HỌC PHẬT
VĂN TẬP
-----------------------------------------------------------
Tác giả:
Pháp sư Sướng Hoài
Phụ tá
Tác Giả chọn lọc
Phù Quang
nhiếp ảnh
Việt dịch
Thích Thắng Hoan
MỤC LỤC
· Lời Tựa
· Tự Tựa
I.- CHÁNH
TÍN ĐÍCH THỰC LÀ PHẬT GIÁO.
1. Phật
Giáo Phải Chăng là Mê Tín?
2. Tông
Giáo Đồ Có Ba Phần Ngây Dại.
3. Cái Gì
Là Tứ Đại Giai Không.
4. Giải
Thích Sơ Lược Sáu Căn Thanh Tịnh
5. Mạn
Đàm Đạo Nhẫn Nhục.
6. Chân
Nghĩa Của Lễ Bái.
7. Quy Y Tam
Bảo Thân Tâm An Thới.
8. Vì
Người Sơ Cơ Học Phật Góp Ý Kiến.
II.- NHÂN
SANH CÙNG PHẬT GIÁO.
1. Nhân
Sanh Quan Của Phật Giáo.
2. Phước
Huệ Cùng Nhân Sanh.
3. Phước
Huệ Cùng Thiện Ác.
4. Phiền
Não Cùng Thống Khổ.
5. Bàn Luận
Về Khổ Cùng Không.
6. Điều
Vui Không Thích Nghi Nhu Cầu Của Người Thế Gian.
7. Pháp
Của Thế Gian Và Xuất Thế Gian.
8. Vũ Trụ
Vạn Hữu Từ Đâu Đến.
III.- QUÁN
TỪ BI CỦA PHẬT GIÁO.-
1.- Chân
Nghĩa Của Hộ Sanh.
2.- Giới
Sát Cùng Phóng Sanh.
3.- Con
Người Làm Gì Cần Giới Sát Và Phóng Sanh.-
4.- Trì
Trai Cùng Ăn Rau Cải Có Không Giống Nhau Những Gì.-
IV.- PHẬT
GIÁO VÀ TIỀN ĐỒ CÙNG XÃ HỘI.-
1.- PHẬT
GIÁO CÙNG VẬN MẠNG VÀ TIỀN ĐỒ.-
2.- Phật
Giáo Chọn Công Thức Mầu Nhiệm Gì?
3.- Luận
Sự Lợi Hại Của Dùng Nghi Thức Phật Giáo Kết Hôn.
4.- Tông
Giáo Đối Với Xã Hội Đã Cống Hiến.
5.- Quan
Niệm Đối Với Thanh Thiếu Niên Phạm Tội.-
6]- Cảm
Tưởng Bốn Phép Tắc.-
V.- ĐÀM LUẬN
VỀ TĂNG GIÀ.-
1.- TĂNG
GIÀ ẢNH HƯỞNG CHẠY THEO KINH SÁM
2.- ĐỐI
VỚI TĂNG GIÀ ĐỔI MỚI
3.-TĂNG
GIÀ LÀ KHÔNG TIÊU CỰC.-
LỜI NGƯỜI
DỊCH
Kính Pháp
Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC
VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm
Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của các phái, các tông
giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều
xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh
Luật. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng
bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt
phủ định, mặt xác định, cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết
luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
Tôi rất
tiếc nội dung tác phẩm tàng trử những tư tưởng cao thâm như thế lại
nằm yên trong thư viện Hán Học không được phổ biến sâu rộng ra
tiếng ngoại quốc. Hôm nay xin ngài cho phép tôi chuyển ra tiếng nước
tôi là Việt Ngữ để phổ biến. Vì mục đích hoằng pháp, phát huy quang
đại tư tưởng giá trị này, việc làm này của tôi không có tánh cách
buôn bán xin ngài mở rộng lòng tha thứ.
Trong tác
phẩm này, chỗ nào có chữ nằm nghiêng trong dấu (...) là lời tôi
giải thêm cho rõ nghĩa. Tôi dịch tác phẩm này, xin các đọc giả xét
thấy có chỗ nào sai sót chỉ bảo cho, để tôi tu chỉnh cho hoàn bị hơn.
Thành kính cảm tạ.
Ngày 28.
04. 2021
Thích
Thắng Hoan
Chùa Phật
Quang
Trung Tâm
Phiên Dịch và Trước Tác
LỜI TỰA
Pháp sư
xuất gia tuổi còn nhỏ, theo học Đại Đức Từ Châu Lão Hòa Thượng đang
còn tại thế, Đại Đức là một trứ danh nổi tiếng Luật Tông của thời
Trung Quốc cận đại, nhân vì Pháp sư Sướng Hoài đối với giới luật
không phải thường chú trọng xuất sắc, cũng là pháp sư có cảm tưởng
sau chiến tranh Hương Cảng sụp đổ phong thái giới luật Phật giáo ngày
càng hưng thịnh nhờ nổ lực dẫn đạo xương minh, việc mong cầu thiện
tính nương theo pháp môn tam học giới, định, tuệ để tu trì.
Pháp sư
bình thời sinh hoạt, y áo sơ sài, ăn uống đạm bạc, chỗ ở đơn giản,
ăn giản dị, tự mình tiết kiệm, độ người tiếp chúng, rảnh việc lễ
Phật, tọa thiền, kiểm duyệt kinh tạng, nghiên cứu kinh luật, đọc
tụng kinh điển, quét dọn, giặt áo, trồng hoa, nấu nướng rau cải vân
vân, giở tay động chân đều là thiền.
