phước cho chúng tôi, đến ban phước
giúp chính chúng tôi, giáng hoạ kẻ thù địch giúp chúng tôi”. Nhân vì
các ngoại đạo, bất luận Cơ Đốc Giáo, Do Thái Giáo, hoặc Hồi Giáo,
hiện đang sát hại người khác biệt của chúng nó (bao gồm cả kẻ phái
riêng biệt không giống giáo phái của chính mình) đều là nói: “Vì danh
của Thượng Đế” (In the name of God) hoặc “Vì danh của A Lạp” (In the name
of Alah.)
Lúc ấy nữ sĩ B lại hỏi: “Như thế,
ai sáng tạo thiên không này, đại địa
này?”
Tôi hồi đáp: “Ý nghĩ của cô nói:
Là Thần sáng tạo?”
Xin chú ý: tôi ở đây đã sử dụng
hoàn toàn phương pháp Trí Đáp, lại thêm hai mặt chuyên môn của
“Phương pháp Phản Cật” (hỏi vặn lại).
Cô ta hồi đáp rằng: “Đúng vậy”
Tôi đương nhiên biết phương pháp của
cô ta nhất định có câu trả lời
này.
Do
đó tôi lại hỏi: “Thượng Đế cũng sáng tạo than đá, ung nhọt, nóng
nhiệt,
ái tình nẩy nở, và đạn nguyên tử phải không?”
Cô ta hồi đáp: “Nô!”.
Tôi đuổi theo hỏi: “Là cái gì không
phải là?”
Cô ta không có chủ ý: Tôi đã hoàn
toàn “Làm chủ phản lại khách”? --- Tôi đã không phải ngồi để chờ
bị đánh, mà là hoàn toàn xuất chưởng chủ động.
Cô ta nói: “Nhân vì những người
đông tây kia là tà ác.”
Tôi lại hỏi: “Thượng Đế là vạn
năng chăng (all-powerful)?
Cô ta hồi đáp: “Đúng vậy”. Cô ta
không phải không thể hồi đáp như câu
hỏi đây.
Tôi do đó nói: “Như thế, Thượng Đế
là cái gìmà cần phải nhún nhường than đá, ung nhọt, nóng nhiệt, ái
tình nẩy nở, sự phát sanh tà ác của Thế Mậu Song Tử
Tháp..v..v.......? Có thể thấy
Thượng Đế khi ở nơi đối diện tà ác, họ cũng là “nắm quyền khống
chế vô pháp” (Out of control), nhân đây có thể thấy, Thượng Đế không
phải là toàn năng!”
Xin chú ý, tôi vì hiểu rõ nên
không theo chân cô ta “cãi nhau”, mà chỉ là luận lý, cho nên tôi
không có nói: “Thượng Đế thì vô năng (impotent)”. Kỳ thật Thượng Đế
của chúng nó thì đã vô năng và lại tàn bạo (thường tạo sự diệt
tộc), cho đến dùng đại thủy ngập toàn thế giới, mưu đồ đoạn diệt
tất cả chúng sanh ----- Nó tàn ác sâu xa siêu hoá cho Hi Đặc Lặc,
Sử Đạt Lâm, cả nhà cùng đầu sỏ Ba Bố, cùng với bạo quân trải qua
triều đại Trung Quốc), đã ganh tị, lại tự riêng tư chấp giữ tất cả
chúng sanh làm sở hữu của mình, đòi hỏi tùy tiện cướp đoạt sanh sát
là chỗ muốn làm. (Đây cũng chính là làm gì trong hai ngàn năm đến,
tín đồ Thượng Đế đều luôn luôn không ngừng nơi chỗ tàn sát lẫn nhau
------ Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo, cho đến Hồi Giáo
là những chỗ tin tưởng phụng thờ, đều là một thứ Thượng Đế tàn
sát dị kỹ). Sau khi tôi nói như thế, cô ta ngậm miệng không nói.
Qua một lát, luôn luôn đều không
cất tiếng, nữ sĩ A đột nhiên nói: “Ông rất biết nói, luận lý của ông
rất hay, ông trước dùng một mệnh đề (premise) để hỏi, nhưng sau mỗi
lần mỗi lần đem mệnh đề đây trụ nơi hạn định, sau cùng nêu một
việc, đem mệnh đề đây bác bẻ trở lại ----- cô ta đi đến hoàn toàn
sa vào trong cạm bẫy của tôi! (She was entrapped!).
Tôi rất lấy làm lạ, tôi nói: “Một
điểm cũng không lầm”.
Tôi lại nói: “Cô thì hoàn toàn sa
vào trong cạm bẫy của tôi; chẳng qua”
đỡ lấy tôi nói:
“Cô cũng không lầm!”.
Cô ta nói: “Nhân vì tôi từng ở nơi
trong Đại Học học qua Luận Lý Học”.
Có thể thấy không thể dùng tướng
mạo để chọn người, cũng không thể dùng sắc da để chọn người, trong
người nữ giống da đen, cũng không thiếu có đầu não trí tuệ thông
minh, lòng dạ tâm người khai phóng.
Theo như trên chính là dùng pháp của
Nhân Minh (Luận Lý Học Phật Giáo),đả phá bài xích ngoại đạo tà
kiến là một thí dụ. Mục đích chủ yếu duy nhất mà Nhân Minh Học chính
là đả phá bài xích tà thuyết. Nhân Minh Học có hai mục đích lớn:
một là “Phá”, một là “Lập” (Đả phá bài xích tà thuyết, thiết lập
vững chắc chánh pháp.)
Cùng
kèm theo, quan hệ nơi “Thượng Đế sáng tạo tất cả”, có rất nhiều
phương pháp có thể dùng đả phá bài xích chúng. Như có thể thiết lập
hỏi: “Ngoại trừ chẳng dùng Thượng Đế có khả năng sáng tạo, lại có
hay không có người khác có khả năng sáng tạo?”
Nếu như người khác nói: “Không có
người nào khác nó có khả năng sáng
tạo”.
Nó
lại hỏi tiếp: “Như thế than đá, ung nhọt, nóng nhiệt, ái tình nẩy
nở, đạn nguyên tử và tín đồ dị giáo thì ở đâu lại? Ai sáng tạo ra
chúng?” Như thế tức là đả phá học thuyết của nó; đây là lần thứ
nhất.
Cũng có thể hỏi: “Như thế Quỷ Sa
Tăng thì ai sáng tạo? Nếu như Thượng Đế không sáng tạo Quỷ Sa Tăng,
nó sanh ra bằng cách nào?” “Nếu như nó là Thượng Đế sáng tạo, Thượng
Đế là cái gì cần phải sáng tạo một thứ ma quỷ lại cùngnó chính
mình tạo sự đối lập,nó phá hoại thần khác sáng tạo vạn vật, nhưng
lại không có biện pháp thâu thập nó?”
“Nếu như Thượng Đế không biết Quỷ
Sa Tăng sau này sẽ tạo loạn như thế, cho nên sáng tạo nó rồi thì
Thượng Đế đích thực không là “Toàn Năng” (omniscient), mà thật là
không biết ------- Nhân đây không thể nói Thượng Đế là toàn tri
toàn năng.” Như thế tức là đả phá học thuyết của nó; đây là lần
thứ hai.
Như thế lại có thể nói: “Nếu như
Thượng Đế là toàn tri, toàn năng, sáng tạo tất cả, thế thì nó là
cái gì biết rõ Quỷ Sa Tăng là ma quỷ, lại muốn từ chối sáng tạo ma
quỷ đi hại người đời, thì Thượng Đếu nếu không phải là rất không
hứng thú, mà lại là rất tàn nhẫn, chọn chế tạo ác ma làm hại thế
gian cho là vui. Dụ như người La Mã tạo trường thi đấu thể
thao, vui thấy sư tử vồ lấy nhân loại để ăn.” Như thế tức là đả
phá học thuyết của nó; đây là lần thứ ba.
Lại nữa, đối với vấn đề đây “Ông
có tin Thượng Đế không?” Cũng có thể như là trả lời: “Tôi tin giác
ngộ (Enlightenment). Nơi trong giác ngộ đây, mọi người phải là phụ
trách hạnh phúc chẳng những cho chính mình và cho ngưới khác, không
trông mong có hay không có Thượng Đế. Như có người tự cho là họ có
thể khống chế riêng một người ngoài, không luận người đó là Thần
hoặc là người, họ tức là kẻ nô dịch; tôi không tin chịu bất cứ hình
thức nô dịch, tôi chỉ tin giác ngộ cùng giải thoát; nhưng tôi cũng
không cưởng bách người khác tiếp nhận chỗ tin sâu của tôi” (“I
believe in Enlightenment, in which everybody is responsible for his own
happiness, god or no. If anyone, god or man, thinks that he is in control of
someone else, he is an enslaving one. But I don’t believe in any form of
Slavery. I believe in Enlightenment and Emancipation. Yet I do not compel
anyone else to believe in what I believe, either.”) Như thế tức là đả phá
học thuyết của nó; đây là lần thứ tư.
Sau cùng, quan hệ nơi “Thượng Đế
sáng tạo tất cả”, cũng có thể như là tiến hành hỏi: “Ông xem đến
nó sáng tác như thế nào?” (Did you see him do it?). Cô ta nếu trả lời:
“Trên Thánh Kinh viết như thế.”
Ông lại nói: “Thánh Kinh là một
quyển sách căn bản; chỉ là trên thế giới có rất nhiều sách, mà
sách kia của họ đều không có nói như thế. Ít nhất, trong sách của
tôi không có nói như thế.” Như thế tức là đả phá học thuyết của
nó; đây là lần thứ năm.
Lại
có thể hỏi như thế: [“Lúc Thượng Đế sáng tạo tất cả, có hay không
có dùng vật liệu gì? Hoặc đều không có dùng bất cứ vật liệu nào
sao? Quả như họ có dùng vật liệu, như thế những vật liệu này chính
là hoàn toàn tồn tại trước nơi “Thượng Đế sáng tạo tất cả?” Như
thế những vật liệu đã tồn tại đây chính không phải là Thượng Đế
sáng tạo; nhân đây không thể nói “Thượng Đế sáng tạo tất cả”].
“Quả như nói Thượng Đế không dùng
vật liệu gì để sáng tạo (He creates with nothing.), nhưng không có vật
liệu thì không khả năng có sản phẩm: “không vật” thì chỉ có thể sản
sanh “không vật” (Nothing comes from nothing.) Nhân vì tất cả vật đều
“tự loại tương sanh”, như bò sanh ra bò, gà sanh ra gà; mà bò không
thể sanh ra gà, gà cũng không thể sanh ra bò. Cho nên “Không Vật”
không thể sanh “Có Vật”, nhân đây nói “Thượng Đế dùng không vật
tạo vạn vật”, ở trên lý luận thì sai lầm. Nhân đây nói “Thượng Đế
sáng tạo tất cả” là không thể thành lập (invalid). Như thế tức là
đả phá học thuyết của nó; đây là lần thứ sáu.
Nói tóm lại, dùng Nhân Minh đả phá
bài xích ngoại đạo, kiến lập chánh pháp, thật là một lợi khí lớn;
khéo vận dụng, còn ở nơi nhất tâm. Tôi nguyện đồng đạo chuyên cần
thực tập để thông đạt nó, để kỳ vọng phá tà hiển chánh, tự ngộ
ngộ tha.
2.- TRÌNH BÀY TỔNG QUÁT LUẬN
LÝ HỌC.-
a.- Cách Đơn Giản Của Luận Lý
Tây Dương.
Sao
gọi là Luận Lý? Luận lý tức là một bộ căn cứ nơi đó một số
chứng cứ đem ra suy luận (infer) hoặc học suy luận nơi luận chứng
(Science), cho nên nòng cốt của
luận lý tức là suy lý, nhưng nó muốn suy lý thì phải có chứng
cứ, mới được thành lập; như là căn cứ nơi kết luận của chứng cứ
để suy luận chỗ đạt được, gọi cho đủ là “Tánh Hữu Hiệu” (Validity).Nhân
đây, Luận Lý đích thực có ba yếu
tố lớn là: Khái Niệm (Phù Hiệu Ngôn Ngữ), Phán Đoán (Mệnh Đề), cùng
Suy Lý (hoặc Suy Luận). Nêu thí
dụ để nói:
*-
Chỗ có đá kim cương đều được gặp ở Quát Pha Ly.
*-
Đá trên Giới Chỉ ở Mã Lị không gặp ở Phát Pha Ly.
*- Đá trên Giới Chỉ ở Mã Lị không
phải là kim cương.
Chỗ đây, câu thứ nhất và câu thứ
hai gọi là “Tiền Đề” (Premise), câu thứ ba là “Kết Luận” (Conclusion).
Kết luận thường dùng [: .] làm biểu thị. [: .] đọc là “Cho Nên” hoặc là “Nhân Đây”. Trên phương
diện luận chứng này là “Có Hữu Hiệu”. Ở trên luận lý, nếu tiền
đề là chân, thì chỗ được kết luận tất nhiên là chân, nhân đây
luận chứng của nó tức là “Có Hữu Hiệu”. Nhưng tất nhiên phải biết
phương pháp: Trong luận lý, có tánh
hữu hiệu của luận chứng, tiền đề đều không cần yếu là có chân
thật ở trên thực tế.Giống như nói, chỗ quan thiết của luận lý Tây Dương, đều không ở nơi tánh
chân thật như thế nào của tiền đề, mà là ở nơi có tánh hữu hiệu
của luận chứng (the Validity of arguments), nói cho dễ, tức là tánh chính xác của quá trình luận chứng.
Luận
lý Tây Dương đại loại có thể phân làm hai thứ: Luận Lý Diễn Dịch (Deductive logic) cùng Luận Lý Quy Nạp (Inductive logic). Truyền thống của luận lý
phần nhiều là luận lý diễn dịch. Tuy nhiên giống như nói Á Lý Tư
Đa Đức (384 – 322 B.C.) là người sáng tạo đầu tiên của luận lý
diễn dịch, nhưng đây đều không bày tỏ ông là người địa vị thứ nhất
sử dụng luận lý. Trên thực tế là ở vào thế kỷ thứ bảy trước kỷ
nguyên rất xa, bị gọi là Sắc Lôi Tư (Thales) , cha của Triến Học Hy Lạp và Kỷ Hà Học, tức
là đã từng chứng minh rõ ràng một số định lý của kỷ hà học, để
làm chứng minh cho luận chứng của luận lý. Lại nữa, thế kỷ thứ 3
trước Tây Nguyên phái tả hữu do Hy Đề Ôn(Citium) ở Chi Nặc
(Zeno) sáng lập phái triết học gia Tư Đa Cát (Stoic), cũng đã phát
triển dường như liên quan đến cơ sở luận lý diễn dịch. Sựcống hiến
của Á Lý Tư Đa Đức, trong
sách đại tác phẩm “Công Cụ Luận” (Organon)ở
nơi ông, hoàn toàn phát triển giống như lý luận của luận chứng luận
lý, đều hoàn toàn đặt chủ yếu nơi có hình thức của luận chứng hữu
hiệu, đây chính có tên là “Tam
Đoạn Luận Pháp” (Syllogism). Tam Đoạn Luận Pháp tứ là:
1.
Đại Tiền Đề (Major premise),
2.
Tiểu Tiền Đề (Minor premise),
3.
Kết Luận (Conclusion).
Như
trước trong thí dụ, dùng phương pháp Tam Đoạn Luận để phân tích nó,
hình thức của nó là:
[Đại
Tiền Đề] “Chỗ có đá kim cương đều được gặp ở Phát Pha Ly.”
[Tiểu Tiền Đề] “Đá trên Giới Chỉ ở Mã Lị không gặp đá kim
cương.”
[Kết
Luận] : . “Đá trên Giới Chỉ ở Mã Lị không phải là kim cương.”
Hình
thứccủa phương pháp Tam Đoạn Luận này có thể đem nó trình bày
bằng toán số (Variant) để thay thế, như thế
nhân đây trở thành là biểu thức:
[Đại
Tiền Đề] Chỗ có của F là G
[Tiểu Tiền Đề] X không phải là G
[Kết
Luận] : . X không phải là F.
Do đây trong luận lý trình bày (statement)
có thể dùng chữ mẫu hoặc phù hiệu để thay thế, nhân đây thứ luận
lý này cũng xưng là “Luận Lý Phù
Hiệu”. Cũng nhân vì chỗ có
diễn dịch đều có thể dùng phù hiệu để thay thế, cho nên Luận Lý
không chỉ cùng Kỷ Hà Học quan hệ rất thâm sâu, vả lại cùng Đại Số
nó quan hệ cũng cực kỳ mật thiết. (“Luận Lý Đại Số” trước nhất là
do nhà triết học kiêm số học Đức
Quốc tênLai Bố Ni Tư ở cuối thế kỷ 17 nơi Diệp Sáng Thỉ, sau
cùng là do nhà Số Học Anh Quốc tên là Kiều Thỉ Bố Nhĩ (Geroge
Boole) nơi thế kỷ 19 kiến lập). Lại nữa, do diễn dịchnơi câu đều dùng
phù hiệu để thay thế, trong luận lý lại phát triển ra một số luận
lý trị giá hàm số liên tiếp từ phù hiệu như:
~p tiêu
biểu [không phải p] ----- Phủ định (negation), ý tức là “not”
p .
q tiêu biểu [p vừa q] ------ liên
ngôn(conjunction), ý tức là “and”
p v q
tiêu biểu [p hoặc q] ----- tuyển ngôn (disjunction), (bao hàm
inclusive), ý tức là “or”
p u q
tiêu biểu [nếu p thì q] ----- uẩn hàm (implication) (thực chất
material), ý
tức là “if.....then.....”
p=
q tiêu biểu [nếu và chỉ nếu p vừa
q] đẳng trị (equivalence) (thực chất
material), ý tức là “if and only if”
Vận
dụng một số phù hiệu và đại hiệu này, biểu thức luận lý lại biến
thành có thể dùng “Diễn Toán”, dùng các phương thức tổ chức xếp
đặt của mệnh đề, mà tính toán ra mọi thứ tánh khả năng của kết
luận.
Lý luận của “Mệnh Đề Vận Toán” mở đầu là
do phái Tư Đa Cát của thời cổ đại, mà do các nhà Luận Lý Học hiện
đại hoàn thành nó. Luận Lý Học của thế kỷ 20, chủ yếu là tiếp
thục kéo dài 17 thế kỷ đến “Luận
Lý Lý Số” của Lai BốNi Tư, trong nó tối trọng yếu chính là
La Tố (B. Russell) cùng Hoài Hải Đức (A.N. Whitehead) hợp
nhau trước tác Nguyên Lý Số Học
chỗ cắm nêu dựng lên “Chủ Nghĩa
Luận Lý” (logicism), mục đích của luận này là: “Số học là luận
lý kéo dài, ở giữa số học cùng luận lý không có giới tuyến rõ
ràng chính xác”. Ngoài đây, “Chủ Nghĩa Trực Giác”, “Chủ Nghĩa Hình
Thức” và “Luận Lý Thật Chứng Luận”..v..v..... đều là tư trào luận
lý chủ yếu của thế kỷ 20. Theo trong khoảng giữa thế kỷ 20, nơi Diệp
Đại Hình máy kế toán điện tử xuất
hiện, đầu mối suy diễn luận lý trên thiết kế nơi máy kế toán, liền
có công dụng thực tế trọng yếu, trên đây là Luận Lý Suy Diễn của
truyền thống tự thuật và hiện đại.
Luận
Lý Quy Nạp (Inductive logic)được
kiến lập tỷ giảo rất muộn, mãi đến thế kỷ 17, Bồi Căn (Francis
Bacon, 1561 – 1626) của Anh Quốc mới chánh thức thành lập. “Luận Lý
Quy Nạp” cùng “Luận Lý Diễn Dịch” bất đồng rất lớn, ở nơi: Tiền Đề của Luận Lý Quy Nạo đều
không phải khiến kết luận làm thành “Tất Nhiên” mà chỉ cốt yếu ở
chỗ đạt đến “Hoặc Nhiên” (probable) là có thể đã xong. Nhân đây,
từ phán định của luận chứng luận lý diễn dịch là: “Tánh Hữu Hiệu”
(Validity), nhưng ở trong luận lý quy nạp đều không thích sử dụng; chỗ
sử dụng từ phán định của luận lý quy nạp là “Tánh Chính Xác”
(Correctness). Nhưng mà tất nhiên phải biết phương pháp đây là: Diễn
dịch của luận lý quy nạp đều không là một thứ “không hoàn toàn”
hoặc “có khuyết điểm”; trên sự thật thì luận chứng diễn dịch cùng
luận chứng quy nạp mỗi thật tại nó tác dụng không giống nhau, nhưng
mà có công năng bổ sung lẫn nhau. Rất nhiều định luật và lý luận
của khoa học, phương thức luận chứng của chúng nó sử dụng đều là
quy nạp cả, thí dụ như “Định luật
hành tinh thứ nhất vận động” của Khai Phổ Lặc (Kepler). Công
dụng của Luận Chứng Quy Nạp rất lớn, ở nơi đây có thể mở rộng
lãnh vực tri thức của chúng ta.
b.- Cách
Đơn Giản Của Luận Lý Trung Quốc.-
Ai nấy
đều biết, Luận Lý ở trong văn hoá Trung Quốc, là một khâu rất nhỏ
nhoi, chỉ là, ở Trung Quốc xét đến cùng có hay không có Luận Lý
Học? Kỳ thật là có, đấy chính là trước đời Tần do các Danh Gia và
Hắc Gia trong Chư Tử.
“Danh
Gia” là một nhà trong 9 dòng phái, chúng nó nghiên cứu thảo luận để
học hỏi nên gọi là “Hình Danh Chi
Học” (Môn học về pháp luật), “Hình”
cùng Hình Thông, cũng tức là chúng nó thảo luận trong phạm vi“Danh” cùng “Thật” và “Danh” cùng
“Thật” quan hệ với nhau. Bối
cảnh thời đại nó hưng khởi là: ở thời xuân thu chiến quốc, chiến
loạn không dứt, giết vua cướp ngôi, giết cha để thay thế, sự việc
đây phát sanh không dứt, tất cả giá trị thể thống sụp đổ tan rã,
trên chánh trị, trên xã hội trông thấy đều là danh thật không ăn
khớp với sự việc. Do đó có rất nhiều kẻ sĩ thức thời lại đề ra
rất nhiều lý luận hoặc phương án, ý đồ kiến lập một cái khung bao
bọc mới, để xây dựng lại trật tự mới, hoặc khai thác mới để nhận
biết và lãnh vực thực tiển. Đây chính là “Danh Gia” cùng bối cảnh
thời đại hưng khởi, cũng là bối cảnh của các Chư Tử Bách Gia trước
nhà Tần tranh tiếng.
Căn
cứ nơi Hán Thư Văn Nghị Chí của Ban
Cố, nhân vật đại sở học của Danh Gia có: Đặng Tích, Doãn
Văn Tử, Công Tôn Long, Thành Công Sanh, Huệ Thí, Hoàng Công, Mao
Công..v..v...... cho đến Hắc Gia của thời kỳ sau này. Trong đây rất
trứ danh hiển hách chính là Đặng Tích, Huệ Thí, Công
Tôn Long và Hắc Gia.
1.- Đặng Tích: là người nước Trịnh ở
thời đại xuân thu, Lỗ Thắng đem Đặng Tích liệt vào hướng về trước
của danh gia, và cùng Huệ Thí cũng đều được liệt kê. Lỗ Thắng ở
trong Hắc Biện Chú Tự nói: “Từ Đặng Tích đến thời Tần, người Danh
Gia ở đời có trang sách, người đứng đầu lại khó biết.” Trong Lữ Thị
Xuân Thu có ghi đầy Đặng Tích cùng Tử Sản biện luận, cho đến họ
giúp lão bá tánh đánh quan ty, đã đề xuất rất nhiều cùng kẻ chấp
pháp đối với pháp luật biên soạn và giải thích không giống nhau,
thậm chí nơi “đem việc không phải cho là phải, đem việc phải cho là
không phải (Có thể đem thuyết đối phó trở thành sai lầm, đem sai lầm
trở thành đối phó), thị phi vô độ, (thị phi biến thành không có
chuẩn tắc nhất định), mà có thể cùng không có thể mỗi ngày biến
khác đi (mà có thể cùng không có thể ở nơi khác nói lại, mỗi ngày
đều không giống nhau). Chỗ muốn thắng nhân đó được thắng, chỗ muốn
tội nhân đó bị tội (nó tưởng rằng cần nhường nhịn nó thắng kiện,
nó lại thắng kiện; nó tưởng rằng khiến nó bị phán hình phạt, nólại
bị phán hình phạt.)Nước Trịnh đại loạn, miệng dân vui mừng ồn ào.”Nhân
đây có thể biết Đặng Tích là một vị biện sĩ, cô ta không luận có
phải là một danh hảo (luật sư biện hộ) hay không, hoặc là một xã
hộilật đổ trật tự, kết quả trải qua như thế nào trên xã hội đó,
cô ta lại không luận, nhưng côta xác thật đối với danh từ trong các
điều khoảng hình luật, khái niệm cùng nhận định đều cân nhắc, cho
đến nói năng tập quán hằng ngày của nhân loại, có thâm nhập để
giám sát nhìn thấu, đều khai mở để nghiên cứu thảo luận lý giải và
chỉnh lý quan hệ tên thật.
2.- Huệ Thí (độ khoảng 370 B.C. – 310
B.C.), là người nhà Tống, từng làm qua Tể Tướng của Ngụy Huệ Vương,
trong Thiên Trang Tử Tại Thiên Hạ gọi ông là sĩ phu của bác học: “Huệ
Thí nhiều mặt, sách của ông 5 xe.” Nhưng bác học của Huệ Thí, cùng
nho sĩ giống như bất đồng, chủ yếu bác học của ông ở nơi trên tri
thức khách quan của giới tự nhiên, mà không phải Luân Lý Học
hoặc phương diện Chánh Trị Học. Chủ
yếu tư tưởng của Huệ Thí, ở trong Thiên Trang Tử Thiên Hạ gọi là
“Lịch Vật Chi Ý” (Ý khắp thế gian), cộng có 10 điểm. Nay đề cử 4
điều trong đây để thảo luận:
a, “Rất lớn không ngoài, gọi là Lớn Nhất.
Rất nhỏ không trong, gọi là Nhỏ Nhất” --- Đây là thảo luận vấn đề
rất giới hạn của vũ trụ, dùng “Lớn Nhất” là đại biểu Đại Vũ Trụ
(Macrocosm) lớn không giới hạn, còn dùng “Nhỏ Nhất” là đại biểu
Tiểu Vũ Trụ (Microcosm) nhỏ không giới hạn. Ý của ông tức gọi là: Lớn cùng Nhỏ đều là không giớn hạn.
b, “Trời cùng đất đều thấp, núi cùng đầm
đều bằng” ----- Đây là biểu thị: trời cũng không cao, đất cũng không
thấp; núi cũng không lồi, đầm cũng không lõm; nghĩa tinh túy của nó
giống như Tề Vật Luận của Trang Tử: Tất
cả chỗ hiển bày đối đãi đều là giả tướng; kỳ thậtvạn vật đều
bình đẳng.
c, “Đại Đồng và cùng Tiểu Đồng thì khác,
gọi đây là Tiểu Đồng khác. Vạn vật hoàn toàn đồng hoàn toàn khác,
gọi đây là Đại Đồng khác.” ----- Đây là theo “Chủng” cùng “Thuộc”
của tất cả sự vật để xem khoảng cách quan hệ kia và đây. Sự vật
“Thuộc” ở trong đồng nhất, tánh chất cộng đồng của nó gọi là “Đại
Đồng”; sự vật “Chủng” ở trong đồng nhất, tánh cộng đồng của nó gọi
là “Tiểu Đồng”; mà khoảng cách đồng và dị của “Thuộc” cùng “Chủng”,
gọi là “Tiểu Đồng Dị”. Nếu đem tất
cả vũ trụ đang tạo một toàn cục để xem, thì trong đó tất cả tánh
của sự vật xét đến cùng đều (hoàn toàn giống nhau) “Tất Đồng”;ở
đây trong vạn vật hoàn toàn có tánh cộng đồng, mỗi vật đều có mỗi
cá biệt sai khác, đây chính là tánh (hoàn toàn khác)của “Tất Dị”;
mà theo đây quan điểm toàn bộ vũ trụ lại xem tánh vạn vật “Hoàn
toàn đồng” cùng “Hoàn toàn khác”, chính gọi là “Đại
Đồng Dị”
d, “Rộng yêu vạn vật, trời đất một thể”
---- Đây là Huệ Thí theo ông
vũ trụ luận của “Lớn Nhất”, mà thể nghiệm nhận thức toàn thể bản
thân vũ trụ là hài hòa, nhân đó rút ra manh mối rộng yêu thái độ
sanh mạng vạn vật. Nhân đây thái độ sanh mạng là tích cực, thấu
suốt lẽ đời.
3.-Công Tôn Long Tử(độ khoảng 325
B.C. – 250 B.C.), người nước Triệu, từng làm khách hướng dẫn Triệu
Bình Nguyên Quân ngoài 20 năm. Trong Thiên Trang Tử Tại Thiên Hạ gọi
ông là “Biện Giả Chi Đồ”, học thuyết
chủ yếu của ông đại biểu là: “Luận
Ngựa Trắng Không Phải Ngựa” và “Luận
Cứng và Trắng ly cách nhau”.Cái
móc của hai luận lý đây, nghiêm khắc đến giảng, tức là hình thức
dấu hiệu báo trước của luận lý Trung Quốc.
Đại ý của luận“Ngựa Trắng Không Phải Ngựa” là: Ngựa Trắng không phải là ngựa, nhân vì “Ngựa Trắng” là một
giống của ngựa, cũng chính là “Tướng đặc thù” (particular) của ngựa; mà “Ngựa” vẫn là đại biểu
của ngựa đã có, là “Tướng Chung” (universal) của ngựa.“Tướng Đặc Thù” không
như nơi “Cộng Tướng” nhân đây gọi là “Ngựa Trắng Không Phải Ngựa”.Lại
nữa, chỗ đề xuất luận chứng của Công Tôn Long lại có: “Ngựa đây
chính là hình trạng sanh mạng” (“Ngựa” là lại dùng biểu thị hình trạng
của động vật này); “Trắng đây chính là hình sắc sanh mạng” (Mà
“Trắng” là lại dùng biểu thị nhan sắc của nó) “Cho nên gọi: Ngựa
Trắng Không Phải Ngựa” Nhân đây, “Ngựa
Trắng” là một thứ khái niệm hợp lại hình tướng cùng màu sắc, mà
“Ngựa” chỉ là một khái niệm đơn tiêu biểu hình thể; “Đơn là một khái
niệm” quyết định không thể như nơi “khái niệm hợp lại”. Cho nên nói:
“Ngựa Trắng Không Phải Ngựa”.Ngoại trừ đây, Công Tôn Long
còn có luận chứng khác của ông và dùng thuyết “Ngựa Trắng Không
Phải Ngựa” của ông để ủng hộ.
Riêng một mệnh đề luận lý trọng yếu của Công
Tôn Long Tửtức là: “Luận Cứng
và Trắng”. Đại ý của nó là: “Cứng”
của tảng đá cùng “Trắng” của tảng đá,hai thuộc tánh (Attribute) đây,
đều là tự tồn tại độc lập, cũng chính là nói “Cứng” cùng “Trắng”
không liên can lẫn nhau. Luận chứng đây là: “Tánh Cứng” của tảng đá là trải qua do xúc giác nhận biết
của thân thể chúng ta, mà “Màu Trắng” của nó là trải qua do thị
giác của con mắt mà nhận biết: khi đang lúc nơi thân thể do xúc
giác mà nhận biết tánh “Cứng” của tảng đá, mà không thể nhận biết
“Màu Trắng” của nó; giống nhau, khi do thị giác của con mắt mà nhận
biết màu “Trắng” của nó, mà cũng không thể cùng lúc nhận biết
tánh “Cứng” của nó.Có thể biết
hai thứ thuộc tánh “cứng” cùng “trắng” không liên can lẫn nhau,không
có kết hợp với nhau, nhân đây nói “Cứng và trắng lìa nhau”. Nhân
đây, đại ý luận điểm của nó là: Một
phẩm vật mỗi thứ không giống nhau thuộc tánh, đều có các giá trị tự
tồn tại riêng của nó, không thể chuyển hoá để lớn lên, mạnh thì
khiến nó đồng nhất, trong đókhi đối với chiến quốc tương đối bao gồm
có Chủ Nghĩa Quần Thể, Chủ Nghĩa Quốc Gia, hoặc tư tưởng phản động
“Đại Nhất Thống” của Nho Gia, mà ở đây nhấn mạnh là ý nghĩa và giá
trị cá thể độc lập tồn tại. “Ngựa Trắng Không Phải Ngựa” cũng ẩn
chứa hàm ý này. Nhưng vả lại Luận đây của nó ở nơi “Luận Lý”
và độ sâu trên “Tri Thức Luận” thì không cho phép nó chểnh mảng,
lại không thể do nó nếu có “lời nói cố làm cho người sợ hãi”, mà ở
đây là do quan điểm của nhà đạo đức, một cây bút mạt sát.
4.- Thời kỳ sau tư tưởng Hắc Gia hỗn tạp,
nhưng chúng nó ở “Nhận Thức Luận” và trên “Lý Luận Học” lại có
kiến tạo bình phong che chở rất phong phú. Quan hệ nơi luận “Cứng và
Trắng”, chúng nó chủ trương: “Cứng
Trắng không tương quan bên ngoài”. (Hắc Tử, Kinh Thượng)cũng chính
là thuyết: Vật là thuộc tánh,không
thể lìa nơi vật thể để tồn tại độc lập;tuy nhiên chúng nó cũng
thừa nhận nhân loại cảm quan có tánh hạn cuộc, chỉ là thuộc tánh
của vật thể là sự thật khách quan tồn tại, cùng lúc không gặp
nhân thì con người không thểđồng thời dùng một thứ cảm quan đi nhận
thức nhiều thứ thuộc tánh, nhiều thứ thuộc tánh đây đã từng tự
phân ly. Nhân đây “cứng” cùng “Trắng” của đá, khách quan mà nói, là
“không lìa nhau”, cũng không thể” lìa khỏi đá để tồn tại”:nếu
dùng ngôn từ Phật giáo để nói, tức là: Nếu lìa nơi đá, liền không có thể có được “cứng” của đá;
nếu lìa nơi đá, cũng không có thể có được “trắng” của đá.Nhân
đây “cứng” cùng “trắng” của đá
đều nương nơi thể đá để tồn tại, không phải là tồn tại độc lập cá
biệt. Nhân đây, Thuyết tương đối nơi “Cứng Trắng lìa nhau” của Công
Tôn Long Tửlại được Hắc Gia nương nơi đóđề xuất thuyết “cứng
trắng thừa nhau”.
Luận
về “Hoàn toàn đồng hoàn toàn khác” thời kỳ sau Hắc Gia thì nhận
thức
là: sự sai khác khoảng cách của vạn vật
là hiện tượng tồn tại phổ biến, nhưng “trong khác có đồng”. Quan hệ
khác và đồng có 4 thứ:
1,
Trùng Đồng (Khái niệm hai loại sự vật hoàn toàn trùng hợp
(duplicated)
2,
Thể Đồng (Hai khái niệm thuộc nơi toàn thể đồng nhất)
3,
Hợp Đồng (Hai khái nhiệm ở nơi trong phạm trù đồng nhất)
4,
Loại Đồng (Hai vật thuộc tánh tướng đồng.)
Cho
đến “Tướng Khác” cũng có 4 thứ: “Hai không thể, không đồng, không
loại”. Dùng hai tổ chức Đồng và Khác để lý luận, Hắc Gia nhân đây
bác bỏ thuyết “Vạn vật một thể”, mà cho đó là hỗn hào trên khái
niệm. Chúng nó đem Luận “Ngựa trắng không phải ngựa” bác bỏ, lại
đưa ra thuyết “Không phải bò của bò ngựa, nói nó bao gồm cả.” Ý
đây tức là: loại bò cùng loại ngựa xưa có “loại giống nhau”, nhưng
không phải “thể giống nhau” hoặc “trùng nhau”; “Ngựa trắng” mặc dù
“không bằng nơi” ngựa, nhưng xác thực “thuộc nơi” ngựa. Nhân đây, nói
“ngựa trắng không phải ngựa” là không chính xác vậy.
Do
chỗ thuật ở trên, có thể biết ở Trung Quốc, trong Chư Tử trước nhà Tần,
đã trải qua rõ ràng có trình bày
và phân tích so trên “Luận Lý” và “Tri Thức Luận” tương đương phong
phú,nhưng vì cái gì về sau lại hoàn toàn tiêu mất? Đây có hai
nguyên nhân chủ yếu:
1, là
Tần Thỉ Hoàng đốt sách chôn nho,kiềm chế, hãm hại tất cả học
thuật, ngoại trừy học, thực vật học, bói toán..v..v..... nhất luật
không cho học tập nghiên cứu.
2, Tức
là Hán Võ Đế dùng ý kiến của Đổng Trọng Thư đình chỉ trăm nhà, độc
tôn nho gia, thực thi khống chế học thuật, khống chế tư tưởng, cướp
đoạt cơ bản hiểu biết, quyền lợi cùng học thuật tự do của nhân
dân. Nhân đây Luận Lý Học
Trung Quốc lại bị cáo biệt chết yểu. Tuy nhiên khi Ngụy Tấn Nam Bắc
Triều, có gió thổi của Thanh Đàm, còn Lỗ Thắng của Tây Tấn có Mặc
Biện Chú (đã chết mất, nay chỉ còn văn tự của nó), cho đến trong
Thanh Triều, thời kỳ có người Vương Niệm Tôn, Vương Dẫn Chi
..v..v......chú giải và nghiên cứu Mặc Học,dân Thanh Mạt ban đầu
cũng có một số học giả chú trọng nghiên cứu “Nhận Thức Luận” trong
Mặc Học và bộ phận Luận Lý cùng Khoa Học Tự Nhiên. Nhưng nói chung
lại, nếu thời này Trung Quốc mới cần phát triển một bộ Luận Lý
Học là lúc đã muộn, không như Pháp Sư Tây Dương, trước mặt đuổi kịp,
lại nữa được trực tiếp một số thực tế. (May được, học thuật thì
không bị giới hạn quốc gia).
c.-
Cách Đơn Giản Luận Lý Phật Giáo.-
Luận Lý Học Phật Giáo tức là chỗ
gọi “Nhân Minh Học”. Người cổ Ấn
Độ và người cổ Hy Lạp thì giống nhau, còn khi tiến hành biện
luận học thuật hoặc luận chứng, đều căn cứ theo một bộ luận chứng“Quy
Tắc Du Hí” (Hoặc pháp tắc), tạo dựng tất cả công cụ luận chứng
(Nhân đây Á Lý Tư Đa Đức trước tác Luận Lý Học gọi là “Công
Cụ Luận”; mà một bộ pháp tắc đây, người Hy Lạp cho là “Luận Lý”,
người Ấn Độ gọi là “Nhân Minh”.
Một từ “Nhân Minh”, nguồn gốc phát xuất
nơi “Tứ Phệ Đà Luận”. Tứ Phệ Đà Luận là Thánh điển căn bản của
Bà La Môn Giáo. Tứ Phệ Đà Luận lại gọi là “Tứ Minh Luận”. Xa xưa,
Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích Diễn Mật Sao của Giác Uyển biên soạn
(xưng đơn giản là Diễn Mật Sao), quyển 2 nói rằng: “Con của Bà La Môn
tụng Tứ Minh Luận.) Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, quyển 7 nói
rằng: “Đại Bà La Môn Tứ Minh Pháp, huyễn hoá chú..v..v..... tất
nhiên đều thông suốt”. Tứ Phệ Đà
(Tứ Minh) của Bà La Môn Giáo là:
1,
Lê Câu Phệ Đà: là pháp soi sáng tán tụng và triệu thỉnh.
2, Sa
Ma Phệ Đà: là pháp soi sáng hát xướng.
3, Dạ
Nhu Phệ Đà: là pháp soi sáng hiến cúng.
4, A
Thát Bà Phệ Đà: là pháp soi sáng chú thuật và toán thuật (Đây là
căn cứ
nơi ghi lại trong Bách Luận Sớ), Nhân Minh
tức là bao hàm ở trong đây,
đây là nguồn gốc của Nhân Minh.
Theo
sau khoảng chừng 2 thế kỷ Tây Nguyên, phái Ni Dạ Da (phái Chánh Lý,
tức là phái Hình Thượng Học của triết học Ấn Độ) trong 6 phái triết
học Ấn Độ, do tiên nhơn Tị Tổ Túc Mục phát triển mà thành
tựu Nhân Minh Học của Ấn Độ. Nhân Minh của phái này gọi là “Nhân
Minh Ngoại Đạo”. Mà Nhân Minh trong Phật Giáo được gọi là “Nhân Minh
Nội Đạo”. Kẻ sáng lập “Nhân Minh Nôi Đạo” là Luận sư Trần Na, nơi
Phật nhập diệt về sau sư mới hoàn thành Nhân Minh Chánh Lý Môn
Luận, chính là luận điển căn bản của Nhân Minh Nội Đạo.Nơi trong
luận này, Bồ Tát Trần Na có phần kéo dài sử dụng học thuyết của
tiên nhơn Túc Mục, đồng thời cải tiến phát triển truyền thống Nội
Đạo, học Nhân Minh của ngoại đạo, theo đó hoàn toàn đặt nền tảng
Nhân Minh Học Phật Giáo. Đệ tử của Bồ Tát là Bồ Tát Thương Yết La
Chủ nối tiếp chí hướng kế thừa sự nghiệp của Thầy, trước tác Nhân
Minh Nhập Chánh Lý Luận, hoằng dương mở rộng học thuyết Nhân Minh.
Tương đối, Bà La Môn Giáo thì có “Tứ Minh
Luận”, còn Phật Giáo thì thiết
Lập “Ngũ Minh” Ngũ Minh gồm có:
1,
Thanh Minh:tức là học ca hát phạm âm hoặc nghiên cứu thảo luận văn
tự âm điệu, cũng tức là âm nhạc, văn tự học, văn pháp học, âm
vận học, ngữ ngôn học, và ngữ ý học, toàn bộ bao hàm ở trong.
2,
Công Xảo Minh: tức là học tất cả công nghệ, khoa kỹ.
3, Y
Phương Minh: tức là y học.
4,
Nhân Minh: tức là Luận Lý Học, Luân Lý Học của Phật Pháp.
5,
Nội Minh: tức là đạo lý Giáo Điển của Kinh Phật. Nói đơn giản, tức
là Phật Lý. Dùng Phật lý có thể khiến chúng sanh hiểu rõ pháp nội
tâm của mình mà đặng khai ngộ giải thoát, cho nên được “Minh” đây
tức là “Nội Minh”; vì thế Phật lý gọi là “Nội Minh”.
Nội
dung Nhân Minh Học chia làm: “3 Chi” và “5 Phần Luận”:
3 Chi là: “Tông, Nhân, Dụ”. 5 Phần Luận
là: “Tông, Nhân, Dụ, Hợp, Kết” . Riêng đem 5 Phần Dụ liệt kê thuyết
minh như dưới đây:
1)-
TÔNG: (Proposition) ---- tương đương nơi Mệnh Đề.
2)-
NHÂN: (Reason) ------ Lý Do.
3)-
DỤ : (Example) -----Cho thí dụ, cho ra thật chứng, cũng tức là chứng
cớ
phụ thêm.
4)- HỢP: (Application) ---- lại gọi là “Hợp
Pháp”, tức là đem “Dụ” cùng hai
pháp “Tông” và “Nhân” kết hợp xây dựng
để
giảng.
5)-
KẾT: (Conclusion) –----Kết Luận.
Đề cử một thật tế liệt kê như sau đây:
1,
TÔNG: Trên núi có lửa.
2,
NHÂN: do thấy trên núi có khói.
3,
DỤ: Đồng Dụ: như thấy khói ở nhà bếp; Dị Dụ: như trên hồ có hơi
khói.
4,
HỢP: như thế.
5,
KẾT: Cho nên trên núi có lửa.
Do
trên là “5 Phần Luận”. Cho đến “3 Chi” thì nơi trong “5 Phần Luận” hoàn
toàn rút gọn hai phần sau cùng là “Hợp” và “Kết”. Mà khi dùng thực
tế thì như nhau, thông thường cũng đều chỉ dùng “3 Chi”, còn “Hợp và
Kết” thì hàm chứa và ẩn núp trong nó.