Cá tánh
Pháp sư hoà nhã khả kính, bình dị dễ gần, bình thản lợi danh. Cổ nhân
nói: “Chí hướng bình thản rõ ràng, yên tĩnh dẫn đến từ xa”. Như thế,
các thứ Pháp sư dùng để trọng phước, tích phước, tu phước, tạo
phước, vì chúng sanh mà tạo các phước cho họ.
Thời gian
bắt đầu từ năm 1975 đến năm 1995, Pháp sư ở Phật Giáo Thanh Niên
Hiệp Hội đã xây dựng 72 khóa truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới. Truyền Tam
Đàn đại giới Tại Gia Bồ Tát Giới, Du Già Bồ Tát Giới cũng cố định
tổ chức xây dựng, nhân vì Thiên Thai Tinh Hội đã xưng tán của Trứ
Danh Giới Đàn.
Lại nữa
Pháp sư cảm thấy nơi Phật học có tiến tu và tĩnh tọa chính là pháp
môn tu hành nhưng Pháp sư phải quản lý, cho nên mỗi năm định kỳ khai
mở xây dựng lớp Phật Học Sơ Cấp và lớp Tiến Tu, lớp Tĩnh Tọa, đều
do Ngài đích thân trách nhiệm đạo sư, đã tạo không ít giới nhân tài
cho Phật giáo.
Pháp sư
từ bi thương xót chúng sanh huệ căn còn kém, cho nên bắt đầu năm
1977 diễn thuyết chuyên ngành pháp môn Tông Lăng Nghiêm. Lại nữa,
lúc bấy giờ cần nên cung thỉnh lên pháp tòa giảng kinh, khai thị,
nhưng không lựa hội trường, không tính nhân số, không luận tư chất,
có thể độ liền độ. Không luận giảng diễn Phật pháp hoặc soạn viết
văn chương Phật giáo, Pháp sư đều vào sâu ra cạn, biện tài không
ngại; Pháp sư đối với học viên Phật giáo, pháp khí, quy tắc nghi lễ cũng
rất tinh thông. Pháp sư đối với thiện tín sơ cơ trực tiếp hướng dẫn,
thừa sức không mất, mỗi người liên tiếp vẫn không thấy mệt, ân
cần khéo léo, mong mỏi có thể khiến chúng sanh quy y Tam Bảo, thâm
nhập kinh tạng, trí huệ như biển. Lại nữa, Pháp sư thường lễ thỉnh cao
tăng hải ngoại như Đại đức Lị Cảng Tuyên giảng Phật pháp, công việc
khiến đồ chúng có thể thành bác học đa văn, theo văn, tư, tu, đặng
tiến tới Phật đạo.
Pháp sư
đến năm đề xướng in sách Phật giáo nhiều cả trăm thứ, số cho là
nhiều
cả trăm
vạn quyển. Bao gồm sáng lập xuất bản tiếng Phật bằng “Điện Âm”,
đều
giúp các
nhân sĩ mới vào Phật môn, in sản xuất để kết duyên, theo để nhận
thức
Phật
giáo, tự tu tham khảo, khởi tin Tam Bảo, số này rất nhiều không ít.
Pháp sư
khéo dùng
văn tự Bát Nhã rộng độ chúng sanh, Pháp sư trước tác có “Tĩnh Tọa
Giảng
Nghĩa” “Học Phật Văn Tập”.
Chỗ thực
hiện của Tổng Quan Pháp sư là phàm có người đệ tử quy y đều nhận
thức Pháp
sư, đều tôn vinh là đạo sư khả kính, có thể xem như từ phu. Pháp sư
thật
là người
dẫn đạo của triết học nhân sanh, là địa vị Tinh Tấn Lực hành Bồ Tát
Đạo,
có thể
xưng là người khuôn mẫu của kẻ học Phật.
Năm 1995
Trương Phỉ La cẩn thận xếp theo thứ tự nơi Hương Giang.
TỰ TỰA
Phật pháp
mầu nhiệm sâu xa, không phải dựa vào sự giải thích của các bậc
hiền triết đã trải qua thời đại trước, nguyên vì lý của nó tất
nhiên chìm mất không lộ diện, “Kinh Hoa Nghiêm” nói: [Dụ như bảo vật
trong đêm tối, không đèn không thể thấy, Phật pháp không người nói,
tuy có huệ mà không thể thấy rõ.] Cho nên thuật lại sự tín giải
của người khác cũng là một con đường hoằng pháp, tôi tự cảm thấy
mình không có trí huệ thật xấu hổ tài sơ, lại chơi chữ, xếp bừa bãi
vào cho đủ số, tuy có tâm phát huy, nhưng việc làm vẫn không có tinh
thần phấn khởi, mỗi một niệm mặt mày mồ hôi chảy không thôi, lại
còn nguyên nhân làm văn qua loa, cú pháp chưa kịp trau chuốt, chữ chưa
được cân nhắc, hoặc thuật lại lời cổ đức mà giải bày cũng đã chưa
hết ý, hoặc chỉ nói một phương diện mà còn sót nhiều, lẽ tất nhiên
nó làm trò cười cho thiên hạ, hôm nay gom góp lại thành trang, in
đóng thành sách, mục đích cùng kết thiện duyên, để được thành tựu
chính nhờ nơi những người có đạo, giả sử các giới thiện tín, thưởng
cho tôi bằng cách chỉ bảo thì tôi không gì hơn cảm kích vô hạn.
Mùa thu
năm 1995 Sa Môn Sướng Hoài kính cẩn đề tựa nơi Tịnh Xá Thiên Đài.
****************
I.- CHÁNH
TÍN ĐÍCH THỰC LÀ PHẬT GIÁO.-
1.- Phật
Giáo Phải Chăng Là Mê Tín ?.
[Phật]
hoặc [Phật Đà], tiếng Ấn Độ là Buddha, dịch âm là xuất lai (ra đời)
là danh từ. Ý nghĩa của nó có ba: (1) Tự Giác, (2) Giác Tha, (3) Giác
Hạnh Viên Mãn.
(1). Tự
Giác: là nói tự mình đã giác ngộ,
(2). Giác
Tha: là nói không riêng mình đã giác ngộ, lại còn dẫn dắt người
khác,
khiến họ
giác ngộ.
(3). Giác
Hạnh Viên Mãn: là nói tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người
khác, hai
thứ đức hạnh giác ngộ đây chỗ nơi hoàn toàn viên mãn không
thiếu.
Phật giáo
đã có lịch sử hai ngàn năm, nhưng truyền vào Trung Quốc rất muộn sau
văn hóa tây dương, bị rất nhiều người nhận lầm cho là tông giáo mê
tín. Chúng nó thấy tượng Phật trang điểm bằng vàng, nghe đến tiếng
cá bằng cây, tiếng chuông khánh, liền nói Phật giáo thì sùng bái
thần tượng. Phía bên trong, biết Phật giáo nhất sự nhất vật đều có
căn cứ lý luận, chỉ là thứ lý luận đây không phải trải qua một
phen nghiên cứu, cho nên không dễ rõ ràng. Tiên sanh Lương Khải Siêu
nói: “Phật giáo là trí tín, mà không phải là mê tín.” Tín ngưỡng của
Phật giáo là chỉ tín ngưỡng chân lý của vũ trụ nhân sanh.
Phật đà
đối với chúng ta mà mói: [Người người đều có đức tướng trí huệ của
Phật, nhân vì bị dục niệm che đậy, không thể chứng đắc, cho nên bị
sống lâu các khổ, không chịu theo giải thoát.] Lại nói : [Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh.] [Tất cả chúng sanh xưa nay là Phật.]
Chính là nói không chỉ khoảng cách giữa con người cùng con người đều
bình đẳng, khoảng cách giữa Phật cùng Phật đều bình đẳng, cho đến con
người cùng động vật cũng là bình đẳng. Mà lại [Là các pháp đều
bình đẳng không có cao thấp.] Không chỉ hữu tình bình đẳng, tất cả
tâm pháp, tất cả sắc pháp, tâm pháp cùng sắc pháp, nhân pháp cùng
quả pháp, tất cả đều bình đẳng. Chúng sanh sở dĩ có tướng sai biệt,
nhân vì hoàn toàn mê mất bản tánh, thật thì bản tánh mỗi mỗi vẫn
bình đẳng, chưa từng cải biến. Vạn sự vạn vật đều do nhân duyên
hòa hợp,
hư vọng nên có sanh, nhân duyên ly biệt hư vọng gọi là diệt, bản
thể của nó vốn không tự tánh. Cho nên gọi: [Duy tâm chỗ hiện, Duy
thức chỗ biến].
Sao gọi
là khoa học? Nói giản đơn, khoa học là học vấn phân khoa. Là đối
với sự quan hệ hổ tương của mỗi một thứ sự vật, thực hiện nghiên
cứu có hệ thống, trải qua thực nghiệm, tạo thành công thức, từ
công thức đưa đến kết luận, chính không phải là suy đoán chủ quan.
Phương pháp nghiên cứu của khoa học, ở chỗ không ngoài hai thứ,
nghiên cứu thảo luận và quy nạp. Nghiên cứu thảo luận thì từ nơi
công lý đã biết, hoặc quy luật đã chứng thật, trở lại tìm cầu lý
luận chưa biết. Quy nạp là từ nơi sự biến hóa của các sự vật, cầu
đặng quy luật của cộng đồng tuân thủ.
Nhân minh
của Phật giáo, nhận cho chân tướng của sự vật, tất phải viễn ly hai
chướng sở tri và phiền não, mới có thể hiển hiện. Cho nên, ba chi
thức của nhân minh học cùng với tam đoạn luận pháp của khoa học, tuy
nhiên thứ tự có tương phản, nhưng kết quả thì tương đồng.
*- Tam
Đoạn Luận Pháp:
- [Đại
Tiền Đề]
- [Tiểu
Tiền Đề]
- Sau cùng
được đến [Kết Luận]
*- Nhân
Minh thì trước ra:
- [Tông]
- Thứ đến
ra [Nhân]
- Sau cùng
ra [Dụ]
*- So sánh:
- Tam Đoạn
Luận Pháp: [Kết Luận], tức Nhân Minh : [Tông]
-
TiểuTiền Đề...............................................................:
[Nhân]
- Đại
Tiền Đề.................................................................: [
Dụ]
*Dụ của
Nhân Minh phân làm hai thứ:................ [Đồng] và [Dị Dụ]
*So sánh
Đại Tiền Đề của Chu Đáo trong Dụ dùng hai chữ [Hiện Kiến] so sánh
Đại Tiền Đề cũng linh hoạt. Có thể thấy phương pháp nghiên cứu của
Phật giáo
sử dụng so với phương pháp của khoa học thì hoàn thiện hơn.
Lập
trường của khoa học là khách quan; lâp trường của Phật giáo, cũng
là bài trừ [ngã chấp] của chủ quan. Khoa học thì sản vật của lý
trí, phá trừ kiến chấp sai lầm đối với trên vật lý của nhân loại;
Phật pháp thì thấu triệt chứng đắc của lý trí, phá trừ mê chấp
trên tâm lý của nhân loại. Đối tượng nghiên cứu của nhà khoa học
là sự cấu tạo của vật chất, sự biến hóa của vật chất, và trong
sự biến hóa đó chỗ phát sanh các thứ số lượng quan hệ, đây chỉ mới
nghiên cứu đến “Bách Pháp Minh Môn Luận” chỗ trình bày [sác],
[thời], [phương] và [thứ đệ] vân vân mấy thứ trong Bất Tương Ưng Hành
Pháp, đồng thời chưa nghiên cứu đến tâm pháp là [tâm vương] và [tâm
sở] vân vân. So sánh sắc pháp cùng tâm pháp, không linh động bỏ
sót sắc pháp so sánh tâm pháp, tâm pháp so sánh sắc pháp thì linh
hoạt hơn.