Lại
nữa, “Tông, Nhân, Dụ” của Nhân Minh Học, cùng “Đại Tiền Đề, Tiểu
Tiền Đề, Kết Luận” của pháp Tam Đoạn Luận Tây Dương, thứ lớp của
nó có thể nói chính là đã đến lúc dễ bị sụp đổ. “Đại Tiền Đề” và
“Tiểu Tiền Đề” đều là Nhân, Đại Tiền Đề là “Đại Nhân” (Dùng hiện
tượng hoặc sự thật làm nhân cho nên giống nhau), như trong liệt kê
tường thuật ở trước “Chỗ có đá kim cương đều được gặp ở Phát Pha
Ly” Mà “Tiểu Tiền Đề” làm “Tiểu Nhân”, tức là nhân cá biệt hoặc
đặc thù, như trong liệt kê tường thuật ở trước “Đá trên Giới Chỉ ở
Mã Lị không gặp ở Phát Pha Ly”. Ở hai nhân Đại và Tiểu sau khi hợp
lại cùng mộ nơi, liền hoàn toàn đạt đến kết quả của suy luận: Kết
Luận. Nhân đây:
1.
Đại Tiền
Đề (Đại Nhân)
2.
Tiểu Tiền
Đề (Tiểu Nhân)
3.
Kết Luận.
Nhưng mà Tông, Nhân, Dụ của Nhân Minh Học
thì:
1.
Tông: mệnh
đề (tức là chỗ yếu điểm của luận để chứng minh, giống như Kết Luận
của pháp Tam Đoạn Luận)
2.
Nhân: lý
do.
3.
Dụ: Thí dụ
thực tế.
Cho nên có thể biết, trình tự luận chứng của “Nhân Minh” là: trước hết đề xuất
chỗ luận điểm (chỗ Mệnh Đề, chỗ Tông) của người chủ trương, rồi sau
đó lại nêu ra lý do (luận chứng trên lý), và Thí Dụ Thực Tế (chứng cứ trên sự việc), như thế nơi lý sự (lý do cùng
thí dụ sự thật)phần luận chứng ở
sau đã đầy đủ, “Tông” chỗ chủ trương của người liền có thể thành
lập. Ngược lại, nếu luận điểm cần yếu bị người khác bác bẻ, thì
có thể từ nơi trên “Tông”, hoặc “Nhân”, hoặc “Dụ” của họ, đều tự
sai lần của chỗ phạm phải, hoặc lỗi xấu trên suy luận, lại bị người
khác lý luận đả đảo, tất cả đây đều là “quy tắc du hí”, ở trong
Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận đều có phát huy rất tường tận.
Trở
lại đây, Thánh Điển Phật Giáo gọi là “Tam Tạng”: Kinh Tạng, Luật
Tạng, Luận Tạng. Mà ở trong Luận Tạng, bao quát luận điển Đại Thừa
và Tiểu Thừa, đều phổ biến chỗ ứng dụng luận chứng đến khéo léo
của Nhân Minh Học. Như Lục Túc Luận của Tiểu Thừa (Tậâp Dị Môn Túc
Luận, Pháp Uẩn Túc Luận, Thức Thân Túc Luận, Giới Thân Túc Luận,
Phẩm Loại Túc Luận và Phát Trí Luận..v..v......), Đại Tỳ Bà Sa Luận,
Câu Xá Luận, Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận của Đại Thừa,
cho đến các luận của Duy Thức Học, mọi nơi đều hoàn toàn vận dụng
một cách khéo léo Nhân Minh để luận thuyết; Nhân đây, nếu không
thông đạt Nhân Minh Học, nơi các luận điển thật khó hoàn toàn thông
đạt. Kẻ nào muốn có tiến bộ, cần yếu kiến lập chánh pháp, khi bị tà
thuyết bài xích, thì Nhân Minh Học đây lạilợi khí khó tránh được.
Chú
Giả Thức ngày 8 tháng 11 năm 2001.
Nơi
Đài Bắc. Đại Tỳ Lô Tự.
B.-
NHÂN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN NGHĨA QUÁN.
(Nghĩa
thông suốt Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận)
Tác giả: Bồ Tát Thương Yết La Chủ
Dịch giả: Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền
Trang.
Biên soạn và chú thích: Sa Môn Thích Thành
Quan.
Việt dịch: Sa Môn Thích Thắng Hoan.
IA.- GIẢI
THÍCH ĐỀ LUẬN,LUẬN CHỦ, DỊCH GIẢ.-
Chú
thích:
“Nhân
Minh”: hiện nay chỗ gọi là Luận Lý (logic), trên triết học
cựu dịch là Lý Tắc Học hoặc Luân Lý Học. “Lý Tắc”, tức là nghiên
cứu quy tắc của đạo lý luận thuyết, hoặc phép tắc đạo lý luận
chứng. Đây là người Tây Dương, từ cổ Hy Lạm đã có một tác phẩm
học thuật hoặc học thuật nghiên cứu thảo luận chỗ quy tắc cùng
tuân theo. Người Ấn Độ cũng có một loại giống như học vấn, gọi là
Nhân Minh Học; hết thảy mọi người phàm nói năng, biện luận đạo lý
hoặc trước thuật tất nhiên đều phải tuân theo một bộ quy tắc, vì
thế cho nên Nhân Minh cũng có thể cho là học thuật nghiên cứu thảo
luận, phạm tắc của đạo lý (quy tắc của du hí). Chữ “Minh” của Nhân
Minh, nguyên văn tiếng Phạn là “Phệ Đà” (Veda). Bà La Môn cổ đại thì
lập “Tứ Phệ Đà”, Phật pháp thì lập “Ngũ Minh”, Ngũ Minh tức là: Thanh Minh (Thanh Vận Học), Công Xảo Minh
(Công Nghệ Học), Y Phương Minh (Y học), Nhân Minh (Luận Lý Học), Nội
Minh (tức Phật Pháp, hoặc Nội Giáo). Vả lại “Minh” tức là giải rõ,
nghĩa thông đạt, nghĩa là nơi trong một số lãnh vực học vấn được thông
đạt, liền gọi là “Minh”, như thông đạt âm vận và dạy bảo âm thanh,
gọi là Thanh Minh (nơi tiếng đăïng minh).Lại nữa, chữ “Nhân” của Nhân Minh, gốc chỉ cho vạn vật (vạn
pháp) là “Nhân” của sanh khởi, như bốn Đại, 6 Trần..v..v..... là nhân
của sanh khởi; nếu có thể thông đạt, tức gọi là thông đạt “Nhân
Minh”. Nhưng đây là Nhân Minh của nguyên thỉ, cũng tức là Nhân
Minh của nghĩa rộng.Nhân Minh hiện
tại và sau này mà nói đều là nghĩa hẹp của Luận Lý Học và Luân
Lý Học.
“Nhập
Chánh Lý Luận”: “Nhập” là
giải nhập, hoặc ngộ nhập.“Chánh Lý”là chỉ chánh pháp chỗ nói của
Như Lai. “Luận” tức là “Luận” của Kinh, Luật, Luận, ở đây là chỉ cho
bản văn. Hợp lại trên là: dùng
phương thức khéo léo của luận thuyết “Nhân Minh Học” khiến mình và
người đặng ngộ nhập nơi luận văn chánh lý của Như Lai. Cho nên
có thể biết, “Nhân Minh” đây, tại nơi này là hoàn toàn khiến người
vào nơi công cụ chánh lý của Như Lai, là làm phương tiện của “Năng
Nhập”, mà chánh lý thì làm cảnh giới “Sở Nhập”.
“Thương
Yết La Vương Bồ Tát Tạo”:“Tạo”
tức là sáng tác, là nghĩa trước tác, tức là tác giả tạo ra bản
luận, gọi là Luận Chủ. “Thương Yết La Vương Bồ Tát, căn cứ nơi trong
Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ của Pháp sư Khuy Cơ nói là đệ tử
của Bồ Tát Trần Na. Lại nói rằng: “Trần Na” nghĩa là sanh mạng thế
gian trải qua hiền kiếp thiên Phật sẽ làm một vị Phật.Đầu tiên Bồ
Tát ẩn náo nơi trong Sơn Nham Tòng Lâm, tinh chuyên tu tập Đẳng Trì
(thiền định Tam Mụi), vừa tùng sự (vừa làm việc theo chúng) vừa
trước thuật, “quan sát lợi hại của nghe thuật sáng tác, thẩm xét quy
ước phức tạp của văn nghĩa.” Lúc đó, bỗng nhiên “Vách đá hang núi
gào thét chấn động, ráng mây biến thái, Sơn Thần phụng chỉ Bồ Tát
Túc, cao khoảng trăm thước, nói rằng: (Phật (chỗ) nói (cái) Nhân
Minh (để học), (nó) mầu nhiệm (người thông thường) khó (dùng để)
cứu (thông suốt). Sau khi Như Lai diệt, nghĩa lớn (đây) luân (tức là
trầm luân) (dứt) tuyệt. (Như) nay hân hạnh (mà ngài có Bồ Tát)
phước đức dài lâu (có thể) thâm đạt (lời Thánh (nhân đó), ý
(nghĩa), Nhân đây là đạo (của) Nhân Minh Luận, nguyện xin (lại một
lần nữa) hoằng (dương). Bồ Tát mới phóng thần quang, chiếu riêng cơ
cảm”. Lúc đó, Án Đạt La Quốc Vương của Nam Ấn Độ thấy được Bồ Tát
phóng ánh sáng, liền nhận cho là Bồ Tát đang nhập vào Định Kim Cang,
lập tức thỉnh Bồ Tát chứng quả Vô Học (quả A La Hán). Bồ Tát nói:
“(Ta thì) nhập định quán sát, đem (cương yếu xiển dương)giải thích thâm
sâu của Kinh; (Ta để) tâm (ý là) thời kỳ (nơi) Đại Giác, không phải
nguyện nơi quả nhỏ.” Vương lại thỉnh rằng: “Quả vô học đây, các
Thánh (cũng) hết lòng ngưỡng mộ (kính trọng), thỉnh Tôn (Giả) mau
chứng minh.” Lúc bấy giờ,Bồ Tát vì an ủi Quốc Vương, lại cần theo
chỗ thỉnh của Vương; bổng nhiên Bồ Tát Diệu Kiết Tường (Bồ Tát Văn
Thù) liền trong nháy mắt mà cảnh cáo rằng: “(là) tại sao Đại Tâm
(bồ tát) , mới hưng (khởi) chí Tiểu (Thừa)? Là (hoàn toàn) rộng lợi
ích (tất cả chúng sanh), đang truyền cho Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc) chỗ
thuyết (nơi) Luận Du Già (Sư Địa), (để) cứu giúp bộ máy Chánh Pháp khỏi
bị sụp đổ (pháp bị phế bỏ).(Ông) có thể tạo (tác) Nhân Minh (luận,
để) quy củ (công cụ) thành lại (chánh pháp).” Trần Na kính nhận Văn
Thù chỉ dạy, Do đó “riêng suy tư nghiên cứu tinh tường sáng tác
(thành) Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận”. Sau lại đệ tử của Bồ Tát
Trần Na là Bồ Tát Thương Yết La Chủ liền thừa lệnh của thầy mà
sáng tác Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận, hoằng dương sáng ngời ý chí
của thầy.“Thương Yết La”, chữ Phạm là Samkara, là người thế kỷ thứ
sáu, thầy là Bồ Tát Trần Na, dùng Nhân Minh làm Tông của người, do nơi Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận
của thầy mình quá là thâm áo, mới căn cứ nơi đó mà tạo thành Nhân
Minh Nhập Chánh Lý Luận, tập Nhân Minh này đời sau, nhiều người dùng
đây làm căn bản. Lại nữa “Thương Yết La” biệt danh là Đại Tự
Tại Thiên, đem cha mẹ của luận chủ cầu sanh nơi Đại Tự Tại Thiên,
cho nên mới có tên này.
“Đường
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Dịch”:
Pháp sư thông đạt ba tạng Kinh Luật Luận, nên xưng là Tam Tạng Pháp
Sư. Đại sư Huyền Trang đem bản Luận văn từ Phạm văn dịch thành Hán
văn. “Huyền Trang” (602 – 664), truyện ký của người thấy rõ nơi Từ Ân
Truyện.
IIB.-
GIẢI THÍCH VĂN LUẬN.
I.-
NHẬP MÔN CÓ HAI LỢI ÍCH.-
Luận:
(Chân)năng lập
cùng (chân) năng phá, và tợ (nặng
lập)chỉ (dùng để khai)ngộ (cho
người)tha(khác); (chân )hiện lượng
cùng (chân)tỷ lượng, và tợ(năng
phá) chỉ (dùng để khiến)tự(mình được khai) ngộ.
Chú
Thích:
“Năng Lập cùng Năng Phá”:làchân năng lập cùng chân năng phá. Bởi vì mục đích của tất cả luận
thuyết, không ngoài hai thứ: Lập cùng Phá. “Lập”, chính là lý luận
do chính mình sáng lập, cũng chính là chỗ gọi “Hiển Chánh”. “Phá”,
tức là đả phá công kích lý luận của đối phương, dẹp bỏ chỗ sai lầm
phát xuất từ luận chứng của họ, hoặc chỗ mâu thuẫn, khiến không
được thành lập, cũng tức là chỗ gọi “Phá Tà”. Nhưng công năng
của luận chứng là lập và phá, là phủ định thì có thể đạt đến chân
chánh gì? Đây chính là cần xem quá trình luận lý của họ, có hay
không có bất kỳ sai lầm nào,nếu chỗ tạo luận hoàn toàn không sai
lầm, vả lại có năng lực, đây chính là công năng chân thật có khả
năng đạt đến chỗ “Lập” cùng “Phá”, nhân đây luận chứng này được
gọi là “chân năng lập” và “chân năng phá”.
“Cập
tợ”: chữ “Cập” dùng như chữ
Và. Chữ “Tợ”, đây là nói vắn tắt, gọi cho đủ là “Tợ Năng Lập”
cùng “Tợ Năng Phá”. Đây là nói trên phương diện học thuyết tương đối
nơi “Chân Năng Lập” cùng “Chân Năng Phá”. Quả như quá trình của luận
chứng có chỗ thiếu mất, sai lầm, tức là không thể đạt đến mục đích
của “Lập” hoặc “Phá”, nhưng nguyên vì luận chứng của họ, trên phương
diện tiêu biểu xem chừng vẫn có hình thức luận chứng, nhân đây trên
phương diện tiêu biểu xem chừng “có tương tợ” năng lập hoặc hình dáng
của năng phá, cho nên gọi là “Tợ Năng Lập”, “Tợ Năng Phá”. Chữ
“Tợ” là nghĩa tương tợ. “Tương Tợ” nơi trong Phật pháp là một thứ từ
sụt giảm, tức có nghĩa “là tợ mà không phải chân”, thí dụ: “tương
tợ Phật Pháp”, (Tương tợ Phật Pháp đây, tức là không phải Phật
Pháp chân chánh). Một từ “Tương Tợ” đây, Anh văn là quasi, cũng có
ý giống nhau là sụt giảm.
“Chỉ
Ngộ Tha”: Chữ “Chỉ” tức là
nghĩa chỉ có, chỉ là. Nghĩa là trên
đây có bốn pháp môn:“Chân Năng
Lập”, “Chân Năng Phá”; “Tợ Năng Lập”, “Tợ Năng Phá”, là dùng để
khai ngộ người khác, cũng tức là có thể tạo công dụng lợi ích cho
người khác.
“Hiện
Lượng cùng Tỷ Lượng”: tức
là Chân Hiện Lượng cùng Chân Tỷ Lượng, “Hiện Lượng” là dùng trí không phân biệt, lập tức tự tướng
của pháp hiện tiền hoàn toàn hiểu rõ, gọi là “cảnh giới hiện
lượng”, đây cũng chính là “Trí căn bản”.“Tỷ Lượng” là dùng trí có phân biệt, nơi thật tướng của
pháp, so sánh mà biết, gọi là cảnh giới tỷ lượng, cũng tức là
“Hậu Đắc Trí”. Quan hệ nơi hai lượng này, văn dưới đây sẽ tường
thuật rõ hơn.
“Cập
Tợ chỉ tự ngộ”:Chữ “Cập”
dùng như chữ Và. Chữ “Tợ”, đây là nói vắn tắt, gọi cho đủ là “Tợ
Hiện Lượng, Tợ Tỷ Lượng”. Nghĩa là: bốn
bộ môn đây là “Chân Hiện Lượng”, “Chân Tỷ Lượng”, cho đến “Tợ Hiện
Lượng”, “Tợ Tỷ Lượng” dùng để khiến tự mình được ngộ, đó là công
dụng của tự lợi.Bắt đầu kết hợp, cộng có 8 pháp môn, có thông
đạt “hai lợi ích” (lợi ích cho mình, lợi ích cho người); “8 pháp môn hai lợi ích” đây lại là
cương yếu của bản luận.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chân “Năng Lập cùng” chân “Năng Phá, và Tợ” Năng Lập cùng
Tợ Năng
Phá, bốn pháp môn đây công dụng “chỉ” khiến “tự ngộ”.
Giải
Thích Luận:
“Chân Năng Lập” chính là Nhân, là“3 Chi không lỗi”của luận chứng.
Nhân đây có thể hiển bày chánh lý mà
khai ngộ cho người khác. “3 Chi”, là
Tông - Nhân - Dụ, tức là cái khung cấu tạo căn bản của Nhân Minh. “3
chi không lỗi”dùng nói đến thuyết hiện tại, tức là trong luận chứng của chính mình, luận lý không có mảy
may bệnh tật. Ba Chi đây như trong kiến trúc có nền móng và thể
kết cấu có cơ bản của bộ khung cốt thép, thể kết cấu không có vấn
đề, chỗ xây cất nhà cửa hoặc lầu cao to lớn mới có thể đứng thẳng
được, không bị đảo ngược, người cũng mới có thể ở yên. Giống nhau,
lý luận phân tích rõ ràng của luận chứng, suy luận đúng đắng, không
có lỗi lầm (3 Chi không lỗi), lập luận mới có thể thành lập, cũng
mới có thể khiến người nhìn xa thấy rõ chỗ cần công bố biểu hiện
tánh chính xác (Validity) của chánh lý và có tánh khả năng thành
lập (Plausibility).
“Chân Năng Phá” nghĩa là có thể chỉ ra chỗ lập luận sai
lầm của đối phương, sai lầm trên suy luận, không hợp lý, nêu chứng
cớ không rõ ràng, đề không cần thiết, và tự tướng của khoảng cách
ba thứ Tông Nhân Dụ mâu thuẩn..v..v....... quá lỗi lầm trên mạch
lạc (trên luận lý), Nhân đây khiến lập luận của đối phương không
được thành lập, và nó bị phá công kích.
“Tợ Năng Phá” là trên phương diện tiêu biểu giống như chỉ
có thể công kích chỗ sai lầm về mạch lạc của đối phương, nhưng mạch
lạc của đối phương dùng luận lý (nhân minh) mà nói, căn bản thì
không lỗi, nhưng vì chính mình đả“phá,
hoàn toàn công kích sai lầm”, cho nên trở thành bệnh lớntrên
nhân minh.
“Tợ Năng Lập” là lập luận của nó trên phương diện tiêu
biểu xem lại ba Chi là Tông – Nhân – Dụ đều đầy đủ, tợ hồ có chỗ
luận chứng, nhưng chỉ không đủ hình thức (chỗ gọi là ba Chi mang lỗi),
có thể nói đều không thấy rõ biết đúngchân chánh; vì thế, “Tợ
Năng Lập” mặc dù có chỗ luận chứng nhưng lại một lần nữa nói năng
đều không thể đạt đến chân chánh để giúp người hiểu rõ mục đích
chánh lý.
Hỏi: “Chân Năng Lập cùng Chân Năng
Phá có thể khiến người hiểu rõ,
tức là đây có thể lý giải; nhưng Tợ Năng Lập cùng Tợ Năng
Phá thì như thế nào có thể khiến người hiểu rõ chánh lý?
Đáp: “Chân Năng Lập, Chân Năng
Phá, Chân Hiện Lượng, Chân Tỷ Lượng, bốn thứ đây là thuốc men, mà
Tợ Năng Lập, Tợ Năng Phá, Tợ Hiện Lượng, Tợ Tỷ Lượng, bốn thứ
đây là bệnh hoạn. Nếu nhưhiểu rõ bệnh tình, bệnh nhân không chân
chánh, lại không có pháp chân chánh, cho nên không biết dùng thuốc
bằng cách nào. Nhân đây, támpháp môn của “bốn môn chân” cùng “bốn môn tợ” chính hai mặt trái ngược,
tất nhiên phải từng một pháp môn đều có thể biện minh riêng, như
vậy mới tính là “Nhân Minh Chân Chánh”. Dùng Nhân Minh đây, tự
ngộ ngộ tha, đều gọi là “Nhập” (Tự ngộ là tự nhập vào, ngộ tha là
khiến người khác nhập vào); cái bệnh của “Bốn Môn Tợ” và chỗ phá
của nó đều là thuộc lý gian tà, khi phá gian tà chỗ thiết lập và
chỗ hiển bày của nó phải là “Chánh Lý”.
Luận:
“Như thế nhiếp lấy yếu nghĩa chung của các Luận.”
Chú Thích:
“Như Thế”: tức làdùng “Tám Môn” đây và pháp của
“hai lợi ích” (lợi ích cho mình và lợi ích cho người)chỗ phát sanh nó.
“Nhiếp lấy chung các luận”“Chung”là một thể, toàn bộ. “Nhiếp” là
nhiếp lấy, thâu nhận. “Luận”, tức là A Tỳ Đạt Ma. Nghĩa là pháp tám
môn của hai lợi ích đây, không những bao hàm thâu nhận yếu nghĩa mỗi
luận của bản luận, còn yếu nghĩa của các luận trong A Tỳ Đạt Ma
Tạng, cũng bao hàm gắng bó xây đắp nội tại. Nhân là mục đích của tất cả các luận, không ra ngoài hai pháp
môn “Phá và Lập”, chọn lợi ích mà nói, thì không ra ngoài hai lợi
ích tự ngộ và ngộ tha. Cho nên yếu nghĩa của các luận đều được tổng
hợp ở trong đây.
“Nghĩa Thông Suốt”
“Như Thế” là pháp của hai lợi ích nhập môn, tức là
“nhiếp lấy chung” của bản luận
và “yếu nghĩa” của “các luận” trong A Tỳ Đạt Ma Tạng.
II.- PHÁP MÔN CHÂN NĂNG LẬP
---
BA CHI CHÂN THẬT.-
Luận:
Trong (các)Tông
vân vân(Nhân, Dụ) đây tất cả ngôn ngữ,(đều) gọi
là Năng(kiến) Lập(chánh
lý). Tất
cả(ngôn ngữ đều)nói do Tông, Nhân, Dụ, (đây
nhằm để)khai thị (cho)các
người có (câu)hỏi chưa được rõ nghĩa.
Chú Thích:
“Trong đây”: là chỉ cho trong môn này, trong pháp môn
này.
“Tông đẳng chỉ nói”: “Tông đẳng”, tức là chỉ cho ba thứ Tông,
Nhân
Dụ.“Tất
cả nói” là lời nói của mọi người.
“Gọi
là năng lập”: “Năng Lập” thường xác lập, kiến lập. Cũng tức thường xác lập tánh chánh đáng
(Validity) của chánh pháp, hoặc dịch là tánh thoả đáng, tánh chính
xác.
Nghĩa Thông Suốt:
“Trong”
pháp môn “đây” các Tông, Nhân, Dụ nhiều thứ ngôn ngữ, “gọi lànăng” xác “lập” chánh lý. Là cái gì? Với
quá trình lý “Do” đây các công thức Tông, Nhân, Dụ có nhiều thứ
ngôn ngữ trình bày thì có thể khai đạo mở bày cho các người hỏi nơi chỗ
mà họ chưa có thể rõ thấu ý nghĩa. (khai phát mở bàyđạo lý nơi chỗ
hỏi của người khácmà họ chưa có thể hiểu rõ.)
Giải Thích Luận.
Như trước chỗ nói, “Tông, Nhân, Dụ”
là cái sường cần thiết trong luận lý của Nhân Minh Học, có bộ khung
(Framing)như khi xây dựng phòng ốc, bộ khung của phòng ốc bao quát
nền móng, cột, đòn tay, cây rui, không thể thiếu một. Tông, Nhân,
Dụ trong Nhân Minh Học thì cũng giống nhau, nơi trong luận lý cũng
không thể thiếu một, cho nên gọi là “Ba Chi” Tông, Nhân, Dụ; Chi đây
là cột trụ. Lại nữa trong Nhân Minh cũng có chỗ gọi là “Ngũ Phần Luận”, tức là dùng “Ba
Chi” làm chủ, lại thêm hai thứ “Hợp và Kết” làm thành “Tông, Nhân, Dụ, Hợp, Kết” gọi
là Ngũ Phần Luận. Trước hết
giảng ba chi.
“Tông”, nơi Tây Dương gọi là “Hình
Thức Luận Lý” (Formal Logic), tương đương nơi “Tiền Đề” (Premise), tức là nghĩa Tông Chỉ, cũng như âm
nhạc, chủ đề (motif) trong nghệ thuật, hoặc chủ chỉ(chủ đề chỉ đạo) trong văn học, cũng chính là luận
giả (hoặc tác giả, nghệ thuật gia..v..v...... ) chỗ luận điểm chủ
yếu cần phải nêu ra.Mỗi khi biện luận, chúng ta phổ thông thường
hỏi: “Chủ đề của ông là gì?” hoặc hỏi “Luận điểm chủ yếu của ông
là gì?” Trong Nhân Minh Học thì hỏi:“Ông dùng thứ gì làm Tông?” Mà
chủ đề (Đại Tiền Đề) của ông xưng là “Tông của Ông”. Cho nên biết
“Tông” đây là linh hồn cả trong biện luận, như người có đầu. Mà bộ
phận khác của luận lý đều phải phối hợp, cho đến Chi đem (support)
chứng minh, hoặc hiển bày tông chỉ của nó, hiệu quả chung của nó
tức là ở nơi đạt thành tông chỉ “không thể tránh khỏi” đây, tánh
chân chánh (validity) không thể lật đổ, do đó tông chỉ của nó lại
được dùng để thành lập (tông của nó được thành).
Yếu
tố thứ hai trong ba Chi: “Nhân”.
“Nhân” tức là lý do, cũng tức
là “Tông” (tiền đề) chỗ đề xuất của nó được dùng lý do để thành
lập. Tại trong “Luận Lý Hình Thức” đây có loại điểm giống “Tiểu Thiền Đề” (Minor Premise)
nguyên vì nó nếu đề xuất một tiền đề quang cảnh, mà không bày tỏ
lý do của nó thì làm sao có thể thành lập tiền đề của nó?Làm sao
có thể khiến người khác tiếp thu, thừa nhận chủ đề luận điểm của
nó là chính xác? Giả như, muốn khiến tiền đề (luận điểm) chỗ đề
xuất của nó cao trở lại, mầu nhiệm trở lại,mà nó lại đề xuất
không thích đáng,lý do không có năng lựcđể chống đỡ điều đó, thì “Tông”
của nó lại trở thành cái khung trống không và trở thành không
luận, không có phương pháp khiến người tín phục, không thể thành
lập,không thể trở thành xác luận, thậm chí liên hệ “giả thuyết” (Supposition) cũng đều
không với tới; nguyên vì nơi khoa học, “giả thuyết” trong triết học
liền có thể chứng minh trước khi “sự thật” còn chưa có thể đến
được,nhưng cũng nhất định phải ở nơi trên lý luận mới có thể “tự
tròn đầy lý thuyết của nó”, hoặc “ tự trởn thành lời nói của một
nhà”, tự trở thành một cá thể có hệ thống, cho đến tối thiểu trên
luận lý cũng có thể đứng vững.Do
đó Chi “Nhân” trong ba chi, đối với
thành lập “Tông”thì không thể kém khuyết vậy.
Yếu
tố thứ ba trong ba chi chính là “Dụ”,
là dẫn dụ. Nhưng phải chú ý chữ “Dụ” đây, không chỉ chỗ gọi bình
thường là “tỷ dụ”, mà như trong
văn chương có chỗ “đề cử thí dụ
sự thật để chứng minh” hoặc “đề
cử thí dụ để thuyết minh”, mà ở đâyđược gọi là “Dụ”, đúng là chỉ
cho “Sự Dụ”. Bộ phận “Dụ” nơi trong luận lý Nhân Minh cũng trọng yếuđến
mười phần mười không kém. Nguyên vì “Tông” của nó đề xuất chỉ là
quan điểm còn chưa chứng thật, mà “Nhân” (lý do) của nó đề xuất
cũng chỉ là do đề xuất trong đạo lý riêng nó tin nhận mà thôi. Giả
sử “Tông” của nó đề xuất rất có thể là “cá nhân hoá”, nghĩa là
chỗ kiến giải riêng cá nhân của nó mà thôi, còn biết thật thấy
rõ hoặc tâm đắc phải là chi“Nhân”,
nơi chỗ đề cử của nó ở trên phương diện so sánh rộng ra, thông
thường phải là từ nơi chỗ tin nhận của nó, đã có đề xuất trong đạo
lý của tông phái, của học thuậthoặc Nội Môn Học (trong đạo học)
mới hợp lý,căn do chi “Nhân” đây
so sáng với chi “Tông” cần yếu là phải được không phải cá nhân
hoá, so sánh có “Tánh Phổ Biến” (Universality),lý do sử dụng đến chi “Nhân” của tánh phổ biến là dụng cụ
so sánh để chống đỡ.Trường hợpđem chi “Tông” cá nhân hoá để so sánh
thì có thể được mọi người tiếp nhận ngay, mà chi “Dụ” thì lại tiến một bước là dùng sự thật đã tồn tại
đem chứng minh cho “Tông”.Từ đó cho thấy chi “Nhân” có thể nói đã có “Lý” rồi lại đi chứng minh cho
“Tông”thì lại càng có lý hơn, đã vậy “Dụ” đây đúng là “sự
thật”tồn tạimà sự thật đây có tánh cách phổ biến ai cũng đều
biết,tiếp theo lại đem ra chứng minh thêm nữa cho Tông thì tất nhiên chi
“Tông” nhờ đó lại tăng thêm kiên định, xác lập.Vì thế chi “Tông” chỗ đề xuất của nó nhờ nơi “Nhân” và “Dụ”
cả hai trọng yếu chứng minh đạt được thành công trên lý và sự, lại
tiến vào tình trạng hoàn toàn đến chỗ đỉnh cao không đả phá được,lẽ
cố nhiên nó có thể thành tựu được một khuôn pháp lý luận.
Nói về đổi câu, “Tông” của nó đề
xuất có thể nói là “ông nói ông có lý, bà nói bà có lý”, hoặc quan
niệm cá nhân của “người thì thấy đó là nhân, người thì thấy đó là
trí”; nhưng “Nhân” của nó đề xuất thì khiến “quan niệm cá nhân” của
nó phải được nhiều người công nhận ủng hộ trên lý, do đó “Tông”
của luận chứng đây, nơi “trên lý
được kiến lập” (Plausible). Mà “Dụ”
của nó đề xuất thì khiến cho lýchỗ luận chứng của nó được nhiều
người cùng biết cùng công nhận trên sự thật, vì thế “Tông” của nó
đây ở “trên sự thật thì được
thành công” (Possible).
Nhân Minh Học Phật Giáo cùng
Luận Lý Học Tây Dương không giống nhau rất lớn, then chốt của Nhân
Minh Học là ở nơi chi “Dụ”.
Nguyên vì Luận Lý Học Tây Dương, không luận là pháp Tam Đoạn Luận (Syllogism) của Cổ Hy
Lạp, hoặc Biện Chứng Pháp
(Dialectic) của thời đại qua, bao gồm “Biện Chứng Pháp của Tiền Tô
Cách Lạp Để (Pre-Socratic Dialectic), cho đến “Biện Chứng Pháp của Hắc
Cách Nhĩ (Hegelian Dialectic), hoặc “Duy Vật Biện Chứng Pháp của Mã
Khắc Tư” (Marxian Materialistic Dialectic), trên cơ bản đều là thuộc về hình thức luận lý; đây tinh thần cơ bản của luận lý Tây
Dương, cũng tức là: quá trình
yếu chỉ của luận lý, ở trên “Lý” (hoặc trên suy lý” nói đến đều
được thông suốt, lại có thể nói luận chứng đây có thể thành lập
(Valid), thích hợp với luận lý; cũng tức là trên luận lý “ có “khả
năng”, “có thể tiếp thu” (Plausible). Tuy nhiên luận chứng đây, phương
thức đi qua suy luận, ở trên lý thì có thể thành lập, nhưng ở trên
“sự thật” thì không nhất định thành lập, điều đó không nhất định phù
hợp sự thật, tương lai cũng không nhất định có thể thành sự thật;
trên thực tế khả năng lý đây vĩnh viễn đều không có được phù hợp
giống nhau như thế với đông tây.Nhưng điều đó không phương hại đến
nó, nơi sự việc này “trên lý luận có thể thành lập”. Nói ngược
lại, Luận Lý Tây Dương chỉ biết luận chứng là phủ định Plausible (khả
năng trên lý), mà hoàn toàn không có vấn đề phủ định khả năng
hoặc khả hành [possible] (khả năng trên sự) trên sự thật. Do đó,
trong luận lý Tây Dương, hoàn toàn lìa bỏ giá trị và phán đoán của
Luân Lý Học, Mỹ Học, Chánh Trị Học, Xã Hội Học..v..v....., như thiện
ác, tốt xấu..v..v......, mà chỉ nhất tâm nhất ý ở chỗ tự mình
chuyên chú nơi thiết lập động tác vận hành trong khuôn khổ luận lý.
Cũng vì đây, mà khiến Luận Lý Tây Dương được chính xác không sai lầm
trong luận chứng, đã từng sản sanh kết luận nơi sự thật rất hoang
đường (something plausible in logic, but totally impossible or ridiculous
in fact.)
Còn đến nơi Nhân Minh Học của Phật
pháp thì hoàn toàn không có gặp hiện tượng như thế, đấy là nguyên
vì trong Nhân Minh Học có “ba Chi”, đặc biệt là quan hệ của chi “Dụ”. Giả sử trong Nhân Minh Học chỉ có hai chi
“Tông và Nhân”, nó kết quả lại có khả năng sẽ cùng tương tợ với
Luận Lý Tây Dương: luận giả đề xuất một luận điểm, ở trên lý luận
cho được thành lập, nhưng trên sự thật lại hoàn toàn không có khả
năng. Do vì kết cấu luận chứng của
Nhân Minh Học, ngoại trừ “Tông” cùng “Nhân” ra, chứng minh trên luận
lý, lại cần cầu tất nhiên phải có đề cử chi “Dụ” để chứng minh
trên sự thật, chứng minh “Tông” này sớm đã có nơi sự thật, mà nơi
sự cũng được thành lập; cho nên “Nhân Minh” có thể tránh khỏi nơi
thuần lý, hình thức tháp ngà của thuần học thuật, đích thực không
hạp cái khung Lý Không của sự thật, mà biến thành văn học du hí
của Học Thuật Gia, hoặc “Ngôn Thuyết Hí Luận” không thật. Nói đơn
giản, “Nhân Minh” đây không giống nơi Luận Lý Tây Dương, ở nơi luận
chứng của Nhân Minh, sau cùng tất nhiên phải “sát thực tế” nơi trên
sự tướng nhân sanh cụ thể, không luận là thuộc về nơi vật chất của
sắc pháp (như bốn Đại, sáu Căn, sáu Trần), hoặc thuộc về nơi tâm
pháp (tám Thức, pháp Tâm Tâm Sở) đều thích hợp;nhưng tuyệt đối không thể lời nói trời cao đất rộng không có
vật chứng, chỉ là “Nhân Minh để Nhân Minh”, “Luận Lý để Luận Lý”.
Nói thêm nữa, sở dĩ bản ý pháp
lớn của đức Phật khai thị “Nhân Minh” tức là vì mục đích hoằng dương
chánh pháp, chánh lý, phá tà hiển chánh, khiến hành giả tự ngộ
ngộ tha, trở thành công cụ trọng yếu là tu hành tự lợi lợi tha; mà
không phải là chỉ để chung cấp cho “phần tử trí thức” một thứ “thể
thao của đầu não”, lời nói không vật chứng đích thực là hàng xa xỉ
cao cấp. Vì đây, cũng có thể thấy được Nhân Minh Học Phật Giáo
so sánh Luận Lý Học Tây Dương thì có chỗ thù thắng hơn. Cho nên Phật
tử học tập Nhân Minh, nơi đây phải nên thể hội thâm thiết.
A)- Chi Tông:
Luận:
Trong Tông đây (điều
kiện có thể thành lập) nghĩa là (phải)hữupháp(pháp
có thật)cực(hoàn toàn thì mới có thể)thành(tựu), vì(hữu pháp) cực (hoàn toàn có thể) thành (tựu khả) năng(khu)biệt tánh sai biệt,(để)làmchỗ thành lập tánh theo mình thích,
gọi là Tông. Như đã thành lập “Âm thanh là vô thường”.
Chú Thích:
“Cực Thành”:Chữ “Cực”
là nghĩa quyết định mười phần, đầy đủ, hoàn toàn.Chữ“Thành” là nghĩa
thành lập, thành tựu, có thể thành lập, tán thành.Nghĩa là kẻ thù và ta, hai phía đều
hoàn toàn đồng yù; hai nơi tạo dựng đều hoàn toàn đồng ý, cả hai
đều không có ý kiến.
“HữuPháp”: nghĩa là có pháp thuộc tánh vô thường;
hoặc có pháp cụ thể. Cũng tức là không phải pháp thuộc tưởng
tượng, thuộc tượng trưng, như lông rùa hoặc sừng thỏ. Gọi là nơi “Lập Tông” (khi đề xuất
tiền đề) trước phải đề xuất “hữu pháp” giống nhau để làm “chỗ nương
tựa” của Tông này, gọi là “Tông Y”. Cũng chính là nói Tông này
không được nương tựa “Cái Không làm bằng chứng” để thiết lập, cũng
không được nương tựa “Tưởng Tượng”, tất nhiên phải nương tựa nơi “hữupháp”
cụ thể và thực tế. Mà lại “Hữu Pháp” đây vẫn tất nhiên phải
là luận thuyết được đôi bên đông tây đều đồng ý (cực thành); Thí
dụ: không thể dùng “lớp đại khí của Tinh Long Vương” cho là “hữu
pháp”, nhân vì “lớp đại khí của Tinh Long Vương” mặc dù hoặc cho là
“hữu pháp”, nhưng lại không phải “Cực Thành” (nhân vì chỉ là suy
đoán, không có khả năng cụ thể thật tế). Mà Tông chỗ thiết lập
của luận giả thì tất nhiên phải kiến lập nơi trên “hữu pháp” của
“Cực Thành” (tức gọi là [dùng Cực Thành Hữu Pháp là chỗ nương tựa
cho Tông]).
“Vì cực thành năng biệt tánh
sai biệt”: “Năng Biệt”, có
khả năng phân biệt xuất hiện, có khả năng hiển bày sai biệt. “Tánh
sai biệt”, là chỗ muốn tánh sai biệt. Thí dụ như phía địch thiết lập
“Thường” là Tông, như thế “Tông” (chủ ý) của ông thiết lập nhất
định phải là có khả năng hiển bày “Tông” của ông cùng “Tông” của
người khác thiết lập có chỗ không giống nhau (có “tánh sai biệt”),
thí dụ như Tông của ông thiết lập là “Vô Thường”; như thế, “Tông”
của ông thì xác thực đều có khả năng hiển bày tánh chất sai biệt
chỗ có của “Tông Khác” (là “Thường” cùng “Vô Thường” xác thực có
sai biệt), nhân đây căn cứ nơi chỗ nói của văn bản luận, tức là Tông của ông thiết lập có
khả năng phân biệt tánh chất hoặc tác dụng chỗ sai biệt mà ông
muốn xuất hiện, vả lại “khả năng phân biệt tánh sai biệt” này của
ông đề xuất, cũng phải là có khả năng khiến cho hai bên chủ và
khách phải tiếp nhận (thí dụ như “vô thường”), được như thế thì “khả
năng phân biệt tánh sai biệt” đây được gọi là “Cực Thành”. Cần
phải nói, Tông Thể của chỗ đề
xuất phải có đầy đủ “Khả năng phân biệt tánh sai biệt”, phải cùng
Tông của kẻ địch có chỗ không giống nhau, không thể giống nhau, như
nhau, trùng lập nhau, hoặc tương tự nhau. Bằng không tức là mất ý
biện luận (nếu không phải thếthì loại biện luận chính hoàn toàn
không có và chính tự mình chủ động tán thành phương thức luận điểm
của địch.)
“Làm chỗ thành lập Tánh Theo mình
thích”:“mình thích” nghĩa là
pháp của mình thích, tức là tự mình cho phép. Thí dụ như đệ tử Phật,
pháp của họ tự thích chính là giáo lý của Phật; hoặc như Bà La Môn
pháp của họ tự thích là bốn Phệ Đà..v..v......“Theo” nghĩa là nương
tựa. “Theo Mình Thích”, nghĩa là nương
tựa nơi giáo pháp của mình tin tưởng và thích thú.“Làm” nghĩa là
đang tạo tác. “Chỗ thành lập tánh”, “Tánh” tức là phía trước đã nói “khả năng
phân biệt tánh sai biệt”. Đây tiến thêm một bước hạn định, Tông thuộc “khả năng phân biệt tánh
sai biệt” chỗ đề xuất của ông, lại tất nhiên phải là căn cứ nơi
giáo pháp của ông vốn đã tin tưởng và thích thú để thành lập.
Cũng tức là Tánh của Tông chỗ
thành lập, không thể sai trái nơi giáo lý bản Tông của ông,thí
dụ như ông nếu chính là tín đồ của “Minh Luận” hoặc của “Thanh Hiển
Luận”, người của hai ngoại đạo này đều tin tưởng cho “Âm thanh” là
thường còn, nhân đây “Tông” của ông thiết lập quyết định không được
giải thích “Âm thanh là vô thường”, nếunhư
thế thì trái với giáo pháp căn bản chỗ tin tưởng và thích thú của
ông, “Tông” như thế, không những người thuộcTông căn bản của ông
không thể đồng ý, và người đối phương cũng không thể tiếp nhận, do
vì nó không phải “Tánh làm chỗ thành lập theo mình thích”.
Thích Luận:
Nói tóm lại, “Tông” chỗ thiết lập,
nhất định phải có đủ ba điều kiện:
1, Hai
bên tạo lập phải cụ thể, cộng đồng đều chấp nhận mà pháp đó
phải có thật(“Có pháp cực thành”;
2, Khả
năng phân biệt xuất hiện chỗ muốn hiện bày cùng kẻ địch lập
luận có chỗ tánh sai biệt (“Cực thành có thể phân biệt tánh sai
biệt”);
3, Căn cứ theo ý định của giáo pháp
mà tự chính mình đã tin tưởng và
thích
thú, liền tạo làm tánh chỗ muốn thành lập của mình(Chủ đề
không trái ngược với bản
giáo. “Làm chỗ thành lập
tánh theo mình
thích”)
Ba
điều kiện đây nếu đã được đầy đủ hoàn toànthì mới có thể nói là
thiết lập “Tông”. Thí dụ như có đệ tử Phật thiết lập “Âm thanh là
vô thường”, đây lại là một thứ Tông có thể thành lập, nhân vì nó
hoàn toàn đầy đủ ba điều kiện đây:
1, Nó “hữu pháp” là “Âm Thanh”,
2,
Tông Thể của nó có đủ “khả năng
phân biệt tánh sai biệt”, là do sai
biệt nơi “Thường” của kẻ địch lập luận.
3, Tông
Vô Thường đây là căn cứ theo giáo pháp mình thích (Phật
Giáo) làm chỗ thành lập tánh.
Như “Âm thanh là vô thường” cho
nên có thể dùng làm thành
“Tông”.
Nghĩa Thông Suốt:
“Trong đây” chỗ nói là “Tông” là điều kiện có thể
thành lập “đây, gọi” là thứ
nhất, nếu trong tiền đề bao hàm có “Cực”có
thể “Thành” lập (hai bên tạo
lập đều cùng chấp nhận nó) mà “pháp”
đó đều “có” cụ thể (không
phải như lông rùa sừng thỏ..v..v.....); thứ hai, “Cực” có thể “Thành”
lập (hai bên tạo lập đều cùng chấp nhận nó), luận giả đều có “khả năng” phân “biệt” chỗ muốn hiển bày cùng kẻ địch lập luận có “tánh” “sai biệt” (mà không trùng
lập tương tợ nơi chỗ lập luận của kẻ địch); thứ ba, tất nhiên phải
căn cứ“theo”giáo pháp của luận
giả chính “mình” vốn đã tin
tưởng và thích thú, để tạo dựng “làm”
chỗ cho “tánh” của luận điểm
mà mình muốn “thành lập” (không
trái ngược giáo pháp của mình).“Đây
gọi là” “Tông” có thể dùng để thành lập; thí dụ “như có” đệ tử
Phật “thành lập [Âm thanh là vô
thường]”, liền hoàn toàn đầy đủ ba điều kiện đây, mà được gọi
là Tông của họ lập luận.