Thế kỷ
gần đây, khoa học đối với nhận thức vũ trụ của phương diện thật
tướng, phát hiện trọng đại không nghi là có tột cùng, đối với sự
cấu thành của vũ trụ, cũng lại có nhận thức cụ thể. Nhưng sự phát
triển của khoa học, không chỉ không đủ để luận lý phủ định Phật
giáo, mà lại còn giúp đỡ Phật giáo luận lý tiến hành chứng minh
có năng lực. Hơn hai ngàn năm trước, trong Kinh Phật có dùng [Hạt
cải kết nạp núi Tu Di], lại thuyết minh một thứ lực lượng, khi thứ
lực lượng này thu hẹp nhỏ lại có thể chứa trong hạt cải, khi phát
ra có thể vượt qua núi Tu Di lớn. Sự phân tích nguyên tử của khoa
học cận đại, vật chất quá cực nhỏ, có thể thành lực lượng quá
cực lớn, đây không phải là so sánh với Phật giáo luận lý giống
nhau hay sao?
Sự phát
triển của khoa học, không ngại đã rung động lay chuyển hoàn toàn
luận lý của một số tông giáo nọ, lung lay một số tín ngưỡng của con
người kia, hoàn toàn mất tinh thần đã gởi gắm mình
trên thần
quyền, đã tạo thành tinh thần hoàn toàn trống rỗng trên thần quyền.
Nhưng đối với Phật giáo, khoa học càng phát triển rực rỡ thì giáo
nghĩa của Phật giáo lại càng phát cao ánh sáng to lớn. Phật giáo
không những không giống lý luận như các tông giáo khác, không trải
qua sự khảo nghiệm của khoa học, mà phản nhau với khoa học, khoa học
đã vì Phật giáo lý luận, thực hiện chú giải hoàn toàn có lực,
chứng minh Phật giáo vĩ đại. Năm gần đây trong Phật giáo đồ của
Trung Quốc, lại có không ít nhà khoa học trứ danh. Đối với khoa học,
họ tạo trình độ kỷ thuật càng thâm sâu, cho nên họ càng có thể
giải thích trong kinh Phật mà trước nay không thể giải thích hoặc nghĩa
lý không dễ giải thích, Cho nên Phật giáo có thể nói là trí huệ
của nhân loại, là tượng trưng của ánh sáng, ở ngày nay là thời đại
khoa học phát triển rực rỡ, nó hoàn toàn chiếu phá ngu si mê ám
của thế giới, giải trừ hoàn toàn mê chấp của nhân loại, khiến trí
huệ của nhân loại, đạt đến chỗ phát triển cảnh giới không ngừng.
Bác sĩ
Bảo La nước Anh nói: [Phật giáo là cứu tinh của nhân loại ngày nay,
gần đây trên thế giới người nghiên cứu Phật giáo mỗi ngày lần lần
càng tăng nhiều, thật tế nguyên nhân Phật giáo xuất hiện cao thâm
hơn tất cả tông giáo. Khoa học vươn lên có sở trường tiến bộ, chỗ
phát minh của nó, cũng chỉ và ấn chứng sự hổ tương của Phật pháp.
Mà Phật pháp chỗ rất tinh thâm, chỗ rất vĩ đại, thì không phải học
thuật hiện đại của các tông giáo khác có thể mong đuổi kịp.] Tiên
sanh Tôn Trung Sơn cũng nói: [Phật giáo chính là lòng thương yêu của
cứu thế, Phật giáo chính là mẹ của triết học. Tông giáo thì tạo
thành dân tộc và giữ gìn dân tộc, một thứ lực lượng tự nhiên rất
to lớn, nhân dân không thể không có tư tưởng của tông giáo. Nghiên
cứu Phật học, riêng có thể bổ khuyết cho khoa học.]Nguyện các nhân
sĩ trong xã hội, đoạn trừ nghi hoặc sanh tín tâm, y giáo phụng hành.
2.- Tông
Giáo Đồ Có Ba Phần Ngây Dại.
Nhiều năm
về trước tôi có đọc qua một bản trước tác, hiện tại đã trải qua
nhiều năm quên ghi tên của quyển sách, chỉ ghi được trong đó có một
câu nói: [Phàm người có Tông giáo tín ngưỡng, đều có
ba phần
ngây dại.] Nếu như vị trí của tác giả đây đối với nhân sĩ của tông
giáo có ba phần ngây dại, chưa thấu suốt đầu đuôi mà đi phê phán,
đó chính là có vấn đề. Phàm phê bình một sự một vật, đầu tiên cần
phải minh bạch đầu đuôi của sự kiện đây và sau đó xét kỹ đúng sự
thật, rồi mới phê phán, như thế mới là thích hợp, bằng không, nên
dùng lập trường của Môn Ngoại Hán, để khỏi mang tiếng múa rìu qua
mắt thợ.
Nương nơi
trên mà nói câu đây, chứng tỏ tác giả đối với giáo nghĩa của Phật
giáo và sựï sinh hoạt hành trì thường ngày của Phật giáo đồ, nhất
nhất không chút hiểu biết, mà tin nơi cái miệng lại phát ngôn cho
chúng nó đều có ba phần ngây dại, đâu không phải không thỏa đáng
rất lớn hay sao? Tác giả có thể thấy đến rất nhiều nhân sĩ tông
giáo cùng thế gian không tranh luận, nơi người đời không mong cầu,
đối với vinh nhục đặng mất tâm không bị trói buộc, đã không vừa
lòng cho là phàm người tín ngưỡng tông giáo, nhất định đều mê muội
hão huyền, thất vọng chán chường, chất phát vô tình, sinh hoạt quá
cố chấp tiêu cực, thứ quan niệm đây mười phần sai trái hết mười.