Thích Luận:
Nếu căn cứ nơi ba điều kiện đây
của Tông, Tông của luận giả thiết lập, lại không có gặp mọi thứ
tệ hại như dưới đây:
1,
Nguyên vì có “cực thành hữu pháp”,
cho nên tiền đề của nó lại
không thể có là buông tuồng
không bờ mé, vọng tưởng giả dối hão
huyền.
2, Nguyên vì có “cực thành khả năng phân biệt tánh sai biệt”, do
đó
lại không gặp ý kiến giống nhau,
trùng nhau hoặc gần giống
nhaucùng luận điểm của kẻ địch.
3, Nguyên vì có “Theo mình thích làm chỗ thành lập tánh”, sở dĩ chỗ
Luận giả thành lập tất nhiên
phải không trái với giáo lý vốn có của
luận
giả,do đây không có thể là luận
giả tự mình bỗng nhiên phát
sanh tư tưởng kỳ lạluận lý
cuồng vọng quái đản, mà ở đây lý luận
đều phải có truyền thừa,có cơ
sở căn bản, mọi người đều chấp nhận
(tạm
thời không luận tánh chính xác lớn nhỏ của nó).
B)- Chi Nhân.
Luận:
Nhân (lý do)có ba tướng,
những gì là ba? Nghĩa là TánhTông Pháp phải phổ biến, Đồng Phẩm
nhất định có tánh, Dị Phẩm tánhkhông phải phổ biến.
Chú Thích:
“Nhân”: nghĩa là lý
do, tức là lý do của chỗ thành lập tông này. Thí dụ
như: thành lập “Âm thanh là vô thường” làm
Tông; Nhân (lý do là): “Căn cứ vào tất cả chỗ tạo tánh đều thuộc
về vô thường”; mà âm thanh là chỗ tạo tánh; do đó âm thanh là vô
thường, cho nên Tông này được thành lập.
“TánhTông
pháp phải phổ biến”: đây
là chi “Nhân”, là một chỗ nhất định phải có ba tướng đầy đủ. “Là
Tông”, làTông đây, tức là “Tông Thể”, là chỗlập tông để luận
chứng. “Pháp” là Hữu Pháp (pháp có thật), tức là “chỗ nương của
Tông (Tông Y)”. “Biến”, tức là phổ biến, nghĩa là chỗ “Nhân” được
đề xuất tất nhiên phải có tánhphổ biến của Tông Thể và Tông Y
(hữu pháp); cũng tức là Nhân của chỗ đề xuất không được cùng tánh của “Tông Thể” và “Hữu Pháp” trái
ngược nhau. Thí dụ như, ba chữ “Chỗ Tạo Tánh” đối với “Hữu Pháp” của
chỗ tạo tác âm thanh và “Tông” của vô thường, đều có thể phù hợp,
do đó hai điều kiện “Hữu Pháp” và “Tông” đây đều có nghĩa của “Chỗ
Tạo Tánh”. Do đây dùng “Chỗ Tạo Tánh” như là “Âm Thanh thì vô
thường” làm Nhân của Tông, có thể thành lập được.
“Đồng Phẩm nhất định phải có tánh: (Đồng Phẩm định hữu tánh) “Đồng
Phẩm” là chỉ cho Đồng Phẩm Dụ. Đồng Phẩm
Dụ (gọi đơn giản là Đồng Dụ) là cùng Tông, những sự việc của Dụ
đồng tánh chất với pháp. Thí dụ như: Lập Tông nói: “Âm Thanh là vô
thường”, Nhân: “phàm dochỗ tạo tánh, nhất định thuộc vô thường”. Dụ:
“như cái bình”. Cái bình đây tức là
“Đồng Phẩm Dụ”, nhân vì cái bình cùng âm thanh là đồng nhau chỗ tạo
tánh, đồng nhau là vô thường.“Định hữu tánh”là nhất định có
tánh, nghĩa là nhất định trong “Nhân” có “chỗ tạo tánh” cũng là vô
thường. Nói chung lại, Nhân của chỗ đề cử phải là ở trong Đồng Phẩm
Dụ nhất định có tánh của “Nhân” này, như thế mới có thể trở thành
là “Nhân” (để tạo lý do cho “Tông”).
“Dị Phẩm tánh không phải phổ
biến”: (Dị Phẩm biến vô
tánh) “Dị
Phẩm” là dị phẩm dụ (gọi đơn giản là Dị
Dụ). “Biến vô tánh” là không có tánh phổ biến, nghĩa là hoàn toàn
không có tánh của “Nhân” đây. Thí dụ như: dùng “Chỗ tạo tánh” làm
Nhân; Dị Dụ: “Như khư không”, mà hư không đều không phải chỗ tạo
tánh, cho nên trong hư không của Dị Phẩm Dụ đây phổ biến không có
chỗ tạo tánh của chi “Nhân”, như thế chi “Nhân” đây mới có thể
thành lập. Phủ định thì “Đồng Phẩm
Dụ” có chỗ tạo tánh, “Dị Phẩm Dụ” cũng có chỗ tạo tánh thì chi
“Nhân” đây lại không thể chia cách kia đây, do đó lại không thể
xác định chỗ “Nhân” đề cử và xét đến cùng là chi nhân đâylại bị giữ
lấy sự bác bẻ bất cứ phương diện nào, biến thành lập trường không
thanh tịnh.Nói đơn giản, chi “Nhân”
không thể trình diện hiện ra và cũng có thể giữ lấy thành phần
phản đối của luận: cùng luận phản đối phân định giới hạn, thành trì
phân minh, mảy may không mơ hồ.
Nghĩa Thông Suốt:
Chi
“Nhân”phải “có ba tướng” (ba thứ tánh chất phù hợp với ba điều
kiện), thì mới có thể thành lập chi Nhân.“Những gì là ba? Nghĩa là” thứ nhất là phải “Phổ Biến” và
“là Tông Thể” và phải có “Tánh” của “Pháp”(tức là trong Tông Thể và Hữu Pháp đều có tánh
của nhân đây); thứ hai, nơi trong Dụ “Đồng
Phẩm” “Tánh” của Nhân đây phải nhất “Định có”; thứ ba, nhưng mà nơi trong Dụ “Dị Phẩm” thì nhất định “Không
phải phổ biến” coù “Tánh” của
Nhân đây.
Giải Thích Luận:
Tạo làm chi “Nhân” tất nhiên phải chuẩn bị đầy đủ ba thứ
tánh chất; trên phương diện biểu hiện, xem thấy chỉ là tánh chất của
chi Nhân, mà kỳ thật ba điều kiện đây khi dùng đến đều quan hệ hạn
chế của chi Nhân, của Tông Thể, của Hữu Pháp và của “Dụ”;xuyên qua ba điều kiện đây, “Nhân”
của chỗ đề cử liền có thể khiến không bị đơn độc, không lý do tồn
tại cá biệt, mà lại cùng trên dưới của hai chi Tông và Dụ, vòng
vòng trói buộc nhau, liên quan mạch lạc, làm thành một thứ Thể hoàn
toàn nghiêm chỉnh và thận trọng,do đây chi “Nhân” không phải là một
người lính cô đơn độc lập chiến đấu anh dũng, mà là “Tông Nhân Dụ”
cả ba nhất trí hướng ngoại “tổng thể chiến đấu”, để đạt được bác
bẻ đả kích mục đích của luận kia. Lại nữa, trong điều kiện thứ
ba, “Dị Phẩm khắp tánh không” lại
khiến “Nhân” của bên mình không bị sa vàogiúp cho luận kia.
Luận:
Tại
sao gọi là Đồng Phẩm, Dị Phẩm? Nghĩa là chỗ lập pháp phẩm loại và
ý nghĩađều chỉnh tề bình đẳng, gọi là Đồng Phẩm, như thiết lập “Vô
Thường” thì cái bình cũng vô thường, gọi là Đồng Phẩm. Dị Phẩm đây,
nghĩa là nơi thị xứ (là chỗ dị dụ) chỗ thiết lập thì không có nó,
nếu như có là thường, thấy không phải chỗ tạo tác, như hư
không..v..v......
Chú
Thích:
“Nghĩa là chỗ lập pháp phẩm loại và
ý nghĩa đều chỉnh tề bình đẳng”:“Pháp”đây
là chỉ cho Tông và Hữu Pháp. “Ý nghĩa đều chỉnh tề bình đẳng”là ý
nghĩa đều chỉnh tề bình đẳng. “Phẩm”là phẩm loại. Nghĩa là Đồng Phẩm
Dụ là chỉ cho dụ này cùng với chỗ lập Tông và Hữu Pháp đều có ý
nghĩa chỉnh tề bình đẳng, cũng tức là: tánh chất đều giống nhau.
“Như thiết lập vô thường”: nghĩa là như thiết lập vô thường làm
Tông.
“Cái
bình..v..v..... vô thường”: đề
cử thí dụ để nói: “Như cái bình vô thường”, hoặc “Như âm thanh vô
thường” thì “Dụ cái bình” đây là trình bày nơi “Tông Vô Thường”, chính
là Đồng Phẩm Dụ.
“Dị
Phẩm đây, nghĩa là nơi thị xứ (là
chỗ Dị Dụ),chỗ thiết lập thì không
có nó”: “Thị Xứ” là chỗ Dị Dụ. “Chỗ thiếp lập thì không có nó”,
“Chỗ thiết lập” là chỉ cho chỗ
thiết lập Tông. Tánh của chỗ thiết lập “Tông” thì không có nó. Nói
chung lại, nếu trong chỗ đề cử của
“Dụ” đều không có thật tánh của chỗ lập “Tông”, cũng tức là tánh
của “Dụ” cùng tánh của “Tông” thì không giống nhau.
“Nếu có là thường, thấy không phải
chỗ tạo tác, như hư không..v..v...”: chữ “Hữu” là có pháp. Thí dụ như có người đề cử Dụ nói
rằng: “Nếu có pháp là thường”; nguyên nhân “mọi người đều thấy nó
không phải là chỗ tạo tác”; đề cử thí dụ nói rằng: “Như Hư Không”.
Dụ Hư Không đây tức là “Dị Dụ”,
nhân vì Hư Không không phải là chỗ
tạo tác, vì nó là thường, cho nên nơi trong Dụ này không có tánh vô
thường của tông thể. Vì thế dùng
vô thường làm tông, thì đề cử hư không làm “Dị Phẩm Dụ” có thể
thành lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Sao gọi Dụ là Đồng Phẩm” và “Dị
Phẩm”?“Nghĩa là”cùngTông “chỗ
lập”và chỗ có “Pháp”nơi“ý nghĩa” và “phẩm” loại đều “chỉnh”
tề bình “đẳng”,tức là “gọi tên” là “Đồng Phẩm” Dụ.“Như
thiết lập vô thường”làm tông, mà đề cử như “cái bình” hoặc
“loại” âm thanh là “vô thường, là
tên” làm “Đồng Phẩm” Dụ
(Dụ đồng chất). Mà “Dị Phẩm”
Dụ “đây, nghĩa là chính nơi chỗ”
Dị Dụ đều không có tánh vô thường
nơi chỗ nó lập Tông,thí dụ như đề cử Dụ nói rằng, “nếu có” pháp “là tánh thường”, theo mọi người đều “thấy” nó “không phải”
là tánh “chỗ tạo tác”,dụ “như loại hư không”, hư không đây
thì được thành là Dị Dụ.
Giải
Thích Luận:
“Trong đây”: trong chỗ lập “Tông” đây, chỉ lập “Âm
thanh là vô thường”
làm Tông.
“Chỗ
tạo tánh”: hoặc lập “chỗ
tạo tánh” làm Nhân. Như lập lượng (lập
luận) nói rằng: “Âm thành là vô thường”
làm (Tông); “vì chọn nó làm chỗ tạo tánh” (Nhân).
“Chỗ chuyên
cần dũng mãnh không gián đoạn phát sanh tánh”: hoặc dùng
“chỗ chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn phát sanh tánh” làm Nhân
của Tông vô thường đây. Như lập lượng (lập luận) nói rằng: “Âmthanh
là vô thường” (Tông); “do vì nó là chỗ phát tánh chuyên cần dũngmãnh
khônggián đoạn” (Nhân).
“Phổ
biến là tông pháp”: “Biến”
là phổ biến. “Là” là đây. “Tông Pháp” là Tông Thể và Hữu Pháp
(pháp có thật). Nghĩa là nếu dùng “Âm Thành là vô thường” làm
Tông, và nếu dùng “Là chỗ tạo tánh” hoặc “dùng nó làm chỗ chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn” làm Nhân, thì hai Nhân đây nơi “Âm Thanh”
(Hữu Pháp) của “Tông Y” (chỗ nương tựa của Tông), cùng “Vô Thường”
của “Tông Thể” (bản thể của Tông) tánh của chúng nó đều có thể
phổ biến; cũng tức là “âm thanh” và “vô thường” đều có “là chỗ
tạo tánh” và “chỗ chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn phát sanh
tánh”. Nói rõ hơn, tức là “âm
thanh” có chỗ tạo tánh” và “vô thường cũng có chỗ tạo tánh; “âm
thanh” là chỗ chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn phát sanh tánh,
“vô thường” cũng là chỗ chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn phát
sanh tánh. Do đó, “chỗ tạo tánh đây” và “chỗ chuyên cần dũng mãnh
không gián đoạn phát sanh tánh” cả hai nhất trí đều cùng tánh của
“Tông Thể” và “hữu pháp”, cho nên có thể thành lập làm Nhân của
Tông này.
“Nơi Đồng Phẩm nhất định có tánh”: nơi trong “Đồng Phẩm Dụ” nhất định có tánh
của “Nhân” này. Cũng tức là “Nhân”
này phải nhất trí cùng tánh của “Đồng Phẩm Dụ”, cho nên chi đây có
thể giữ gìn luận điểm của ông.
“Dị Phẩm không tánh phổ biến”: nhưng mà nơi trong “Dị Phẩm Dụ” lại không
được có tánh của “Nhân” này. Cũng tức là “Nhân” này lại không được cùng tánh giống nhau của “Dị Phẩm
Dụ”, nếu không thì “Nhân” đây liền phản lại trở thành tánh chất
đối địch của luận, nguyên nhân luận giả tự mình làm rối loạn phần
dưới, chủ ý đích thân trình bày do lập trường có vấn đề, lưỡng lự
chính là nơi kẽ hở phản lại của luận. Vì thế cho nên “Nhân” không
thể thành tựu.
“Bao gồm là nhân vô thường”: “Vô Thường” là chỉ cho tông thể. “Bao gồm”
là bao gồm nhiếp lấy tất cả “Tông Y”, “Đồng Dụ” cùng “Dị Dụ”. Nghĩa
là nếu “Nhân” của chỗ đề cử nhất
định xác thật thì:
1,“Có
thể phổ biến đến Tông Thể và Hữu Pháp đây”
2, “Nơi Đồng Phảm Dụ quyết định có
tánh của Nhân đây”
3, “Nơi Dị Phẩm Dụ thì dĩ nhiên quyết
định không có tánh phổ biến của
Nhân đây”
Ba điều kiện đây nếu có thể đầy
đủ thì “Nhân” của chỗ đề cử liền có thể thành lập làm Tông của
“Vô Thừng” và chi “Nhân” và chi “Nhân” của Đồng Dụ, của Dị Dụ.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Đây” “trong” Tông chỗ thiết lập, giả sử nếu dùng làm
nhân “chỗ tạo tánh”, “hoặc”nó dùng làm nhân “chỗ chuyên cần dũnh mãnh không gián
đoạn phát sanh tánh” thì lý do đó đều có thể đầy đủ cho chi Nhân,
nơi chỗ nhất định ba thứ điều kiện phải hoàn tất: (1) có thể “phổ biến” và “là”“Tông” Thể của vô thường và gồm có “pháp”trong đó; (2) “Nơi trong Đồng Phẩm” Dụ quyết “định có tánh” của Nhân này (Nhân
này cùng Đồng Phẩm Dụ có tánh đồng chất Homogeneity); (3) Nhưng mà
nơi trong “Dị Phẩm” Dụ“Tánh” của Nhân đây lại “không phổ biến” “là” cố tình hai
lý do đây đều được làm Tông “Vô
Thường” và làm chi “Nhân”
của cácĐồng Dụ và Dị Dụ.
Giải
Thích Luận:
Hai
thứ Nhân của vô thường đây, “chỗ tạo tánh” là đối với “Minh Luận”
của ngoại đạo mà nói; còn “chỗ chuyên cần dũnh mãnh không gián
đoạn phát sanh tánh” là đối với “Thanh Hiển Luận” của ngoại đạo mà
nói. “Minh Luận” tức là Phệ
Đà Luận, cũng tức là Luận Tứ Minh của Bà La Môn. “Thanh Hiển Luận” tức là học phái Di Mạn Sai, một học
phái Khảo Cứu Phệ Đà Điển của Ấn Độ. “Âm Thanh” của Phệ Đà chủ trương là tuyệt đối thường trụ, là
làm đại biểu chánh thống của tư tưởng Bà La Môn.Nhân đây “chỗ tạo tánh”tức là để đả phá
bài xích “Âm thanh không phải chỗ
tạo tác” của Phệ Đà Luận; còn “chỗ
chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn phát sanh tánh”là để đả
phá bài xích “Âm thanh là thường
còn” của Thanh Hiển Luận.
C)- Chi Dụ.
Luận:
Dụ có
hai thứ: một là Đồng Pháp(Dụ), hai là Dị Pháp(Dụ).Đồng Pháp (Dụ) đây,
nếu là ở chỗ hiển (bày) Nhân(của) Đồng
Phẩm (Dụ)thì quyết định (phải)có
tánh(của Dụ này), nghĩa
là: “nếu có chỗ tạo tác, thấy nó vô thường, thí dụ như cái
bình..v..v.....” Dị Pháp (Dụ)đây, nếu là nơi chỗ(Dụ
đây, có thể)nói (trong Tông Pháp của) chỗ (thiết) lập (thì quyết
định) không (có tánh của Dụnày), (Chi) Nhân (của chỗ đề cử)phổ
biến(hoàn toàn) không có(tánh của Dụ này), nghĩa
là: “Nếu là thường; thấy không có chỗ tạo tác, như hư không
..v..v......” Trong đây nói “Thường”thì biểu hiện(hư
không)“không phải vô thường”; nói “không phải
chỗ tạo tác” là biểu hiện(hư không)“không chỗ tạo tác”; như có (một
thứ tư tưởng)không phải (tồn tại ngoài cái)“có”,
gọi là “không phải có”(lại thiết lập)“không phải có”(để
đối lập cùng nó).
Chú
Thích:
“Dụ”: làDụ của “Nhân Minh Học”, không chỉ là tỷ
dụ hoặc thí dụ, mà là nghĩa “Dẫn
Dụ” hoặc “Sự Dụ”. Bao gồm
có “dẫn sự thật để chứng minh”
hoặc ý“đề cử thí dụ sự thật để
chứng minh”. Như trước đã nói: trong ba chi, “Tông” là ý nghĩa chủ yếu hoặc tiền đề, là cơ bản của luận;
“Nhân” chọn lý để chứng minh, “Dụ” là chọn sự thật để chứng minh.
Lý và sự đều hoà hợp, cho nên
“Tông” có thể thành lập.
“Đồng Dụ”: tức là pháp thí dụ
giống nhau với Tông.
“Dị Pháp”: tức là pháp thí dụ khác
nhau với Tôngï.
“Nếu là chỗ hiển bày nhân đồng
phẩm thì quyết định có tánh”:
“là chỗ”, tức là chỗ của “Dụ”đây, cũng tức là trong Dụ
đây. “Hiển”là hiển bày. “Nhân Đồng Phẩm”là đồng phẩm của
Nhân, cũng tức là trong Nhân của
loại Đồng Phẩm.“Quyết định”là xác định. “Có tánh”làcó tánh của Dụ này. Nghĩa là nếu như “sự dụ”
đây có thể hiển bày ra nơi trong “Chi Nhân” là xác định cũng có tánh
chất tương đồng, cũng tức là “Dụ” đây cùng “Nhân” có tánh chất
giống nhau (Congeniality), cũng chính là nói tánh của “Chi Dụ” đây cùng tánh của “Chi Nhân”
có giao tiếp nhau.
“Nghĩa là nếu chỗ tạo tác, thấy kia
vô thường, thí dụ như cái bình..v..v.....”:“Nghĩa là” nêu thí dụ để nói. Dưới đây là
“lập lượng” (lập luận) của luận giả. Lập Tông nói rằng: “Nếu chỗ
tạo tác” (nếu pháp nọ là chỗ tạo tác, cũng tức là “Hữu pháp” nọ do tạo tác mà được thành.)
Đề cử Nhân nói rằng: “thấy kia vô thường” (thì chúng ta đều hiện thấy pháp kia là vô thường.)Đề cử
Dụ nói rằng: “thí dụ như cái bình..v..v....” Ở trong “dụ cái bình”
đây, bản thân“Cái Bình” là vô
thường, mà “Chi Nhân” cũng là vô thường, cho nên “Chi Dụ” đây cùng
“Chi Nhân” xác định là có tánh chất giống nhau, cho nên “Dụ” đây là
“Đồng Pháp Dụ” được dùng thành lập. “Dị Pháp đây”: tức là Dị Pháp
Dụ.
“Nếu
là nơi chỗ nói không có chỗ lập”: “nơi chỗ” là trong Dụ này. “Chỗ lập” là Tông của chỗ
thiết lập. “không” là không có tánh của Dụ này. Cũng tức là nơi
trong “Chi Tông” không có tánh của “Dụ” này, cũng tức là “Tông” cùng “Dụ” không giống nhau
tánh chất.
“Nhân phổ biến không phải có”:“Nhân” là chi nhân. “Phổ Biến” là hoàn
toàn. “không phải có tánh của Dụ nầy”, nghĩa là nơi trong chi Nhân
hoàn toàn không có tánh của “Dụ” này. Cũng tức là “Dụ” này cùng “Chi Nhân” cũng là không
giống nhau tánh chất. Nói hợp lại ở trên: nếu “Dụ” của chỗ đề cử không chỉ cùng “Chi Tông” không giống
nhau tánh chất, mà lại cùng “Chi Nhân” cũng không giống nhau tánh
chất.Kết luận (kết luận đây, nơi trong văn luận hoàn toàn tỉnh
lược): thì “Dụ” đây có thể trở
thành làm “Dị Pháp Dụ” của lập luận này. Dị Pháp Dụ, tức là “Phản
Dụ”, là phương hướng tương phản đến tánh chính xác của ủng hộ lập
luận.
“Nghĩa
là nếu là thường; thấy không phải chỗ tạo tác, như loại hư không”: Nghĩa lànếu có pháp nọ là thường,do chúng ta đều thấy vì nó không phải
chỗ tạo tác, cho nên nó là thường. Thí dụ như loại hư không.Nhân hư không là “Thường”, cho nên
cùng “Tông vô thường” của chỗ thiết lập, quyến định tánh chất không
phải giống nhau. Lại nữa hư không là “không phải chỗ lập tánh”, cho
nên cùng với chỗ đề cử Nhân của “chỗ tạo tánh” quyết định tánh
chất không giống nhau. Nhân đây,
Dụ của hư không có thể là “Dị Pháp Dụ” của Tông Vô Thường.
“Trong đây thường nói”:“Trong đây” là phía bên trong cái này.
“Nói” là lời nói. Nghĩa là: trong câu nói này, “Thường” là ngôn từ
đây. Lại nữa, “Thường nói” tức là: ngôn từ của thường.
“Biểu
hiện không phải vô thường”:“Biểu”
là hiện bày, bày tỏ.Hợp lại ở trên nói rằng: trong đây chỗ nói chữ “Thường”, ngôn từ này đã biểu hiện
hoàn toàn “không phải là vô thường”, không phải là đòi hỏi phải
lập một “Tông Thường”, nhưng vì theo chân lúc đầunên lập đối lập
“Tông Vô Thường”
“Nói không phải chỗ tạo tác, tiêu
biểu không chỗ tạo tác”:Giống
nhau, trong đây chỗ nói ngôn từ “không
phải chỗ tạo tác”cũng chỉ là dùng đến biểu thị hư không “không
chỗ tạo tác” đấy thôi, mà không phải là để thành lập “không chỗ
tạo tác” làm nhân, lại theo chân lúc đầu nên lập nhân tướng đối
lập “chỗ tạo tánh”.
“Như có không phải có, gọi là
không phải có”: Thí dụ như
“Có”, quyến định không là có cái “không phải là có”, Nhân đây mới
gọi nó là “không phải có”. Nói ngược lại, chỉ có thật“có” là có
(chỉ có thật“có” là tồn tại), cho nên khi nói “không phải có” là
chỉ tỏ bày “có cái không có”, đều
không phải ở ngoài của “có”, liền lập một thứ “không phải có”,
lại cùng đối kháng với cái thật “có” tồn tại đây. Nhân vì “không phải có” đều không
tồn tại! (không có một pháp tồn tại, gọi là “không phải có”)
----- “không phải có” không thể thành lập, chỉ có thể dùng để biểu
thị: “không là có”, như thế mà thôi. Nếu mô phỏng pháp cú của kinh
Kim Cang, liền có thể nói: “không có” một pháp, gọi là “không phải
có”.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Dụ
có hai thứ: một là Dụ “Đồng Pháp” “hai là Dụ Dị Pháp”.Chỗ gọi Dụ “Đồng Pháp” đây, tức là: “nếu
nơi Dụ”là chỗ hiển bày ra nơi trong “Đồng Phẩm” của “Nhân”
(nơi trong Nhân của loại Đồng Phẩm),“Quyết
định có Tánh” của Dụ này (Dụ này cùng với chi Nhân có tánh
chất giống nhau),liền xưng Dụ này Đồng Pháp Dụ. Như “nghĩa là: nếu”
nó có pháp là “chỗ tạo tác” (Tông), do mọi người đang “thấy pháp
kia” là “vô thường”(Nhân). (Dụ nói rằng: “Thí dụ như cái bình” (cái
bình là chỗ tạo tánh, lại là vô thường, cho nên “Dụ Bình” đây cùng
“Tông” và “Nhân” đều giống nhau tánh chất, cho nên được gọi là Đồng
Pháp Dụ.).
“Dị
Pháp” Dụ đây, tức là:“nếu là
nơi “chỗ” Dụ có thể “nói trong
Tông Pháp của chỗ thiết lập”quyết
định “không” có tánh của Dụ này (“Dụ” này cùng “Tông Chi” không
giống nhau tánh chất), mà còn nơi trong “Chi Nhân” của chỗ đề cử cũng “phổ biến không phải có”(cũng hoàn toàn không có) tánh
của Dụ này (“Dụ” này dĩ nhiên cũng hoàn toàncùng với “Chi Nhân”
không giống nhau tánh chất), thì Dụ này có thể thành lập là Dị Pháp
Dụ của chỗ lập lượng. Như “nghĩa
là: nếu” pháp đó “là thường”,
thì hiện “thấy” nó “không phải chỗ tạo tác”, thí dụ “như hư không vân vân”.
Là nói“Thường
trong đây” (“ngôn từ Thường” đây), chỉ là dùng để “biểu” thị ý nghĩ “không phải vô thường”, đồng thời
không phải đã lập vô thường làm Tông, lại nữa lập Tông Thường để
đối lập cùng Tông vô thường. Vả lại là nói “không phải chỗ tạo tác” (ngôn từ không phải chỗ tạo
tác đây), cũng chỉ là dùng đến “biểu
thị” lớp ý nghĩahư không là “không
chỗ tạo tác” mà thôi, đồng thờicũng không phải thiết lập chỗ
tạo tác làm Nhân, mà lại thiết lập cái không phải chỗ tạo tác để
đối lập lại cùng Nhân (phủ nhận tức là mâu thuẫn tự tướng). Thí
dụ “như có” một thứ tư tưởng
“không phải” là “có”, chúng ta “gọi” nó là “không phải có” (chúng ta nắm chặt cái đó xưng là “không
phải có”; đồng thời không phải là nơi ngoài của cái “có” lại thiết
lập “không phải có” không tồn tại để đối lập cùng nó).
D)- Lời Kết Luận.-
Trình Bày Hình Thức Ba Chi.
Luận:
“Đã nói Tông Nhân..v..v.... nói
nhiều như thế nhằm để khai ngộ cho người khác, gọi là “Năng Lập”.Như
nói: “Âm thanh vô thường” đây chính là thiết tập Tông; “Chỗ tạo
tánh” đây chính là nói “Tông Pháp”; “Nếu là chỗ tạo tác, thấy nó
vô thường, như cái bình vân vân” đây, là nói theo Đồng Phẩm; “Nếu nó
là thường, thấy không phải chỗ tạo tác, như hư không” đây, là nói
xa lìa. Chỉ ba phần đây gọi là “Năng Lập”.
Chú
Thích:
“Tông Nhân..v..v....”: tức là Tông, Nhân, Dụ.
“Như là nói nhiều”: “Nói nhiều” là nói nhiều thứ, cũng tức
là nói mọi thứ.
“Nói
tên Năng Lập”: gọi là ba
chi của Năng Lập.
“Là
nói Lập Tông”: là dùng đến
ngôn từ lập tông, cũng tức là khi
lập tông phải đặt để ngôn từ như thế; đây cũng tức là tiêu chuẩn ngôn từ và cách thức,
hoặc hình thức (formula) để lập
tông.
“Là nói Tông Pháp”:là tường thuật ngôn từ tiêu chuẩn của
“Nhân” “Tông Thể” cùng “Hữu Pháp”(pháp có thật); cũng tức là khi đề cử “Nhân” phải dùng hình thức
như thế, tạo nên lời nói như thế.
“Là nói theo Đồng Phẩm”: “Tùy” là thuận theo, tuân theo. “Đồng
Phẩm” tức là Đồng Phẩm Dụ. Có nghĩa đây chính là thuận theo ngôn từ
của “Đồng Phẩm Dụ”; cũng tức là khi
đề xuất “Đồng Phẩm Dụ” phải tuân theo phương thức và ngôn từ của
Đồng Phẩm Dụ mà đề xuất như thế.
“Nếu là nó thường”: “Nó” là lời nói trợ từ, không có nghĩa.
“Là
nói xa lìa”:“Xa lìa” là xa lìa
tánh của Tông và của Nhân, tức là chỉ cho “Dị” vậy, cũng tức là “Dị
Phẩm Dụ”. Nghĩa là khi đề cử ra “Dị
Phẩm Dụ” phải nương nơi hình thức này tạo lời nói giống như thế (như
là đặt để ngôn từ giống như Đồng Phẩm Dụ).
“Chỉ ba chi đây”:“Chỉ” là lời nói phát ra, không có nghĩa.
“Ba Phần”, tức là ba chi, chỉ cho Tông, Nhân, Dụ.
“Nói
tên Năng Lập”: gọi là ba
chi của Năng Lập. Nghĩa là nương nơi
quy củ ba chi của chỗ tạo tác đây liền có thể gọi là có thể khiến
ba chi của Bản Tông được thành lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
Ở trên “đã
nói” rõ “Tông, Nhân”,
Dụ..v..v..... “như là nói nhiều thứ
ngôn”từ, nếu có thể dùng nóđể“hai
ngộ cho người khác” liền gọi danh xưng ba chi đây là “Năng Lập”. Thí dụ như nói “Âm Thanh là vô thường” thì dùng
đến “ngôn từ của lập Tông”
(dùng hình thức như thế, tạo ngôn từ như thế mà lập Tông); mà nói “Âm Thanh là chỗ tạo tánh”, đó là
tường thuật ngôn từ Tông Thể cùng Hữu Pháp của Nhân (Muốn đề cử
Nhân nên dùng hình thức như thế, tạo lời nói như thế);“Nếu là chỗ tạo tác, thấy nó là vô
thường, giống như cái bình đây chính là tùy thuận theo ngôn từ của Đồng
Phẩm Dụ (khi đề cử Đồng Phẩm Dụ nên dùng phương thức này mà tạo
ngôn từ đặt để như thế); “Nếu nó
là thường,thấy không phải chỗ tạo tác, như hư không đây, tức là xa
lìa tánh của Tông và Nhân, biểu hiện ngôn từ củaDị Phẩm Dụ (khi
muốn đề cử Dị Phẩm Dụ, nên dùng hình thức này, tạo ngôn từ như
thế). Chỉ ba phần Tông Nhân Dụ chỗ lập đúng như pháp thì được gọi là“Năng” khiến ba chi
của Bản Tông được “thành lập”.
III.- BỘ MÔN TỢ NĂNG LẬP.-
1/- TỢ TÔNG.
Luận:
“Mặc dù (đã)muốn
thành lập, do vì (nơi Tông của họ) cùng
hiện lượng vân vân trái ngược nhau, gọi là Tợ Lập Tông; nghĩa là
trái ngược nhau với hiện lượng, trái ngược nhau với tỷ lượng, trái
ngược nhau với giáo pháp của mình, trái ngược nhau với thế gian, trái
ngược nhau với lời dạy của mình, năng phân biệt hoàn toànkhông thể
thành tựu(Tông Thể), sở
phân biệt hoàn toànkhông thể thành tựu(Tông Y),
cả hai (Tông Thể và Tông Y)hoàn toàn không thể thành tựu,(nguyên vì cả hai đã)hoàn toàn thành tựu phù hợp nhau.”
Chú
Thích:
“Mặc
dù muốn thành lập” chữ
“lạc” ở đây nghĩa là muốn. Nghĩa là luận giả khi ở nơi lập luận, tuy
nhiên cũng muốn (nơi tư tưởng) thành lập tông của ông.
“Do vì
trái ngược ngau (tương vi) cùng hiện lượng vân vân trái ngược nhau:“Do” là do nơi. “Hiện lượng đẳng”, cùng
hiện lượng vân vân tình hình cộng chung có 9 thứ trái ngược nhau.
“Tợ
lập Tông”: nghĩa là lập
tông tương tợ, chỉ có “hình thức” mà thôi, không phải năng lập chân
thật, nguyên vì chỗ lập luận của nó, không đầy đủ hình thức, nhưng
trong nó bao gồm có đủ mọi thứ sai trái, cho nên Tông của nó thiết lập
không được thành lập, gọi là “Lập tông tương tợ”.
“Trái
ngược nhau với hiện lượng” (hiện
lượng tương vi): “Hiện lượng”, là
cảnh giới chỗ hiểu biết của trí không phân biệt, gọi là hiện
lượng, cũng tức là thanh tịnh tột bực, lý và sự đều cao tột,
thông thường đây là chỉ cho cảnh giới chỗ chứng đắc của bậc thánh
trí. Nguyên vì người bậc thánh đã lìa khỏi phân biệt vọng tưởng, cho nên
người bậc thánh thường trụ nơi cảnh giới hiện lượng, lìa nơi vọng
tưởng;Tuy nhiên, phàm phu cũng có
cảnh giới hiện lượng, chỉ là thời gian hiện lượng của nó rất
ngắn, thông thường đều bị vọng tưởng phân biệt ngăn che, văn sau sẽ
giải thích rõ hơn. Tông của chỗ thiết lập, nếu trái với “hiện
lượng” này thì trái với chánh lý, cho nên không thể thành tựu. Có 9
thứ sai lầm khi lập Tông, trong văn luận dưới đây sẽ giải thích tinh
tế hơn, riêng ở đây chỉ giải thích giản lược đại ý của nó mà thôi.
“Trái
ngược nhau với tỷ lượng” (tỷ
lượng tương vi):“Tỷ lượng” là có
trí phân biệt, tuy nhiên phân biệt đây là “phân biệt chân
chánh”, mà không phải “phân biệt không chân chánh” hoặc “phân biện
vọng tưởng”; cho nên “tỷ lượng” là cảnh giới có phân biệt của chánh
trí. Thông thường đây là chỉ cho người chưa chứng thánh đạo, nương nơi
“lượng của thánh ngôn” hoặc “lượng của thánh giáo” mà tư duy, quán
sát, giải rõ, nhân đây sở dĩ đạt được là do tỷ lượng mà biết đến
cảnh giới chỗ hiểu biết của thánh trí, cho nên gọi là Tỷ Lượng Trí,
vì “tỷ lượng” đây nhờ nương nơi “Thánh ngôn lượng” và đây cũng là
cảnh giới của thánh trí.(Nếu là cảnh giới sai lầm của phân biệt
không chân chánh hoặc phân biệt vọng tưởng, được gọi là “Phi
Lượng”; Hiện lượng, tỷ lượng, phi
lượng hợp nhau lại gọi là “ba lượng” của Nhân Minh.)
“Trái
ngược nhau với lời dạy của mình”(tự
giáo tương vi): “Tự giáo” là chỉ luận giả tự mình vốn đề cử giáo
pháp tu hành. “Tông”của luận giả thiết lậpnếu trái ngược nhau với
giáo pháp tu hành của luận giả đề cử thì “Tông” này liền không thể
thành lập, nguyên vì như thế lại hoàn toàn mất đi lập trường và
cũng hoàn toàn mất đi căn bản của lập luận.
“Trái
ngược nhau với thế gian” (thế
gian tương vi): một điều trên “Cùng trái ngược nhau với lời dạy của
mình” có thể nói cũng là trái ngược nhau với pháp xuất thế; “Trái
ngược nhau với thế gian” đây cũng là trái ngược nhau với chân thật
của thế gian. Nhân vì “Chân thật của xuất thế” là căn cứ nơi mục
đích “chân thật của thế gian”, nếu không có “chân thật của thế gian”
thì “chân thật của xuất thế” cũng không có chỗ nương cậy, cũng
không thể thành tựu;cho nên ở nơi
“Tông” khi thiết lập không chỉ không thể trái với pháp thế gian và
xuất thế gian, cũng không thể trái với điều “chân thật của thế
gian” mà mọi người thế gian đều chấp nhận, nếu không thì lời nó của
chính mình và “tông” của chính mình cũng không được thành lập.
“Trái
ngược nhau với lời dạy của mình”:“Lời
dạy của mình” tức là pháp của mình thành lập. Pháp của mình thành
lập nếu tự mâu thuẩn với nhau thì “Tông của mình không thể thành
lập.
“Năng
phân biệt hoàn toànkhông thể thành tựu”: “Năng phân biệt” tức là chỉ cho Tông Thể.
“Bất Cực Thành” nghĩa là hoàn toàn không thể thành lập. Nếu “Tông
Thể” không thể thành lập, thì “Tông” của chỗ thành lập không được
thành lập.
“Sở
phân biệt hoàn toàn không thể thành tựu”: “Sở phân biệt” tức là chỉ cho Hữu Pháp
(pháp có thật), chỉ cho Tông Y. Nếu “Tông Y” không thể thành lập thì
“Tông” của nó không thể thành lập.
Cả hai
hoàn toàn không thể thành tựu”:“Cả
hai” nghĩa là chỉ cho Tông Thể và Tông Y; nếu “Tông Thể” và “Tông Y”
cả hai đều không thể thành lập, thì “Tông” của nó cũng không thể thành
lập.
“Hoàn
toàn thành tựu phù hợp nhau”:“Phù
hợp nhau”, nghĩa là so cùng chủ trương của kẻ địch thì chính phù hợp
nhau, cũng tức là cùng Tông của kẻ địch hoàn toàn không có khu biệt
nhau và nó lại giống nhau với “Không Tông”, cho nên mặc dù “lập
tông tương tợ” mà thật ra không có lập Tông, nguyên vì hoàn toàn
không có mở đầu biện luận, trước hết nó tự mình đã hoàn toàn
quăng xuống!
Nghĩa
Thông Suốt:
Luận
giả “mặc dù”đã“muốn thành lập, do vì” nơi Tông
của họ, chỉ “do vì” nơi “loại hiện lượng” có chín thứ “trái ngược nhau”,mà không có hình
thức của Tông, do đó không thể chân chánh để khiến Tông của họ
được thành lập, đây gọi là “lập
Tông tương tợ” cũng gọi là “Tợ
Lập Tông”. 9 thứ sai lầm đây là: 1, Sai lầm ở chỗ so với trí “hiện lượng” của cảnh giới chỗ hiểu
biết lại “trái ngược nhau”; 2,
Sai lầm ở chỗ so với trí “tỷ
lượng”của cảnh giới chỗ hiểu biết lại “trái ngược nhau”; 3, Sai lầm ở chỗ so với chỗ “giáo” pháp của chính bản thân
luận giả tu tập lại“trái ngược
nhau”; 4, Sai lầm ở chỗ so với chân thật của thế gian mà mọi
người thế gian đều công nhận lại “trái
ngược nhau”; 5, Sai lầm ở chỗ so với pháp của luận giả tự thiết
lập lại “trái ngược nhau với lời
mình nói” (tự mâu thuẫn nhau); 6, Sai lầm ở chỗ Tông Thể của“Năng Phân Biệt” hoàn toàn không
thành tựu (không thể thành lập); 7, Sai lầm ở chỗ Tông Y (Hữu Pháp)
của “Sở phân biệt” hoàn toàn không
thể thành tựu (không thể thành lập); 8, Sai lầm ở chỗ Tông Thể
cùng Hữu Pháp cả hai đây “hoàn
toàn không thể thành tựu” (đều không thể thành lập); 9, Sai lầm
ở chỗ so cùng Tông của kẻ địch lại“phù
hợp nhau” (nhất trí không sai biệt) với Tông của kẻ địch, nên bị
lỗiở chỗ vì đã “hoàn toàn được
thành tựu” (Tông của nó được kiến lập so với Tông của kẻ địch
hoàn toàn phù hợp nhau nên bị lỗi).
A)- Tợ Tông Có Chín Lỗi.
*- Tợ
Tông 1: Hiện Lượng Tương Vi.- (trái ngược nhau với hiện lượng).
Luận:
Trong đây trái ngược nhau với hiện
lượng, như nói: “Âm thanh không phải chỗ nghe”
Chú
Thích:
“Hiện
Lượng”: mặt trước đã trình
bày hiện lượng là chỗ hiểu biết của “Trí không phân biệt”, cảnh
giới của hiện lượng đây phổ biến nơi thánh và cũng phổ biến nơi
phàm, do chính nhĩ thức của phàm phu
ngay lập tức nghe tiếng, đồng thời không mang theo danh ngôn, cho nên
không vọng tưởng phân biệt, cũng tức là không có liên quan đến giá
trị phán đoán; chỗ hiểu biết của nhĩ thức chỉ là đương thể của âm
thanh (bản thân của âm thanh), như nghe đến tiếng trống, tiếng
đàn, tiếng người..v..v...... liền có thể hiểu biết đó là tiếng
trống, tiếng đàn hoặc tiếng người, đây là phân biệt sơ cấp (Primary Differentiation), chỉ hiểu biết bản thể của âm thanh
và năm thức trước cũng đều hiểu biết như thế.Cho nên nhĩ thức
ngay lúc đó đều không tiến thêm một bước để phân biệt. Đến như âm
thanh tiến thêm một bước để phân biệt thì âm thanh trở thành đáng
yêu hay không đáng yêu, trở thành tiếng ưa thích hay tiếng đau khổ,
tiếng vui mừng hay tiếng sát phạt, cho đến là tiếng thiêng liêng và
trong sạch hay tiếng dâm lạc..v..v....... đem chỗ nghe của âm thanh
cộng thêm phân loại, cùng một lúc giao cho giá trị phán đoán hoặc
đánh dấu, đây là phân biệt cấp hai (Secondary Differentiation), đó là
tác dụng của ý thức thứ sáu; cuối cùng lại nương nơi chỗ đánh dấu
đây hoặc giá trị phán đoán mà phát khởi yêu hay ghét, cho đến chọn
lấy hay quăng bỏ, nghinh đón hay chống cự, đây là phân biệt cấp ba
(Tertiary Differentiation) đó là thức thứ sáu nương nơi thức thứ bảy (trung
tâm chấp ngã) phát khởi tác dụng. Nhân đây, mọi thứ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, từng lớp chuyển biến sâu sắc. Nhưng vận
chuyển tác dụng phân biệt của các thức đây, từ hiện lượng của năm
thức trước phát khởi hiểu biết đương thể của năm trần cảnh, sau
cùng đến vọng tưởng, yêu ghét, chấp trước làm yếu chỉ, suốt cả quá
trình, chỉ ở trong khoảng sát na liền báo cáo hoàn thành; vì thế nên
biết, người phàm đều không phải
không có cảnh giới hiện lượng của “Trí không phân biệt”,mà là
nhân vì danh ngôn của phàm phu bị vọng tưởng phân biệt quá sâu quá
nặng, cho đến nhãn thức mỗi lần thấy sắc, nhĩ thức mỗi lần nghe tiếng, cảnh giới
hiện lượng mỗi lần xuất hiện sau đó không quay gót (cơ hồ trong một
khoảng sát na) liền do bởi nghiệp lựctức khắc phát khởi mọi thứ
danh ngôn, vọng tưởng phân biệt, vì thế cảnh giới hiện lượng đây
lập tức bị những thứ vọng tưởng, danh ngôn phân biệt tự tâm này
ngăn che, chuyển biến.
“Âm thanh không phải chỗ nghe”: Âm thanh của nhĩ thức nghe là cảnh giới
hiện lượng như trước đã trình bày; Nhĩ
thức chính ở bên cạnh của âm thanh, chỗ hiểu biết của nó là đương
thể của âm thanh, là không bị xen tạp danh ngôn phân biệt, cho nên
gọi là cảnh giới hiện lượng.Luận giả nếu thiết lập “âm thanh
là pháp có thật” mà lập Tông nói rằng: “Âm thanh không phải là
chỗ nghe của nhĩ thức” thì Tông này so cùng với đạo lý của “hiện
lượng” liền bị trái ngược nhau, cho nên không thể thành lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Trong
đây”chỗ nói “trái ngược nhau với hiện lượng, như”
có người lập Tông “nói: âm thanh
không phải chỗ nghe” của Nhĩ Thức thì Tông này liền so cùng với
đạo lý của hiện lượng đã trái ngược nhau, không thể thành lập.
*-Tợ
Tông 2: Tỷ Lượng Tương Vi : (trái ngược nhau với tỷ lượng)
Luận:
(Tông
của chỗ thiết lập so cùng)Tỷ Lượng(suy luận) Tương
Vi.- (trái ngược nhau với tỷ lượng)đây, như nói: “cái bình vân
vân là thường”(trụ).
Chú
Thích:
“Tỷ Lượng”: “Tỷ” là suy
lý; nghĩa là nương nơi “sự hiểu biết của mình” mà suy biết nơi điều
“chưa biết”, như thấy khói mà suy biết có lửa, thấy dấu bánh xe mà
suy biết có xe.Tỷ lượng đây so với pháp diễn dịch (deduction) của
học lý Tây Dương thì thuộc loại tương tợ nhau. Tỷ Lượng đây có nhiều
thứ như:
1, Tướng Tỷ Lượng, như thấy màn xe
suy biết có xe.
2, Thể Tỷ Lượng, do vật gì trước đã
biết hoặc đã thấy tự thể của nó, nay
“suy biết” thể chưa biết, chưa thấy của nó, như do hiện tại suy
biết vị
lai, do vị lai suy biết quá khứ..v..v......
3, Pháp Tỷ Lượng, do pháp gần nhau,
lệ thuộc nhau suy biết lẫn nhau, như
do vô thường suy biết là khổ, do khổ suy biết là không, hoặc
vô
ngã..v..v......
4, Nhân Quả Tỷ Lượng, do nhân quả
suy biết lẫn nhau, như do nhân mà suy
biết quả của nó, hoặc do quả mà suy biết được nhân..v..v......
“Cái bình
vân vân là thường”: nếu
dùng cái bình cho là “pháp có thật” (hữu pháp), mà lập Tông nói
rằng: “cáccái bình là thường”, liền có lỗi so cùng “Tỷ lượng trái
ngược nhau”. Nhân vì cái bình tuy nhiên là vật hiện thấy, nhưng vật
này lại không phải thường còn, mặc dù không thể phá hoại, cái bình này chung quy là vô thường,
đây chính là do chỗ “suy biết” của trí phân biệt, nhân vì chúng ta hiện
thấy cái bình kia chung quy đều vô thường, cho nên “suy biết” cái bình
đây cũng sẽ như cái bình kia rốt cuộc rồi cũng vô thường, đây gọi
là “Tỷ lượng khả tri” (suy luận có thể biết).Cho nên nếu lập Tông nói rằng “cái bình là thường”, tức là
trái với đạo lý của “Tỷ lượng”, vì thế Tông đây không thể thành
lập. “Cái bình vân vân” là bao quát cái bình và tất cả loại vật
tương tợ khác, như y phục, phòng ốc..v..v.......
Nghĩa
Thông Suốt:
Như
nói rằng Tông của chỗ thiết lập so cùng tỷ lượng trái ngược nhau, như lập Tông “nói: cái bình vân vân là thường” trụ mà không hư hoại,
đây tức là phạm lỗi so cùng chỗ hiểu biết tỷ lượng trái ngược
nhau.
*-Tợ
Tông 3:Tự Giáo Tương Vi (trái ngược nhau với giáo pháp của mình).
Luận:
(Tông
của họ thiết lập) trái ngược nhau với giáo pháp của họ (tự
giáo tương vi)ï, như Thắng Luận Sư lập luận “Âm thanh là
thường”
Chú
Thích:
“Thắng Luận Sư”: Thắng Luận Sư là ngoại đạo của cổ Ấn Độ,
họ thành lập “Sáu Cú nghĩa”: 1-
Thật, 2 - Đức, 3 - Nghiệp, 4 – Đại Hữu, 5 – Đồng Dị, 6 – Hoà Hợp.
Trong nó, “Đức Cú” bao hàm có 24 thứ, đều là chỗ tạo tánh, thể của
nó là “vô thường”.
“Lập luận
âm thanh là thường”: Thắng
Luận Sư tập Tông nói rằng: “Âm thanh là thường” liền so cùng pháp
của bổn giáo họ thì trái ngược nhau, nhân đây “Tông” của họ không
thể thành lập ---- chỉ có họ từ nay về sau biện luận đều không còn
trở lại căn cứ nơi đạo lý của bổn giáo họ, vì nó không còn khả
năng nữa; trừ phi họ đã tuyên bố thoát ly bổn giáo thì mới có thể.
Bằng không vì lập trường của Thắng Luận Sư, không thể dùng “Tông”
chỗ thiết lập, vô tình hủy hoại luận lý giáo pháp của chính mình
(của Thắng Luận).
Nghĩa
Thông Suốt:
Như
nói Tông của chỗ thiết lập so cùng “giáo” pháp chỗ đề cử của “chính” bản thân luận giả lại “trái ngược nhau, như Thắng Luận Sư
lập” Tông nói rằng: “Âm thanh
là thường”, liền có lỗi so cùng giáo lý của chính họ trái ngược
nhau (Do Thắng Luận Sư nói “Âm thanh” là một trong 24 thứ “Đức”, đều
là chỗ tạo tánh, vả lại thể của nó không phải thường).
*- Tợ
Tông 4: Thế Gian Tương Vi (trái
ngược nhau với thế gian).
Luận:
(Tông
của chỗ thiết lập so cùng với)thế gian tương vi (trái
ngược nhau với thế gian)đây, như nói “Thỏ (mẹ)có
thai không phải (do)mặt trăng(mà)có (thai)”. Lại như nói rằng: “Người đảnh lễ đống xương(con người là)thanh tịnh, Vì thân phần (thân
thể) chúng sanh,(trong trắng cũng)như sò ốc”
Chú
Thích:
“Thế
gian tương vi”: “Thế gian” là
đạo lý của người thế gian chỗ cùng nhau hiểu biết, cùng nhau tin
tưởng, cùng nhau mong cầu. Đời nhà Đuờng, Nhân Minh Nhập Chánh Lý
Luận Sớ của pháp sư Văn Quỹ nói rằng:“Thế gian” có hai thứ, 1- Học
giả thế gian, 2- Không phải học giả thế gian”. Học giả thế gian là
do học mới biết, gọi là “học giả thế gian”, như kỹ nghệ của thế
gian rất nhiều, học vấn..v..v..... “Không phải học giả thế gian” là
không trải qua học tập, mà do nhiều người chung nhau mong cầu, như
những sự việc truyền thuyết, truyền văn, hoặc rất nhiều ước định
thành tục lệ của thế gian, đây gọi là “Không phải học giả thế
gian”
“Thỏ có thai không phải (do)mặt
trăng có”:“Thỏ có thai”, nghĩa là thỏ mẹ có thai thỏ con. Rõ
ràng như, Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Giải của Pháp sư Chân Giới
nói rằng: “Người thế tục đều nói nhân vì có mặt trăng nên thỏ mới
có thai”, ý của họ là: thời xưa ở
Ấn Độ người dân thế tục tương truyền rằng, sở dĩ thỏ mẹ có thai
thỏ con là do mặt trăng đem đến; vấn đề đây là do họ tương truyền
trong mặt trăng có con thỏ, nhân vì nguyên lai của thỏ con là mặt
trăng. Chính như trong quê hương chúng ta cũng có tương truyền giống
nhau như,Hằng Nga trốn trong cung
trăng, Ngô Cương đốn cây quế..v..v......, những tương truyền này
đều là “không phải học giả thế
gian”.Nếu có người lập luận rằng: “Thỏ mẹ mang thai thỏ con” là
không phải do mặt trăng mà có thai”, như vậy lại càng trái ngược
nhau so với niềm tin thế gian “không phải học giả thế gian”. Nhưng mà
chỗ lập ngôn của học giả không phải cố ý chống nhau với người thế
gian (Đây là học giả Ấn Độ và truyền thống của người tu hành).
“Người
đảnh lễ đống xương thanh tịnh, vì thân phần(thân thể)
chúng sanh, như sò ốc”: Pháp sư Chân Giới nói rằng: “Học giả Nhị
Thừa khi tu Bất Tịnh Quán, quán thân chúng sanh không phải bất tịnh. Ngày nay người đảnh lễ đống xương
thanh tịnh, tức là so cùng học giả thế gian trái ngược nhau”.
“Chúng sanh phần” tức là thân phần (thân thể) chúng sanh.
“Cũng
như Sò ốc”: “Sò ốc” là ý
lấy phần trong sạch của nó. Đại sư Ngẫu Ích nói rằng: “Nên biết
Nhân của thân phần chúng sinh, so (cùng) Dụ của cũng như sò ốcđều
có thể thành lập Tông bất tịnh, mà không thể thành lập Tông thanh
tịnh”. Ý tứ đây là: “Do vì đảnh lễ đống xương thân phần (một bộ
phận của thân thể) của chúng sanh là Nhân”, và “trong trắng cũng như
sò ốc là Dụ”, Nhân đây so cùng
Dụ, chỉ có thể dùng đến Tông “giữ lấy bất tịnh”, nhưng không thể
dùng đến Tông “giữ lấy thanh tịnh” nơi “người đảnh lễ đống xương thanh
tịnh” của luận giả.
Nghĩa
Thông Suốt:
Như nói Tông của chỗ thiết lập so cùng
với “thế gian trái ngược nhau, như”
có người lập luận “nói rằng:” thỏ mẹ “mang thai thỏ con” do mong nhớ
“mặt trăng” mà “có thai”. Lại nữa như lập luận nói rằng: “đảnh lễ đống xương của con người”
là “thanh tịnh”, đây thuộc về “Tông”, do vì nó cho thân phần của
chúng sanh là thuộc về “Nhân”, bạch
tịnh (trong trắng)“cũng như sò ốc”
là thuộc về “Dụ”, lập luận
đây là hoàn toàn phạm lỗi trái ngược nhau so cùng thế gian.
*- Tợ
Tông 5: Tự Ngữ Tương Vi (Trái
Ngược Nhau Lời Mình Nói).
Luận:
(Tông
của chỗ thiết lập) trái ngược nhau với lời mình nói, như nói:
“Mẹ ta là Thạch Nữ”(Nữ căn của Thạch Nữ bị lấp kín không
thể sanh con).
Chú
Thích:
“Thạch Nữ”:Hành Sự Sao Tư Trì Ký một trong quyển 2 nói
nằng: “Thạch Nữ đây, căn của nó
không thông dâm”. Kinh Đại Niết Bànquyển 25 nói rằng: “Dụ như
Thạch Nữ, vốn không có tướng con”, có
thể biết nữ căn của Thạch Nữ bị
lấp kín, không thể hành dâm, cũng nhân đây không có khả năng
sanh con. Người sanh thân ta mới có thể gọi là “Mẹ Ta”, đã nói
là “Mẹ Ta” lại gọi bà là “Thạch Nữ”, thế là tự mâu thuẫn nhau.
Nghĩa
Thông Suốt:
Như nói Tông của chỗ thiết lập có lỗi “trái ngược nhau lời mình nói”, như
lập luận rằng: người sanh ta là mẹ ta, vì bà là “Thạch Nữ” (do bà tên là Thạch Nữ), đây lại là hoàn
toàn phạm lỗi trái ngược nhau lời mình nói.
*- Tợ
Tông 6: Năng Phân Biệt Bất Cực Thành.
(Tông
Thể của Năng phân biệt hoàn toàn
không thể
thành lập)
Luận:
(Tông của chỗ thiết lập có
lỗi nơi Tông Thể)Năng Phân Biệt Bất Cực Thành đây, như đệ
tử Phật đối với sư Số Luận mà lập luận rằng: “Âm thanh bị hoại
diệt”(nguyên vì đối phương không chấp nhận).
Chú
Thích:
“Năng Phân Phiệt”: tức là Tông Thể.
“Bất
Cực Thành”: nghĩa là hoàn
toàn không thể thành lập, nguyên vì chỗ
đối phương không chấp nhận.
“Âm
thanh bị hoại diệt”:Âm thanh
là pháp của hoại diệt. Hai chữ “hoại diệt” tức là “Tông Thể” của
năng phân biệt. “Âm Thanh” là Hữu Pháp (là pháp có thật). Nhưng âm
thanh xưa nay chính là pháp của sát na hoại diệt, nhưng sư Thắng Luận thì chấp âm thanh là thường, cho nên họ
tuyệt đối không thừa nhận “Âm thanh là hoại diệt”. Nhân đây nếu
đối với các sư Số Luận tiết lập Tông “Âm thanh là hoại diệt” thì
nhất định thật hành không được thông suốt, đây gọi là “bất cực thành”(hoàn toàn không thành), nguyên vì
họ tuyệt đối không thể tiếp nhận thứ pháp này. Vì sao không thể tiếp nhận? Lý do họ nếu tiếp nhận sự thành
lập Tông này của ông thì căn bản không thể dùng để biện luận vàhọ
đã phải hoàn toàn luân phiên chịu đựng: vì Tông của họ đã bị phủ
định. Sở dĩ cần biện luận, hai bên đều phải có thể dùng điều kiện
để từ nay về sau vẫn được tiến hành tiếp nhận, vẫn mới cóthể thảo
luận được.Kế đến, Nơi Thành Duy Thức Luận, nếu muốn phá các sư
Số Luận chấp “âm thanh là thật” thì phải lập Tông rằng: “Âm thanh
là hữu pháp, quyết định không thật”.
Đề cử Nhân nói rằng: “(vì do nó làm) ba sự việc hợp thành”.
Đề cử Đồng Dụ nói rằng: “Như đám rừng quan lính vân vân”. Trong đây
chỗ nói “ba sự việc” là các sư Số Luận chấp “Tát Thùy, Thích Xà,
Tháp Ma) và họ dùng ba thứ đây làm năng thành để thành tựu 23 pháp
(là sở thành của họ), “Âm thanh” chính là một pháp trong 23 pháp
đây.
Nghĩa
Thông Suốt:
Như nói Tông của chỗ thiết lập có lỗi nơi
Tông Thể của“Năng Phân Biệt hoàn
toànkhôngthành”, thí dụ “như đệ
tử Phật đới với các sư Số Luận lại lập” Tông nói rằng: “Âm thanh” là pháp “hoại diệt”, tức là hoàn toàn
phạm lỗi năng phân biệt không cực thành; nguyên vì đối phương tuyệt
đối không chấp nhận thành lập Tông Thể như thế.
Giải
Thích Luận:
Từ
trong thí dụ thứ tư “Trái ngược nhau
với thế gian” đến thứ sáu (Năng phân biệt không cực thành) đây,
có thể thấy nơi trong Nhân Minh, nếu cần lập luận, không thể chỉ tự
mình ông, hoặc người của bản Tông ông lại có thể tin nhận pháp của
ông, mà phải cần chú ý đến nhiều phương diện hứa khả; nhân đây khi
đề xuất luận điểm (mệnh đề):
1,
Phải khiến đối phương nhiều ít có thể chấp nhận.
2,
Không thể một khi bắt đầu khai sáng lại khiến đối phương không thể
tiếp
nhận, nếu phủ nhận thì lại hoàn toàn mất
cái gì ban đầu đàm luận.
Nếu
một khi bắt đầu khai sáng tuyệt đối đàm luận không thể tổng hợp thì
điều đó biện luận hoàn toàn không thể ra khỏi. Nhân đây, cần yếu
dùng Nhân Minh để thuyết phục đối phương, tất nhiên phải tuần tự
tiến dần, không thể tiến một cách hấp tấp vội vàng. Đây cũng là
phương tiện quá trình luận chứng tu dưỡng cùng chuyên môn của Nhân
Minh Luận. Nói đơn giản, mục đích biện chứng của Nhân Minh Luận chính
là hoàn toàn thuyết phục đối phương, phá trừ mê chấp của đối phương,
dùng luận lý cảm phục đối phương, khiến bỏ tà kiến, vào nơi chánh
kiến, không cần chọc giận, châm tức hoặc trách mắng, giáo huấn đối
phương, lại không cần cãi lộn mạ nhục đối phương, cho nên không thể
một khi mở lời lại không hoan hỷ ca ngợi, đấy chính là không thể
đạt thành công dụng lợi tha của “Nhân Minh”. Vì thế phải biết, “Nhân
Minh”chính là một khuôn pháp học vấn rất chu đáo lâu dài để thâu
nhiếp dẫn dắt chúng sanh vào đạo.
*- Tợ
Tông 7: Sở Phân Biệt BấtCực Thành.
(Đối
tượng phân biệt không thể thành lập)
Luận:
(Chỗ
lập Tông có lỗi )sở phân biệt(chỉ cho Hữu Pháp “Ngã” hoặc
Tông Y)bấtcực thành đây, như các sư Số Luận đối
với đệ tử Phật (lại)nói: “Ngã(Thần
Ngã, Linh Hồn)là tư duy”.
Chú
Thích:
“Sở
phân biệt” tức là chỉ cho
Hữu Pháp hoặc Tông Y. Ở đây tức là chữ “Ngã” của “Ngã là tư duy”
“Bấtcực
thành”: tức là không thể
thành lập, không chấp nhận. Nhân vì đệ tử Phật quyết không chấp
nhận thiết lập “Ngã” làm “Hữu Pháp”, nhân vì đệ tử Phật
đều tin biết lý của “vô ngã”, cho nên thiết lập “Ngã” làm hữu pháp
đối với đệ tử Phật mà nói là nhất định không thể chấp nhận.
“Ngã là tư duy”: “Ngã” đây là do ngoại đạo nói, đều là
chỉ cho Thần Ngã (Linh Hồn) mà nói. “Tư Duy” tức là suy nghĩ, chỗ tâm
tư duy. Đây là ngoại đạo Số Luận nói, cùng thời kỳ Khải Mông Pháp
Quốc tiếng nói Triết Học Gia Địch Ca Nhĩ (Descartes, 1596 – 1650) “Ngã tư
duy vì thế ngã hiện hữu” (Cogito ergo sum. I think; therefore I am.), cơ
hồ hoàn toàn nhất trí, đều chấp nhận cho là “có Ngã”. (Không biết tư
tưởng chủ yếu của Địch Ca Nhĩ đây hoàn toàn phủ nhận hay ảnh hưởng
hoặc “mở sáo” của các nhà Số Luận Ấn Độ?)
Nghĩa
Thông Suốt:
Như
nói Tông chỗ thiết lập có lỗi “Sở
phân biệt cuối cùng không thành đây, như các sư Số Luận đối với đệ
tử Phật lại lập luận nói rằng: Ngã là tư duy” thì lại hoàn toàn
phạm lỗi sở phân biệt cuối cùng không thành.
Chú
Thích:
Trong
thí dụ so sánh “năng phân biệt bất cực thành” (năng phân biệt hoàn
toàn không thành)của Thức thứ sáu và “sở phân biệt bất cực thành”
(sở phân biện hoàn toàn không thành) của Thức thứ bảy, có thể biết đó là vấn đề “đối
tượng”. Nhân đây khi biện luận đối địch lý luận về Ngã cả hai
bên cần phải “biết mình biết họ”, vả lại một khi mở đầu cần nghiêm
trọng ở chỗ hoàn toàn phạm phải điều “kiêng kỵ” của đối phương (Một
khi mở đầu phải an ủi họ điều trái ngược tổn thương);nhân đây dùng “Nhân Minh” thuyết phục hoặc cảm
hoá để dẫn dắt người họ, không thể chỉ có một mùi “tự bày tự nói”,
mà phải giải rõ đối tượng của họ, chỗ gọi là “đương cơ”, tín ngưỡng
của họ là gì, nơi tín ngưỡng của họ, trong đó có sở trường sở đoản,
nhờ đó mới có thể nắm bắt trọng điểm, tuần tự tiến dần, mỗi mỗi
công phá. Có thể biết, học tập Nhân Minh không chỉ cần hiểu rõ, ghi
kỹ càngmột công thức một cách thức của khuôn chết, mà còn phải
cần học để trở thành học vấn của một khuôn linh hoại, vả lại
phải “do người đặt ra công thức, do pháp đặt ra công thức” thì mới
có thể nói đã “thông đạt Nhân Minh”.
*- Tợ
Tông 8: Câu Bất Cực Thành.
(Cả hai
hoàn toàn không thể thành lập)
Luận:
Câu (cả hai Tông Thể “Năng Phân
Biệt” và Hữu Pháp “Sở Phân Biệtõ”)Bất Cực(hoàn
toàn không thể) Thành (lập)đây,
như các sư Thắng Luận đối với đệ tử Phật (lại)lập
luận rằng: “Ngã dùng (để)hoà hợp nhân duyên”
Chú
Thích:
“Câu bất cực thành”: “Câu” là chỉ cho Tông Thể cùng Hữu Pháp (pháp
có thật) cả hai đều “không thể thành lập”, không thể chấp nhận sự
lập luận này.
“Ngã
dùng (để) hoà hợp nhân duyên”: “Ngã” tức là chỉ cho chỗ phân biệt, chỗ
có pháp. “Hoà hợp nhân duyên” tức là chỉ cho Tông Thể, chỉ cho Năng
Phân Biệt. Ngoại đạo Thắng Luận chấp “Ngã” cho là thật và nói
rằng: do trong “Đức Cú” có 9 thứ
nhân duyên hòa hợp là “giác, lạc, khổ, dục, sân, cần, dũng,
hành, pháp phi pháp”,thường sanh
khởi “Trí Tướng”, mà gọi “Trí Tướng” đây là “Ngã”.Sau đó do “Ngã”
cùng “Hoà Hợp Cú” làm nhân duyên, liền có thể khiến “9 đức” cùng
“Ngã” hoà hợp mà tái phát khởi “Trí Tướng”, cho nên “Hoà Hợp Cú”
cùng “Trí Tướng”, chỗ phát khởi lại có thể hiển bày “Ngã Thể”, cho nên chứng minh “Ngã” có thật thể,cho
nên “Ngã” thì thật có.Đâyđều là ngoại đạo vọng chấp thật pháp ở
ngoài tâm, chuyên hoà hợp để sanh ra thể của “thật ngã”,vì thế chấp
“Ngã” cho là thật.Nhưng đối với đệ tử Phật mà nói, “Tông” đây chọn
“Ngã” làm Hữu Pháp (pháp có thật), cho nên quyết định không chấp nhận.Lại dùng “Hoà hợp
nhân duyên” làm Tông Thể thì cũng không chấp nhận, vì thế gọi Tông
này là “Câu bất cực thành”. Hơn nữa, “Hoà hợp nhân duyên” của
Thắng Luận gọi,chính làvọng chấp của tự tâm, chấp pháp ở ngoài
tâm là thuộc về “Nhân duyên tà giáo” không phải là 12 nhân duyên
trong chánh giáo (Nhân duyên chánh giáo).
Nghĩa
Thông Suốt:
Như
nói Tông Thể của năng phân biệt cùng Hữu Pháp (pháp có thật) của
sở phân biệt, cả hai đó “đều hoàn
toàn không thể thành lập, như các sư Thắng Luận đối với đệ tử Phật
lập” luận rằng: “Ngã” (hữu
pháp) “do vì” 9 Đức “hoà hợp nhân duyên” tạo thành
thật thể,đây là hoàn toàn phạm lỗi Tông Thể cùng Hữu Pháp đều không
thể thành lập.
*- Tợ
Tông 9: Tương Phù Cực Thành.
(Thành
lập hoàn toàn phù hợp nhau)
Luận:
Tương Phù Cực Thành đây như nói:
“Âm thanh là chỗ nghe”
Chú
Thích:
“Tương
Phù”: có hai thứ, 1- Lập
luận cùng bên địch phù hợp nhau. 2- Tất cả mọi người thảy đều hoàn
toàn tán đồng, sự việc không chút mảy may dị nghị. Nếu lời nói như
thế thì mảy may tất yếu không cần biện thuyết, sao lại phải lập
lượng để biện luận?
“Âm
thanh là chỗ nghe”: đây là
ai cũng đều biết sự việc của đạo lý này, mà lại quyết định không
cần có người phản đối. Nhưng cũng nhân đây, nếu lập Tông này lại
trở thành lời nói vô dụng, đa sự. Nhân vì phàm biện luận, tất nhiên
phải có hai bên không thể tán đồng lẫn nhau thì mới phải lập lượng
để biện luận, để mong cầu ai phải ai không phải. Nếu ở nơi sự việc
nào đó, ý kiến của đại gia nhận thấy đều nhất trí thì không cần
lập lượng để biện luận.
Nghĩa
Thông Suốt:
Như
nói Tông của chỗ thiết lập có lỗi là hai bên tạo ý kiến “thành lập hoàn toàn phù hợp nhau” đây,
như lập lượng nói: “Âm thanh là
chỗ nghe” là hoàn toàn phạm lỗi ở chỗ thành lập phù hợp nhau
mà kẻ địch và ta cả hai đều mảy may không dị nghị.
B)- Tổng Kết Chín Lỗi:
Luận:
Nhưlà (trong 9
thứ Tợ Lập Tông trở lên có)nhiều (thứ) ngôn (từ như
5 thứ ngôn từ: hiện lượng tương vi, tỷ lượng tương vi, cho đến tự ngữ
tương vi),là (vì Luận Giả khi lập Tông tự)vứt
bỏ tự tướng môn của các pháp, vì không dung nạp(cho)thành (lập
làm Tông), vì (mặc
dù)lập(Tông cũng) không(khiến) quả (chánh
trí phát sanh), nên (gọi chung)là
lỗi của Tương Tợ Lập Tông.
Chú
Thích:
“Nói nhiều như thế”:là chỉ cho mọi thứ lời nói của 9 thứ “Tợ
năng lập tông”
ở trước.
“Vứt
bỏ tự tướng môn của các pháp”: là
chỉ 5 thứ “Tợ Lập Tông” trước.
“Khiển”, Thuyết Văn Giải Tự nói rằng: là “Tống khứ”; như đưa
đi. Khương Hy Tự Điển: là “điều khiển vậy; đày đi vậy” như đưa đi
phòng giữ. Lại nữa, như điều đình vậy, như khiến cho sầu lo, khiến cho
buồn rầu. Đại sư Ngẫu Ích nói rằng: “điều khiển vậy”. Nghĩa chung của
nó là: Tống (đuổi đi), phát xuất, phóng trục (đày đi), phế khí (vứt
bỏ), bài giải (điều đình), bài di (dời đổi), bài xích..v..v..... Ở
đây thường giải thích là “vứt bỏ”. “Vứt bỏ tự tướng môn của các
pháp”, nghĩa là Luận Giả tự mình đề cử ra các pháp làm Tông, Nhân,
Dụ vân vân cho họ lập luận, lại vẫn tự mình đem những tự tướng của
các pháp đây phế bỏ (Như có Tiểu Thuyết Gia của thế tục nói rằng:
“Tự phế bỏ võ công). Thí dụ như nói: “Âm thanh không phải chỗ nghe”,
bốn chữ “không phải chỗ nghe” đây, so cùng “tự tướng” của “Âm thanh”
trái ngược nhau (nếu như “Âm thanh” không phải là chỗ nghe đây, như
thế nó là gì? “Tự tướng” của nó là gì? Như thế thì “Tướng âm thanh”
lại không thể biết). Lại như nói “Cái bình là thường” thì chữ
“Thường” đây lại so cùng “Tự Tướng” của cái bình trái ngược nhau.
Lần nữa như lập luận “Âm thanh là thường trụ”, “Thường Trụ” đây so
cùng “Tự Tướng của “Âm Thanh” trái ngược nhau. Lại như nói “Xương đầu
người thì thanh tịnh”, từ “Thanh Tịnh” đây so cùng “Tự Tướng” của xương
đầu trái ngược nhau. Lại như nói “Mẹ tôi là Thạch Nữ”, từ “Thạch
Nữ” đây so cùng “Tự Tướng” của mẹ tôi trái ngược nhau.
“Bất
Dung Thành Cố” (Lý do không
cho phép thành lập): đây là chỉ cho ba thứ “Bất Cực Thành” và một
thứ sau cùng là “Tương phù cực thành”. Chữ “Dung” đây là cho phép. Ba
thứ “Bất Cực Thành”, vì phía kẻ địch quyết không cho phép nói thứ
pháp này, cho nên nó không cho phép thành lập làm Tông; “Tương Phù
Cực Thành” là chỗ đôi bên không thể biện luận, cho nên không cần
hy vọng lập Tông như thế, vì thế cũng biến thành “Tất Dung
Thành” (không cho phép thành lập).
“Lập
vô quả cố” (Vì thành lập
không kết quả): đây là nói chung phạm 9 lỗi của “Tợ Lập Tông”.
“Hữu Quả” (có kết quả) đây là do trải qua “Chân Năng Lập” (năng
lập chân thật), mà thường khiến
người bỏ tà kiến, phát sanh chánh trí, gọi là “Hữu Quả”. Như 9 thứ
“Tợ năng lập Tông” đây liền miễn cưỡng khiến nó thành lập làm
Tông, và cũng không thể khiến người chiếu cố nhìn thấy chánh lý để
sanh khởi chánh trí, do đó gọi là “Vô Quả” (không kết quả). Như thế đã lao lực mà lại không
công, chỉ là đào vét nhiều lời trở thành nói năng hý luận, nào có
lợi ích gì? Cho nên kẻ học tập Nhân Minh phải hiểu sâu nghĩa này, để
khỏi sự việc vô ích, lời nói không đâu, cả mình và người điều không
có lợi.
“Tợ lập tông quá”: chữ “Quá” nghĩa là lỗi mất, sai lầm, La
Tập Tây Dương gọi là “Hỏng mất” (Fallacy).
Nghĩa
Thông Suốt:
“Như là” trong 9 thứ Tợ Lập Tông trở lên, có “nhiều” thứ “ngôn” từ, 5 thứ trước là lỗi trái ngược nhau (1- Trái
ngược nhau hiện lượng, 2- Trái ngược nhau tỷ lượng, 3- Trái ngược nhau
tự giáo, 4- Trái ngược nhau thế gian, 5- Trái ngược nhau tự ngữ), “là” luận giả tự mình chủ động
vứt bỏ chỗ lập “Tự Tướng Môn”
của “các pháp” (khiến các pháp
mất tự tướng của nó) “cho nên”.
có lỗi. 4 thứ sau (3 thứ Bất Cực Thành và Tương Phù Cực Thành) là
do nơi không cho phép thành lập làm Tông, cho nên có lỗi. Nói trở
lại, 9 thứ Tợ Lập Tông, mặc dù lập Tông, lý do không có thể khiến quả sanh chánh trí,
gọi chung là lỗi của Tương “Tợ Lập
Tông”.
2)- TỢ NHÂN.-
Luận:
Đã
nói Tợ Tông, (hôm nay đang) nói Tợ Nhân: bất thành, bất
định, và cùng tương vi, gọi là Tợ Nhân.
Chú
Thích:
“Tợ
Nhân”: là Nhân tương
tợ,không phải Nhân chân thật, nguyên vì “Nhân” của chỗ đề cử (lý
do), đều không thể ủng hộ “Tông” của chỗ muốn lập nhằm để khiến
“Tông” của nó được thành lập; vì lý do đó thứ Nhân đây chỉ có hình thức của “Nhân” mà thôi,
đều không có nội dung và tác dụng
của “Nhân”, cho nên nói là “Chi
tương tợ nhân”(Tợ Nhân).
“Bất
Thành) (không được thành
lập):Chi Nhân có bốn thứ không thành;
dưới đây sẽ giải thích tường tận hơn.
“Bất Định” (không nhất định): Chi Nhân có 6 thứ không
nhất định.
“Tương
Vi” (trái ngược nhau): Chi
Nhân có 4 thứ trái ngược nhau.
Nghĩa
Thông Suốt:
Đến đây “đã nói” rõ lập “Tông”
tương “tợ”, hôm nay “đang nói” chi “Nhân tương tợ”, trong nó bao quát gồm có: A- 4 thứ “bất thành”, B- 6 thứ “bất định”, C-3- “và cùng” D- 4 thứ
“tương vi, gọi tên là Tướng của Chi Tương “Tợ Nhân”.
A,- 4 Thứ Tợ Nhân Bất Thành
(bốn
thứ Tợ Nhân không được thành lập):
Luận:
Bất
thành có 4 thứ: 1- Lưỡng câu bất thành, 2- Tùy nhất bất thành, 3- Do
dự bất thành, 4- Sở y bất thành.
Chú
Thích:
“Bất
Thành”: nghĩa là Nhân của
chỗ thiết lập không được thành lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
Tiết mụccủa bản luận sẽ lần lược trình
bày theo sau đây (dưới đây sẽ tường
thuật)
A1/- Tợ Nhân: Lưỡng Câu Bất Thành.-
(Cả hai
bên đều không được thành lập)
Luận:
Như thành lập “Âm thanh là vô
thường” vân vân, nếu như nói “vì con mắt là chỗ thấy được tánh”, cả
hai (bênđịch và bên ta)đều không(được) thành(lập).
Chú
Thích:
“Như thành lập âm thanh là vô
thường”: Giả thuyết lập
lượng rằng: “Âm thanh là hữu pháp” (pháp có thật), dùng “vô thường”
làm Tông.
“Vì con
mắt là chỗ thấy được tánh”: lại
đề cử Nhân nói rằng: “lý do vì con mắt là chỗ thấy được tánh của
nó”, vì “lý do” đây mà muốn thành lập
mệnh đề (Tông) “âm thanh là vô thường”.
“Lưỡng
câu bất thành” (Cả hai bên
đều không được thành lập): chữ “Lưỡng” là song phương, chỉ cho cả hai
bên đich và bên ta, đều không thể thành lập. Nguyên vì “âm thanh”
quyết định không phải do con mắt là chỗ thấy được tánh của nó, đem
“con mắt là chỗ thấy được tánh” lại thành lập lý do (Nhân) của “âm
thanh là vô thường”, thì Nhân đây bất luận bên địch và bên ta, bất
kỳ phía nào đều không thể cho phép, cho nên gọi là “lưỡng câu bất
thành”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Thí dụ
“như” có người “Thành lập {Âm
thanh là vô thường]vân vân làm Tông, sau đó “nếu” đề cử Nhân nói rằng: [vì con mắt là chỗ thấy tánh]”, thì bên địch và bên ta,
đôi bên “cả hai đều” không
chấp nhận, cho nên “không” được
“thành” lập làm Nhân,vì Nhân
đây nếu được đề cử thì hoàn toàn phạm lỗi “Lưỡng câu bất thành” (cả hai bên đều không được thành
lập).
Thí
dụ thêm cho dễ hiểu;
Cái
Nhân đề cử cả hai bên ta và bên địch đều không chấp nhận, như:
*-
Tông: Âm thanh là vô thường vân vân,
*-
Nhân: vì con mắt là chỗ thấy tánh.
Nhân
đây không thể thành lập, vì con mắt của hai bên đều không thể thấy
được tánh của âm thanh, cho nên bị lỗi lưỡng câu bất thành.
A2/- Thùy
Nhất Bất Thành.-
(Theo
một bên không được thành lập).
Luận:
“Vì (chọn lấy)chỗ
tạo tánh”(làm Nhân cho Tông âm thanh vô thường), (thì) đối (nghịch)với (âm
thanh thường trụ của)Thanh Hiển Luận,(cho nên Nhân đây phạm lỗi) theo
một bên không(thể) thành(lập).
Chú
Thích:
“Vì chỗ tạo tánh”: đây là bày tỏ tiếp theo phía trước: vẫn
thiết lập “âm thanh là vô thường” làm Tông, mà lại đề cử đề cử
“do vì âm thanh là chỗ tạo tánh” làm Nhân.
“Đối
với Thanh Hiển Luận, theo một bên không thành:Nếu chọn “vì chỗ tạo tánh” làm Nhânthì
mặc dù phe nhà của mình đều chấp nhân “Nhân” này được thành, nhưng phe địch nếu là kẻ ngoại đạo
Thanh Hiển Luận thì không thể chấp nhận lập nó làm “Nhân”. Nguyên vì
kẻ Thanh Hiển Luận chấp tất cả tánh âm thanh đều là thường trụ,
không theo một bên duyên sanh, nhưng mà tất nhiên vẫn phải đợi ngoại
duyên mới có thể hiển bày phát đạt, mới có thể biểu hiện giải
thích, nên gọi là Thanh Hiển Luận. Như Thành Duy Thức Luận nói
rằng: “Chấp thiên lệch tất cả âm thanh thường còn, phải đợi duyên
mới hiển bày phát đạt, mới có thể hiển hiện giải thích.” Du Già Sư
Địa Luận cũng giải thích: “Ngoài các sư Thanh Luận phát khởi cái thấy
như thế, lập luận như thế: cho Tướng âm thanh vốn có, không sanh
không diệt, nhưng nhờ Số Luận tuyên bố ra thì mới được hiểu rõ, mà
cho Âm Thể là thường”. Vì kẻ đối thủ Thanh Hiển Luận không chấp
nhận “Âm thanh là chỗ tạo tánh”, do đó nếu đề cử nó làm Nhân, thì
phạm lỗi theo “theo một bên không thành”
Nghĩa
Thông Suốt:
Nếu vẫn thiết lập âm thanh làm Tông của
vô thường, mà đề cử: chọn lấy“chỗ
tạo tánh” làm Nhân cho nó, thì đối với địch thủ của Thanh Hiển
Luận mà nói, tức là phạm lỗi “Theo
một bên không thể thành lập”, nguyên vì chủ yếu giáo nghĩa của
kẻ Thanh Hiển Luậncho âm thanh là thường trụ, không sanh không diệt,
không phải chỗ tạo tánh, đợi
các duyên mới hiển bày.
Thí
dụ thêm cho dễ hiểu:
Chỗ
Nhân muốn lập thì phải đầy đủ hai bên cả chủ và khách đều công
nhận hoặc ít nhất một bên khách công nhận mới thành mới; nhưng cái
Nhân đây bên khách không công nhận nên bị lỗi theo một bên không
thể thành lập, như:
*-
Tông: Âm thanh là vô thường,
*-
Nhân: Vì chỗ tạo tánh.
Nhân
đây theo phe người đề cử thì không bị lỗi, nhưng đối với phái Thanh
Hiển Luận thì bị phạm lỗi Theo một bên không thể thành lập, vì phái
này chấp cho âm thanh là thường trụ, không sanh diệt, không phải chỗ
tạo tánh.
A3/- Do Dự Không Thành.-
(Do dự nên
không được thành lập).
Luận:
Nơi (chỗ xa
thấy giống như)sương mù nhiều tánh(chất mà
phát)khởi nghi hoặc,(nhưng) lúc đólại(chọn
nó để)thành (lập Tông cho rằng: do)“Tánh”
(của)
“nhiều thứ”(củi
cây cùng)lửa hoà hợpcó(khói sanh khởi)”,(do
thấy có khói)mà (vọng chấp)có
chỗ nói(năng, vì thế Nhân của chỗ đề cử liền
phạm lỗi)do dự(không xác định nên)không(thể)thành(lập).
Chú
Thích:
“Nơi sương mù đẳng tánh khi khởi nghi
hoặc”: “Sương mù” là thấy
nơi xa có sương mù. “Nhiều Tánh” (đẳng tánh), tức là chỉ không nhất
định là sương mù, hoặc đây là bụi bặm, hoặc hơi nước..v..v..... “khởi
nghi hoặc”, nhân vì xa thấy không thể xác định, mà chỉ nghi nó có thể
là khói của lửa cháy mà phát khởi.
“Lại
thành (lập)đại chủng(nhiều loại cùng)lửahoà hợp có (khói sanh khởi)”:Chữ “Thành” là thành lập, tức
là lập Tông. Nghĩa là thấy vật ở nơi chỗ xa hình dáng giống như sương
mù, còn chưa có thể xác địnhlúc đó nó phải chăng là khói, lại vội
vã thiết lập Tông như thế: “Nhiều loại (đại chủng)hoà hợp có lửa”. “Đại Chủng” là chỉ cho nhiều
loại như: củi, cây, khói..v..v..... có chất ngại, là vật có thể đốt
cháy. “Hoà hợp lửa”, nghĩa là cùng với lửa hoà hợp. Chữ “Có” nghĩa
là sanh, sanh khởi. Chỉ có khói sanh khởi. Lập lượng đây cho là “lửa
phát khởi ở chỗ xa” cho là Hữu Pháp (Pháp có thật); “Lửa cùng
nhiều loại hoà hợp” làm Tông, “Dùng thấy khói” làm Nhân. Mặc dù
“Hữu Pháp” cùng “Tông” đều có thể thành lập, nhưng vật chỗ thấy thì
chưa có thể xác định là khói, vì thế không thể xác định, nếu cố ý
cương quyết làm Nhân thì phạm lỗi “do dự không thành” (do dự nên
không được thành lập).
“Do dự
không thành”: trạng huống
chưa có thể xác định gọi là do dự, cũng là nghĩa chưa quyết định
(uncertainty). Nếu như tự mình cương quyết chọn lấy trạng huống hoặc
sự vật làm “Nhân” (lý do) mà điều đó chưa có thể xác định, tức là
hoàn toàn phạm lỗi chỗ đề cử Nhân có “do dự nên không thành”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Nếu “nơi” chỗ xa thấy có vật bay lên
giống như “Sương mù nhiều tánh”
chất. Mà phát “khởi nghi hoặc”
cho là khói, nhưng “lúc đó” vẫn
không thể xác định, liền căn cứ “chọn nó” để mà “thành”
lập Tông nói rằng: do “Tánh”
của “nhiều thứ” (củi cây có
thể đốt cháy cùng)“lửa hoà hợp”
(cùng lửa hoà hợp) khiến“có” khói
sanh khởi, do vì thấy có khói, như thế “mà” vọng chấp “có chỗ”
nói năng, vì thếNhân của chỗ đề cử đây liền phạm lỗi“do dự” không xác định, do đó “không” thể “thành” lập.
Thí dụ thêm cho rõ:
Thấy chỗ
xa có sương mù bay lên liền tưởng lầm cho là khói, nên lập luận:
*-
Tông: chỗ kia có nhiều thứ lửa hoà hợp bay lên,
*-
Nhân: vì có khói mù,
Nhân
đây nếu là khói mù thì Tôngđây có lửa. Còn như Nhân đây là sương
mù thì Tông đây không có lửa. Do đó Nhân đây có thể lập ngược
lại, như:
*-
Tông:Chỗ kia không có nhiều thứ lửa hoà hợp bay lên,
*- Nhân:Vì
đó là sương mù.
Nhân
đây có thể thành lập được cả hai Tông, vừa có lửa cũng được và
vừa không lửa cũng được, đó là do dự không nhất định ở bên nào,
nên bị lỗi không thành.
A4/- Sở Y Bất Thành.-
(chỗ
nương tựa không được thành lập)
Luận:
“Hư
không(là) thật có, vì(nó là“đức(làm)chỗ
nương tựa”(của tất cả vạn vật), (chi Nhân đây)đối (với) Vô
Không Luận(mà nói), (hoàn toàn phạm lỗi) chỗ
nương tựa không thành.