Phải biết người có tín ngưỡng tông giáo và người không có tín
ngưỡng tông giáo, tánh chất sinh hoạt cùng quan điểm đều có chỗ
không giống nhau, người trước thì chú trọng xem sự tu trì trên linh
tánh là tu tâm dưỡng tánh, nhưng người sau thì đại đa số chỉ tìm cầu
hưỡng thụ trên vật chất làm mục đích.
Người đời
nguyên nhân nam thì kết hôn, nữ thì lấy chồng, sanh con trai, đẻ con
gái, gia đình gánh vác hệ trọng, không đặng không vì duy trì sanh kế
mà chạy trốn. Nếu như y phục lương thực trụ lại sự lưu hành chưa đạt
lý tưởng, rồi lại nhờ Hội Xương Hiểm đi tạo một số sự việc hại
người lợi mình, một sớm được an cư lạc nghiệp, lại tưởng đến cầu
danh, nói chung chính là mãi mãi không dừng nghỉ cứ đi tranh danh trục
lợi. Có lúc làm người thủ lảnh, vẫn còn quản lý thường đè thấp
người khác, khoe khoang khắp nơi, tự mình dương oai, suốt ngày cái ngã
càng dài, nhà người ta càng ngắn, tranh cường háo thắng. Bất ngờ công
thành danh toại, lại ý đặng dồi dào, tự cao tự đại, mắt không tất
cả, Cho đến quan niệm đạo đức Tông giáo, chân lý vũ tr
ho là
đồng nhau hý luận. Phật giáo gọi là [Phú quý tu đạo khó.] tức là
lý đây vậy.
Lại nữa,
hoặc nếu có chỗ mất việc làm, hoặc gia đình nghèo lại có thân nhân
già cả, liền hiểu được nẻo trước mịt mù, mất hết tinh thần, tự cảm
thấy thấp hèn nhỏ bé, lời nói chấp nhận chất phác, đây là mới
ngộ nhân sanh thống khổ, phải cầu sự trợ giúp nơi Tông giáo. Tục
ngữ có câu: [Gặp lúc cấp bách mới ôm chân Phật]. Trong như loại
đây chỉ ngoảnh mắt trước quang cảnh, người không có lo xa, người như
thế có thể thương xót.
Nếu gặp
phải sanh con trai đẻ con gái, con gái thuận tiện nấu nướng nhưng khó
giết con vịt con gà, thân bằng đầy nhà, chúc mừng long trọng, dùng
tàn sát thân mạng động vật khiến đầy đủ vui vẻ cá nhân, như thế
đâu phải sự việc công bằng? Phật giáo gọi là: [Kẻ hại người thì
hại mình, lợi người thì lợi mình.] Nếu khiến chúng sanh đoản mạng, nay
lại mong cầu mình được trường mạng, không những cầu không thể được,
ngược lại, tất nhiên tự mình sẽ gặp tai ương.
Người ta
một sớm sanh ly tử biệt thì kêu trời giậm đất, sớm tối buồn thương,
quên ăn bỏ ngủ, thậm chí hoặc bi thương thành bệnh tật, tuy nhiên như
thế lại có giúp ích được gì? Người đời ai cũng không khỏi phải chạy
trên con đường này, chỉ tranh nhau đến sớm cùng đến chậm mà thôi. Cổ
đức Trang Tử để tang vợ, đánh trống mà ca. Người khác nói [Phàm
người chết, nhất định phải buồn thương, ta cũng là người, sao không
khổ tâm, do vì ta đã sáng tỏ con người do khí mà sanh, người chết sẽ
trở về nơi khí, nhân đây ta chẳng buồn thương.] Do đây có thể biết
con người sáng tỏ chân lý nhân sanh là cũng giống như chỗ cảm thọ
của con người có chỗ không giống nhau.
Giáo đồ
có tín ngưỡng thì không nổi trôi theo thế tục, chúng nó sẽ nương theo
tinh thần nơi tín ngưỡng của Tông giáo, hoàn toàn loại bỏ thế tục ra
ngoài, lại không dứt chỗ trên tu trì dưới công phu, từng bước dần
dần trừ bỏ thất tình lục dục, cho nên người đời đối với tri thức
thế gian nhanh trí cho là quý, mà đối với Phật giáo đồ những mầu
nhiệm của
phàm tình thế gian đều cho là mơ hồ. Nơi chỗ đây, tác giả nói [Nhân
sĩ Tông giáo có ba điều ngây dại]. Trên sự thật, chỉ có ba phần thì
lại không thể với tới được, có thể có bảy phần thì mới gần đạo,
nếu cần tương hợp thâm sâu mục đích của Phật, lại đâu cần thật
hành đủ bảy phần này? Thật ra, phiền não cùng khổ đau của con người
mỗi khi phát khởi nguyên nhân liền tự cho là đủ trí để biện minh.
Tục ngữ nói: [Chính không phải là mở miệng nhiều, phiền não nhân
đây xuất đầu rất mạnh.] Mà lại tất cả vạn sự vạn vật trong thế
gian, không một thứ nào không phải là huyễn vọng tạo thành, lại
đâu nhất định chấp cho là thật có, đâu nhất định sanh ra phân biệt?
Giáo nghĩa
của tất cả Tông giáo cứu cánh như thế nào? Nếu nghiên cứu nghĩa
sâu xa của nó, các nhà quan tâm để xu hướng thì không giống nhau.