Chú
Thích:
“Hư không thật có, vì chỗ nương tựa
của đức”:Nếu như lập Tông
nói rằng: “Hư không là thật có” là thứ gì? Liền đề cử Nhân (lý do)
nói rằng: “Do vì nó là đức làm chỗ nương tựa của vạn vật, nhân đây
có thể biết hư không là thật có”. “Đức”là tánh năng, tác dụng, chỉ
có tánh của vạn vật là năng tác dụng. Hư không xưa nay không phải
là thật pháp ở ngoài tâm, cho nên không thể cho là nhất định có,
hoặc nhất định không. Chỉ có một số ngoại đạo chohư không đây là
“Nhất định có” (hoặc thật có); riêng có một phái ngoại đạo thì cho hư
không đây là “Nhất định không”. Có
luận giả đề xướng hư không là nhất định có, công nhận là tất cả
pháp đều từ hư không mà sanh, hư không bao hàm tất cả đức năng, tác
dụng của vạn vật. Đạo Nho Trung Thổ cũng có lý luận như thế. Thí
dụ như theo Lão Tử, “30 căm xe cộng thành một trục bánh xe, đương
nhiênbánh xe là không, có xe để dùng; một vùng đất rộng lớn bằng
một vạn vạn trồng cây để làm đồ, đương nhiênđồ là không, có đồ
để dùng; đục cửa sổ để làm nhà, đương nhiên nhà là không, có nhà
để dùng” (Lão Tử Đạo Đức Kinh, chương thứ 11) tức hư không là năng
sanh, Luận có công dụng, so cùng ngoại đạo trời tây kia giống nhau.
Lại nữa Nho, Đạo và Kinh Dịch đều nói: khi trời đất mới tạo, vạn
vật mới mở, một mảnh (hỗn độn), như Lão Tử nói: “là vật của đạo,
chỉ phảng phất chỉ lờ mờ, giống như khác nào trong nó có tượng,
giống như khác nào trong đó có vật, sâu vắng tối tâm trong nó có
tinh thần.” (Lão Tử Đạo Đức Kinh chương thứ 21), lại nói rằng: “Đạo
sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật” (Đạo Đức Kinh
chương thứ 42). Đây tức là chỗ Kinh Dịch nói: Từ “Vô Cực sanh Thái Cực,
Thái Cực sanh Lưỡng Nghi (âm dương),
Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng”. Vạn vật ở nơi đó sanh sôi nảy nở hưng
thịnh. Lão Tử lại nói rằng: “vật của thiên hạ sanh nơi có, có sanh
nơi không” (Đạo Đức Kinh chương 40). Suy cứu cho cùng mà nói, tức là
ngồn gốc của Nho Đạo điều cho là “nhân
không sanhLuận” (tất cả từ nơi “không” mà sanh), đúng là “trong không sanh có”! Cho nên biết
Kinh Dịch và ngồn gốc của Nho Đạo đều giống nhau với “Nhân không sanh
luận” của ngoại đạo Tây Thiên kia.
“Đối với Vô Không Luận, sở y không
thành”:“Đối” là đối.........
mà nói. “Vô Không Luận”, tức là Luận không có cái không” do bậc
tiền bối chấp “Không” cho là nhất “định không”, theo chánh lý của
Phật nói, đây lại rơi xuống nơi riêng một mặt, nhân vì hư không mặc dù không tướng, không có thể, không thể
xúc chạm sờ mó, nhưng tướng phần của tám Thức chỗ hiện tướng ngoan
không (tướng không vô minh)
cũng không phải hoàn toàn là không, cho nên ngoại đạo kia nơi tướng
của “Duy Thức sở hiện”lại chấp cho là có cho là không, như người
chấp “Không Hoa” giống như có giống như không, đều là người mê. Đối với kẻ ngoại đạo “Vô Không
Luận” mà nói, nếu thiết lập “hư không là chỗ nương tựa tánh tác
dụng của tất cả vạn vật” làm Nhân, ý định để chứng minh Tông của
“hư không là thật có”, thì hoàn toàn bị phạm lỗi của “chỗ nương tựa
không thành”. Nhân vì “Vô Không Luận đây” có thể như thế mà
phản bác nói rằng: “do không có mọi vật” nên gọi là hư không; tức
là bản thân hư không đã không có, thế nào có thể làm chỗ nương
tựa của vật khác?” Vì thế Nhân của “chỗ nương tựa” đây không được
thành lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
Nếu
có người lập Tông nói rằng: “hư
không” laø “thật có”, mà đề
cử Nhân rằng: do vì nó là “đức”
(tánh năng, tác dụng)“chỗ nương
tựa” của tất cả vạn vật,do đó mà suy ra chứng biết hư không
nhất định là thật có. Nhưng chi Nhân đây, “đối (với) Vô Không Luận”
mà nói, vẫn là hoàn toàn phạm lỗi “chỗ nương tựa không thành”.
Thí dụ thêm cho rõ:
Chỗ
sở y (chỗ nương tựa) của mình mà tôn giáo khác không công nhận thì
cũng bị lỗi chỗ sở y không thành, như:
*- Tông:
Hư không là thật có,
*-
Nhân: Vì nó là Đức chỗ nương tựa của vạn vật.
Nhân
đây đối với phái Vô Không Luận họ không công nhận Hư Không Là
Thật Có cho nên bị lỗi sở y không thành.
B,- 6 Thứ Tợ Nhân của Bất Định.-
(6 thứ Tợ Nhân của Không Nhất Định)
Luận:
Bất định có sáu: 1- Cộng, 2- Bất
Cộng, 3- Đồng Phẩm một phần chuyển Dị Phẩm biến chuyển, 4- Dị Phẩm
một phần chuyển Đồng Phẩm biến chuyển, 5- Câu Phẩm một phần chuyển,
6- Tương Vi quyết định.
Chú
Thích:
“Cộng” đây tức là Tợ Nhân của Cộng Bất Định. Nghĩa là nó chính là
phản lại luận đề mà lại đem nó “cộng chung” và tạo cho nó “Chi
Nhân” (“Nhân” đây, đã có thể dùng đến để ủng hộ phía Giáp và cũng
có thể ủng hộ phía Ất), do đó Chi Nhân đây hình thành một thứ tánh
“bất định”, gọi là “cộng bất cộng” (hai thứ bất định của một cộng
dụng), mà không thể mặc tình dùng đến để tạo chân chánh cho Chi Nhân
(lý do) của một phía nào.
(Nói
cho rõ hơn: Chủ yếu ở chỗ vì Cái Nhân nay liên quan cả Đồng Dụ và
Dị Dụ nên bị lỗi bất định)
“Bất
cộng”:không cộng không định.
Nghĩa là nó chính phản lại hai luận đề đều không cùng Nhân (hai phía
đều không thể dùng nó), do đó Nhân đây trở thành Nhân Do Dự thì cố
nhiên thứ Nhân này cũng không được thành lập.
(Nói
cho rõ hơn: Chủ yếu ở chỗ cái Nhân này không liên quan với Đồng Dụ
và Dị Dụ nên bị lỗi bất cộng).
“Đồng
Phẩm một phần chuyển, Dị Phẩm biến chuyển”: Bất định thứ ba đây và phía dưới hai thứ:
“Dị Phẩm một phần chuyển, Đồng Phẩm chuyển biến”, “Câu Đồng Phẩm
một phần chuyển”, nghĩa là “Chi Nhân” đây đối vớihai luận đề chính
phản lại mà nói, có chỗ chồng lên nhau, chỉ là hai bên tạo chỗbao gồm
thành phần của cái lọng có chỗ sai biệt nhiều ít mà thôi.
(Nói
cho rõ hơn: Đồng Phẩm đối với Nhân thì có một phần quan hệ, còn Dị
Phẩm thì quan hệ hoàn toàn).
“Quyết
định tương vi”: chỉ vìNhân đây
phản lại hai Tông chính trái ngược nhau, cho nên không trao đổi gom
lại, mà khiến “Nhân” trở thành bất định.
(Nói
cho rõ hơn:Đồng Phẩm đối với Nhân thì quan hệ hoàn toàn, còn Dị Phẩm
đối với Nhân thì chỉ quan hệ một phần).
Nghĩa
Thông Suốt:
Tiết
mục căn bản sẽ tóm tắt tiếp theo (do văn sau sẽ nói rõ).
B1/-
Tợ Nhân: Cộng Bất Định.
(hai bên
tạo nhân chung nhau dùng cho nên trở thành bất định)
Luận:
Trong đây(chỗ gọi là) cộng (chung cùng
một nhân bất định)đó, như (lập lượng)nói:
“Âm thanhlà thường”(Tông), (dùng
nó làm) “tánh có thể đo lường”,vì (cho
âm thanh là thường); (nhưng
dùng)thường cùng vô thường (Tông của hai)phẩm(đây) đều (có thể)cộng(chungcùngmột)Nhân đây(làm chỗ tạo tánh),là vì(Nhân của chỗ tạo tánh cho nên trở thành là tánh)bất định,(vì không biết nênchọn lấy Thường hoặcVô Thường).(Cuối cùng) lànhư cái bình vân vân, vìcó thể đo lường tánh (của vật vô thường, nhân đó lại nói) âm thanh là vô thường? Là như hư
không vân vân, vì có thể đo lường tánh(của vật thường tánh,nhân đólại nói) âm thanhcó lẽ làthường?
Chú
Thích:
“Trong đây(chỗ gọi là)cộng”: trong đây chỗ gọi “cộng” nhân bất định đó. “Cộng”,chính là phản lại hai lập luận đều
có thể chung nhau cùng một Nhân này để giữ lấy lập luận của
phía mình, nhưng mà chi “Nhân” đây lại thành tánh bất định, nguyên vì
nó đã có thể giữ lấy lập luận của phía mình mà lại cũng có thể
giữ lấy lập luận của kẻ địch, tánh của nó lại thành bất định, mà
không thể chân chánh trở thành “chi Nhân” cho bất cứ phương nào.
“Âm
thanh có lẽ là thường, vì có thể đo lường tánh”:Nếu lập “Âm thanh là thường” để làm Tông,
mà lại đề cử nói rằng “do vì âm thanh là tánh của chỗ đo lường”.
Chữ “Lượng” nghĩa là đo lường, trắc lượng. “Chỗ đo lường tánh”, tức
là có thể dùng đo lường, miêu tả thuật lại, giải bày ra ngoài, như
dùng lớn nhỏ, cao thấp, cho đến bức chấn xa gần truyền
lại..v..v...... lại đo lường, giải bày ra ngoài hình tướng của âm
thanh.Âm thanh thành thực dĩ nhiên
là cụ thể có khả năng đo lường tánh của nó, nhưng mà tánh có thể
đo lường đây, lại không thể mang đến chứng minh âm thanh là thường
hoặc vô thường;nào vả lại vậtcó
thể đo lường mà lại có thể là thường và cũng có thể là vô thường,
cho nên hai Tông thường cùng vô thường đây đều có thể chung nhau cùng
mộtnhân của “tánh có thể đo lường”, vì thế “Nhân”
đây nơi lập luận chính phản lại hai phía liền thành Nhân của
“chung nhau có”, do đó lập trường của nólại trở thành “chân giẫm hai
thuyền” (nghĩa là chân trong chân ngoài) mà lại trở thành bất định,
Nhân đây phản lại mà không thể thành lập để giữ lấy “Chi Nhân”
của bất cứ một phía luận chứng nào.
“Là như
hư không vân vân, vì có thể đo lường tánh, lại nói âm thanh có lẽ
là thường”: chữ “Không” là
hư không, tức là không gian; không gian cũng có lớn nhỏ, cho nên
trên lý luận nói, không gian không luận lớn ra sao, lại là có thể
đo lường được. “có lẽ thường” chữ “có lẽ” là hư tự, không nghĩa.
Đây nghĩa là: hoặc vì (lại là)như
hư không vân vân, vì có thể đo lường tánh của “vật thường
tánh”, nhân đây nó nói “âm thanh
là thường” hay sao?
Nghĩa
Thông Suốt:
“Trong
đây” chỗ gọi “cộng”chung cùng nhân bất định “đây, như” lập lượng “nói: âm thanh” là “thường” (Tông); vì nó là “tánh có thể đo lường”, “cho nên”
âm thanh là thường (Nhân). Nhưng mà, do Tông của hai “phẩm” “thường” cùng “vô thường” “đều” có thể “cộng” chung cùng sử dụng “Nhân” đây làm chỗ tạo tánh, “là vì” Nhân của chỗ thiết lập
trở thành là tánh “bất định”,cuối
cùngkhông biết nó cần giữ lấy thường hay là vô thường. Đến cùng
đích thực nó lại nói tánh có thể đo lường “là như cái bình vân vân”, “vì tánh có thể đo lường” của
vật vô thường, rồi nhân đây nó tại sao lại nói “âm thanh là vô thường”?Hoặc “là như” hư “không vân
vân”, “vì tánh có thể đo lường” của vật tánh thường, nhân đây
nó tại sao nói “âm thanh có lẽ là
thường”? (âm thanh là thường)
Thí dụ thêm cho dễ hiểu:
Cái
Nhân này có liên quan đến Đồng Dụ và Dị Dụ của Tông Thường và
Tông vô thường nên bị lỗi bất định, như:
1,- Lập
luậnvề Tông thường:
*- Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân:Vì nó là tánh có thể đo lường,
*- Đồng
Dụ:Như hư không vân vân, vì tánh có thể đo lường vật
thường tánh.
*- Dị
Dụ: Như cái bình vân vân, vì tánh có thể đo lường của vật vô
thường.
2,- Lập luận ngược lại về Tông vô thường:
*- Tông: Âm thanh là vô thường,
*-
Nhân: vì nó là tánh có thể đo lường,
*Đồng Du: Như cái bình vân vân, vì tánh có thể đo lường của
vật vô thường,
*- Dị
Dụ: Như hư không vân vân, vì thánh có thể đo lường vật thường
tánh.
Chi Nhân đâybởi quan hệ cả Đồng Dụ và Dị
Dụ ở nơi “Vì tánh có thể đo lường”, cho nên có thể biện chứng lập
trường của cả Tông Thường và Tông vô thường, do đó bị lỗi ở vị trí
không nhất định (bất định) bên nào, nên không thể thành lập.
B2/-
Tợ Nhân: Bất Cộng Bất Định.-
(Hai
Nhân tạo lập đây đều không
cộng
chung nhau cho nên trở thành bất định).
Luận:
(Chỗ)gọi
bất cộng(không dùng chung) đây,
như (lập lượng)nói: “Âm thanh là thường(trụ
“Tông”), vì (nó là)tánh
có thể nghe”(Nhân), (nhưng
mà) thường cùng vô thường (hai) phẩm đều
ly cách khỏi Nhân đây(đều không nương nơi Nhân đây); vì
ngoài thường cùng vô thường ra không có cái nào khác, đây là nhân
do dự, tánh có thể nghe đây nó do dự như thế nào?
Chú
Thích:
“Âm thanh là thường (trụ), vì
(nó là) tánh có thể nghe”:Như
lập “âm thanh là thường” làm Tông; đề cử Nhân nói rằng: “vì nó là
tánh có thể nghe”.
“(Hai) phẩm
thường cùng vô thường đều ly cách khỏi Nhân đây”:“Thường cùng vô
thường phẩm”, nghĩa là hai phẩm thường và vô thường. “Ly” là không nương tựa, không y chỉ Nhân
đây; “ly cách Nhân đây”, nghĩa là không nương tựa đây làm Nhân,
cũng tức là cùng Nhân đây không quan hệ, đều không dùng đến Nhân
đây. Cũng tức là “tánh có thể
nghe” cùng thường hoặc vô thường đều không quan hệ; cho nên “tánh có
thể nghe” đều không thể dùng đến để chứng minh âm thanh là thường
hoặc vô thường. Hai Tông đây chính phản lại “Thường” cùng “Vô
Thường”, đều “không dùng chung với Nhân đây”.
“Vì
ngoài thường cùng vô thường ra không có cái nào khác”:Nhưng mà tất cả trong thế gian, trừ ngoài
pháp thường cùng pháp vô thường ra, lại không có vật nào khác,
không có pháp riêng biệt.
“Là
Nhân do dự”:“do dự” tức là
không nhất định, không xác định. Do đây “tánh có thể nghe” đã không
được thành lập làm Nhân của “Tông Thường”, cũng không thể thành
lập làm Nhân của “Tông vô thường”, Nhân
đây nó ở khoảng cách của “Tánh Thường” cùng “Tánh Vô Thường”, lại
không thể nói chính xác là thuộc nơi một thứ nào, do đó nó thuộc
tánh (Attribute) bất định, cho nên
thành lập làm riêng một thứ Nhân của tánh do dự.
“Tánh có thể nghe đây, nó do dự như
thế nào”:“Do dự” nghĩa là do
dự như hình tượng. “Cái gì” vật gì, giống gì đó, được gọi là “tánh
có thể nghe”,đây nói cho cùng “là giống gì đó đây”được gọi? Cũng
tức là nó đã không phải là thuộc “Tánh thường”, cũng không thuộc
“Tánh vô thường”, như thế rốt cuộcnó là thuộc về tánh gì? Chẳng lẽ
thế gian lại có thứ vật “không phải thường và không phải vô
thường, hoặc vật “cũng thường và cũng vô thường” hay sao?Tánh của
“tánh có thể nghe” như thế không thể xác định ranh giới, tức là “bất
định”; lại không thuộc một pháp nào, chính là “bất cộng” (không thể
dùng chung), vì “tánh có thể nghe” là “Nhân bất cộng bất định” (chính
là phản lại hai phía đều thuộc về Nhân không xác định cho nên không
thể dùng chung)
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ “gọi
bất cộng”Nhân bất định “đây,
như”lập lượng “nói: Âm thanh” là
“thường” trụ (Tông); vì do nó
là “tánh có thể nghe”(Nhân).
Nhưng mà “Thường” cùng “Vô Thường” hai “phẩm đều ly cách Nhân đây” (đều không nương tực Nhân
đây, cùng Nhân đây không quan hệ), vả lại tất cả pháp trong thế
gian có lẽ ngoại trừ pháp “thường”
cùng pháp “vô thường”,“ngoài ra” “không có” bất cứ pháp
nàokhác, “là” vì tánh có thể
nghe liền trở thành một thứ“Nhân
do dự” không thật;tánh quan hệ nơi “tánh có thể nghe đây”, nó “do
dự như thế nào?” (nó rốt cuộc là tánh chất gì?), nó cuối cùng là
thường hay vô thường, hoặc không phải thường không phải không
thường..v..v.......,cảnh đây không thể nói,cho nên chính nó trở thành
phản lại hai phía đều không thể dùng chung một Nhân thuộc tánh bất
định.
Thí
dụ thêm cho dễ hiểu:
Nhân đây thuộc loại Do Dự vì không hợp
tác với Tông thường và vô thường nên bị lỗi là bất cộng, đồng
thời Nhân đâykhông quan hệ với Đồng Phẩm (Đồng Dụ) và Dị Phẩm (Dị
Dụ) nên bị lỗi là bất định:
1,
Nhân thuộc loại Do Dự bất cộng (không cộng tác) như:
*-
Tông: Âm thanh là thường trụ,
*-
Nhân: vì nó là tánh có thể nghe (tai có thể nghe)
*-
Đồng Phẩm Dụ: Như hư không (tánh của nó tai không thể nghe)
*- Dị
Phẩm Dụ: Như cỏ cây (tánh của nó tai không thể nghe)
Tánh
thường trụ của âm thanh thì không thể nghe được, nhưng Nhân thì cho
rằng vì nó là tánh có thể nghe, do đó Nhân đây không hợp tác với
Tông thường trụ của Âm thanh nên bị lỗi bất cộng. Chẳng những thế
Nhân này không liên quan với Đồng Phẩm Dụ và Dị Phẩm Dụ vì hai tánh
đây cũng không thể nghe nên bị lỗi bất định.
2,
Nhân thuộc loại bất định như:
*-
Tông: Âm thanh là vô thường,
*-
Nhân: vì nó là tánh có thể nghe
*- Đồng
Phẩm Dụ: như cỏ cây (vô thường)
*- Dị
Phẩm Dụ: Như hư không (thường trụ)
Cũng
như trên tánh vô thường của âm thanh thì không thể nghe, nhưng Nhân
đây cho là có thể nghe tánh (lỗi bất cộng). Cho đến tánh vô thường của cỏ cây
(Đồng Phẩm Dụ) và tánh thường trụ của hư không (Dị Phẩm Dụ) thì
cũng không thể nghe mà Nhân đây cho là có thể nghe nên bị lỗi bất
định.
B3/-
Tợ Nhân: Nhân Bất Định Nơi Trong Đồng Phẩm Một
Phần
Chuyển, Mà Nơi Trong Dị Phẩm Biến Chuyển.
Luận:
Đồng Phẩm(Dụ) một
phần chuyển(tác dụng) Dị Phẩm (Dụ hoàn
toàn)biến chuyển(tác dụng) đây, như nói: “Âm thanh không
phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh(làm
Tông), (do)vì (nó là)tánh
vô thường”. Trong đây “không phải chuyên cần dũng mãnh mới có thể
phát sanh” Tông, do điện và hư không vân vân là Đồng Phẩm(Dụ) của
nó. Tánh vô thường đây nơi điện vân vân thì có(tác
dụng), nơi hư không vân vân thì không(tác dụng).
“Không
phải chuyên cần dũng mãnh mới có thể phát sanh” Tông, dùng cái bình
vân vân làm Dị Phẩm, nơi kia(nơi cái bình)có biến chuyển(hoàn
toàn tác dụng), vì Nhân đây dùng điện, dùng cái bình làm
Đồng Phẩm(Dụ), cũng là bất định. Vì như cái
bình vân vân làvô thường,(mà âm thanh) kia làchuyên cần dũng mãnh
không gián đoạn mới có thể phát sanh? Vì như điện vân vân làtánh
vô thường, (mà âm thanh)kiakhông phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh?
Chú
Thích:
“Âm thanh không phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh, vì tánh vô thường”:giả như lập lượng rằng: “Âm thanh là pháp
có” thật, mà “không phải do chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn
mới có thể phát sanh” làm Tông; đề cử Nhân nói rằng: “do vì nó là
tánh vô thường”.
“Đồng
Phẩm một phần chuyển Dị Phẩm chuyển biến”:“một phần” là một bộ phận hoặc một nửa.
“chuyển” là vận chuyển, vận tác, tác dụng (function, work, operate, fit
into). “biến” là hoàn toàn. Nghĩa là Nhân của “tánh vô thường” đây, đối
với pháp thuộc loại Đồng Phẩm chỉ có “một bộ phận” có thể tác
dụng; mà đối với pháp thuộc loại Dị Phẩm đều “hoàn toàn” có thể
hợp nhau, có thể tác dụng; nhưng mà “Nhân” đây lại do dự nơi giữa
hai lập luận chính là phản lại nhau, không thể nhất định là giữ lấy
một phía chi nào, cho nhên có lỗi bất định.
“Không phải chuyên cần dũng mãnh
không gián đoạn mới có thể phát sanh”: “không phải chuyên cần dũng mãnh không
gián đoạn”, nghĩa là không phải là
người nổ lực không gián đoạn, hoặc thiên nhiên tác dụng không gián
đoạn.“có thể phát sanh” nghĩa là có thể thành tựu.
“Do
điện, hư không vân vân là Đồng Phẩn của nó”: “Đồng Phẩm” là Đồng Phẩm Dụ. Nguyên vì
không phải là chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mói có thể
thành tựu, Nhân đây đang dùng điện hoặc hư không..v..v..... là Đồng
Phẩm Dụ của nó, mà đề cử nói rằng: “Đồng Dụ như điện, hư không”.
Nguyên vì “điện” là bỗng nhiên, thời gian sát na phát sanh, cho nên
không phải là do chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể
phát sanh. Mà “hư không” là không phải tánh có thể tạo tác, cho nên
cũng không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn có thể phát
sanh. Nguyên vì điện cùng hư không đây đều có thể trở thành là Đồng
Phẩm Dụ của nó.
“Tánh
vô thường đây, nơi điện vân vân thì có, nơi hư không vân vân thì
không”: Tuy nhiên điện cùng
hư không đều có thể thích hợp nơi Tông của “không phải chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn mới thó thể phát sanh”, mà được cho là
Đồng Phẩm Dụ của chúng nó. Nhưng mà đối với chi Nhân (vì tánh vô
thường), thì điện là vô thường,
nên có “tánh vô thường”; chỉ hư không thì không có “tánh vô thường”;
Do đó nói: Chi Nhân đây (tánh vô
thường) ở trong Đồng Phẩm Dụ, chỉ có một bộ phận có thể cho là
thích hợp nhau (vận tác) --- “Đồng Phẩm một phần chuyển”.
“Không phải chuyên cần dũng mãnh
không gián đoạn có thể phát sanh ra Tông, dùng cái bình vân vân làm
Dị Phẩm”:Tông “không phải
chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn có thể phát sanh” đây, đang
dùng Dụ cái bình vân vân làm Dị Phẩm của nó, mà đề cử Dụ nói
rằng: “Dị Dụ như cái bình vân vân”.Nguyên
vì cái bình chính xác là “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới
có thể phát sanh” (phải nhờ sức của con người không gián đoạn dùng
đất chế tạo mới có thể thành tựu, cho nên phải là chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh), vì thế cho nên
“không chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn có thể phát sanh” Tông
không phải loại Đồng Phẩm, nhưng
mà “cái bình” có thể dùng làm thành “Dị Phẩm Dụ” của Tông này.
“Nơi kia hoàn toàn có”:đây là lời nói của luận văn lược bớt,
mà Nhân của “tánh vô thường” nơi
cái bình kia vân vân là vật “hoàn toàn có” (cái bình vân vân hoàn
toàn có tánh vô thường),cũng tức là cái bình vân vân là vật
có tánh vô thường (là tánh vô thường). Nhân đây, cái bình đối với “Nhân vô thường” lại giảng cũng là Đồng
Phẩm (do vì cái bình cũng là vô thường).
“Vì Nhân đây dùng điện, dùng cái
bình là Đồng Pháp (pháp
giống nhau), cho nên cũng là Bất
Định”:“Nhân đây”, là Chi Nhân
của vô thường đây, đã dùng “điện” làm Đồng Pháp Dụ (như trong
văn trên đã nói), nay lại dùng
“cái bình” làm Đồng Pháp Dụ. Nhưng điện thì “không phải tánh chuyên
cần dũng mãnh”, mà cái bình lại là “tánh chuyên cần dũng mãnh”
(chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể tạo thành), nhân
đây “Nhân vô thường” đây cũng
biến thành nơi trong Chi Dụ của hai tánh chất phản lại nhau (điện
cùng cái bình), đều có thể tác dụng, nơi Nhân đây tức là biến
thành “Nhân Bất Định” (Nhân của tánh bất định)
“Như
cái bình vân vân vì tánh vô thường, kia là chuyên cần dũng mãnh
không gián đoạn có thể phát sanh”: như hôm nay Luận giảphủ định sự dùng đến tánh vô thường
cho “Dị Dụ như cái bình vân vân”, mà hôm nay “âm thanh” kia sao lại
thành là “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát ra”
Tông? (Nếu như thế, thì so cùng Tông của xưa nay thiết lập trái ngược
với nhau).
“Là
như điện vân vân vì tánh vô thường, kia không phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn mới cỏ thể phát sanh”: Lại là cần nói vì tánh vô thường “như
điện của Đồng Dụ vân vân”, mà thành lập Tông của “âm thanh kia
không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát
sanh”?
Chú
Thích:
Khuyết điểm của Nhân “bất định” đây xuất hiện ở nơi: phàm Nhân có thể đề cử, đối với
“Tông” và “Dụ”ở nơi đầu thì
phải giống nhau, cũng tức là
“Nhân” đây nếu đối với “Tông” là Đồng Phẩm, đối với “Dụ” cũng
phải là Đồng Phẩm, lại đều phải “hoàn toàn”, tức là hoàn toàn phù
hợp; không thể có đồng thời xuất hiện “một phần tác dụng” và
“hoàn toàn tác dụng”, cũng không thể đồng thời đối với Đồng Phẩm
có thể tác dụng, đối với Dị Phẩm cũng có thể tác dụng; như là các
tình hình nói trên, đều có thể khiến chi Nhân đây biến thành “Nhân
bất định”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói Chi Nhân là “Đồng Phẩm một phần chuyển (tác dụng) Dị Phẩm biến chuyển (hoàn toàn tác tụng) đây, như” có người lập lượng “nói: âm thanh” là pháp có thật,
mà lập “không phải chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh” làm Tông, đề
cử Nhân nói rằng: do vì nó là “tánh
vô thường”.Mà“Tông” của “không
phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh”
“trong” lập lượng “đây”, đang
“dùng điện” hoặc “hư không vân vân làm Đồng Phẩm” Duï, nhưng Nhân của “tánh vô
thường đây ở nơi điện vân vân”thì
“có”(Nhân Điện là tánh vô thường), “ở nơi hư không vân vân” thì “không” (Nhân hư không không phải tánh vô thường), cho nên
Nhân vô thường đây khoảng cách của hai Đồng Phẩm Dụ nơi điện và hư
không trở thành một phần tác dụng (tác dụng một nửa) của Nhân bất
định.
Lại
nữa, “không phải chuyên cần dũng
mãnh không gián đoạn có thể phát sanh Tông” đây, đang “dùng cái bình vân vân” là vật ‘làm Dị Phẩm Dụ” của nó, mà Nhân
vô thường “nơi” cái bình vân
vân Dị Dụ “kia” “hoàn toàn có”
(tức là cái bình vân vân hoàn toàn là tánh vô thường), như thế lại
một lần nữa, “Nhân” vô thường “đây” đã “dùng điện” làm đồng pháp,
lại “dùng cái bình làm đồng pháp, cũng là” có lỗi “bất định”. Thử
hỏi: ý của luận giả đây, Tông của ông “là như cái bình vân vân”
thuộc Dị Dụ là “tánh vô thường”, mà sao lại lập âm thanh “kia là
chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát ra”Tông? Hoặc
“là như Điện vân vân” thuộc Đồng Dị là “tánh vô thường”, mà sao lại
lập âm thanh “kia không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn
mới có thể phát ra” Tông?
Thí dụ thêm cho rõ:
Nhân
đây đối với Đồng Phẩm Dụ thì có một phần tác dụng quan hệ, nhưng
đối với Dị Phẩm Dụ thì tác dụng quan hệ hoàn toàn, như:
*-
Tông:Âm thanh không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn
mới có thể phát sanh,
*-
Nhân:Vì nó là tánh vô thường,
*-
Đồng Phẩm Dụ: Như điện và hư không,
*- Dị
Phẩm Dụ:Như cái bình.
Nhân
đây là biện minh âm thanh vô thường cho Tông, nhưng đối Đồng Phẩm Dụ
thì có một phần chuyển (một phần tác dụng quan hệ) vô thường của
điện và một phần không chuyển (một phần không tác dụng quan hệ)
thường trụ của hư không. Do đó Nhân đây đối với Đồng Phẩm Dụ là
vô thường hay thường trụ không nhất định, nên bị lỗi bất định.
Còn
Dị Phẩm Dụ, Nhân đây hoàn toàn chuyển biến tác dụng quan hệ tánh
vô thường của cái bình.
B4/-
Tợ Nhân:
Nhân
Bất Định Nơi Trong Dị Phẩm Dụ MộtPhầnChuyển
Mà Nơi
Trong Đồng Phẩm Dụ Hoàn Toàn Chuyển.
Luận:
Dị Phẩm một phần chuyển, Đồng Phẩn
hoàn toàn chuyển đây, như lập Tông nói rằng: “Âm thanh thì chuyên
cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh, vì tánh vô
thường”. “Chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh”
Tông, dùng cái bình vân vân làm Đồng Phẩm, tánh của nó vô thường,
nơi đây hoàn toàn có. Dùng điện, hư không vân vân làm Dị Phẩm, nơi
kia một phần điện vân vân thì có, hư không vân vân thì không, vì thế
như trước cũng là bất định.
Chú
Thích:
“Dị Phẩm một phần chuyển Đồng Phẩm
hoàn toàn chuyển”:Nhân của
chỗ thiết lập nơi trong Dị Phẩm Dụ có một nửa (một phần) là có thể
tác dụng (một phần chuyển), nơi trong Đồng Phẩm Dụ đều hoàn toàn có
thể tác dụng (hoàn toàn chuyển).
“Âm
thanh là chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh,
vì tánh vô thường”: lập
lượng nói rằng: “Âm thanh” là pháp có thật, thiết lập “chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh” làm Tông, đề cử
Nhân nói rằng: “do vì tánh của nó là vô thường”.
“Dùng
cái bình vân vân làm Đồng Phẩm”:nghĩa
là “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh
Tông” đây, như dùng cái bình vân vân làm Đồng Phẩm Dụ của nó (nhân
vì cái bình là chỗ tác dụng từ nơi chuyên cần dũng mãnh không gián
đoạn).
“Tánh
nó vô thường, nơi đây hoàn toàn có”:“đây” là chỉ cho cái bình. Nghĩa là tánh vô thường của Chi
Nhân, nơi Dụ cái bình đây (Đồng Phẩm Dụ) là hoành toàn có (do tánh
của cái bình đây hoàn toàn là vô thường).
“Dùng
điện và hư không không làm Dị Phẩm”:nghĩa là “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn có thể
phát sanh”Tông đây lại dùng điện và hư không vân vân làm Dị Phẩm
Dụ, nguyên vì điện và hư không vân vân đều là không phải chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn là chỗ tạo tác để thành Dị Phẩm Dụcủa
Tông này.
“Nơi
kia một phần điện vân vân thì có”:Nghĩa là tánh vô thường nơi trong Dụ kia, nó một nửa, điện
vân vân là có tánh vô thường.
“Hư
không vân vân là không”:
nhưng ở nơi hư không đây một nửa (một phần) mà nói, lại là không
có tánh vô thường. Nhân đây cũng trở thành “Nhân bất định”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ
nói nơi “Dị Phẩm một phần chuyển”mà
nơi Nhân bất định của “Đồng Phẩm
hoàn toàn chuyển đây, như” có người “lập Tông nói: âm thanh” là pháp có thật, lập “chuyên cần dũng mãnh không gián
đoạn mới có thể phát sanh” làm Tông, đề cử Nhân nói rằng: do vì
nó là “Tánh vô thường”. “Chuyên
cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể phát sanh Tông” đây
quan hệ nơi “dùng cái bình vân vân
làm Đồng Phẩm” Dụ của nó (do vì cái bình cũng là chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn mới tạo tác ra nó). Vả lại “Tánh vô thường” của Chi Nhân “nó, nơi” Dụ cái bình của Đồng
Phẩm “đây” thì “hoàn toàn” có (do vì cái bình
cũng là tánh vô thường). Nhưng mà chuyên cần dũng mãnh không gián
goạn mới có thể phát sanh lại là “dùng
điện, hư không vân vân làm Đồng Phẩm” Dụ (Nguyên nhân điện và
hư không đều không phải chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới
có thể phát sanh tánh, vì là Pháp Dị Phẩm), mà tánh vô thường của
Chi Nhân nó “nơi” trong Dị Phẩm Dụ “kia một phần” (một nửa) “điện vân
vân thì có” (vì điện là tánh vô thường), nhưng nơi “hư không vân vân”
lại “là không” (vì hư không không có tánh vô thường), nguyên do tánh
vô thường ở trong Dị Dụ của Chi Nhân đây, lại có một nửa có thể
chuyển, một nửa không thể chuyển,”là
vì” Chi Nhân đây “như trước”
có lỗi “bất định”.
Thí
dụ thêm cho rõ:
Nhân
đây đối với Đồng Phẩm Dụ thì chuyển biến hoàn toàn, còn đối với Dị
Phẩn Dụ thì một phần chuyển biến và một phần không chuyển biết,
như:
*-
Tông: Âm thanh thì chuyên cần dũng mãnh không gián đoạnmới có
thể
phát sanh,
*-
Nhân: vì tánh vô thường,
*-
Đồng Phẩm Dụ: như cái bình,
*- Dị Phẩm Dụ: như điện và hư không.
Nhân
đây là biện minh tánh vô thường của Tông âm thanh, nhưng đối với cái
bình cũng là tánh vô thường. Còn đối với Dị Phẩm Dụ, Nhân đây có
một nửa tác dụng quan hệ với điện và một nửa không tác dụng quan
hệ với hư không nên bị bất định. Do đó Nhân đây đối với Dị Phẩm Dụ
là vô thường hay thường trụ không nhất định, nên bị lỗi bất định.
B5/-
Tợ Nhân:
Nhân
Bất Định Nơi Trong Câu (cả hai) Phẩm
Dụ
Đều
Có Một Phần Chuyển.-
Luận:
Câu (cả
hai) Phẩm một phần chuyển đây, như nói: “Âm thanh là thường, vì
không chất ngại.” Trong Tông đây, dùng hư không, cực vi làm Đồng Phẩm,
tánh không chất ngại nơi hư không vân vân thì có, nơi cực vi vân vân
thì không; dùng cái bình, niềm vui vân vân làm Dị Phẩm, nơi niềm vui
vân vân thì có, nơi cái bình vân vân thì không; vì thế Nhân đây dùng
niềm vui, dùng hư không làm Đồng Pháp, cũng gọi là bất định.
Chú
Thích:
“Câu Phẩm một phần chuyển”: “Câu Phẩm”, nghĩa là Đồng Phẩm Dụ cùng Dị
Phẩm Dụ cả hai mỗi loại đều có một phần chuyển, một phần không
chuyển (một nửa chuyển, một nửa không chuyển). Như trên đã nói, nếu
chỗ thiết lập là cần chân năng lập thì tất nhiên phải là “Đồng Phẩm nhất định có, Dị Phẩm nhất
định không” (Đồng Phẩm hoàn toàn chuyển, Đị Phẩm không chuyển). Hiện
tại Đồng Phẩm chỉ một phần chuyển,
vì thế không phải là hoàn toàn
chuyển(nhất định có); còn Dị Phẩm cũng một phần chuyển, mà không
phải là hoàn toàn không (không chuyển), cho nên Chi Nhân đây liền
băng qua Đồng Dị hai phẩm không thể xác định, do đó có lỗi Nhân bất
định.
“Âm thanh thì thường, vì không chất
ngại”: như lập luận nói
rằng” “Âm thanh là pháp có thật, dùng đang trụ làm Tông”, mà thiết
lập Nhân nói rằng: do vì nó không có chất ngại”.
“Trong
Tông đây là thường, dùng hư không, cực vi làm Đồng Phẩm”:Tông “thường” của chỗ này đương dùng hư
không cùng cực vi làm Đồng Phẩm Dụ. Nguyên vì thiết lập Tông này
tất nhiên phải là Thanh Luận của ngoại đạo, bọn ngoại đạo đây quan
hệ chấp hư không cùng cực vi đều là thường, cho nên đối với chúng
nó mà nói, hư không cùng cực vi được cho là Đồng Phẩm Dụ của “Tông
Thường” mà lập lượng rằng: “Âm thanh là thường làm Tông; Nhân: vì
không chất ngại, Đồng Dụ như hư không, cực vi.”
“Tánh
không chất ngại nơi hư không vân vân thì có, nơi cực vi vân vân thì
không”: Nhưng mà Tánh không chất ngại của nó nơi
“Chi Nhân”, đối nơi hư không mà nói
thì có (cũng tức là hư không
có tánh không chất ngại, đây tức là “một phần không chuyển”). Do đó Chi “Nhân không chất ngại”
đây ở nơi trong Đồng Phẩm Dụ lại thành là “một phần chuyển, một
phần không chuyển” (cũng tức là Nhân
không chất ngại, nơi trong Đồng Phẩm Dụ, một nửa có thể work, một
nửa không thể work), cho nên có lỗi của Nhân bất định.
“Dùng cái bình, niềm vui vân vân
làm Dị Phẩm”:“niềm vui”,
nghĩa là lạc thọ. Lại nữa, “Tông thường” đây, nhất định là dùng cái
bình cùng niềm vui làm Dị Phẩm Dụ, mà lập lượng rằng: “Âm thanh là
thường làm Tông; Nhân: vì tánh không chất ngại; Đồng Dụ như hư không, vi trần; Dị Dụ như
cái bình cùng niềm vui”. Nguyên vì cái
bình là vô thường, niềm vui cũng là vô thường, Nhân đây đều được
cho là Dị Dụ của Tông thường đây.
“Nơi niềm vui vân vân thì có, nơi
cái bình thì không”:Tuy nhiênChi
“Nhân không chất ngại” đối nơi niềm vui lại giảng cho là có (niềm vui cũng là không chất ngại), cho
nên“nhân không chất ngại” nơi Dụ
niềm vui lại có thể chuyển ---- đây tức là nơi “Dị Phẩm một phần chuyển”. Nhưng “Nhân không chất ngại” đây
đối nơi Dụ cái bình mà nói lại là không (cái bình có chất ngại,
không phải không chất ngại), cho nên “Nhân không chất ngại” đây nơi
“Dụ cái bình tức là không chuyển---- đây tức là “Dị Phẩm một phần không chuyển”.
Hiệp nơi trên thì “Nhân không chất
ngại” đây, lại nơi trong Đồng Phẩm Dụ cùng Dị Phẩm Dụ, đều mỗi thứ
có một phần chuyển, một phần không chuyển, cho nên thành Nhân bất
định.
“Vì dùng niềm vui, dùng hư không làm
Đồng Pháp, cũng gọi là bất định”: nghĩa là Nhân không chất
ngại đây đã có thể dùng “niềm vui” làm Đồng Pháp Dụ, lại có thể
dùng “hư không” làm Đồng Pháp Dụ, nhưng niềm vui thì vô thường, mà hư
không thì thường, một thường một vô thường, đều có thể là Đồng
Pháp Dụ của “Nhân không chất ngại”, cho nên “Nhân” đây có lỗi bất
định.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói Nhân bất định của “Câu Phẩm một phần chuyển đây, như”
lập lượng “nói: âm thanh” là “thường” làm Tông, đề cử Nhân
nói rằng: do “vì” nó là “không chất ngại”. “Tông thường
trong” lập luận “đây”, là “dùng hư không” cùng “cực vi làm Đồng Phẩm” Dụ của nó
(nguyên vì hư không cùng cực vi đều là thường, vì thế được làm Đồng
Phẩm Dụ), nhưng mà Chi Nhân “tánh
không chất ngại” của nó, “nơi
hư không vân vân” thì “có”,do
hư không cũng là không chất ngại, do đó Nhân không chất ngại nơi
Đồng Phẩm Dụ đây là một phần chuyển. Nhưng mà Nhân của tánh không
chất ngại “nơi cực vi vân vân”
thì là “không”, do cực vi không
phải không chất ngại, cho nên Nhân không chất ngại nơi trong Đồng
Phẩm Dụ đây liền trở thành một phần không chuyển. Lại nữa Tông
thường đây đang “dùng cái bình,
niềm vui vân vân làm Dị Phẩm” Dụ (do vì cái bình và niềm vui đều
là vô thường, nhờ đó được làm Dị Phẩm Dụ của Tông thường); nhưng
mà Chi Nhân của tánh không chất ngại của nó “nơi niềm vui vân vân” là “có”,
nguyên vì niềm vui cũng là không chất ngại, cho nên Chi Nhân không
chất ngại đây nơi trong Dị Phẩm Dụ trở thành là một phần chuyển.
Nhưng Chi Nhân của tánh không chất ngại đây “Nơi cái bình vân vân” thì là “không”, nguyên vì cái bình không phải không chất ngại, vì
thế Chi Nhân của tánh không chất ngại đây nơi trong Dị Dụ này, lại
trở thành là một phần không chuyển. Do bởi Chi Nhân không chất ngại
đây nơi trong Đồng Phẩm Dụ cùng Dị Phẩm Dụ mỗi thứ đều có hiện
tượng một phần chuyển, một phần không chuyển, từ đó Dụ đây “cố nhiên cũng gọi” là có lỗi “bất định” (lý do niềm vui là vô
thường, mà hư không là thường, một thường một vô thường, tánh của
nó phản lại nhau, nhưng lại có thể cả hai làm Đồng Phẩm Dụ, mà Chi
Nhân của nó lại có thể nơi hai tánh chấtchuyển trong Dụ phản lại
nhau, bởi thế Chi Nhân đây có lỗi bất định.)
Thí dụ thêm cho dễ hiểu:
Cái
Nhân đây đối với Đồng Phẩm Dụ và Dị Phẩm Dụ chỉ có một phần tác
dụng quan hệ, nên bị lỗi bất định (lỗi không nhất định), như:
*-
Tông: Âm thanh thì thường,
*-
Nhân: Vì không chất ngại,
*-
Đồng Phẩm Dụ: Như hư không và cực vi,
*- Dị
Phẩm Dụ: Như cái bình và niềm vui (lạc thọ).
Nhân
đây đối với hư không không chất ngại của Đồng Phẩm Dụ thì có một
phần tác dụng quan hệ, còn đối với cực vi có chất ngại của Đồng
Phẩm Dụ thì không có một phần tác dụng quan hệ. Chẳng những thế
Nhân đây đối cái bình có chất ngại của Dị Phẩm Dụ thì không có một
phần tác dụng quan hệ, còn đối với niềm vui không chất ngại thì có
một phần tác dụng quan hệ. Vì thế Nhân không chất ngại đây nơi trong
Đồng Phẩm Dụ và Dị Phẩm Dụmỗi thứ đều có hiện tượng một phần
chuyển (quan hệ) và một phần không chuyển (không quan hệ) cho nên có
lỗi bất định.
B6/-
Tợ Nhân:
Nhân Bất Định Của Quyết Định
Trái Ngược Nhau.
Luận:
Quyết định trái ngược nhau đây, như
lập Tông nói: “Âm thanh là vô thường; vì(nó là) chỗ
tạo tánh; thí dụ như cái bình vân vân”. Có chỗ lập (Tông
nói:)“Âm thanh là thường; vì (nó là)chỗ
tánh nghe; thí dụ như tánh âm thanh.” Vì hai Tông đây đều là do dự,
cả hai gọi là bất định.
Chú
Thích:
“Quyết định trái ngược nhau”: Chi Nhân của hai Tông đây là chỉ hai Tông
của chỗ tạo lập trái ngược nhau.
“Vì hai
Tông đây đều là do dự”: Chi
Nhân của hai Tông đây đều biến thành Nhân do dự. Nguyên vì “Tông vô
thường” cố nhiên là “chỗ tạo tánh”, nhưng “chỗ tạo tánh” đây đều
không thể dùng đến để bác bẻ “âm thanh là chỗ tánh nghe” của phía
địch, để chứng minh“âm thanh không phải là chỗ tánh nghe” khiến
cho Nhân của kẻ địch lập luận không được thành lập, nhân đó mà phủ
định Tông của nó. Do Nhân “chỗ tạo tánh” đây không thể đạt đến mục
đích phá Tông kia, cho nên trở thành là một thứ “Nhân do dự”. Thêm
nữa, “chỗ tánh nghe” của “Tông thường” đã không thể chứng minh Tông
của “âm thanh là thường nơi phía mình và lại không thể đả phá “chỗ
tạo tánh” của phía địch.Địch và ta
hai bên đã đều không thể đả phá đối phương, hai Tông lại mỗi tông
trở thành tự lập tự nói, mảy may không giao tiếp với nhau, do đó Nhân
của nó đều trở thành “Nhân do
dự”,không thể đạt đến xác định kết quả của lập luận (Nguyên vì
địch và ta hai Tông mũi kim tương đối đều có thể cả hai cùng lập
luận, vả lại không có pháp nào xác định là chính xác---- đã thế một thì chính xác, một thì phản
lại, tất nhiên nhất định chỉ có một là “phải”, mà riêng một là
“không phải", hôm nay Nhân của
hai bên đề cử đã đều không thể chứng thật ai là phải ai là không
phải, cho nên Nhân của nó trở thành là “do dự không xác định” vậy.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chính hai Tông phản lại “quyết định trái ngược nhau” mà Nhân phản lại của nó là
bất định “đây, như” có người
“lập Tông nói rằng: âm thanh là
vô thường”đề cử Nhân nói rằng: do “vì” nó là “chỗ tạo
tánh”: đề cử Dụ nói rằng: “thí
dụ như cái bình vân vân”. Nhưng “có”
đối thủ “lập” Tông nói rằng: “âm thanh” là “thường”, đề cử Nhân nói rằng: “dụ như tánh của tiếng”. (Nhưng mà Nhân của hai Tông đây,
chỗ tạo tánh cùng chỗ tánh nghe, đều không thể lẫn nhau bác bẻ đối
phương, khiến không thể thành lập; do Chi Nhân không thể bác bẻ phá
đối phương, cho nên mặc dù Tông Chỉ của nó rõ ràng trái ngược nhau,
nhưng hai Tông lại có thể đồng thời đều thiết lập). Vì thế “hai” Chi Nhân “đây đều là Nhân Do Dự”, “vì”
chính mình không có khả năng tác dụng xác định phá lập luận của kẻ
khác, cả hai “đều gọi” là Nhân “bất định”.
Thí dụ thêm cho dễ hiểu:
Nhân
của ta và địch đề cử cả hai đã không thể chứng minh Tông của ai là
phải và của ai là không phải, cho nên hai Tông đây trở thành là do
dự không xác định, như:
1.-
Bên ta:
*-
Tông: Âm thanh là vô thường.
*-
Nhân: Vì nó là chỗ tạo tánh,
*-
Đồng Phẩm Dụ:Như cái bình.
2.-
Bên địch:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân: Vì nó là chỗ tánh nghe,
*-
Đồng Phẩm Dụ: Như tánh của âm thanh.
Hai lập luận này trái ngược nhaumột bên
là Tông thường và một bên là Tông vô thường, nhưng đều quyết định
có thể thành lập được. Nhân của chỗ tạo tánh đây không thể bác
bẻ Âm thanh là chỗ tánh nghe của kẻ địch. Ngược lại Nhân của chỗ
tánh nghe đây không thể bác bẻ Âm thanh là chỗ tạo tánh của ta. Vì
thế hai Tông đây trở thành do dự
không xác định (do dự bất định)
C,-
BỐN THỨ TỢ NHÂN TRÁI NGƯỢC NHAU.
Luận:
Trái ngược nhau có bốn: 1- nghĩa là
Pháp tự tướng trái ngược nhau với Nhân, 2- Pháp sai biệt trái ngược
nhau với Nhân, 3- Hữu pháp tự tướng trái ngược nhau với Nhân, 4- Hữu
pháp sai biệt trái ngược nhau với Nhân vân vân.
Chú
Thích:
“Pháp tự tướng”: tức là tự tánh của Tông Thể, cũng tức
là bản ý của Tông
Thể.
“Pháp
sai biệt”: tức là Luận giả
đối với chỗ thầm kín của Tông Thể tự tạo tácý suy nghĩ, riêng có
chỗ ý hướng, hoặc ý hàm ẩn (imply), đây không phải bản ý của Tông
Thể, nên gọi là sai biệt.
“Hữu
pháp tự tướng”: tức là bản
ý của Tông Y (hữu pháp).
“Hữu
pháp sai biệt”: tức là Luận
giả suy nghĩa sai biệt đối với Tông Y hoặc ý hàm ẩn. Do không phải
bản ý của “hữu pháp”, cho nên gọi là sai biệt.
Nghĩa
Thông Suốt:
Tiết mục căn bản theo đây sẽ tóm lược;
(vì dưới đây sẽ tường thuật tinh tế).
C1/-
Tợ Nhân:
Tợ
Nhân CùngTự TướngCủa PhápTrái Ngược Nhau.
Luận:
Trong
đây tự tướng của pháp trái ngược nhau với Nhân, như nói: “Âm thanh
là thường, vì chỗ tạo tánh, hoặc vì chuyên cần dũng mãnh không gián
đoạn mới có thể phát sanh tánh.” (Hai)Nhân
đây chỉ có nơi trong Dị Phẩm, là vì trái ngược nhau.
Chú
Thích:
“Tự
tướng của pháp trái ngược với Nhân”: nghĩa là Chi Nhân so cùng tự thể tướng của Tông thể trái
ngược nhau.
“Nhân
đây chỉ có nơi trong Dị Phẩm, là vì trái ngược nhau”:“Nhân đây”, nghĩa là chỉ cho hai Nhân: “chỗ
tạo tánh” cùng “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn mới có thể
phát sanh tánh”. “Dị Phẩm” là chỉ cho Tông vô thường cùng Tông thường.
Nghĩa là “chỗ tạo tánh” và “chuyên cần dũng mãnh không gián đoạn
mới có thể phát sanh Tánh” hai Nhân đây, đều là chỉ ở trong “Tông
vô thường” của Dị Phẩm mới có, cũng tức là: chỉ có “Tông vô
thường” mới có thể thích dùng hai Chi Nhân đây, nhưng ở nơi “Tông
thường” lại không thích hợp, sở dĩ hai Nhân đây cùng Tông thể trái
ngược nhau, cho nên gọi là Nhân trái ngược nhau.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Trong
đây” chỗ nói “Nhân đây” của “Tự” thể “Tướng” (tự
tánh) cùng “pháp” (Tông thể) “trái ngược nhau, như”lập lượng “nói rằng: âm thanh”là “thường” làm Tông,do
“vì” nó là “chỗ tạo tánh,
hoặc” do “vì” nó là “chuyên cần
dũng mãnh không gián đoạn có thể phát sanh tánh”làm Nhân. Nhưng
hai “Nhân đây” đều “chỉ nơi trong” Tông vô thường mới
có thể “có” (mới có thể dùng
thích hợp), nhưng ở đây Thông thường thì không thiùch hợp, “cho nên”
có lỗi Chi Nhân cùng Tông Thể“trái
ngược nhau”.
Thí
dụ thêm cho rõ:
Bất
cứ Nhân nào cũng phải đầy đủ tánh chất của Tông thì hợp pháp. Nếu
Nhân thiếu tánh chất của Tông thì
không hợp pháp bị lỗi trái ngược nhau, như:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân: Vì nó là chỗ tạo tánh hoặc vì nó chuyên cần dũng mãnh
không
gián đoạn có thể phát sanh Tánh.
Nhân
đây là nói lên tánh vô thường cho nên trái ngược nhau với Tông
âm
thanh là thường, nên bị lỗi.
C2/-
Tợ Nhân:
Tợ
Nhân Cùng Tướng Sai Biệt Của Pháp Trái
Ngược Nhau.
Luận:
Nhân (cùng)pháp
sai biệt trái ngược nhau đây, như (lập tượng)nói:
“Nhãn căn vân vân tất nhiên là chỗ khác(chỉ cho chỗ Thân căn hoặc Thần
Ngã) thọ dụng; vì tánh chứa nhóm; như ngoạ cụ vân vân”(Đồng
Dụ). Nhân đây như có thể thành lập Nhãn căn vân vân “tất
nhiên là chỗ khác (thân căn) thọ dụng”(thuộc
Tông), như
thế (lỗi phản lại ở chỗ)cũng có thể thành lập chỗ
lập pháp sai biệt trái ngược nhau với chứa nhóm,cho chỗ khác(Thần
Ngã) thọ dụng: vì các ngoạ cụ vân vân là tánh chứa nhómcho chỗ
khác(cho Thân căn)thọ dụng.
Giải
Thích:
“Nhân pháp sai biệt trái ngược
nhau”: “Pháp” là Tông Thể. “sai biệt”, không phải bản ý của
Tông Thể, mà là bản ý giúp cho hoặcám chỉ trong bí mật của Luận
giả. “Trái ngược nhau” so cùng Tông Thể trái ngược nhau. “Nhân”
đây là chỉ cho Chi Nhân.
“Nhãn
căn vân vân tất nhiên là chỗ khác thọ dụng”: “Nhãn căn vân vân” là chỉ cho năm căn,
đây là “pháp có thật” (hữu pháp). “tất nhiên là chỗ khác thọ
dụng”, đây là chỉ cho Tông Thể. “Dụng” là thọ dụng. “Tha” là chỉ cho vấn đề mấu chốt lập
luận của chỗ khác được kết tựu nơi trên “chỗ khác”. Mà “chỗ khác”
đây là chỉ cho “Thân Căn”.Nếu như nói: Nhãn căn vân vân các căn
tất nhiên nhất định là hoàn toàn làm chỗ thọ dụng của thân căn,
như thế thì không có vấn đề gì khác. Nhưng
mà lập luận đây là chỉ có ở ngoại đạo, nơi “chỗ khác” đây trong
tâm của Luận giả không phải là thân căn, mà chính là ám chỉ “Thần
Ngã”. Nguyên vì người ngoại đạo
tin có Ngã, mà “Ngã” của họ lại có hai thứ: 1- Thần Ngã, là thể
của chân thường không sanh không diệt. 2- Thân Ngã, là do chỗ chứa
nhóm bốn đại tạo thành, là có sanh có diệt, đây là chỗ thọ dụng
của Thần Ngã.
“Vì
tánh chứa nhóm”:Nguyên vì
Nhãn căn vân vân là căn tánh chứa nhóm (bốn đại vân vân chứa
nhóm tạo thành), lại là chỗ thọ dụng của thân. Sở dĩ Luận giả
ngoại đạo liền sử dụng đây mà suy rộng ra liền thành:
*- Nhãn căn (tánh chứa nhóm) ---->làm
chỗ thọ dụng của thân,
*-
Thân (tánh chứa nhóm) -----> làm chỗ thọ dụng của Thần Ngã.
Nhưng
mà suy luận đoạn thứ hai lại không tin chỗ hàm ẩn, mà đem chữ “Thân” thuộc “tánh chứa nhóm
của Nhãn căn ----- làm chỗ thọ dụng của thân” đổi thành chữ “chỗ
khác” bao gồm ý mơ hồ khó hiểu, sau đó ý định dùng chữ “chỗ khác”
đây để ám chỉ cho “Thần Ngã”.
“Như
ngoạ cụ vân vân”: Ngoạ cụ
đây cũng là tánh chứa nhóm (vì ngoạ cụ cũng là do bốn đại chứa
nhóm tạo thành), mà ngoại đạo nói: Nhân vì nó chứa nhóm giúp cho
thân thọ dụng. Luận giả liền dùng Dụ này cần yếu so sánh biết “thân cũng là tánh chứa nhóm, cũng là
hoàn toàn giúp cho Thần Ngã thọ dụng”. Chỗ phạm sai lầm của Luận
giả: cho “ngoạ cụ của tánh chứa nhóm là hoàn toàn giúp cho thân
thọ dụng”, cũng không thể chứng minh “thân căn của chứa nhóm là
hoàn toàn giúp cho Thần Ngã thọ dụng”. Nguyên nhân là:
1, Ngoạ cụ của tánh chứa nhóm là chỗ thân
của tánh chứa nhóm thọ dụng; nhưng
Thần Ngã đều không phải tánh chứa nhóm, làm sao có thể thọ dụng
như thân của tánh chứa nhóm?
2,
Thần Ngã có hay là không còn hoàn toàn chưa có thể xác chứng, làm
sao có thể thọ dụng hiện tiền như thân có xác chứng?
3, “Ngoạ cụ là chỗ thọ dụng của thân” còn hoàn toàn không
thể dùng đến để chứng minh “Nhãn căn vân vân các căn là chỗ thọ
dụng của thân”, lại huống hồ có thể dùng đến để chứng minh “thân
căn là chỗ thọ dụng của Thần Ngã”.
Nguyên vì nói ba thứ đây: thứ nhất là có
thật, thứ hai là suy tưởng, thứ ba
là hoàn toàn tưởng tượng, vả lại ba thứ đây thuật chuyện là “song
hành” (parallel), không có giao tiếp tập hợp, cũng tức là khoảng
cách kia và đây đều không có quan hệ nhân quả, thì cố nhiên những
thứ nói trên suy luận không thể thành lập.
“Nhân đây như có thể thành lập
Nhãn cănvân vân tất nhiên là cho chỗ khác thọ dụng”: “Nhân đây” là Nhân của tánh chứa nhóm. “Thành lập”là chứng thật, ủng hộ
(support). “Nhãn căn vân vân tất nhiên là người khác thọ dụng”,
Nhãn căn vân vân các căn tất nhiên là hoàn toàn khiến cho “chỗ
khác” (Thân căn) thọ dụng.
“Như
thế cũng có thể thành lập pháp sai biệt trái ngược nhau chứa nhómđể
cho chỗ khác thọ dụng”: “Như
thế”mỗi lần phản lại thì nói: “thành lập”,ủng hộ (ở nơi ý đây là
bác bẻ). “Chỗ lập pháp” nghĩa là chỗ lập Tông, tức là “tất nhiên
cho người khác thọ dụng”.“Chỗ lập
pháp sai biệt”, tức là chỉ cho Thần Ngã.(Xưa nay “chỗ lập pháp”
là chỉ cho Thân căn, mà ý của Luận giả chỗ “sai biệt” hàm ẩn đều
là chỉ cho Thần Ngã.) “Trái ngược nhau”, nghĩa là trái ngược ở sau
lưng. “Chứa nhóm cho chỗ khác thọ dụng”, nghĩa là tánh chứa nhóm để
cho chỗ khác thọ dụng. Hợp lại câu trên nói rằng: nếu như “Nhân
của tánh chứa nhóm” đây thật có thể dùng để ủng hộ (chứng thật)
“Nhãn căn vân vân các căn tất nhiên là Tông, làm chỗ cho thân căn
thọ dụng. Như thế lỗi phản lại là nói Nhân đây cũng có thể dùng
đến để chứng thật: Nhân đây là chỉ cho Thần Ngã (chỗ lập pháp sai biệt) là hoàn toàn trái ngược ở
sau lưng của tánh chứa nhóm (không phải tánh chứa nhóm), cho nên Nhân
của thân căn đây đều không phải là chỗ “khác” thọ dụng.
“Các ngoạ cụ vân vân, là vì chứa
nhóm cho chỗ khác thọ dụng”:Nguyên
vì chính các ngoạ cụ vân vân đều giống nhau, bản thân của ngoạ cụ
là tánh chứa nhóm, mà lại cũng giống nhau là tánh chứa nhóm để
làm chỗ thọ dụng của “thân khác”. Lý
giống nhau có thể chứng minh, nếu “Thần Ngã” cần thọ dụng thân căn
của tánh chứa nhóm này thì bản thân của “Thần Ngã” tất nhiên cũng
phải là tánh chứa nhóm giống nhau thân căn này; nhưng “Thần Ngã”
đều không phải là tánh chứa nhóm, cho nên Thần Ngã không thể thọ
dụng thân căn này.Lại nữa, nếu
ông thay đổi tính toán nói “Thần Ngã cũng là tánh chứa nhóm” thì
Thần Ngã cũng trở thành vô thường, thì Thần Ngã trái ngược với Tông của ông chủ trương
rằng “Thần Ngã là chân thường, không sanh không diệt”. Cho nên Tông
của ông thiết lập: cho “là chỗ khác thọ dụng” thì không được thành
lập.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói “Nhân
đây” cùng “pháp sai biệt trái
ngược nhau, như” lập lượng “nói
rằng: Nhãn căn vân vân” các căn “tất
nhiên là”chỗ“khác”(thân
căn hoặc Thần Ngã) thọ “dụng” (đây
là Tông), thiết lập Nhân nói rằng: do “vì” nó là “tánh chứa
nhóm”;đề cử Đồng Dụ nói rằng: “như
ngoạ cụ vân vân”, do vì ngoạ cụ là tánh chứa nhóm, toàn bộ tất
nhiên là chỗ thọ dụng của thân khác. Nhưng mà “Nhân” của tánh chứa nhóm “đây
như có thể thành lập” (ủng hộ), Tông của “Nhãn căn vân vân tất nhiên là chỗ khác thọ dụng, như là”, cólỗi
phản lại “cũng có thể thành lập”
(ủng hộ), “chỗ lập pháp sai biệt”
(Thần Ngã) là “trái ngược nhau”
nơi tánh “chứa nhóm” (Thần Ngã
không phải tánh chứa nhóm), nguyên vì thân căn không phải “chỗ
khác” thọ “dụng” (Thần Ngã không phải tánh chứa nhóm, không có
pháp thân của tánh chứa nhóm thọ dụng). Chính giống nhau như bản
thân của “các ngoạ cụ vân vân là
Tánh chứa nhóm”, mà lại “khác”nhau ở “chỗ thọ dụng”; nhưng mà trong lập lượng đây, Nhân của
chỗ thiết lập đối với pháp sai biệt có lỗi trái ngược nhau, cho nên
trở thành Tợ Năng Lập.
Thí dụ thêm cho dễ hiểu:
Cái Nhân
cùng pháp sai biệt trái ngược nhau, như:
*-
Tông: Nhãn căn vân vân tất nhiên là chỗ khác (thân căn hay Thần
Ngã)
thọ dụng.
*-
Nhân: Vì là tánh chứa nhóm,
*-
Đồng Dụ: Như ngoạ cụ.
Nhân
và pháp (Tông) sai biệt ở chỗ Thần Ngã và trái ngược nhau ở
chỗ chứa nhóm và thọ dụng:
1,
Sai biệt nhau như:
*- Nhân vì là tánh chứa nhóm, nhưng Thần Ngã thì không có tánh
chứa
nhóm,
*- Nhãn căn vân vân vì có tánh chứa nhóm nên vô thường, nhưng
Thần
Ngã vì không có tánh chứa nhóm nên chân thường,
*- Thân căn vì có tánh chứa nhóm nên bị sanh diệt, nhưng Thần
Ngã thì
không có tánh chứa nhóm nên không bị sanh diệt.
2,
Trái ngược nhau như:
*- Thần Ngã không phải là tánh chứa nhóm thì không thể thọ
dụng như
như Thân
căn có tánh chứa nhóm.
*- Thần Ngã có thật hay không có thật chưa
có xác chứng thì không thể
thọ dụng
hiện tiền như Thân căn có xác chứng.
*- Toạ cụ là chỗ thọ dụng của Thân căn còn không thể dùng
để chứng
minh Nhãn căn vân vân là chỗ thọ dụng của Thân căn thì làm
sao có
thể chứng minh Thân căn là chỗ thọ dụng của Thần Ngã.
Bao nhiêu điều trình bày trên cũng đủ
chứng minh giữa Nhân (tánh chứa
nhóm) và Tông (Thần Ngã), giữa Thân căn và Thần Ngã sai biện
và trái ngược nhau nên không thể thành lập.
C3/-
Tợ Nhân:
Tợ
Nhân Cùng Tự Tướng Của Hữu Pháp Trái Ngược Nhau.
Luận:
Nhân đây của tự tướng hữu pháp
trái ngược nhau, như nói: “Có tánh, không phải thật không phải đức không
phải nghiệp; vì có mộtđiều thật, vì cóđứcnghiệp; như tánh Đồng Dị”.
Nhân đây như có thể trở thành che đậy điều Thật vân vân, như thế
cũng có thể trở thành che đậy hữu tánh, vì đều quyết định.
Chú
Thích:
“Tự
tướng hữu pháp”: “Hữu pháp”
tức là Tông Y. “Tự tướng” tức là nói giải bày (như nói chỗ giải
bày), cũng tức là nó biểu hiện bên ngoài, là ý nghĩ trực tiếp
(đều không phải ý hàm ẩn của lời nói bên ngoài).
“Không
phải thật không phải đức không phải nghiệp”: ngại đạo Thắng Luận Ấn Độ có thiết lập “Sáu Cú Nghĩa”:
1,
Thật Cú: nghĩa là thật thể
của các pháp là chỗ nương tựa của Đức và Nghiệp; Thât Cú Nghĩa có
9 thứ: Địa, Thủy, Hoả, Phong, Không, Thời, Phương, Ngã, Ý. (đây chính
là chân thật).
2, Đức
Cú:là công năng thuộc tánh
của Thật Cú Nghĩa, cộng chung có 24 Đức: Sắc, Hương, Vị, Xúc, Số,
Lượng, Biệt Tánh, Hợp, Ly, Bỉ Tánh, Thử Tánh, Giác, Lạc, Khổ, Dục,
Sân, Cần, Dũng, Trọng Tánh, Dịch Tánh, Nhuận Tánh, pháp, Phi Pháp,
Hành, Thinh. (đây là nương nơi chân thật).
3,
Nghiệp Cú:đây là vận động
của các Thật Cú Nghĩa, cộng chung có năm nghiệp: Thủ, Xả, Khuất (co
lại), Thân (duỗi ra), Hành (đi). (đây là tát dụng chân thật)
4, Đại
Hữu Cú: Thể của “Hữu” đây
là duy nhất, nghĩa là ba thứ Thật, Đức, Nghiệp đây là “có” đồng
nhất, nên gọi là Đại Hữu.
5,
Đồng Dị Cú: nghĩa là do pháp
của cú này mà khiến các pháp có chỗ Đồng và Dị. (Cũng tức là tất cả các pháp đây “Đồng và Dị của
nguyên tắc chung, hoặc động lực chung; ngoại đạo cho Cú đây là
có thật).
6, Hoà
Hợp Cú: nghĩa là do nơi pháp
của cú đây mà có thể khiến tất cả các pháp hoà hợp (tức là vì
cú đây tất cả pháp “động lực
chung hoà hợp”, nếu không cú này tất cả các pháp đều không
đặng hoà hợp; ngoại đạo cho cú này là có thật). Lại nữa nghĩa là
do tác dụng của Hoà Hợp Cú mà có thể khiến cho năm Cú: Thật, Đức,
Nghiệp, Đại Hữu, Đồng, Dị thu hút lệ thuộc lẫn nhau và không xa lìa
nhau.
Trong
sáu Cú Nghĩa của sư Thắng Luận thiết lập, kỳ thật là do “Đại Hữu” (Being) làm trung tâm,
làm chủ thể, nguyên vì họ nói:“Đại
Hữu” hàm chứa Thật, Đức, Nghiệp (ôm lấy cả Thật, Đức, Nghiệp),
nhưng “Đại Hữu” lại là độc lập, là một thể và “Đại Hữu” là lớn
nơi Thật, Đức, Nghiệp, thường hiển bày tánh của Thật, Đức, Nghiệp, nhưng bản thân của “Đại Hữu” đều
không phải Thật, Đức, Nghiệp; đã không phải tổng hợp của Thật, Đức
Nghiệp và cũng không phải tánh phân biệt của Thật, Đức, Nghiệp; thí
như Phạm Thiên đã ôm giữtất cả chúng sanh, nhưng bản thân của Phạm
Thiên đều không phải tất cả chúng sanh, hoặc bất cứ chúng sanh nào.
Cho nên Sư Thắng Luận kia lập lượng nói rằng: “Đại Hữu không phải là Thật, không phải là Đức và cũng
không phải là Nghiệp”. Đây hoàn toàn biểu thị “Đại Hữu” là tồn tại “vượt qua” tất cả, lại không phải
giống nơi tất cả”.
“Vì có
mộtđiều Thật, một Đức, một Nghiệp”:Đây là Nhân của ngoại đạo thiết lập. Là nói cái gì “Đại
Hữu không phải là Thật, không phải là Đức, không phải là Nghiệp”
lý do tại sao?“Vì” Đại Hữu ôm
lấy cả“Thật Cú cả Đức Cú, cả
Nghiệp Cú”, Đại Hữu không những ôm lấy cả Thật Cú Nghĩa, mà lại cũng
ôm lấy cả Đức Cú Nghĩa cùng Nghiệp Cú Nghĩa; nhân đây Đại Hữu
không phải Thật, không phải Đức, không phải Nghiệp. Luận lý của
ngoại đạo lập luận là: “Đại Hữu” đã ôm lấy “Thật Đức Nghiệp”
thì bản thân nó đã không phải là Thật Đức Nghiệp, nhân vì “nó có ôm lấy” (the
possessor), mà Thật Đức Nghiệp thì “bị nó có ôm lấy” (the possessed);“nó
có ôm lấy” thì không có khả năng vân vân nơi “bị nó có ôm lấy”,
nhân vì “nó có ôm lấy” phải to lớn hơn nơi “bị nó có ôm lấy”, “Đại
Hữu” là to lớn hơn nơi tất cả “có”, nên gọi là “Đại Hữu”. Nếu
dùng hình thức Luận Lý (formula) biểu thị, tức là như:
*- “Đại Hữu” có ôm lấy “Thật Đức
Nghiệp”
*- “Đại Hữu” > “Thật Đức Nghiệp”
*- “Đại Hữu” =/= “Thật Đức Nghiệp” (“Đại Hữu” không phải Thật Đức
Nghiệp)
*-
“Đại Hữu không phải Thật, không phải Đức, không phải Nghiệp”
thành lập Tông.
(*- Đọc là “Nhân vì”; Đọc là “sở dĩ).
Lập
luận như thế có điểm biểu tượng “Luận
ngựa trắng không phải ngựa”. Nhưngđọc giả phải biết, luận “Đại Hữu” của ngoại đạo đây,
cho đến tất cả sáu Cú Nghĩa đều không thể nói đùa, mục đích sau
cùng của nó ở chỗ muốn thành lập “Phạm
Ngã” và “Thần Ngã” vượt tự
nhiên, ôm lấy tất cả hữu, nhưng lại không thuộc nơi tất cả.
Lại nữa, chữ “Hữu của ngoại đạo là một
điều Thật, có Đức Nghiệp” lại có riêng một lớp ý nghĩa, tức là: nơi ngoài “Đại Hữu Cú”, quyết định
riêng có thật thể tồn tại độc lập của Thật, Đức, Nghiệp Cú, nhưng Thật
Đức Nghiệp đây tuy là tồn tại độc lập, lại “Đại Hữu” chính là chỗ
ôm lấy các hữu(các thật thể của Thật Đức Nghiệp).Họ lập lượng rằng: “Thật Đức
Nghiệp là Hữu Pháp, là Tông: lìa ngoài tánh Đại Hữu quyết định có
đặc biệt; đề cử Nhân nói rằng: vì có một điều Thật, vì có Đức
Nghiệp”.
“Như
tánh Đồng Dị”: đây là “Đồng
Dụ” của Luận giả đề cử, nghĩa là dụ
như tánh của “Đồng Dị”, “Đồng Dị” cùng “Đại Hữu” giống nhau, là tánh
của Thật Hữu, mà lại nó cũng giống nhau cùng “Đại Hữu, không phải
Thật không phải Đức không phải Nghiệp”.
“Nhân
đây như có thể trở thành che đậây điều Thật vân vân”: “Nhân đây” chỉ “Có” một điều Thật, có
Đức Nghiệp” (nguyên vì Đại Hữu ôm lấy Thật Đức Nghiệp, cho nên bản
thân của Đại Hữu không phải là Thật Đức Nghiệp). “Thành” là thành
lập. “che đậy”, làm trở ngại khiến
không thành tựu, khiến không thành lập (invalidate; repudiate). “Điều
Thật vân vân” là Thật Đức Nghiệp vân vân. Nghĩa là Chi Nhân đây
nếu như có thể khiến “Đại Hữu”
tức là Thật Dức Nghiệp” thì không thể thành lập, Nhân mà có
thể thành lập thì “Đại Hữu” không phải Thật Đức Nghiệp”.
“Như
thế cũng có thể trở thành che đậy hữu tánh”:“Hữu Tánh” là bản tánh của Đại Hữu, tức
là Đại Hữu có khả năng ôm lấy tánh của Thật Đức Nghiệp. Nghĩa là Nhân đây cũng có thể dùng đến khiến
tánh của “Đại Hữu có Thật Đức Nghiệp thì không được thành lập. Là
tại sao?Đã thế ông nói: “Đại Hữu
không phải Thật, không phải Đức, không phải Nghiệp”, thì trong Đại
Hữu phải có tánh của Thật Đức Nghiệp; nếu trong “Đại Hữu” không có
tánh của Thật Đức Nghiệp, thì không thể nói “Đại Hữu” có Thật Đức
Nghiệp; Nhân đây, “Hữu Tánh” của “Đại Hữu” lại thành “vô tánh”,
nguyên vì trong “Đại Hữu” không Thật Đức Nghiệp, tức là không một
vật, cho nên không thể tái xưng là “Hữu Tánh” của “Đại Hữu”, cũng
không thể xưng bản thân của “Đại Hữu” là tánh của Thật Hữu, do vì
trong nó không có vật. Lại nữa, nếu bản thân của “Đại Hữu” không
phải Thật Đức Nghiệp, nhưng một ngày sau khi có Thật Đức Nghiệp, tức
là hàm chứa có tánh của Thật Đức Nghiệp, đúng là hoàn toàn không
thể nói “Đại Hữu không phải Thật Đức Nghiệp”. Hơn nữa trong “Đại
Hữu” ngoại trừ Thật Đức Nghiệp, đều không có vật nào khác, cho nên chỗ xuất hiện tánh của “Đại
Hữu”, tánh thật của nó tức là Thật Đức Nghiệp; Đại Hữu đã có
Thật Đức Nghiệp, vả lại ngoại trừ Thật Đức Nghiệp ra, trong “Đại
Hữu” đều không có vật khác, mà lại tánh chỗ hiện ra của Đại Hữu,
cũng là chỉ có tánh của Thật Đức Nghiệp, nhân đây kiên quyết nói
“Đại Hữu không phải Thật không phải Đức không phải Nghiệp”,là
không thể thành lập.
“Vì đều quyết định”:“Đều” đây là chỉ “hai thứ che đậy đã nói
ở trên: “Che đậy điều Thật vân vân” và “Che đậy Hữu Tánh”. Hai thứ che
đậy đây đều là quyến định thành lập. Nói đơn giản, Nhân của ông đề
cử nếu có thể che đậy Đại Hữu “là
Thật Đức Nghiệp” (mà khiến Tông thành lập của “không phải Thật
không phải Đức không phải Nghiệp”) tất nhiên cũng có thể che đậy
Đại Hữu là “tánh của Hữu Pháp” (liền trở thành: “Hữu Tánh” của Đại Hữu không phải cóThật
Đức Nghiệp---- mà chính là Vô Tánh), vì thế Nhân đây trở thành
là Nhân của “Tự tướng (tự tánh) Hữu Pháp trái ngược nhau”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói “Nhân
đây của tự tướng (tự tánh)cùng“Hữu
Pháp trái ngược nhau, như”có người lập lượng “nói rằng:” “Tánh” của Đại
“Hữu” (có tất cả, nhưng bản thân thì) “không phải Thật, không phải Đức, không phải Nghiệp” (làm
Tông); thành lập Nhân nói rằng: do “vì”
Đại Hữu “có Thật” Thể, cũng “có Đức” cùng “Nghiệp”,Đại Hữu có tất cả, Đại nơi tất cả, cho nên
không phải Thật Đức Nghiệp. Dụ “như
tánh Đồng Dị”. Nhưng mà Chi “Nhân”
đây “như có thể thành” lập “che đậy”ngăn trở Đại Hữu tức là
“Thật” Đức Nghiệp “vân vân”, mà khiến Tông thành
lập của Đại Hữu không phải Thật Đức Nghiệp, “như thế” phản lại “cũng
có thể thành” lập “che đậy”
ngăn trở “hữu tánh” của Đại
Hữu, mà thành lập “không có tánh (vô tánh); do “vì” hai thứ che đậy đây “đều
quyết định” thành lập, Nhân đây lại có lỗi cùng tự tướng của
hữu pháp (Tông Y) trái ngược nhau.
Thích
Luận:
Sư Thắng Luận lại xưng là Vệ Thế Sư, lại
gọi là Hưu Lưu Tiên Nhơn.“Ông là người xuất thế ở trước Phật 800
năm, khi người dùng Thơ Tịch Thinh Sắc của ông, ở ẩn Sơn Tẩu, đêm
vừa dứt tai nghe mắt thấy mới đi khất thực, xem có hơi giống chim Hưu
Lưu, nên gọi ông là Hưu Lưu Tiên Nhơn. Và ông chứng được Ngũ Thông,
liền luận nói mười vạn bài kệ, nghĩa là chứng quả bồ đề, liền hân
hoan nhập diệt”. Đệ tử được truyền
pháp sau đó là Ngũ Đảnh (được thấy trong Tam Tạng Pháp Số 48 trang
nhất, Vệ Thế Sư Điều và Khuy Cơ Đại Sớ).
Lại
nữa, thuyết “Đại Hữu” của sư Thắng Luận Ấn Độ, Trung Thổ so sánh cũng
không được xinh đẹp đặc biệt, do vì Lão Tử Trung Thổ cũng có loại
thuyết tương tợ. Lão Tử nói: “Có vật do hỗn độn thành, trước khi
trời đất sanh, vắng lặng, độc lập mà không biến đổi, đi khắp mà
không biếng trể, có thể là mẹ thiên hạ (tức là khả năng sanh và
bao hàm tất cả), tôi không biết tên của nó, chữ của nó gọi là
Đạo,mạnh khoẻ tên gọi là Đại.”(Lão
Tử Đạo Đức Kinh, thiên Thượng, chương thứ 25).Trong đây “Độc lập mà
không biến đổi” tức là giống nhau với tánh Đại Hữu của Thắng Luận,
là có thật tánh tự thể, lại có thể lìa tất cả pháp mà có (độc
lập), vả lại tánh của nó đều là “Thường” (không biến đổi). “Có
thể là mẹ của thiên hạ), tức là có thể sanh tất cả pháp, hàm có
tất cả pháp. “Gọi là Đại”, nghĩa là giống nhau cùng với “Đại Hữu”.
Thí
dụ thêm cho dễ hiểu:
Nhân
đây giải bày (tự tướng) Tông Y (hữu pháp) trái ngược nhau, như:
*- Tông: Tánh của Đại Hữu không phải
thật, không phải đức, không phải
Nghiệp,
*-
Nhân: Vì Đại Hữu có điều thật, có đức, có nghiệp,
*-
Dụ: Đồng Dị: là tánh thật hữu giống nhau với Đại Hữu không phải
thật
đức nghiệp.
Nhân
đây trái ngược nhau với Tông ở chỗ:
1,
Nhân đây cho rằng “vì Đại Hữu có thật thể, có đức nghiệp”, như thế
Nhân đây cũng có thể trở thành che đậy tánh của Đại Hữu, vì Tông
đây nói rằng “Tánh của Đại Hữu không phải thật, không phải đức
không phải nghiệp”.
2, Đại
Hữu không phải thật đức nghiệp thì trong Đại Hữu phải có tánh của
thật đức nghiệp. Nếu trong Đại Hữu không có tánh của thật đức
nghiệp thì không thể nói Đại Hữu có thật đức nghiệp.
3,
Nhân đây, Đại hữu có tánh trở thành không tánh, nguyên vì Đại Hữu
không có thật đức nghiệp, nghĩa là không có vật. Nhưng tánh chỗ
hiện ra của Đại Hữu chính là tánh của thật đức nghiệp
Nhân
đây cương quyết nói: “Đại Hữu không phải thật không phải đức không
phải nghiệp”của Tông Y là không thể thành lập.
C4/- Tợ Nhân:
Tợ Nhân So Cùng Hữu Pháp Sai Biệt Trái
Ngược Nhau.
Luận:
Hữu
pháp sai biệt trái ngược nhau với Nhân đây, như là Nhân đây, tức là
nơi Tông, trước có pháp sai biệt tạo tánh hữu duyên, cũng có thể
thành lập cùng với sai biệt đây tạo không phải tánh hữu duyên, như
che đậây chân thật vân vân, vì đều quyết định.
Chú
Thích:
“Hữu pháp sai biệt nhau”: “Hữu Pháp” tức là Tông Y, như “Đại Hữu”
trong chương trước. “Sai biệt nhau” cùng với “Tự Tướng” tương đối là “ý chuẩn y” của Hữu Pháp (chỗ chuẩn y tự ý của Luận Giả), cũng
tức là: ý ám chỉ trong tâm của
Luận Giả, cũng tức là ý tứ
chân chánh của họ.Như “Đại Hữu” đây là ý trực tiếp của một
Tông Y làm “Hữu Tánh”, nhưng Luận Giả lại ám chỉ “Đại Hữu” lìa tất
cả pháp mà có tánh”, đây chính là chỗ “tướng sai biệt” của “Hữu
Pháp”.
“Nhân
đây”: tức là Chi Nhân “có
một thứ Thật, có một thứ Đức và có một
thứ Nghiệp”.
“Tức là nơi Tông trước”: tức là Tông “không phải Thật, không phải
Đức,
không phải Nghiệp”.
“Hữu Pháp sai biệt”: Hữu Pháp của Tông đây là “Đại Hữu”, căn
cứ nơi Thắng Luận nói, tức là “Đại Hữu” đây có thật thể, mà tướng
sai biệt của nó tức là “Đại Hữu của không thật thể”.
“Tạo
có tánh duyên”: “Duyên” đây
tức là Nhân. “Tạo có tánh duyên” liền trở thành là Nhân của
“Hữu”, mà thành lập: “Tánh của
Đại Hữu là lìa tất cả pháp có tự tánh”.
“Cùng trái ngược nhau đây tạo không
phải có tánh duyên”:“Không
phải có” tức là không. Nghĩa là Chi Nhân đây cũng không thể thành
lập (ủng hộ), “không phải có” trái ngược nhau cùng “có thật thể”,
như thành lập Nhân của “câu không phải có Thật, câu không phải có
Đức, câu không phải có Nghiệp”, mà ngoại đạo đây nói “Thật Đức
Nghiệp” đều là có thật, Nhân đây liền mâu thuẫn với tự tướng.
“Như che đậy Thật vân vân, vì đều
quyết định”: như che đậy “Đại Hữu là có thật”, hoặc che đậy “Đại Hữu
không phải có thật”, cả hai đây đều có thể dùng đồng thời thành
lập (quyết định),cho nên
“Nhân” đây cùng với “sai biệt nhau của hữu pháp (Trung tâm ngoại đạo
ám chỉ rằng: “Đại Hữu lìa tất cả pháp có thật thể”) trái ngược
nhau.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói nơiTrung Tâm Luận Giả ám chỉ là “Nhân đây trái ngược nhau”của
tướng “hữu pháp sai biệt, như là” Chi
“Nhân” vì có một pháp Thật, có
một Đức,có một Nghiệp “đây, tức
là”chỉ chotướng “hữu pháp sai
biệt” của “Tông” đã tường
thuật “ở trước”, nếu có thể “tạo” làm “tánh duyên”(tánh nhân) của “Hữu”, mà thành lập tánh của Đại Hữu là lìa tự tánh của
tất cả Pháp Hữu, thì “cũng có thể
thành lập”luận “cùng” đích
thực“trái ngược nhau đây”, để“tạo” làm “tánh duyên (tánh nhân) không
phải có” của nó,nghĩa làthành
lập câu không phải có Thật, câu không phải có Đức, câu không phải
có Nghiệp.Chính “như” chỉ“che đậy”Đại Hữu cho là “thật” có cùng không phải thật
có “vân vân”, hai thứ đây “đều” là “vì quyết định”, cho nên Nhân đây có lỗi “trái ngược nhau
tướng sai biệtcủa Tông Y.
Chú
Thích:
Đại
ý của chương đây, nói đơn giản là:
a> “Luận
đúng”: *- “Đại Hữu” có Thật Đức Nghiệp.
*- “Đại Hữu” lìa tất cả pháp có tự tánh.
(*- Nó có tự tánh.*- Mới có
thể ôm lấy pháp hữu
khác.*- “Đại Hữu” lìa tất cả
pháp có tự tánh của
nó.) (*- Tụng cho là “làm Nhân”; Tụng cho là
“sở dĩ”.
b> “Luận
phản lại”: *- “Đại Hữu” có Thật Đức Nghiệp.
*- “Đại Hữu” lìa tất cả pháp
không tự tánh.
(*- Tánh có
của “Đại Hữu”, tức là tánh “có của
ThậtĐức
Nghiệp”, cũng tức là
“Đại Hữu” chỗ cho “Đại
Hữu là có”, là Nhân “có Thật Đức Nghiệp”, cũng tức là nó “có”
tức là “Thật Đức Nghiệp”;cũng tức là, chỗ “có” của nó đây tức là Thật Đức Nghiệp, ngoại trừ Thật Đức Nghiệp, “Đại
Hữu” đều không có sở hữu. *- “Đại Hữu” không thể lìa Thật Đức
Nghiệp mà có tánh.*- “Đại Hữu” lìa tất cả pháp liền không tự
tánh.)
Thí dụ thêm cho dễ hiểu:
Nhân đây so cùng Hữu Pháp tức là
Tông Y sai biệt trái ngược nhau
như:
*- Tông: Đại Hữu có thận đức
nghiệp.
*- Nhân: lìa tất cả pháp không tự
tánh.