Nhưng nhìn nông cạn mà nói, vẫn khác đường nhưng cùng về một chỗ,
tức là điều thiện vui tột cùng. Thí dụ như, Nho giáo thì có [Khắc kỹ
phục lễ] (Kiềm chế lòng ham muốn của mình để khôi phục lại lễ
nghĩa). Đạo giáo thì có [Ninh tĩnh đạm bạc] Yên tĩnh đơn sơ), Phật giáo
thì có [Ngũ giới thập thiện], Cơ Đốc giáo thì có [Ngũ giới], những
đây đều là dạy người [Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng
làm]. Người có tín ngưỡng Tông giáo nên cần phải quay về giáo nghĩa
của nó mà nói nên khởi hành.Chỗ gọi [Không vì tự thân cầu an lạc,
chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ]. Có thể nguyện vọng đây mới là
một tín đồ chân chánh. Nhân đây người sử dụng làm ngược lại, ta ưng
thuận thọ nhận, nghe bị giết mà không tức giận; người sử dụng làm
thuận theo, ta sử dụng thừa nhận, nghe khen tặng mà không vui mừng,
tuyệt đối không cùng người tranh dài luận ngắn.
“Kinh Hoa
Nghiêm” nói: [Trên mặt không sân là cúng dường đầy đủ, trong miệng
không sân là nhả mùi hương mầu nhiệm, trong tâm không giận là trân
bảo, không dơ không nhiễm là chân thường.] Là cái gì gặp mẫu mực
của nó phải đi làm? Nguyên vì nhân sanh sự vật đều hư vọng không
thật. Chỗ gọi là [Đây có nên kia có, đây không nên kia không, đây
sanh nên kia sanh, đây diệt nên kia diệt], nay tụ mai tán, bãi bể
ruộng dâu, vô thường biến hoá, sát na không dừng, không trụ thì lại
không. Như người đến sau, do tuổi nhỏ đến trai tráng,
do trai
tráng đến tuổi già, do tuổi già cho đến chết; vũ trụ vạn hữu, từ
sanh cho đến trụ, do hoại cho đến diệt, không một ai chẳng phải là
từ nơi không sanh ra có, từ nơi có lại trở về không, trước là không
của chưa sanh, sau cũng là không của đương diệt, nơi trung gian của nó
nào từng có vật? Nhân sanh trong thế gian số chở đầy đủ tuổi thọ
nếu so sánh cùng ngày tháng thì không khác gì con thiêu thân? Lớn như
vũ trụ, chứa đựng phẩm vật, so nhau cùng con người, nó khác nào nhỏ
bé! Thế mà con người suốt ngày sáng sớm cứ mãi tranh danh, nơi chợ
buôn bán thì cũng tranh lợi, còn người trí thì chỗ đó không chọn
lấy. Cổ đức nói: [Phú quý của nhân gian cũng như sương trên hoa,
công danh của thế gian cũng như bong bóng trên nước.] Nhân đây nhà
Tông giáo không có nắm bắt vinh nhục đặng mất bỏ mặc nơi trong con
mắt, đây không phải ngu si ngây dại không biết, đây chính là [Đại
trí không ngu] cùng [Đại biện tài không nói] mà thôi.
Phật giáo
đồ đều không cho địa vị cao, đa tài mà lại tự cho mình là nhất đời,
rồi kêu ngạo, xem thường tất cả. Nếu gặp phải thất nghiệp, cũng
chẳng biết ưu sầu bi thương, rồi lại đấm ngực giậm chân, tự thẹn
mình nhơ bẩn. Cổ nhân đề cử Hòa Thượng là vì [Trên cùng Đế Vương
đồng ngồi, dưới cùng kẻ ăn xin đồng đi.] Đây là nói, mặc dù trên
cùng Đế Vương đồng ngồi không cho là vinh, mặc dù dưới cùng kẻ ăn
xin đồng đi không cho là nhục, đây là sự việc ngàn chân vạn thật.
Nay ta trong nước tuy nhiên chẳng dễ thấy nhiều, chỉ ở Tích Lan Thái
Quốc, đều là Phật Giáo Quốc Gia, vẫn có thể thấy đến.
Nếu luận
vinh nhục đặng mất xoay vần, phàm có chỗ được, tất nhiên có chỗ
mất, có chỗ nào được trực tiếp có thể mừng mà cũng có thể buồn
chăng? Tất cả thế gian đều là pháp nhân duyên sanh, không luận họ
hàng bằng hữu, gia đình thân thuộc, nhân duyên tụ họp thì có tụ
hội, nhân duyên biệt ly thì kia đây phân tán. Nhân sanh như ở trên
sân khấu, có đóng vai cha mẹ, có đóng vai con gái, dưới đài ở phía
sau, có cha mẹ không có cha mẹ, có con gái không có con gái, khác
tất cả, không một ai không phải là chỗ gặp nhau mua vui.
Lại nữa
kẻ sống lâu bằng trời rồi cuối cùng cũng thông, hoàn toàn là do
nghiệp lực nhân quả chi phối, trước kia dùng thứ nhân gì thì hiện nay
kết thành quả đó. Tục ngữ nói : [ Thiện có thiện báo, ác có ác
báo, nếu như chưa báo, rồi sẽ đến báo.] Nếu như trước đã gieo nhân
thuộc giống nhiều bệnh đoản mạng, nay sanh lại cần yếu tưởng phòng
bệnh được sống lâu, tuyệt đối không có lý này. Hiện nay muốn phước
thọ lâu dài, liền khiến gieo xuống giống nhân của giới sát và
phóng sanh, nhưng cần yếu phải chờ đợi duyên chín mùi mới đặng quả
trường thọ. Thành công hay thất bại của con người, tuyệt đối không
phải chỗ của trời ban xuống, tất cả chính do con người tự làm tự
chịu. Nho gia chỗ nói: [Trời làm tội ác còn có thể tránh; tự làm
tội ác không thể sống], cũng thuộc ý đây.
Cho nên
nhân sĩ Phật giáo chúng ta nên mừng không nên kiêu, gặp đau khổ
không nên bi ai. Cổ đức nói: [Không mừng cũng không lo, tùy duyên
vượt qua xuân thu]. Thứ cảm thọ đây, đều không phải giống như có
thể lãnh hội.
“Đạo Đức
Kinh” nói: [Kẻ sĩ bậc thượng nghe đạo, chuyên cần thi hành, kẻ sĩ bậc
trung nghe đạo, nửa còn nửa quên, kẻ sĩ bậc hạ nghe đạo, cười to,
không cười không đủ cho là đạo.] Do đây có thể biết. Con người chọn
ngày luôn luôn tìm cầu trên vật chất, mục đích nhân sĩ Tông giáo sao
có thể biết đạo ung dung ngoài vật chất, mà không khỏi hiểu đặng
bọn họ có ba phần ngây dại!
3.- Cái Gì
Là Tứ Đại Giai Không.-
Tôi sẽ
tin rất nhiều người đối với [Tứ đại giai không] danh từ đây đều
được nghe qua, rất tiếc có thể ít người không thể hiểu rõ hàm nghĩa
chân chánh của vấn đề đây. Tức là khiến phần tử trí thức, nếu như
chưa từng nghiên cứu qua Phật học, cũng có thể chưa rành mạch mà
đùa nghịch nói nghe đồn dọc đường, hùa theo phụ họa râu ông nọ cắm
cằm bà kia. Nếu như khi có người hỏi tứ đại là gì đều cho là không?
Không mượn chỗ suy nghĩ lại có thể nói: [Tứ đại đều không tức là
tài sắc tửu khí đều không cần đến.] Lại cho người đặc biệt kia
giải thích
đạo lý trong đây, đó thật là râu ông nọ cắm cằm bà kia, trộn giả
loạn chân, sai lầm rất lớn.
Chỗ gọi
Tứ Đại của Phật giáo tức là: (1) Địa Đại, (2) Thủy Đại, (3) Hỏa
Đại, (4) Phong Đại. Chỗ gọi Đại đây, thân thể bên trong, vạn hữu vũ
trụ bên ngoài không có giống nhau không là Tứ Đại tổ hợp tạo
thành. Thí dụ như Địa Đại, tánh của nó cứng rắn, có thể chống đỡ
duy trì vạn vật; Thủy Đại, tánh của nó ẩm ướt, có thể bổ dưỡng
vạn vật; Hỏa Đại, tánh của nó nhiệt độ ấm áp, có thể điều hòa
quen thuộc vạn vật; Phong Đại, tánh của nó lưu động, có thể sanh
trưởng vạn vật. Mà lại Tứ Đại này có loại khi tạo vạn vật tất
nhiên cần thành phần nhu yếu thích nghi vạn vật thì mới có thể sanh
trưởng, nếu như lửa tăng thạnh hoặc nước thối lui giảm dần, chia đều
sự trái ngược thăng bằng, mà vạn vật lại không thể tự nhiên
trưởng thành. Nhân vì Tứ Đại là loại làm căn nguyên của vạn vật
sanh trưởng, cho nên gọi là [Đại].
Giai Không
đây là nói [Ngã] là loại ở trung gian của Tứ Đại, chính không có
tên của nó, mà nó cũng không có thật thể, cũng có thể cho Tứ Đại
là thứ không phải [Ngã] và [Ngã] cũng không phải là thứ Tứ Đại.
Nhân vì thân thể đây là do Tứ Đại tổ hợp thành hình, giả sử đem
thứ Tứ Đại đây mỗi mỗi phân tán, thì cái [Ngã] chính hoàn toàn
không có pháp tồn tại. Thí dụ như, tóc, lông, móng, răng, da, thịt,
gân cốt, là thuộc Địa Đại; nước mắt nước mũi, máu mủ, đại, tiểu
tiện lợi, là thuộc Thủy Đại; nhiệt độ ấm áp khô ráo, là thuộc
Hỏa Đại; hô hấp động chuyển, là thuộc Phong Đại. Thử so sánh, đem
Tứ Đại phân tích, nếu như Địa Đại là [Ngã], đó chính là cần phải
dùng bùn đất làm [Ngã], nhân vì sau khi chết mai táng, da thịt gân
cốt, toàn bộ biến thành bùn đất; giả sử nếu như Thủy Đại là
[Ngã], đó chính là cần phải dùng nước biển làm [Ngã], nhân vì nước
dãi máu mủ ở trong thân, toàn bộ thuộc nơi phần nước; giả sử nếu
như Hỏa Đại là [Ngã], đó chính là cần phải dùng lò lửa làm [Ngã],
nhân vì ấm áp khô ráo trong thân, toàn bộ thuộc nơi hơi ấm; giả sử
nếu như Phong Đại là [Ngã] đó chính là cần phải dùng không khí lưu
thông làm [Ngã], nhân vì hô hấp chuyển động, chia đều thuộc nơi sự
hoạt động của Phong Đại lưu chuyển. Thử hỏi bùn đất, nước biển, lò
lửa cùng không khí, có
phải là
không phải [Ngã]? Đã vậy nếu là không phải [Ngã] thì đất, nước,
lửa, gió, của nội thân sao lại không phải là [Ngã]? Nhân vì thứ Tứ
Đại bên trong cùng loại Tứ Đại bên ngoài chia đều là đạo lý giống
nhau, nếu như thứ Tứ Đại bên ngoài không có [Ngã], thì thứ Tứ Đại
bên trong đương nhiên cũng không có [Ngã], cho nên nói Tứ Đại Giai
Không.