Đại
Hữu theo phái Thắng Luận là Hữu Tánh, nghĩa là tánh của Hữu
Pháp mà Hữu Pháp tức là chỉ cho Thật Đức
Nghiệp, là sở hữu của Đại Hữu. Đại Hữu không thể lìa thật đức
nghịệp mà có tánh. Đại Hữu nếu lìa tất cả pháp của thật đức nghiệp
liền không có tự tánh gọi là vô tánh mà Đại Hữu không có tánh
thì không thể ôm lấy (bao hàm) pháp hữu khác. Nhưng Nhân đây lại
nói, Đại Hữu lìa tất cả pháp không tự tánh, thức là Đại Hữu không
có tánh. Do đó Nhân đây sai biệt trái ngược nhau với Tông Hữu Pháp,
nên không thể thành lập.
3.- Tợ Dụ:
Luận:
Đã nói Tợ Nhân, đang nói Tợ Dụ.
Tợ Đồng Pháp Dụ nó có 5 thứ: 1-
Năng Lập Pháp không thành, 2- Sở Lập Pháp không thành, 3- Câu không
thành, 4- Vô Hạp, 5- Đảo Hạp.
Tợ Dị Pháp Dụ cũng có năm thứ: 1-
Sở Lập không trái, 2- Năng Lập không trái, 3- Câu không trái, 4-
Bất Ly, 5- Đảo Ly.
Chú
Thích:
Chỗ gọi là “Dụ”, tức là sự dụ, cũng tức là phía sau của Tông đề xuất (mệnh đề) cùng Nhân (lý do), tất nhiên phải đề
cử sự thật cụ thể lần nữa, cũng
chính là chứng cứ (evidence), mới có thể chứng minh Tông và Nhân chỗ
đề xuất của nó là có căn cứ trên “sự thật”. Nguyên vì “Mệnh Đề” (Tông)
cùng lý do (Nhân) chỗ đề xuất của nó, nơi cơ bản đều
là trên lý luận, là nó “tự chấp nhận”, cũng chính là chủ quan, tuy
nhiên là từ chỗ đầu mối tinh vi xuất hiện trong khung tạo dựng nơi
“tự giáo” của nó, nhưng chỉ là ở trong lý luận chủ quan của nó tự
thành một nhà, thành “lý thuyết của lời nói”, nhưng mà giáo nghĩa
của chúng nó đối với giáo nghĩa của kẻ khácmà nói thì đều không
nhất định thành lập. Nhân đây, nó tất nhiên phải đề xuất “trên sự
việc” một ít “khách quan”, lại cùng “Tông” và “Nhân” đều có quan hệ,
vả lại đều có thể chỉ khoảng cách cho ra “Tông” cùng “Nhân” tánh
luận lý tất nhiên “sự thật cụ thể”, một sự thật cụ thể (tangible
thing or fact) như thế, lại là “Dụ” chỗ nói của Nhân Minh.Sở dĩ “Dụ” trong Nhân Minh tương đương nơi
chứng cứ (evidence) hoặc “Chứng Dụ”
(Evidential Analogy), hoặc “Dụ Chứng”
(Analogical Evidence). Đây là chỉ “Dụ Năng Lập” mà nói, cũng có thể
là đủ để ủng hộ chỗ lý luận chứng minh Dụ của (Tông và Nhân).
Nhưng mà Dụ của chỗ đề cử nếu như chỉ có hình thức Dụ của nó, nhưng
trên bản thân của nó lại có mọi thứ thiếu sót hoặc sai lầm thì Dụ
đây không thể tạo công dụng “làm chứng” đến cùng cho “Tông và
Nhân”, cho nên Dụ đây lại gọi là “Tợ
Năng Lập Dụ”, mà không thể thành lập chân chánh.
Nghĩa
Thông Suốt:
Tiết
mục đây chỉ giản lược, đề sau này tường thuật rõ hơn.
A)- Tợ Đồng Dụ.-
Tợ
Đồng Dụ 1: Tợ Đồng Dụ của Pháp Năng Lập Không Thành.-
Luận:
Pháp Năng Lập không thành(Dụ) đây,
như nói: “Âm thanh là thường(làm Tông); vì không chất ngại; (do)các (vật
của tánh)không chất ngại (chúng
ta đều)thấy (được)nó là
thường. Dụ như cực vi”. Nhưng cực vi (của Đồng Dụ)kia là pháp
sở thành lập, (liền cho)tánh thường là có, (thế là) pháp không chất ngại không thể thành lập, do vì các tánh
chất ngại của cự vi.
Chú
Thích:
“Pháp
Năng Lập”: tức là “Nhân”;
nguyên vì chỉ có trông cậy vào xuất sắc của “Chi Nhân” để ủng hộ,
thì “Tông” mới có thể thành lập, cho nên “Nhân” đây tức là Năng Lập, mà “Tông” tức là Sở Lập.
“Âm thanh là thường; vì không chất
ngại”: như lập lượng rằng:
“Âm thanh là thường” làm Tông; đề cử Nhân nói rằng: “do vì nó không
chất ngại”. Đây là “Hợp lại” của Ngũ Phần Luận “Tông, Nhân, Dụ,
Hợp, Kết”, ý nói rằng: dùng các vật của tánh không chất ngại,
chúng ta đều thấy được chúng nó là thường, do đây có thể biết tất
cả không chất ngại đều là thường; từ đó “kết” luận rằng: âm thanh
là thường. Chẳng qua “kết luận” đây ở trong văn luận thì hoàn toàn
tỉnh lược.
“Dụ
như cực vi”: đây tức là Dụ
của chỗ đề cử. “Cực Vi”, dụ như ngày nay gọi là nguyên tử, là đơn
vị vật chất rất nhỏ.
“Pháp sở
thành lập”: tức là “Tông”.
“Nhưng cực vi kia là pháp sở thành
lập, tánh thường thì có”:Nhưng
Dụ của “cực vi” đây đối với Tông (là pháp chỗ muốn thành lập) mà
nói, nó có tánh thường; cũng tức là: có tánh thường; cũng tức là:
cực vi, mặc dù cùng Tông không khác, là có tánh thường.
“Không
có thểthành lập pháp không chất ngại”: “Có thể thành lập pháp”, tức là Nhân.
Nghĩa là: chỉ cực vi thì không có “tánh không chất ngại” của chỗ “Chi
Nhân” nói, cũng tức là cực vi không phải “không có tánh chất
ngại”, cho nên cùng Chi Nhân không hạp.
“Do vì
các tánh chất ngại của cực vi”:nguyên
vì các cực vi thì có tánh chất ngại, cho nên “Dụ Cực Vi” đây đối
với “Chi Nhân” (vì không chất ngại) mà nói, không thể thành lập; do nơi “Dụ cùng Nhân trái ngược
nhau”, cho nên có lỗi của “Pháp năng lập không thành”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ
nói “Pháp năng lập không thành”
Dụ “đây, như” lập lượng “nói: âm thanh” là “thường” làm Tông,“vì” nó dùng “không chất ngại” làm Nhân, hợp lại nói rằng: do “các” vật của tánh “không chất ngại”, chúng ta đều “thấy” được “nó là thường”, mà âm thanh là không chất ngại, cho nên
là thường. Đồng Dụ: “dụ như cực
vi”. Nhưng” Dụ của “cực vi kia”
nơi “tánh thường của pháp” (Tông),“chỗ” muốn “thành lập”liền cho “là
có” (liền cho cực vi là tánh thường), nhưng nơi tánh “không chất ngại” của “pháp năng thành lập” (Nhân) lại
là “không”(cực vi không phải
không có chất ngại),“do vì các cực
vi” vốn là có “tánh chất
ngại”,do đó tánh của Dụ đây cùng Chi Nhân không hợp nhau, cho
nên Dụ cùng Nhân trái ngược nhau, thế là pháp năng lập có lỗi
không thể thành lập.
Thí dụ thêm cho rõ:
Pháp năng lập là chỉ cho Nhân còn pháp sở
lập là chỉ cho Tông. Nguyên vì cái Nhân là nhằm để thành lập cái
Tông. Nhưng Dụ này trái ngược với Nhân nên bị lỗi không thành. Như:
*- Tông:Âm thanh là thường,
*-
Nhân: Vì nó không chất nhại,
*-
Đồng Dụ: Như cực vi.
Dụ
cực vi đây là tánh thường thì thích hợp với tánh thường của Tông,
nhưng Dụ cực vi là tánh có chất ngại cho nên trái ngược với tánh
không chất ngại của Nhân, vì thế bị lỗi bất thành.
Tợ
Đồng Dụ 2:
Tợ Đồng Dụ của Pháp Sở Lập Không
Thành.
Luận:
Pháp Sở Lập không thành đây, nghĩa
là nói: “như hiểu biết”(Dụ).Như thế tất cả hiểu biết là
pháp năng thành lập không có chất ngại. Pháp sở thành lập không
có tánh thường trụ; do vì tất cả hiểu biết đều vô thường.
Chú
Thích:
“Pháp sở lập”: tức là Tông chỗ muốn lập.
“Nghĩa
là nói như hiểu biết”:đây
là tiếp nối Tông đã tường thuật ở trước: “Âm thanh là thường, vì
không chất ngại”, đây là “Dụ” của chỗ tạo tác.“Hiểu biết” là thứ 11 của Đức Cú trong 6 Cú Nghĩa của
Thắng Luận, tương đương danh từ chung của Tâm Tâm Sở Pháp nơi trong
Phật Pháp. “Hiểu biết” đây có thể hiểu là Giác Tri (perception),
cũng có thể hiểu làGiác Thọ (sensation).
“Như
thế tất cả hiểu biết, là pháp năng thành lập không có chất ngại”: “Pháp năng thành lập” tức là Chi Nhân;
Chi Nhân đây là có “tánh không chất ngại”(cũng tức là tánh “hiểu
biết” không chất ngại), do đó Dụ đây đối với Chi Nhân lại giải
thích là có thể thành lập.
“Pháp
sở thành lập không có tánh thường trụ”:“Pháp sở thành lập” là pháp muốn thành
lập, tức là Chi Tông. “Thường Trụ” là do nơi chỗ lập “Tông: “Âm
thanh là thường”, cho nên “Thường Trụ” tức là “Tông” của Luận này
(chỗ thành lập pháp). “Không” là tánh không của Dụ này, trong Dụ Không
chỗ nói tánh “hiểu biết” cũng tức là: “Tông” của thường trụ đây,
là tánh của không “hiểu biết”; nguyên vì tánh của “Dụ” đây cùng
tánh của “Tông” trái ngược nhau,(Dụ cùng Tông trái ngược), cho nên
có lỗi “Pháp sở lập không thành”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói “Pháp
sở lập không thành” Dụ “đây,
nghĩa là” như trước Tông của chỗ lập: Âm thanh là thường, do vì
nó không chất ngại, mà đề cử Dụ “nói:
như hiểu biết” vân vân,“như thế
tất cả hiểu biết” (Tâm và Tâm Sở Pháp) nơi tánh “không chất ngại” của “Pháp năng thành lập” (Nhân) là “có” (tánh hiểu biết là không chất
ngại), nhưng nơi “tánh thường trụ”
của “pháp” (Tông) “sở thành lập”
thì lại “không”có (Tánh hiểu
biết cho nên không phải thuộc pháp thường trụ), “do vì tất cả hiểu
biết” giác thọ “đều” là “vô
thường”, cho nên Dụ đây cùng Tông trái ngược, mà có lỗi pháp
sở lạâp không thành.
Thí dụ thêm cho rõ:
Pháp
sở lập là chỉ cho Tông. Nhưng Đồng Dụ đây trái ngược với Tông nên
bị lỗi không thành. Như:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*- Nhân:Vì nó không chất ngại,
*-
Đồng Dụ: Như hiểu biết.
Dụ
hiểu biết đây không chất ngại thì thích hợp với không chất ngại của
Nhân. Nhưng hiểu biết là tánh vô thường cho nên trái ngược tánh
thường của Tông, vì thế bị lỗi bất thành.
Tợ Đồng Dụ 3:
Tợ Đồng Dụ của Câu (Tông
và Nhân)Không Thành.-
Luận:
Câu (Tông và Nhân)không
thành đây lại có hai thứ: có (Dụ)và
không phải có(Dụ).Nếu
nói: “Như cái bình”, có (thì) câu (cả
hai)không thành. Nếu nói: “Như cái Không”, đối với luận không
phải có, tức là không, câu (tông và nhân cũng) không
thành.
Chú
Thích:
“Câu không thành”: “Câu” là chỉ cho Tông cùng Nhân. Nghĩa là
Dụ đây đối với Tông cùng Nhân cả hai mà nói, đều không thể thành
lập, nguyên vì tánh của Dụ đây
cùng với tánh của Tông và Nhân đều không hợp nhau.
“Có và không phải có”: tức là có Dụ và không phải có Dụ.
“Nếu nói như cái bình”: đây chỉ là nương theo nơi Tông đã lập ở
trước: “Âm thanh là thường, do vì nó không chất ngại”. Đề cử Dụ nói
rằng: “Như cái bình”.
“Có (thì)câu(cả hai đều) không thành”: “Có” nghĩa là cái bình tuy là có (là vật có cụ thể).“Câu
không thành”, chỉ vì Nhân của cái bình là vô thường, lại có chất
ngại, cho nên so cùng thường (Tông)
và không chất ngại (Nhân) đều trái ngược nhau,là vì Dụ đây đối với Tông cùng Nhân, cả hai mà nói, đều
không thể thành lập.
“Nếu
nói: như cái Không”:giống
nhau là nương theo Tông đã lập ở trước: “Âm thanh là thường, do vì nó
không chất ngại”, đề cử Dụ nói: “Như
cái Không”.
“Đới
với luận không phải có và không đều không thành”: “Luận không phải có”, tức là ngoại đạo
của luận không có cái “Không”, tức là tính của cái “Không” không
phải có. “Không”là không có cái Không.
“Đều không thành” thì Dụ cái
Không đây đối với không có cái Không của luận giả lại giảng, đã
là không có cái Không, sao lại nói cái “Không” ở trên là thường
hoặc vô thường, có chất ngại hoặc không chất ngại? Do đó, Dụ
đây đối với không có cái Không của Luận giả đãø nói, nơi “Tông”
cùng “Nhân” có lỗi trái ngược nhau, cho nên đều không thành (câu
không thành).
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói đối với Tông cùng Nhân, Dụ “đây câu không thành”, “hai thứ” đây “lại có”, tức là “có”
Dụ “và không phải có”Dụ.“Nếu” lập lượng “nói:”Âm thanh là thường làm Tông, do vì nó không chất
ngại làm Nhân; đề cử Dụ rằng: “Như
cái bình”; cái bình tuy là “có”, nhưng nguyên vì cái bình là vô
thường, lại có chất ngại, cho nên Dụ đây đối với Tông cùng Nhân
mà nói “cả haikhông” thể “thành” lập. Lại nữa “nếu”
đề cử Dụ “nói: như cái Không”;
Dụ đây đối với có của cái Không, Luận giả lại giảng là có (thì
có thể dùng để thành lập), nhưng “luận”
của ngoại đạo nói “đối với không
phải có” cái Không, tức là “không
có” (thì không thể thành lập), nguyên vì chúng nó nói: đã là
không có “cái Không” (cái
“Không” đã là hoàn toàn không có) mà luận thế nào được rằng, cái “không”
là thường hoặc vô thường? Là có chất ngai hoặc không chất ngại? Do
đó, Dụ đây đối với Tông cùng Nhân mà nói, “cả hai đều không” thể “thành”
lập.
Thí dụ thêm cho rõ:
Dụ
này trái ngược với Tông và Nhân. Nguyên vì chọn Dị Dụ làm Đồng Dụ,
cho nên bị lỗi không thành. Như:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân:Vì nó không chất ngại,
*-
Đồng Dụ: Như cái bình, như cái không.
Dụ
như cái bình thuộc về vô thường và có chất ngại thì trái ngược với
Tông âm thanh thuộc về thường và không có chất ngại; còn Dụ như
cái Không thì không có thường hay vô thường, có chất ngại hay không
chất ngại, vì thế Dụ này không thể xác định giá trị không chất ngại
của Nhân. Hơn nữa cái bình thuộc về Dị Dụ lại đem thay thế Đồng Dụ,
cho nên cả hai đều bị lỗi không thành (câu bất thành).
Tợ Đồng Dụ 4:
Tợ
Đồng Dụ Không Hợp.
Luận:
Không
hợp đây, nghĩa là nơi chỗ không có phối hợp, nhưng nơi cái bình vân
vân hai pháp năng lập và sở lập hiện gấp đôi, như nói:“Nơi cái bình,
thấy tánh sở tạo và tánh vô thường”.
Chú
Thích:
“Không
hợp”: “Hợïp”, nghĩa là phối
hợp, kết hợp. “Không hợp”, là từ
không có phối hợp. Chỉ cho Dụ đây không thể hiển bày được sự liên
quan luận lý của Tông và Nhân, cùng Tông và Nhân không thể
phối hợp mật thiết, lại dùng để chứng minh Tông chỗ thành lập.
Pháp sư Chơn Giới nói rằng: “Dường như tất cả lập lượng, nên trình
bày từ thích hợp, như nói: “Các điều tạo tác đây đều là vô thường
vân vân”; nay thiếu từ của nó, cho nên chỗ này thành lỗi”.
“Nơi chỗ”: nghĩa là nơi Dụ này.
“Không
có phối hợp”: “Phối hợp”,
nghĩa là sắp xếp phối hợp. Đây chỉ khoảng cách của “Dụ” cùng “Tông
và Nhân” không thể phối hợp rất tốt, để đạt đến tác dụng nên có ở
nơi “Dụ” của nó.
“Chỉ
nơi cái bình vân vân”: “Cái
bìnhvân vân” là Dụ (“Cái bình vân vân” đây chỉ là một thí dụ mà
nói). Đây nghĩa là: chỉ có trong Dụ đã đề cử, thí dụ như “Cái bình”
vân vân.
“Hai
pháp năng lập và sở lập hiện gấp đôi”: “Hiện gấp đôi” là chỉ nêu ra song song. “Năng lập” tức là chỉ cho Chi Nhân.
“Sở lập” tức là chỉ cho Chi Tông. Nghĩa là chỉ ở nơi trong sự Dụ đã
đề cử, tánh hai pháp của Tông cùng Nhân song song được nêu ra, trung
gian đều không giao tiếp với nhau.
“Như
nói: nơi cái bình, thấy tánh sở tạo và tánh vô thường”:Như lập lượng nói: “Âm thanh là vô thường”
làm Tông; “do vì tánh chỗ tạo tác của nó” làm Nhân; đề cử Đồng Dụ
nói rằng: “Nơi cái bình (trong thí dụ đích thật như thế), (chúng tôi
đều có thể thấy đến cái bình đích thật có Chi Nhân) Tánh chỗ tạo
tácvà (Chi Tông) tánh vô thường”.Ở
trong Dụ đây chỉ hoàn toàn đề xuất “cái bình” có đủ tánh của Tông
cùng Nhân, nhưng lại không có dựa vào khoảng cách của hai cá tánh
đây rốt ráo có liên quan như thế nào; cũng tức làchờ đến lúc có thể đề xuất cung cấp
một chứng cứ, đạo lý đây lại chứng minh “nguyên vì là tánh chỗ tạo
tác, cho nên là vô thường”.Nơi khi đề cử Dụ phải biết: mục đích
của “Dụ” nơi đã đề cử là cần đến một sự thật thí dụ để ủng hộ
“tánh chỗ tạo tác” (Nhân) tức là “vô thường” (Tông); cũng tức là
dùng một sự thật thí dụ để chúng minh “do vì tánh chỗ tạo tác, vì
vô thường”. Nhưng hiện tại luận giả chỉ đem hai tánh của “cái bình
đặt song song”(đặt bằng nhau), khoảng cách của hai đây đều khôngcó bất
cứ liên quan luận lý nào, cho nên đều không thể Tông và Nhân hoà
“hợp” để phát khởi giúp cho Tông và Nhân đã thành lập có chút liên
quan mật thiết của luận lý(tánh hết sức tất yếu).
Lại nữa,chỗ
then chốt thiếu mất của Dụ đây ở
nơi chữ “và”,nguyên vì chữ “và”
là từ liên tiếp đối với vân vân;hiện tại nếu cần bổ cứu chỗ
thiếu mất đây, tất nhiên phải cải chánh rằng: “Âm thanh là vô
thường, do vì tánh đã tạo tác, Đồng Dụ như cái bình, (phối hợp nói
rằng:)các chỗ tạo tác đây đều là
vô thường.”Ởnơi đó thêm một
câu từ “pháp hợp”, tức là có thể khiến “Dụ” cùng hai pháp “Tông
và Nhân” kết hợp mật thiết nhau. Luận giả nguyên gốc chỗ lập Tông
và Nhân, trên luận lý mặc dù không mảy may bệnh hoạn (không lỗi),
đều có thể thành lập, đây chỉ là họ nương nơi “lý” mà “tự chấp
nhận” (có thể tự cho nó đã chu đáo nên nói), chỗ gọi là chủ quan,
tức là khiến có thể “nói chỗ lý hoàn thành”, chỉ là hoàn toàn
không có khách quan chứng minh sự thật (chứng cứ); hiện tại đề
cử Dụ, tức là ngoài Tông và Nhân nơi “trên lý”, lại đề xuất một
chứng cứ cụ thể khách quan “trên sự” để chứng minh “Tông và Nhân”
của chỗ thiết lập là sự thật có căn cứ, đều không phải vọng
tưởng không bằng chứng, do đó “Dụ” đây liền có thể chứng minh tánh
chính xác cùng tánh thực tại của
“Tông” và “Nhân” .Vì thế Dụ đây
không chỉ phải hiển bày tánh của “Tông” cùng “Nhân”, lại còn phải
có thể chỉ bày tánh luận lý liên
quan khoảng cách của “Tông” cùng “Nhân”: tức là tánh hết sức tất
yếu. “Dụ” như thế mới có thể
trở thành là có năng lực chứng cứ trên sự thật của “Tông cùng
Nhân”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ
nói Dụ của “không” luận lý
phối “hợp đây, nghĩa lànơi chỗ”
Dụ đối với Tông và Nhân,“không
có” thể luận lý khiến nó quan hệ “đi tới” kết “hợp”;“nhưng”
(chỉ) “nơi” trên Dụ “cái bình” của chỗ đề cử,do pháp
đồng cấp “song hiện”ra tánh “hai pháp” của Nhân “năng lập” cùng Tông “sở lập”, nguyên vì Dụ cùng Tông và
Nhân đều không thể phối hợp mật thiết để đạt đến tác dụng có
thích ứng của Chi Dụ.“Như” lập
lượng “nói rằng:”âm thanh là
vô thường làm Tông; do vì tánh chỗ tạo tác của nó làm Nhân; đề cử
Dụ nói rằng: “nơi cái bình”,
chúng ta đều “thấy” nó là “tánh của chỗ tạo tác và tánh vô
thường”. (Dụ đây tuy hoàn toàn hiển bày đầy đủ “tánh vô thường”
của Tông và “tánh chỗ tạo tác” của Nhân, nhưng “tánh chỗ tạo tác”
cùng “tánh vô thường” đây, nơi đó chỉ là cùng nêu lên, đề cử một
lược mà lập song song, kia và đây không có giao tiếp nhau, nên không
thể dùng đây để chứng minh: “tánh chỗ tạo tác” nhất định là “tánh
vô thường”, do đó không có pháp giúp đỡ (ủng hộ) cho Nhân của tánh
chỗ tạo tác để nhất định có thể thành lập Tông của “vô thường”),
do đó Dụ đây có lỗi không hợp.
Thí dụ thêm cho rõ:
Dụ đây không có lời phối hợp để kết
thúc cho dễ hiểu, như:
*-
Tông: Âm thanh là vô thường,
*-
Nhân: Vì tánh chỗ tạo tác của nó,
*-
Đồng Dụ: Như cái bình.
Dụ
cái bình đây chỉ hiển bày đầy đủ tánh vô thường của Tông và tánh
chỗ tạo tác của Nhân. Nhưng tánh chỗ tạo tác của Nhân và tánh vô
thường của Tông không có chút giao tiếp quan hệ lẫn nhau để nói lên
về tánh vô thường. CònDụ đây lại không có lời phối hợp nhằm chứng
minh tánh chỗ tạo tác của Nhân nhất định là tánh vô thường để ủng
hộ tánh vô thường của Tông, cho nên bị lỗi không hợp.
Tợ
Dồng Dụ 5:
Tợ
Đồng DụPhối Hợp BịĐiên Đảo.
Luận:
(Phối)Hợp (bị
điên)đảo đây, nghĩa là phải nói rằng: “Các chỗ tạo tác đây
đều là vô thường, mà lại điên đảo nói rằng: “Các vô thường đây
đều là chỗ tạo tác”. Như thế gọi là phẩm Tợ Đồng Pháp Dụ.
Chú
Thích:
“Hợpđảo”:
nghĩa là lờiphối hợp bị điênđảo. “Hợp” đây là hợp pháp; cũng là Hợp
củamột trong Ngũ Phần Luận “Tông,Nhân, Dụ, Hợp, Kết).
“Nghĩa
là phải nói rằng “các chỗ tạo tác đây đều là vô thường”, mà lại
nói điên đảo rằng “các vô thường đây đều là chỗ tạo tác”:“Các chỗ tạo tác đây” là Nhân; “Vô
thường” là Tông, đúng ra phải dùng “Nhân” để chứng minh cho “Tông”
mà không phải dùng “Tông” để chứng minh cho “Nhân”; vì thế hợp pháp
của trong “Dụ” đây là nói điên đảo.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói điên
“đảo” laø trình bày Dụ của
từ “Hợp, nghĩa là”nơi trong Dụ
đúng ra “phải nói rằng”: Đồng Dụ như cái bình, hợp pháp nói rằng: “Các chỗ tạo tác đây đều là vô
thường, mà lại nói điên đảo rằng: các vô thường đây đều là chỗ
tạo tác.” Như thế tức là có lỗi hợp pháp bị điên đảo.
“Như
thế gọi” là các “phẩm” của “Tợ Đồng Pháp Dụ”(Trên đây đã giải thích năm thứ Tợ
Đồng Pháp Dụ).
Thí dụ thêm cho rõ:
Lời
kết thúc phối hợp của Đồng Dụ đúng ra phải nói Nhân trước rồi nói
Tông sau. Nhưng Đồng Dụ ở đây lại nói Tông trước rồi nói Nhân sau
nên bị lỗi phối hợp điên đảo. Như:
*-
Tông: Cái bình là vô thường.
*-
Nhân: Vì chỗ tạo tác,
*-
Đồng Dụ: Các vô thường đây đều là chỗ tạo tác.
Đúng
ra Dụ đây phải nói: Các chỗ tạo tác đây (Nhân) đều là vô thường
(Tông). Nhưng ở đây phối hợp lại nói đảo ngược như: Các vô thường
đây (Tông) đều là chỗ tạo tác (Nhân), cho nên bị lỗi phối hợp điên
đảo.
B)- Tợ Dị Dụ.
*- Tợ
Dị Dụ 1: Tợ Dị Dụ Của Sở Lập Không Bỏ.-
Luận:
Trong pháp
Tợ Dị (Dụ), sởlập không bỏ(Dụ) đây,
nếu như có nói: “Các vô thường đây thấy nó (có) chất
ngại, thí như(Dị Dụ) cực vi.” Do nơi cực vi (Dị Dụ
vô thường) phápsở
thành lập(Tông cho là) thường tánh (Nhân
thì) không bỏ(Tông), (nhưng) vì họ (Ngoại
Đạo) lập cực vi là thường tánh, phápcó thể thành lập không
chất ngại(tức là) không (bị lỗi
không bỏ).
Chú
Thích:
“Tợ Dị Pháp”: là pháp Tợ Dị Dụ.Đây tức là pháp đúng
ra không phải pháp Dị Dụ có thể thành lập; “Thật ra pháp Dị Dụ” đây chỉ là “giống
nhau ở bề ngoài” (ngoại hình tương tợ nhau) mà thôi. Phàm là mục đích
cần lập pháp Dị Dụ thì phải “hiển bày ngược lại” (tương phản:
contrast) với Nhân. Sở dĩ nếu tưởng rằng
“vô thường” cho là hiển bày ngược lại với Tông “thường” và
tưởng rằng “có chất ngại” cho là hiển bày ngược lại với Nhân
“không chất ngại”,do đó phải cần lập “Dị Dụ” thì mới có thể hiển
bày ngược lại với “Đồng Dụ”. Vì thế, Dị Dụ cũng có thể nói là một
thứ “phản chứng” (dùng phương pháp tương phản để chứng minh).
“Sở lập không bỏ”:“Sở lập” tức là Tông. “Bỏ” tức là loại
bỏ, trừ khử, trừ khỏi. “Không bỏ” là
tánh của Dụ đây nơi trong Tông không thể trừ khỏi; cũng tức là
trong Chi Tông có tánh của Dụ này (Tánh của Tông cùng Dụ giống nhau).
“Các
vô thường đây thấy kia có chất ngại”:Như lập lượng nói rằng: “Âm thanh là thường” làm Tông; “do
vì không chất ngại” làm Nhân; các vô thường đây chúng tôi đều thấy
nó có chất ngại, mà âm thanh thì không chất ngại, cho nên âm thanh
không phải vô thường, mà chính là thường.
“Thí
như cực vi”: nương nơi Tông
trên, kế tiếp nói rằng: “Dị Dụ như cực vi”. Cực vi tuy là có chất
ngại, có thể làm Dị Dụ của “Nhân không chất ngại”, nhưng trong pháp
ngoại đạo kia lập cực vi cho là “Thường”, mà Tông “âm thanh cũng là
thường”, cho nên Dụ cực vi là “Thường”, mà Tông cũng là “Thường”,
giống nhau ở chỗ là “Thường”, do đó, cực vi không được thành lập
làm “Dị Dụ” cho “âm thanh”.
“Chỗ
thành lập pháp thường tánh không bỏ”:“Chỗthành lập pháp” tức là Tông. “Thường tánh” là Nhân,
nguyên do Tông của sở lập là “Âm thanh là thường”. “Không bỏ” là
không thể trừ bỏ. Nghĩa là Dị Dụ
của cực vi đây đều không thể “thường tánh để phản lại bỏ” Tông;
nguyên vì ngoại đạo lập cực vi là thường, cho nên tánh của “Dụ” đây
cùng tánh của “Tông” đã là giống nhau, thì không thể “phản lại bỏ”
(phản chứng) tánh của nó.
“Pháp có thể thành lập không chất
ngại không”:“Pháp có thể
thành lập” tức là Nhân; nguyên vì “Nhân” của sở lập: là “do vì
không chất ngại”. “Không chất ngại tức là không”: nghĩa là nó không
tánh chất ngại tức là không “có lỗi không bỏ”. Nguyên vì Nhân thành lập ban đầu là “không chất
ngại”, mà cực vi thì có chất
ngại, Nhân đây dùng cực vi tạo làm Dị Dụ, đối với “Chi Nhân” mà
nói, tức là không bị lỗi “không bỏ tánh của nó”. Phối hợp với
ở trên mà nói,tức là Dụ của cực
vi đây, nơi “Nhân” có thể thành Dị Dụ, nơi “Tông” thì không thành Dị
Dụ.
Nghĩa
Thông Suốt:
Nơi “trong
pháp Tợ Dị” Dụ, thứ nhất Dụ “đây
sở lập không bỏ”, “nếu như có”
người lập lượng “nói:” âm thanh
là thường làm Tông: do vì nó không chất ngại làm Nhân: do “các vô
thường đây” chúng ta đều “thấy kia” có “chất ngại”, mà âm thanh
không chất ngại, cho nên âm thanh không phải vô thường, do đó âm
thanh là thường; Dị Dụ là: “dụ như
cực vi. Do nơi” Dụ của “cực vi”
đây đối với “tánh thường” của “pháp sởthành lập” (Tông) đều “không” thể trừ “bỏ”, do “vì” ngoại
đạo “kia” đã “lập cực vi là tánh thường”, không thể dùng tánh thường
của cực vi phản lại hiển bày tánh thường của âm thanh, cho nên mất
công năng của Dị Dụ.Nhưng mà Dụ đây nơi tánh “không chất ngại” của
“pháp có thể thành lập” (Nhân), tức là “không có” lỗi không bỏ. Do
đó, Dụ đây nơi Nhân có thể thành Dị Dụ, nơi Tông thì không thể thành
Dị Dụ, do vì nó có lỗi sở lập không bỏ.
Thí
dụ thên cho rõ:
Dị Dụ
này không trái với Tông nên bị lỗi, như:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân: vì nó không chất ngại,
*- Dị
Dụ: Như cực vi là thường, nhưng nó có chất ngại.
Dị
Dụ cực vi này theo ngoại đạo cho là thường thì không trái với Tông,
nhưng nó có chất ngại vì thế trái với Nhân nên bị lỗi không
bỏ.
*- Tợ
Dị Dụ 2: Tợ Dị Dụ của Năng Lập Không Bỏ.-
Luận:
Năng lập (Nhân) không
bỏ đây, nghĩa là nói: “Như nghiệp”(Dị Dụ). Chỉ
bỏ sở lập(Tông), không bỏ năng lập(Nhân): vì kia (ngoại
đạo) bảo các nghiệp không chất ngại.
Chú
Thích:
“Năng lập không bỏ”: “Năng lập” tức là Chi Nhân. “Không bỏ”,
là không thể trừ bỏ. Nghĩa là Dị Dụ đây đối với “Nhân” mà nói,
không thể trừ bỏ tánh giống nhau của nó so với cùng “Dụ”: cũng tức
là tánh của “Dụ”cùng tánh của
“Nhân” không phải khác nhau, vì thế Dụ đây đối với “Chi Nhân” mà
nói, không được là “Dị Dụ”, do vì tánh của hai đây giống nhau.
“Nghĩa là nói: như nghiệp”:tức là như lập lượng ở trước: “Âm thanh
là thường làm Tông, do vì nó không chất ngại làm Nhân; Dị Dụ như
nghiệp”.
“Chỉ bỏ sở lập”: “Chỉ” tức là không những. “sở lập” tức
là Tông. Nghĩa là Dụ của “Nghiệp” đây, chỉ có thể phản lại để bỏ
tánh của “Chi Tông”; nguyên vì Tông này là “thường”, mà nghiệp là
“vô thường”, “nghiệp” của vô
thường có thể dùng phản lại để bỏ (phản lại biển bày) “Tông
thường” và Nhân đây được làm Dị Dụ của “Tông thường”.
“Không bỏ năng lập, vì kia bảo rằng
các nghiệp không chất ngại”:
“Năng lập” tức là Chi Nhân; Chi Nhân đây là “không chất ngại”. “Kia”
là chỉ cho ngoại đạo. Những ngoại đạo ấy cũng nói nghiệp là không
chất ngại, do đó, tánh của
“nghiệp” lại cùng với tánh của “Chi Nhân” giống nhau, đều là không
chất ngại, cho nên “Nghiệp Dụ” đây đều không thể dùng để hiển bày
phản lại (phản lại bỏ) tánh của “Chi Nhân”. Vì thế “Nghiệp Dụ” đây
không được thành là Dị Dụ của “Chi Nhân”. Phối hợp ở trên mà
nói, tức là “Nghiệp Dụ” đây, nơi “Tông” thì được thành Dị Dụ, nơi
“Chi Nhân” thì không được thành Dị Dụ.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ
nói nơi Nhân “năng lập không”
thể phản lại để “bỏ” (phản
lại hiển bày) tánh Dị Dụ của nó “đây,
nghĩa là” lập luận “nói rằng:”
âm thanh là thường làm Tông; do vì nó không chất ngại làm Nhân: Dị
Dụ “như nghiệp”.Nhưng Dụ của
nghiệp đây, “chỉ” có thể phản
lại để “bỏ” (phản lại hiển
bày) thường tánh của “sở lập”
(Tông), lại “không” thể phản
lại để “bỏ” (phản lại hiển
bày) tánh không chất ngại của “năng
lập” (Nhân), do “vì” ngoại
đạo “kia” cũng “nói các nghiệp” là “không chất ngại”, thì Dụ Nghiệp
cùng Chi Nhân đây đều là tánh không chất ngại, cho nên Dụ đây nơi
Nhân đều không công dụng phản lại để bỏ, do đó không được thành
là Dị Dụ của Nhân.
Thí dụ thêm cho rõ:
Tợ
Dị Dụ này không trái ngược với Nhân nên bị lỗi không bỏ, như:
*-
Tông:Âm thanh là thường,
*-
Nhân:Do vì nó không chất ngại.
*- Dị
Dụ:Như nghiệp.
Tợ
Dị Dụ này chỉ trái ngược với Tông là vô thường, nhưng giống nhau với
Nhân cũng là không chất ngại, cho nên bị lỗi.
*- Tợ
Dị Dụ 3: Tợ Dị Dụ của Câu Không Bỏ(Không Trái).-
Luận:
Câu (cả
hai)không bỏ (không trái)đây, đối với kia có luận, nói
rằng” “như hư không”. Do hư không kia không bỏ tánh thường trụ không
chất ngại, do vì nói hư không là tánh thường, vì không chất ngại.
Chú
Thích:
“Câu
không bỏ”: tức là Dị Dụ
đây đối với Tông cùng Nhân mà nói, đều không thể hiển bày phản
lại tánh của nó, nguyên vì “Dụ” đây cùng “Tông và Nhân” vừa đúng
đều là đồng tánh.
“Như
đối với kia có luận nói”:“có
luận” là có luận về hư không. Câu đây nghĩa là thí như nói “không
luận về hư không đây” đối với“có luận về hư không đây”.
“Như hư
không”: đều nói là: cũng
như ở trước lập lượng nói rằng: “Âm thanh là thường làm Tông, do vì
nó không chất ngại làm Nhân, Dị Dụ như hư không”.
“Do hư
không kia không bỏ thường trụ”:“do”nghĩa
là do nơi, là nhân vì. “Thường trụ”đây chỉ cho âm thanh là Tông của
thường trụ. Do nơi Dụ của hư không
kia đều không thể trừ bỏ Tông của thường trụ, nguyên vì hư không
cùng Tông đây đều là thường trụ.
“Tánh không chất ngại”:Nghĩa là Dụ
hư không đây cũng không thể phản loại bỏ tánh không ngại của Chi
Nhân, nguyên vì hư không cùng Chi Nhân đều là tánh không chất ngại.
“Do vì nói hư không là tánh thường,
vì không chất ngại”: “do”,
là nhân vì. Nguyên vì ngoại đạo kia nói tánh của hư không là thường
trụ, lại không chất ngại. Do đó
Dụ của hư không đây cùng hai chi Tông và Nhân chính là giống nhau, vì
thế không thể hiển bày phản lại tánh của nó, cho nên có lỗi của
“câu (cả hai) không bỏ”.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói Dị Dụ của “Câu (cả hai) không”
thể phản lại “bỏ đây”, thí như không có hư không,nhưng “Luận” giả “đối với” (hư không)“kia (cho
là “có” nên lập lượng “nói rằng:” Âm thanh là thường(Tông),
do vì không chất ngại (Nhân), Dị
Dụ “như hư không. Do”nơi Dị Dụ
của “hư không kia” đều “không” có thể phản lại để “bỏ” (hiển bày phản lại) Tông
của âm thanh là “thường trụ”
(nguyên vì hư không cùng âm thanh đều là thường trụ); cũng không thể
hiển bày phản lại Tánh không chất
ngại của Chi Nhân. “Do vì” ngoại
đạo kia “nói hư không là tánh
thường”.Vả lại “vì không chất
ngại”, do đó Dụ Hư Không đây, tánh của nó cùng Chi Tông và Chi Nhân
đều không khác nhau, cho nên có lỗi cả hai đều không bỏ, mà không
thể trở thành là Dị Dụ.
Thí dụ thêm cho rõ:
*-Tông: Âm thanh là thường trụ,
*- Nhân:Vì tánh không chất ngại
*- Dị Dụ: như hư không cũng là
tánh thường và cũng là tánh không
chất
ngại.
Theo
lẽ Dị Dụ phải trái ngược với Tông và Nhân, nhưng ở đây Dị Dụ không
trái ngược với Tông và Nhân nên bị lỗi.
*- Tợ
Dị Dụ 4: Tợ Dị Dụ Không Lìa Bỏ.-
Luận:
Không
lìa bỏ đây, nghĩa là nói: “như cái bình, thấy tánh vô thường, có
tánh chất ngại”.
Chú
Thích:
“Không lìa bỏ”: “Lìa bỏ” nghĩa là không gắn liền dựa vào
nhau;ý của “Lìa” cùng “bỏ” gần
nhau. “Không lìa bỏ” tức là không thể lìa bỏ. Lỗi của Dị Dụ đây,
cùng lỗi “không hợp” thứ tư của Đồng Dụ thuộc loại tương tợ; nơi trong Dị Dụ đây nhân vì “tánh vô
thường” cùng “tánh có chất ngại” ở nơi đó cũng là song song đều là
ngang hàng nhau, chỉ vì không hiển bày được sự dựa vào nhau của lìa
bỏ, cho nên tánh luận lý đối với Tông cùng Nhân không có pháp
phối hợp để đem hết công năng phản lại mà trừ bỏ nó.
“Như cái bình”:Như lập lượng nói rằng: “Âm thanh là
thường (Tông); do vì nó không có chất ngại (Nhân), Dị Dụ như cái
bình.” Do cái bình là vô thường, lại có chất ngại, cho nên được làm
Dị Dụ.
“Thấy
tánh vô thường, có tánh chất ngại”: chúng ta đều thấy được cái bình là tánh vô thường, lại
có tánh chất ngại.Nếu như cần Dụ
nào đó làm thành “Dị Dụ” của một lập luận, ngoài ra không thể không
kể tánh của nó,lẽ tất nhiên khi kể thì phải so cùng tánh của Tông
và Nhân đóng vai khác nhau, mà còn nơi trần (trình bày tường) thuật Dụ đây để tạo làm pháp hợp
thời thì phải biểu hiện ra tánh luận lý liên quan hai thứ tánh chất
của nó, cũng chính là hai tánh Tông và Nhân chỗ phối hợp của Dụ
này (tánh vô thường cùng tánh có tánh chất ngại), còn phải hiển
bày kia và đây có một thứ “đầy đủ tánh cần thiết”, do đó mới có thể
“phản chứng” khoảng cách của Tông và Nhân, cũng là có “đầy đủ
tánh cần thiết” như thế (nếu
và chỉ nếu, if and only if).Nhưng mà hiện tại luận giả khi trần
thuật hai tánh của Dụ này (tánh vô thường cùng tánh có chất ngại),
chỉ là đem hai tánh đây đều trình bày (cùng tình hình giống nhau “không
hợp” của Tợ Đồng Dụ ở trước), do đó đều không thể biểu thị ra “có
tánh chất ngại là vô thường”, dùng để hiển bày phản lại “không có
tánh chất ngại là thường”. Nếu cần bổ cứu thì tất nhiên phải cải
tạo: “Âm thanh là thường (Tông); do vì không chất ngại (Nhân); Dị Dụ
như cái bình, (do) các vô thường
đây (chúng ta đều) thấy kia (có) chất
ngại, dụ như cái bình vân vân.”
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói Dị Dụ“không” thể “lìa” bỏ “đây, nghĩa là” như lập lượng “nói”: Âm thanh là thường (Tông);
do vì không chất ngại (Nhân), Dị Dụ “như
cái bình”, chúng ta đều “thấy”
cái bình là “tánh vô thường”, vì
nó “có tánh chất ngại”.(Nhưng
trong Dị Dụ đây đều chưa hiển bày có tánh chất ngại là vô thường,
cho nên không có pháp phản lại Tông và Nhân cũng như chưa hiển bày
không có tánh chất ngại là thường, lẽ cố nhiên Dị Dụ đây vì không
hiển bày được sự lìa bỏ Tông và Nhân, cho nên có lỗi không lìa bỏ,
do đó mà thành Tợ Dị Dụ.)
Thí dụ thêm cho rõ:
Dị
Dụ không có lời kết thúc để lìa bỏ Tông và Nhân:
*-
Tông:Âm thanh là thường.
*-
Nhân: Do vì không chất ngại.
*- Dị
Dụ: Như cái bình.
Dị Dụ
về cái bình đây không giải thích rõ tánh vô thường và có tánh chất
ngại của nó nhằm phối hợp để kết thúc lìa bỏ tánh thường của Tông
và tánh không chất ngại của Nhân, cho nên bị lỗi không lìa bỏ.
*- Tợ
Dị Dụ 5:Tợ Dị Dụ Của Lìa Bỏ Bị Đảo Ngược.-
Luận:
Lìa bỏ bị đảo ngược đây, nghĩa là
như nói: “Cácchất ngại đây đều là vô thường.”
Giải
Thích:
“Lìa
bỏ bị đảo ngược đây”: khi đề cử Đồng Dụ thì phải dùng ‘phối hợp”,
khi đề cử Dị Dụ thì phải dùng “lìa bỏ”. Phápbiểu thị “phối hợp” của Đồng Dụ,tất nhiên phải là “Nhân trước Tông sau”; nhưng pháp
biểu thị “lìa bỏ” của Dị Dụ thì
ngược lại, tất nhiên phải “Tông
trước Nhân sau”.Nếu “lìa bỏ” của Dị Dụ là Nhân trước Tông sau thì
trở thành “lìa bỏ bị đảo ngược”.
“Các
chất ngại đây, đều là vô thường”:Như lập lượng nói rằng: “Âm thanh là thường (Tông); do vì
không chất ngại (Nhân); Dị Dụ (đề
cử phản chứng) như cái bình, các chất ngại đây đều là vô
thường.” Đây là Dụ của “lìa bỏ bị đảo ngược”, chính xác hơn tức
là hiển bày phản lại “lìa khỏi”
mà nói: “Dị Dụ như cái bình, các vô thường đây, thấy kia có chất
ngại.”
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ nói Dị Dụ của “lìa khỏi bị đảo ngược đây”, nghĩa là như nói rằng:” âm
thanh là thường (Tông); do vì không chất ngại (Nhân); Dị Dụ như cái
bình, “các” có “chất ngại đây đều là vô thường”,
như thế liền có lỗi của lìa khỏi. (nên nơi trong Dị Dụ tạo “lìa khỏi”
mà nói: Dị Dụ như cái bình, các vô thường đây thấy kia đều có chất
ngại, như cái bình vân vân; như thế trần(trình bày, tường) thuật của
tạo “lìa khỏi” thì không có lỗi của “lìa khỏi bị đảo ngược”.)
Thí dụ thêm cho rõ:
Dị
Dụ nhằm kết thúc để lìa khỏi Tông và Nhân lại phối hợp trái ngượcnên
có lỗi, như:
*-
Tông: Âm thanh là thường,
*-
Nhân: Do vì không chất ngại
*- Dị
Dụ: Như cái bình, các cất ngại đây (Nhân) đều là vô thường (Tông),
thế là có lỗi lìa
khỏi bị đảo ngược.
Đúng
ra để kết thúc Dị Dụ phải nói Tông trước và Nhân sau, như:Dị Dụ:
Các vô thường đây (Tông) thấy kia đều có chất ngại (Nhân) như cái
bình vân vân. Đây là không bị lỗi đảo ngược.
4.- Kết Ngữ (Lời
kết luận)
Luận:
Như
thế tất cả Tợ Tông, Tợ Nhân, Tợ Dụ đã nói qua không phải là Năng
Lập chân chánh.
Giải
Thích:
“Như thế tất cả Tợ Tông, Tợ Nhân,
Tợ Dụ”: “Như thế tất cả”
là những thứ này. “Tợ Tông Tợ Nhân Tợ Dụ” là Tông Nhân Dụ tương
tợ.
“Đã nói
qua không phải là năng lập chân chánh”:“Nói” tức là lời nói. “Chánh” tức là
chân chánh. Chúng ta lại nói chúng nó là không phải Tông, Nhân, Dụ
của năng lập chân chánh, mà những thứ này là Tợ Tông, Tợ Nhân,
Tợ Dụ,chỉ cóhình thức tương tợ ở
nơi Tông, Nhân, Dụ, nhưng đều không thể chân chánh phát khởi tác
dụng của Tông, Nhân, Dụ.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Như thế tất cả Tông, Nhân, Dụ” tương
“tợ”, chúng ta liền “nói”
nó là “không phải” là Tông,
Nhân, Dụ của “năng lập”chân “chánh”,do vì chỉ hình thức tương tợ
nơi Tông Nhân Dụ mà thôi.
IV.-
HAI MÔN LƯỢNG CỦA TỰ NGỘ.-
A.
Chân Hai Môn Lượng.
Luận:
Thứ đến, vì tự khai ngộ, đương nhiên biết
chỉ có hai lượng hiện và tỷ.
Nghĩa Thông Suốt:
“Thứ đến, là” hoàn toàn khiến “tự” mình đã thâu hoạch được lợi ích của
“khai
ngộ, đương nhiên biết chỉ có hai lượng hiện và tỷ”.(Cũng tức là chỉ có thông suốt qua hai
lượng hiện và tỷ thì mới có thể đạt đến lợi ích của tự ngộ, ngoại
trừ đây, riêng không có pháp nào khác).
1, Chân Hiện Lượng.
Luận:
Trong hiện lượng đây, nghĩa là không
phân biệt; nếu có chánh trí, nơi nghĩa sắc vân vân, lìa thứ danh vân
vân chỗ có phân biệt, hiện lượng chuyển biến riêng biệt, nên gọi
là hiện lượng.
Chú
Thích:
“Hiện lượng”: Hiện” là hiển hiện, hoặc hiện tiền.
“Lượng” có thể dùng đo
lường mà mô thức đây là kiểu mẫu xác
định (đối chiếu xác định). “Hiện lượng”, Pháp sư Chân Giới nói rằng:
“Tức là dùng trí hiện tiền chiếu soi hiện lượng, (chỉ) ở nơi chỗ tự
tướng chuyển (không phang duyên chấp trước tướng khác, chỗ khác),“quyến định không sai lầm, đích thân
được pháp thể”, gọi là hiện lượng.
“Vô phân biệt”: tức là trí
vô phân biệt.Trí vô phân biệt tức là trí “lìa phân biệt”. Đại sư
Khuy Cơ dẫn Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận nói rằng: “Nhưng lìa phân biệt
lược có bốn loại:
a)-
Ngũ Thức Thân (năm Thức trước)
b)-
Ngũ Câu Ý (Ý Thức cùng năm Thức trước đồng thời phát khởi),
c)-
Chư Tự Chứng (Tất cả Tự Chứng Phần của Tâm Vương Tâm Sở duyên
noi
phần thấy của nó),
d)-
Người Tu Định (Người tu định nơi trong định lìa giáo pháp phân biệt,
cũng
tức là trong
định Độc Đầu Ý Thức duyên cảnh thiền định).
Bốn thứ đây đều xưng là Vô Phân Biệt,
lại cũng xưng là “bốn loại tâm”. Lại
nữa có chỗ gọi “Phân biệt” có ba thứ:
a/-
Tự Tánh Phân Biệt,
b/-
Tùy Niệm Phân Biệt,
c/-
Kế Độ Phân Biệt.
Theo
Đại sư Ngẫu Ích nói thì nếu như chỉ
có “Tự Tánh Phân Biệt” mà không có “Tùy Niệm Phân Biệt” và “Kế
Độ Phân Biệt” đó gọi là “Hiện Lượng”. (Tùy Niệm tức là “vọng
tưởng”). Trí Vô Phân Biệt đây, theo như Kinh Viên Giác nói: “Thí như Nhãn Quang thấy rõ cảnh hiện
tiền, đạt được chỗ không yêu ghét”, đây lại là Hiện Lượng Vô Phân
Biệt: “Thấy rõ cảnh hiện tiền” tức là “Tự Tánh Phân Biệt”
(hoặc liễu biệt), cũng chính là “Chánh Trí”. “Đạt được chỗ không yêu
ghét” tức là không “Tuỳ Niệm và Kế Độ Phân Biệt”.“Nhãn Quang” tức là Nhãn Căn, Nhãn
Căn hoặc phân biệt rõ của năm Thức trước, là lập tức phân biệt
rõ hiện tiền, không có cảm tình hổn tạp, cũng không giá trị phán
đoán hổn tạp, cũng không phang duyên pháp hoặc cảnh khác của nó,
đây chính là hiện lượng. Tuy nhiên trong hiện lượng vô phân biệt,
có một thứ cứu cánh tột cùng --- cũng tức là dùng trí căn bản để
chứng lý chân như ----- đây là chỗ chứng đắc của bậc Thánh Nhân, nhưng mà “Trí hiện lượng vô phân biệt
đây” lại ở trong năm Căn Thức của tất cả chúng sanh đều có nó:
tất cả phàm phu ở chỗ đất xấu cằn cỗi,
cho đến đường dị sanh lông lá, liền khiến điên đảo hôn mê làm
sao, cũng đều vốn đầy đủ chánh trí hiện lượng này, chỉ là sử dụng
hàng ngày mà không tự hiểu biết đấy thôi. Đây là một hơi thở nhanh
chóng tối trọng yếu của Tập Nhân Minh Pháp Tướng mang đến giúp chúng
ta: Hiện lượng chánh trí vô phân biệt đây phàm thánh đều có đủ, chỉ
là giác ngộ cùng không giác ngộ mà thôi.
“Nếu có Chánh Trí”: “Chánh Trí” tức là ánh sáng tiêu biểu không phải là “Tà Trí”nương nơi tà
giáo, cũng không phải là “Trí mê loạn” nương nơi tâm vọng hiện của
mình, thí dụ như Kinh Lăng Nghiêm nói: do mắt bị che lấp mà thấy
có lông năm màu luân chuyển, hoặc thấy mặt trăng thứ hai..v..v......
Tạp Tập Luận nói rằng: “Hiện
Lượng đây, tự mình chính sáng tỏ rỏ rành không có nghĩa mê loạn”. Chỗ
nói trong đây đích thực là “Chánh Trí”, cũng chính là “không mê loạn” của Tạp Tập Luận
nói. “Không mê loạn” đây là không
mê không loạn, như lìa khỏi vọng thấy hoả luân xoay tròn..v..v.......(Chỉ
có một bó đuốc, đều không có “hoả luân”; bó đuốc thì có thật, còn
hoả luận thì không phải có thật, do duyên hợp vọng sanh; nếu nhận
cho hoả luân là có thật, tức là mê loạn. Hoả Luân đã là như thế,
mười tám giới cũng là như thế.)
“Nơi
nghĩa sắc vân vân”:“Sắc vân
vân” tức là năm cảnh giới: sắc, thinh, hương, vị và xúc. “Nghĩa” tức
là cảnh giới. Trong Duy Thức Học cho
“Cảnh” xưng là “Nghĩa” như thế nào?Nguyên vì“Nghĩa” đây có ý là
nghĩa lý, ý nghĩa, mà năm cảnh đây
không phải là trần cảnh mê loạn của Tâm Sở “loạn duyên loạn thủ”,
cho nên gọi là “Nghĩa” hoặc “Nghĩa Cảnh”.
“Lìa danh chủng vân vân chỗ có phân
biệt”:“Danh” là danh ngôn.
“Chủng” là chủng loại. Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận nói rằng: “Xa lìa
tất cả chủng loại danh ngôn, giả lập các môn phân biệt không
khác.” Chủng loại tức là phân loại, đây có hai chủng loại, chủng
loại thế gian và chủng loại ngoại đạo. Chủng loại thế gian, như sanh
vật, vật lý, hoá học, triết học..v..v...... đem tất cả sự vật, phân
ra bộ môn, riêng biệt từng loại, mỗi thứ đặt cho nó một tên.Chủng loại của ngoại đạo như Thắng
Luận Sư đã lập “Sáu cú nghĩa”, Đại Hữu, Đồng Dị, Hoà Hợp vân vân.
Cho đến Số Luận Sư đã lập “ba Đức” vân vân, hoặc hai nghi của Nho và
Đạo là Tứ Tượng, Bát Quái, Âm Dương, Ngũ Hành vân vân. Như con mắt
một người vọng thấy bên đường có hoa, Nhãn căn soi rõ, liền biết
là hoa, đây là niệm thức nhất, lúc đó chính nó không phân biệt kia
hoặc liên tưởng (phang duyên, vọng tưởng, tính toán). Nơi sát na thư
hai, liền khởi niệm là: “Đây là hoa gì?”, đó là “Danh ngôn phân biệt
chủng loại”, cũng chính là “Y Tha Khởi Tánh”.Đó là thường tưởng:
tưởng là hoa đinh hương hoặc hoa dã cúc..v..v..... ; sau đó lại tưởng:
đây là thuộc giống gì, thứ gì (niệm sanh vật tốt); hoa đây có thể
không phải loại thuốc (niệm y dược tốt); hoa đây đẹp tuyệt, thích
hợp vẻ cảnh thật, để vào sách, thích hợp để vào thơ, thích hợp bình
hoa (đây là niệm văn học tốt, nghệ thuật, người làm vườn), tất cả niệm như thế, tức là kế độ
phân biệt của sát na thứ ba, hoặc “Tánh Biến Kế Sở Chấp”, Sáu
Cú Nghĩa, Ba Đức, Âm Dương, Ngũ Hành vân vân cũng đều thuộc nơi đây. Mà cảnh giới hiện lượng tức là lìa
nơi Y Tha Khởi và phân biệt Biến Kế vân vân của tất cả phàm phu và
ngoại đạo.
“Hiện Lượng Biệt Chuyển”:“Hiện hiện” có hai thứ giải thích. 1, Hiện
tiền hiện khởi, gọi là hiện hiện. 2, Nghĩa là nơi thể hiện khởi của
“bốn loại tâm”, nguyên vì thể của nó hiện ra không phải một (Lời
trùng nhau là tiêu biểu không chỉ có một, mà là số nhiều), cho nên
gọi là hiện hiện. “Biệt” là riêng rẻ nhau, nghĩa là mỗi mỗi riêng
biệt nhau. “Chuyển” là vận chuyển; “bốn loại tâm” tạo nghiệp nắm
lấy cảnh, gọi là chuyển. Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận nói rằng: “Do
không cùng duyên, hiện hiện vận chuyển riêng biệt, nên gọi là hiện
lượng”. Đại sư Khuy Cơ giải thích rằng: “Năm căn đều chiếu sáng tên
cảnh tự hiện; Thức nương nơi đây gọi là hiện hiện; mỗi mỗi nắm lấy
cảnh riêng biệt, gọi là biệt hiện; vì cảnh mỗi mỗi riêng biệt gọi
là không cùng duyên.” Pháp sư Chân Giới nói rằng: “Những cảnh không
duyên nơi bí ẩn, tối tăm, che giấu, ngăn cách và quá (khứ) vị (lai),
cho nên gọi là hiện lượng. Tự tướng (tướng căn bản của các) cảnh
chứng (đắc) không giống (nơi) cộng tướng của sáu Thức duyên, nên
gọi là Hiện Hiện Biệt Chuyển. Do nơi (chỉ ở) chỗ tự tướng (vận)
chuyển (lại không duyên riêng biệt tướng khác), cho nên gọi là Chân
Hiện Lượng”. Hợp lại nói rằng, “Hiện
hiện biệt chuyển” cũng chính là: bốn loại tâm chỉ ở trên cảnh tự
thân của hiện tiền hiện khởi, cá biệt vận chuyển (lập tức đương
thể chiếu soi thấy rõ ràng),ngoạitrừ đây, không có ngang dọc các
thứ phang duyên suy nghĩ tính toán: ở phương diện “ngang”, không phang
duyên loại khác mà phát khởi tính toán; ở phương diện “dọc” không
tham tướng của tự loại quá khứ vị lai; nhân đây tự, tha, cộng ba
tướng, trước sau đoạn trừ ba cõi, chỉ có bản tướng của thể đương
nhiên ngay lập tức, lìa tất cả phân biệt nhớ tưởng, nên gọi là
hiện lượng.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Trong đây”chỗ nói “hiện
lượng chính là” Trí “Vô Phân
Biệt”, “nếu có chánh trí” nương nơi không mê loạn,“nghĩa là” cảnh “nơi sắc” thinh hương vị xúc“vân
vân”, có thể “lìa” nơi “danh” ngôn, “chủng” loại (phân loại) “vân
vân chỗ có” y tha, biến kế “phân
biệt”, chỉ khiến cảnh của tâm nơi “hiện”
tiền “hiện” khởi, đều vận “chuyển riêng biệt”,do chánh trí đều
chọn lấy cảnh riêng biệt, không duyên nơi tướng biến kế khác, hoặc
tự tướng của quá khứ và vị lai, “nên
gọi” là “Hiện Lượng”.(nói
đơn giản, hiện lượng tức là ngay lập tức nhìn đến chọn lấy, không
vọng tưởng phân biệt, không phang duyên tính toán, mà biết rõ tướng
trí thanh tịnh của nó.)
2,
Chân Tỷ Lượng.
Luận:
Nói
tỷ lượng đây, nghĩa là dựa vào các tướng mà quán nơi nghĩa. Tướng
có ba loại, như trước đã nói. Do nơi kia làm Nhân, nơi chỗ so sánh
nghĩa có chánh trí sanh, biết rõ có lửa, hoặc vô thường vân vân, là
gọi Tỷ Lượng.
Chú
Thích:
“Tỷ Lượng”: là xét biết qua suy luận. “Tỷ” là ý có
suy luận (infer), suy lý, suy loại. Tức là dùng “Nhân” đã biết suy
luận chứng minh “Tông” chưa biết, mà chánh trí được phát sanh. Tỷ
lượng tuy nhiên không như chánh trí thân chứng của hiện lượng, nhưng
cũng thuộc chỗ thâu lấy của chánh trí, thường khiến người nơi chánh
lý được tín giải chân chánh, cuối cùng cho dẫn vào hiện lượng chánh
trí, vì tỷ lượng nơi bậc phàm phu và bậc hiền, phần trọng yếu: tất
cả Bồ Tát và phàm phu, do nơi thánh giáo tu tập, mà đặng trí tỷ
lượng, cho nên có thể tiến nhanh
tới cứu cánh vô thượng bồ đề; nói ngược lại, nếu không trí tỷ
lượng dù ở trong bàng sanh thì tất
cả chúng sanh không có phương pháp từ phàm vào thánh, tức là ở nơi
Thánh đạo vĩnh viễn không đặng vào. Theo Du Già Sư Địa Luận, Tỷ lượng
có năm thứ:
a)- Tướng Tỷ Lượng ---- tức là theo tướng trạng có quan hệ, hoặc
do hiện tại (hoặc trước kia) chỗ đã thấy, mà suy độ cảnh giới chỗ
muốn biết; như thấy khói suy độ biết có lửa, thấy tràng phan suy độ
biết có xe.Đây tức là:do tướng quan hệ tướng trạng mà suy biết.
b)- Thể Tỷ Lượng ---- Do hiện thấy bộ phận tự thể của một vật,
mà “suy loại” bộ phận chỗ không hiện của nó. Như dùng hiện tại mà
suy loại quá khứ, dùng quá khứ mà suy loại vị lai..v..v...... hoặc
dùng việc gần mà suy loại việc xa..v..v...... Đây tức là do bộ phận
mà suy biết toàn thể.
c)- Nghiệp Tỷ Lượng ---- Do tác dụng mà suy biết chỗ nương tựa. Như
thấy trên đất có hang sâu bị động vật đào khoét mà suy biếtcó
chuột đào đất..v..v...... Đây tức là do chỗ tác nghiệp mà suy biết
khả năng tác giả.
d)-
Pháp Tỷ Lượng ---- do pháp
nào đó mà “suy biết” cùng pháp gần nhau lệ thuộc nhau; như do pháp
vô thường mà “suy biết” là khổ, do pháp khổ mà “suy biết” là không,
do pháp không mà “suy biết” là vô ngã..v..v... .. Đây tức là do pháp
Giáp mà suy biết pháp Ất gần nhau.
e)-
Nhân Quả Tỷ Lượng ---- Do
tướng nhân quả chuyển biến mà suy biết. Như thấy người đang đi “suy
biết” nhất định đến phương khác; hoặc thấy người nào đó đã đến chỗ
anh Ất mà “suy biết” người đó trước kia chưa đến ở chỗ anh Ất,nay
quyết định có việc nên phải đi bộ hoặc đi xe. Đây tức làdo nhân mà
suy biết quả, hoặc do quả mà suy biết nghiệp nhân,hoặc do thành quả
mà suy biết phương pháp.
Nói
đơn giản,trí của tỷ lượng là suy luận, trí của suy lý, đây là trong
trí huệ của nhân loại, một thứ tối trọng yếu cũng là luận lý,
luận lý học là cột trụ của chỗ nương tựa, và một thứ trí tuệ tối
trọng yếu của chỗ cần phát triển. Nguyên vì thế gian có vạn sự vạn vật vô lượng, lý lại
vô tận, người không khả năng có thể thấy, có thể thân chứng hiện
tiền nơi trước mắt,vì đại bộ phận chỗ
nhiếp lấy, tri thức học tập, học vấn, kinh nghiệm, đạo lý và trí
tuệ của con người, tuyệt đối đại đa số là trải qua do trí tỷ lượng
mà tiến hành.(Như “đề cử” một gốc cạnh mà dùng phản lại ba gốc
cạnh ----- xem đến một gốc của mặt cao, liền biết nó lại có riêng
ngoài ba gócmặt cao ----- tức là công dụng của trí tỷ lượng.) Nhơn đây trí tỷ lượng là y cứ và
công cụ trọng yếu mà đạt được đại trí tuệ (trí hiện lượng). Tuy
nhiên trí tỷ lượng không trực tiếp và đích thân thấy trí hiện lượng
thân chứng cứu cánh viên mãn, nhưng nó lại là nương nơi chánh trí,
làm cho chánh trí chỗ nhiếp lấy đều là tất cả phàm phu thông suốt
và an trụ đường lối tất nhiên do thánh trí hiện lượng: tất cả “tín,
giải, hạnh” đều là nương nơi Thánh Ngôn Lượng mà trí tỷ lượng phát
khởi lại tu; do nương nơi tín giải hạnh của trí tỷ lượng mà có được
“chứng ngộ” của hiện lượng; cho nên có thể biết trí tỷ lượng là
nhân của thánh trí hiện lượng.
“Dựa
vào các tướng mà quán nơi nghĩa”:
“Các tướng” là chỉ các thứ tướng lệ thuộc nhau và quan hệ nhau.
“Nghĩa” là cảnh là ý nghĩa cảnh giới.
“Tướng
có ba thứ”:tức là đồng
tướng (Tướng của hai vật giống nhau), Dị tướng (tướng của hai vật
khác nhau) biến tướng là tướng của cộng đồng (là tướng từ ba vật
trở lên).
“Do kia
làm nhân, nơi chỗ cảnh suy luận, có sanh chánh trí”: do dựa vào các tướng kia làm nhân, mà
đối với ý nghĩa cảnh giới cần nơi tưởng để suy biết, có chánh trí
sản sanh, nhân đây tỷ lượng là thuộc nơi chánh trí thâu nhiếp; cũng
chính là nói, nếu kết quả của suy
lý, có thể sanh khởi chánh trí, đây mới là chân tỷ lượng. Ngược
lại, kết quả của suy lý, đều không thể sanh khởi chánh trí, cho đến
sanh khởi tà trí, thì không phải chân tỷ lượng, mà là tợ tỷ lượng,
hoặc tà tỷ lượng.
“Biết
rõ có lửa”: nghĩa là do
thấy khói, mà biết rõ có lửa; đây là trí tỷ lượng của thế gian.
“Hoặc
vô thường vân vân”: nghĩa là do chỗ tạo tánh vân vân mà
biết rõ vô thường; đây là trí tỷ lượng của xuất thế gian.
Nghĩa
Thông Suốt:
Chỗ “nói tỷ lượng đây, nghĩa là dựa vào
các tướng” lệ thuộc nhau quan hệ nhau “mà quánnơi ý nghĩa” củacảnh giới.“Tướng có ba thứ” đồng, dị và biến,“như trước đã nói.”Trải qua
“do” các tướng “kia làm nhân”, đối
với “nơi chỗ ý nghĩa” cảnh giới
muốn “suy” biết,có thể “có chánh trí sanh” khởi, mới có
thể xưng là trí tỷ lượng. Như do khói mà “biết rõ có lửa, hoặc” do chỗ tạo tánh, mà biết rõ “vô thường vân vân. Đây tên” là “Tỷ Lượng”.
3,- Lời Kết Luận.
Luận:
Nơi trong hai lượng, tức là trí cũng
gọi là quả, là vì chứng tướng, như vì có tác dụng mà hiển hiện,
cũng gọi là lượng.
Chú
Thích:
“Nơi trong hai lượng”: “Hai lượng” tức là hiện lượng và tỷ
lượng.
“Tức
là trí cũng gọi là quả”:Trí
chính là quả. Cũng tức là trí vô
phân biệt của hiện lượng và trí có phân biệt của tỷ lượng, đều là
quả, cũng là quả không phân biệt.
“Vì là
chứng tướng”: Đây chỉ hiện
lượng là chứng tướng, do vì trí hiện lượng có thể chứng biết cảnh
không phân biệt.
“Như vì
có tác dụng mà hiển hiện”:“Có
tác dụng”, tức là tác dụng của cảnh giới hiện lượng. “Hiển hiện”
nghĩa là hiển hiện rõ ràng, khiến người thấy được, biết được. Đây là chỉ cho trí của “chân tỷ
lượng” có thể chứng biết cảnh của duyên khởi sai biệt, cố nhiên
mặc dù chưa hiện thấy bản thể của cảnh giới hiện lượng, nhưng cũng
có thể thấy mọi thứ tác dụng hiển hiện của bản thể, theo đó mà
được khế hợp chánh trí.Đây tức là nói: do “trí hiện lượng” mà
có thể thân chứng thể cứu cánh của chân thường; do “trí tỷ lượng”
lại có thể chứng biết các nghĩa vô thường, khổ, không vân vân của
chân thể chỗ hiện.
“Cũng gọi là lượng”: “Lượng” là chứng lượng. Nghĩa là cũng có
thể xưng là Nhất Chủng Chứng Lượng.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Nơi trong hai lượng” của hiện và tỷ đây, “tức là” nó có chánh “trí”
phân biệt và không phân biệt, đều được “gọi” là “quả”,do “vì”
hiện lượng cố nhiên “là tướng”
của thánh “thân chứng”, được
gọi là quả, mà chân tỷ lượng tuy chưa thân chứng pháp thể, nhưng do “vì” nó “như có tác dụng mà” hiển hiện phân minh của cảnh giới
hiện lượng, “cũng” có thể “gọi là” một thứ chứng “Lượng”.
B.
Tợ Hai Môn Lượng.
1, Tợ Hiện Lượng.
Luận:
Có trí phân biệt ở nơi dị chuyển,
gọi là hiện lượng. Cái bình hoàn toàn nương nơi các phân biệt mà
sanh, do vì nơi nghĩa kia không dùng tự tướng làm cảnh giới, gọi là
Tợ Hiện Lượng.
Chú
Thích:
“Nơi
nghĩa dị chuyển”: “Dị chuyển”,
nghĩa là khác nơi bản tướng màchuyển; nghĩa là các trí phân biệt không xưng là cảnh thật (cùng
các cảnh thật không hợp nhau), mà
riêng biệt phát sanh giải thích hư vọng, gọi là dị chuyển. Pháp sư
Chơn Giới nói rằng: “Tại Sao nói: nghĩa là (nơi) nam nữ trong trời đất
đều thấy (có) một tướng hạp, gọi
là tợ hiện lượng. Một tướng hạp đây, do các duyên hoà hợp, nắm
lấy tất cả vi tế làm thành sắc, hợp năm uẩn làm thành người, gọi
là một tướng hạp. Thấy như thế đó, là có trí phân biệt nơi nghĩa
dị chuyển.”
“Cái bình hoàn toàn nương nơi các phân biệt mà sanh”: “Hoàn toàn”
là phân biệt hoàn toàn. “Phân biệt” là
phân biệt hư vọng. Nghĩa là cái bình chỗ phân biệt hoàn toàn đều là
nương các thứ vật mỗi thứ hợp nhau giả lập, đều không phải cảnh thật
của vật, đều là do phân biệt hư vọng mà sanh.
“Do vì nơi nghĩa kia không dùng
tự tướng làm cảnh giới”:Nguyên
vì
cái bình nương theo loại chỗ duyên của
chúng nó, không phải là do pháp “tự tướng bản nhiên” của nó làm
cảnh giới sở duyên, mà là do “tướng hư vọng giả hợp chỗ hiện của
tự tâm” làm cảnh giới.
“Gọi là tợ hiện lượng”: nguyên vì chỗ thấy biết của nó đó là
“hiện
lượng của tương tợ”, không phải là hiện
lượng chân thật.
Nghĩa
Thông Suốt:
Do “trí” của “hữu phân biệt, nơi nghĩa” các cảnh sáu trần của loại
bình,
“khác” nơi bản tướng của nó mà “chuyển”,gọi
là tợ hiện lượng.“Nghĩa là có
các trí” của năng liễu biệt, “liễu”
biệt nơi “cái bình nương tựa” mọi
thứ vật giả tướng hòa hợp, thật tế đều do vọng tướng của “phân biệt mà sanh”, không phải
cảnh thật của vật bản nhiên, “do
vì nơi” các “nghĩa” cảnh của
các cái bình “kia” đều “không do tự tướng” của pháp bản
nhiên “làm cảnh giới” của sở
duyên, mà là tự tâm phang duyên, phân biệt cảnh giới của pháp ở
ngoài, không phải các pháp suy lường của bản nhiên hiện tiền, nên “gọi là hiện lượng” tương “tợ”.
2, Tợ Tỷ Lượng.
Luận:
Nếu trí tợ nhân làm trước, chỗ
phát khởi các trí tợ nghĩa, gọi là Tợ Tỷ Lượng. Tợ Nhân có nhiều
thứ, như trước đã nói. Dùng nó làm nhân, nơi chỗ tợ tỷ có các trí
sanh, không thể gọi là chánh giải, mà gọi là Tợ Tỷ Lượng.
Chú
Thích:
“Trí
tợ nhân làm trước”: “Tợ
Nhân”, bao gồm trước kia chỗ nói Chi Nhân của bất kỳ mười bốn thứ
lỗi đều xưng là “Tợ Nhân”. “Trước” là con đường trước. Nghĩa là do
bao gồm có “vọng trí Tợ Nhân” của mười bốn lỗi làm con đường trước.
“Chỗ
phát khởi các trí tợ nghĩa”:Chỗ
sanh khởi “tà trí tợ nghĩa” của các hư vọng phân biệt, tức là không
thể chánh giải thật tướng, đây là “Tợ Tỷ Lượng”.
“Tợ
chỗ suy luận”: nghĩa là suy
luận loại tương tợ, suy lý tương tợ.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Nếu” do vọng “trí tợ nhân”
của bao hàm mười bốn lỗi “làm”
con đường “trước, chỗ” sanh “khởi” tà “trí tợ nghĩa” của “các” hư vọng phân biệt, không
thể chánh giải thật tướng, “gọi
là tợ tỷ lượng”.“Nhân” của tương “tợ”
có “nhiều thứ, như trước” kia “đã nói”, nếu “dùng” nhân tương tợ “kia
làm” Chi “Nhân”, tức là
thành tà nhân, “nơi chỗ” trong
loại “suy luận” tương “tợ” liền khiến “các hữu trí sanh” khởi, cũng
không phải chánh trí, cho nên “không
thể chánh giải” đế lý thật tướng, mà trở thành tà huệ, tức “gọi là tỷ lượng” tương “tợ”.
V.- BỘ MÔN CHÂN NĂNG PHÁ.-
Luận:
Lại
nữa, nếu hiển bày lỗi lầm năng lập gọi là năng phá. Nghĩa là đầu
tiên tánh năng lập bị lỗi thiếu mất, tánh lập tông bị lỗi, tánh
không thành nhân, tánh trái ngược nhau với nhân và táng dụ bị lỗi;
Hiển bày lời nói đây, là mở lối rõ ràng có chỗcho người hỏi, nên
gọi là năng phá.
Chú
Thích:
“Nếu
hiển bày lỗi lầm năng lập”:Nếu
như có thể chỉ rõ chỗ có lỗi lầm “Tợ Năng Lập” của đối phương, lại
xưng là chân năng phá.
“Đầu
tiên tánh năng lập bị lỗi thiếu mất”: “Đầu tiên”, nghĩa là ban đầu, mở đầu trước nhất. “Năng
lập” là Tợ Năng Lập. Giây phút thứ nhất tức là lỗi của Tợ Năng Lập có các thứ thiếu mất.
“Tánh
lập Tông bị lỗi”: thứ đến,
giây phúc thứ hai lập Tông có chín thứ lỗi, cũng tức là “Chín lỗi
Tợ Tông” đã nói ở trước:
1,
Hiện Lượng trái ngược nhau,
2,
Tỷ Lượng trái ngược nhau,
3,
Tự Giáo trái ngược nhau,
4,
Thế Gian trái ngược nhau,
5,
Tự ngữ trái ngược nhau,
6,
Năng Biệt bất cực thành,
7,
Sở Biệt bất cực thành,
8,
Câu bất cực thành,
9,
Tương phù cực thành.
“Không thành Tánh Nhân”:Đối phương
hoặc phạm bốn thứ không thành tánh nhân,tức là loại thứ nhất của
Tợ Nhân, “Bốn thứ không thành”:
1,
Lưỡng Câu không thành,
2,
Tùy Nhất không thành.
3, Do
Dự không thành,
4,
Sở Y không thành.
“Tánh
Nhân Bất Định”:Hoặc phạm
sáu Tánh Nhân bất định, tức là loại thứ hai của Tợ Nhân, “Sáu thứ
Nhân bất định”:
1,
Cộng Bất Định,
2,
Bất Cộng Bất Định,
3,
Đồng Phẩm một phần chuyển, Dị Phẩm biến chuyển,
4, Dị
Phẩm một phần chuyển, Đồng Phẩm biến chuyển,
5,
Câu Phẩm một phần chuyển,
6,
Quyết Định trái ngược nhau.
“Tánh
Nhân trái ngược nhau”: Hoặc
phạm bốn thứ Tánh Nhân trái ngược nhau, cũng tức là loại thứ ba
của Tợ Nhân, “Bốn thứ Nhân trái ngược nhau”:
1,
Nhân Pháp Tự Tướng trái ngược nhau,
2,
Nhân Pháp Sai Biệt trái ngược nhau,
3, Nhân
có Pháp Tự Tướng sai biệt nhau,
4,
Nhân có Pháp Sai Biệt trái ngược nhau.
“Và
Dụ lỗi tánh”: Hoặc phạm
mười thứ lỗi tánh của Tợ Đồng Dụ và Tợ Dị Dụ:
a)-
Năm thứ Tợ Đồng Dụ:
1,
Pháp Năng Lập không thành,
2,
Pháp Sở Lập không thành,
3, Câu không thành,
4,
Không Hợp,
5,
Đảo Hợp.
b)-
Năm thứ Tợ Dị Dụ:
1,
Sở Lập bất khiển
2,
Năng Lập bất khiển,
3,
Câu bất khiển,
4,
Không lìa,
5,
Lìa Đảo,
“Hiển
bày lời nói đây:đều có
thể khiến họ vạch ra.
“Mở
lối rõ ràng cho kẻ hỏi”:cho
đến người kia có nghi vấn, đều có thể khiến họ khai mở rõ ràng.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Lại nữa, nếu” có thể “hiển
bày lỗi mất” chỗ có nơi Tợ “Năng
Lập” của đối phương, “gọi tên”
lên án là Chân “Năng Phá”.Chính
“nghĩa là” từ Tợ “Năng Lập ban đầu” có mọi thứ “Tánh lỗi kém thiếu” mở lối
trước hết, kế đến, nó hoặc phạm chín “Tánh lỗi” của “lập
Tông”, hoặc phạm bốn “Tánh
Nhân không thành”, hoặc phạm sáu “Tánh
Nhân bất định”, hoặc phạm bốn “Tánh
Nhân trái ngược nhau, và”phạm mười thứ “Tánh lỗi” của Đồng và Dị “Dụ”,
phàm các lỗi đây, đều có thể “hiển
bày lời nói đây”, bao gồm có thể “mở lối rõ ràng” có chỗ cho “người hỏi , nên gọi” là Chân “Năng Phá”.
VI.- BỘ MÔN TỢ NĂNG PHÁ.-
Luận:
Nếu
hiển bày nói lỗi không thật của năng lập, gọi là Tợ Năng Phá.
Nghĩa là nơi năng lập viên mãn, nói hiển bày thiếu mất tánh; nơi
Tông không lỗi, nói Tông có lỗi; nơi Nhân thành tựu, nói Nhân
không thành tựu; nơi Nhân quyết định, nói Nhân không quyết định; nơi
Nhân không trái nhau, nói Nhân trái nhau; nơi Dụ không lỗi, nói Dụ
có lỗi; nói năng như thế, gọi là Tợ Năng Phá, do vì không thể hiển
bày Tông của họ bị lỗi mất, vì họkhông lỗi, đây chỉ việc riêng.
Chú
Thích:
“Nếu nói hiển bày lỗi không thật
của năng lập, gọi là Tợ Năng Phá”:“Hiển bày không thật” là không thể hiển bày chân thật.
“Nói lỗi của năng lập”, nghĩa là nói lỗi năng lập của phía địch.
“Tợ Năng Phá” là năng phá tương tợ, không phải năng phá chân thật.
“Nơi
năng lập viên mãn, hiển bày lời nói thiếu mất tánh”: Nghĩa là đối với phía địch thật tại là
viên mãn không thiếu sót, luận thuyết của năng lập, nó liền nói
chỗ kia có thiếu mất.
“Nơi
Tông không lỗi, nói Tông có lỗi”: Nơi Tông kia thật tại không lỗi mất, nó nói rằng “Tông
kia có lỗi”.
“Vì họ
không lỗi,đây chỉ việc riêng”:Chỗ
kia lập lượng, thật tại không có tội lỗi, Nhân đây không nên bài
xích. “việc riêng” là việc của
bài xích đây.
Nghĩa
Thông Suốt:
“Nếu không” có thể chân “thật hiển” bày “lời
nói lỗi” mất nơi Tông
“năng
lập” của phía địch, đó “gọi là năng phá” tương “tợ”, mà không phải chân năng
phá. Tức “Nghĩa là nơi” luận
chân “năng lập”của phía địch
thật tại là “viên mãn”, mà
nhà ngươi nói năng phản tác dụng bằng cách “hiển bày”hư vọng cho họ có “thiếu mất tánh”;“nơi Tông” của họ thật “không lỗi”, nhà ngươi nói năng ngược lại cho là “Tông có lỗi”; hoặc “nơi Nhân” của chân “thành tựu”, nhà ngươi “nói” năng phản tác dụng cho kia
laø “Nhân không thành”; hoặc “nơi” họ thật là “Nhân quyết định”, nhà ngươi lại “nói” năng cho nó là “Nhân không quyết định”; hoặc “nơi Nhân không trái ngược nhau”
của họ, nhà ngươi lại “nói”
năng phản tác dụng bảo “Nhân”
của họ “trái ngược nhau”; hoặc “nơi” họ “Dụ” thật “không lỗi”, nhà ngươi“nói” năng trách móc phản bác họ
cho là “Dụ có lỗi”; những “lời nói như thế” được “gọi” là “năng phá tương tợ”, không phải chân năng phá, “do không thể hiển bày lỗi mất”
của “Tông họ”, nguyên vì “họ” thật “không lỗi, đây chỉ việc riêng” không nên vọng phá.
VII.-
KỆ TỤNG TỔNG KẾT.
Luận:
Đã ban
bố ít cú nghĩa, vì người mới lập phương thức,
Trong nó thật lý không lý, diệu
biện nơi chỗ dư thừa.
Chú
Thích:
“Ít cú nghĩa”: một ít nghĩa câu văn, lời nói khiêm tốn
của luận giả.
“Vì
người mới lập phương thức”: “phương
thức” là phương vị, là kim chỉ nam; dụ như La Bàn của thuyền đi biển. “Người
mới”: là chỉ cho người mới phát tâm. Nghĩa là lời nói chút ít đây
là làm phương châm chỗ thiết lập cho kẻ ban đầu đã du lịch nơi biển
Phật Pháp, nguyên vì người mới phát tâm dùng Nhân Minh đây, tức là có thể biện luận tà chánh, biết
chỗ trở về chánh đạo.
“Trong nó thật lý không lý”: “Trong nó” là nơi trong nó. “Lý” tức là ba
Chi và Chân Hiện Lượng, Chân Tỷ Lượng của “Chân Năng Lập”.
“Diệu
biện nơi chỗ dư thừa”: Không
lý thì có thể phá, thật lý thì không thể phá: mà tất cả Luận Tạng, không lỗi thì ở nơi biện minh “Lý” đây,
hoặc “không lý”, những biện luận khéo léo đây tất nhiên ở trong
“Tạng Luận” kia mở rộng làm chỗ ứng dụng, cho nên nói “diệu biện
nơi chỗ dư thừa”; mà chỗ đây chỉ là đưa ra cung cấp nguyên lý, phương
pháp và kỹ xảo nơi Nhân Minh của những biện luận khéo léo kia,để
làm lợi ích cho người học vào nơi bộ môn chánh lý.
Nghĩa
Thông Suốt:
Tôi “đã”
ban bố chút “ít cú nghĩa”, chính
là hoàn toàn “vì” người “mới” nhập đạo mà “lập phương thức” (phương châm)
hành đạo, nơi trong “phương thức”,
“thời gian” ta hiển bày “thật lý”
của Chi, Chân Hiện Lượng, Chân Tỷ Lượng hoàn toàn Chân Năng Lập,
và “không lý” củaba Chi, Tợ
Hiện Lượng, Tợ Tỷ Lượng của Tợ Năng Lập; cho đến dùng môn học
Nhân Minh này mà hiển bày công dụng của “diệu biện”,chuẩn bị chuyên chở “nơi chỗ dư thừa” (Tất cả trong Luận Tạng---- kẻ có chí
nên phát tâm chuyên cần học tập nó).
--- 2001.11.30 Nghĩa Quán Hoàn Cảo nơi Đài Bắc
(Đại Tỳ Lô Tự)
---2002.5.12
nơi Mỹ Quốc “Biến Chiếu Tự”
ba lần so sánh mới hoàn tất.
---2002.8.5 nơi Mỹ Quốc “Biến Chiếu Tự” bốn
lần so sánh mới hoàn tất.
C.-
PHỤ LỤC: Thư Mục Tham Khảo:
1.-Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ, đời Đường, Pháp sư Huy
Cơ biên
soạn. Đại Chánh Tạng
quyển 44 (91 – 142). Tác giả ngoài đời gọi đây
là“Đại Sớ” hoặc “Nhân Minh Đại Sớ”.
2.- Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Nghĩa Đoạn, đời Đường, Sa
Môn
Huệ Chiểu thuật. Đại Chánh Tạng quyển 44 (143-158).
3.- Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ Tiền Ký, đời Đường. Sa
Môn Trí
Châu biên soạn. Vạn
Tục Tạng tập thứ 86 (448-491). Đây là sớ giải
của Pháp sư Thích Khuy
Cơ.
4.- Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Trực Giải, đời Minh, Sa
Môn Ngẫu
Ích Trí Húc thuật. Vạn Tục Tạng tập thứ 87 (77-85). Đây là
một trong
Tướng Tông Bát Yếu
Trực Giải.
5.- Du Già Sư Địa Luận.
6.- Giải Thâm Mật Kinh.
7.- Lăng Già Kinh
8.- Lăng Nghiêm Kinh.
9.-
Viên Giác Kinh.
10.- Encyclopedia Americana. (Đại Mỹ Bách Khoa Toàn Thư, Bản
Anh
Văn).
11.- Đại Mỹ Bách Khoa Toàn Thư (Bản Hán Dịch)
12.- Triết Học Đại Từ Thư, Phụ Đại Xuất Bản Xã, bản năm 1977.
13.- Tây Dương Triết Học Từ Điển, Hạng Thối Kết Biên giải
thích, Hoa
Hương Viên Xuất Bản Xã, bản hai Dân Quốc năm 81.
14.- Trung Quốc Đại Bách Khoa, Cẩm Tú
Xuất Bản Xã, 1993.
15.- Danh Dương Bách Khoa Đại Từ Điển, Danh Dương Xuất Bản Xã,
Dân
Quốc năm 73.
16.- Phật Quang Đại Từ Điển, Cao Hùng Phật Quang Sơn, 1988.
17.-
Phật Học Đại Từ Điển, Đinh Phúc Bảo biện soạn.
18.- Đại Tạng Hội Duyệt, Pháp Sư Hội Tánh trước tác, Thiên Hoa
Xuất
Bản Xã, năm Dân 68.
19.- Tam Tạng Pháp Số, nhà Minh. Pháp sư Nhất Như biên soạn.
20.- Khương Hy Tự Điển.
21.- Hình Âm Nghĩa Tổng Hợp Đại Từ Điển,Chánh Trung Thư Cuộc,
1998.
22.- Từ Hải.
23.-Lão Tử.
24.- Lão Tử Dực, Nhà Minh, Tiều Hồng biên soạn.
25.- Kinh Dịch.
Thích Thắng Hoan dịch tạm xong tác phẩm này ngày 4 tháng 7 năm 2017