Xin đề cử
trở lại lần nữa, đem một gốc cây làm thí dụ, sự sanh trưởng của
cây, sự việc trước hết cần có đất bùn, lại thêm vào nước làm tươi
tốt, có thể là, nếu không có ánh sáng mặt trời để hấp thụvà
phát triển cùng Phong Đại để lưu thông thì gốc cây đây cũng là
không có pháp để sanh trưởng, mà lại cần yếu Tứ Đại để điều chỉnh
cho thích đáng thì mầm của gốc cây đây mới có thể sanh trưởng, mầm
cây đây phải trải qua thời gian nếu liên quan đến ngày giờ rồi sau
đó mặc dù đã lớn lên trở thành đại thọ, chỉ cần yếu truy cứu đến
bản thân của cây thì cũng không có tên của nó, vì tên của nó
không có thật thể. Nhân vì da và thân của cây, gốc cây, nhánh, lá,
đều thuộc về Địa Đại; chất lưu nhuận của cây là thuộc về Thủy Đại;
khí ấm của cây là thuộc về Hỏa Đại; vận hành của cây là thuộc về
Phong Đại. Nếu như đem đất, nước, lửa, gió, trên cái cây mỗi mỗi
phân tích ra, lại đem chúng nó quy nạp nơi ngoài thứ Tứ Đại, thử hỏi
bản thân của cây ở chỗ nào? Đương thể tức là hoàn toàn bất khả
đắc (Không thể tìm được), cho nên bản thân của cây cũng là không
có [Ngã]. Từ loại đây suy ra, vũ trụ vạn hữu đều là giả danh, mà
không có thật thể, nhân vì nơi trong thân cùng trên ngoại cảnh, hoàn
toàn trừ ngoài đất, nước, lửa, gió, ra lại không có vật riêng
biệt, cho nên nói thân thể cùng thế giới, chia đều ra giống như hoa
trong gương, mặt trăng trong nước, đều không, hoàn toàn không chỗ có.
Người đời
không biết đến, nhân vì Phật giáo giảng Tứ Đại đều không mà hiểu
lầm cái gì đều không có. Phật giáo chỗ gọi đều không đây, chính là
không vì nó thuộc hư vọng, đều không phải là không chính là chân
tâm của nó, nhân vì vạn vật trong thiên hạ, hoàn toàn là do Tứ Đại
giả hợp thành hình, nếu cần tìm cầu thật thể, rốt ráo là không đều
không chỗ có, cho nên nói nó là không là vọng.
Đúng là
chỗ tương phản, ta có thể tìm cầu cùng có thể thấy nghe của tánh tri
giác, nó chính là không không thể hiểu được, mà lại từ xưa đến nay
nó không biến cùng sống lâu đồng với thái hư, phàm phu chỉ nhận giả
tướng ngoài tâm, không nhận chân ngã trong tâm, mê mình cho là vật,
nhận vật cho là mình, cho nên vạn vật có sanh thì ta cũng sanh theo,
vạn vật có chết thì ta cũng chết theo. Nếu có thể ánh sáng chiếu
dội trở lại, nhận thức chân ngã, không mê giả tướng, tự nhiên có
thể đủ thâu hoạch được chân tâm thường trụ, vĩnh viễn không bị sanh
tử luân hồi, đặng đại giải thoát!
4.- Giải
Thích Sơ Lược Sáu Căn Thanh Tịnh.
[Sáu căn
thanh tịnh], đây là danh từ, đại gia sẽ tin là đều do lổ lai mới có
thể hiểu rõ tường tận, lại càng hoặc gặp thời thêm dẫn dụng. Nhưng
mà đối với ý nghĩa chân chánh của nó, có thể đủ hiểu rõ rành
mạch, lo sợ không nhiều.
Cái gì là
sáu căn? Nhà Phật lại cho là do nhã, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sáu
thứ có nhiệm vụ là sáu căn, dùng căn đều có thể sanh trưởng tác
dụng. Một số nhiệm vụ đây trải qua thường nương nơi sáu thứ đối
tượng của sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, gọi là sáu trần, nơi trong
sanh ra sáu thức của thấy, nghe, ngửi, nếm, hiểu biết và nhận thức,
nhà Phật gọi là 18 giới.
Phật học
nói căn là nghĩa khả năng sanh khởi, nhãn căn khi đối với sắc cảnh,
tức thì khả năng sanh khởi nhận thức của nhãn, cho đến ý căn khi
đối với pháp cảnh tức thì sanh khởi nhận thức của ý, như có thứ
căn của thực vật thì khả năng sanh mầm non, thân cây, chi nhánh cây,
cho nên gọi là căn. Căn cùng cảnh chia đều là [Nhân duyên hòa hợp,
hư vọng có sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng gọi diệt]. Dụ như hoa
trong gương, mặt trăng trong nước. Phàm phu không ngộ lý này, nơi căn
trên cảnh, hư vọng tạo nghiệp, hư vọng thọ khổ, ba độc, tham, sân,
si, bùng phát, các thứ vọng niệm phấn khởi, nguyên nhân từ vô thỉ
đến nay, chìm vào biển khổ sanh tử, không có kỳ ra khỏi. Càng quá
đáng, thanh niên nam nữ thời nay tự mình tạo lấy thông minh,
nhận làm
vật chất cùng hưởng lạc là thứ nhất, dùng tha hồ buông lung giải
lầm cho là tự do, nơi đó hô cao cho là bình đẳng, hình thành cha không
ra cha, con không ra con, phóng túng tha hồ hưởng lạc, biến đây thành
xã hội như thế nào, chính cùng cầm thú nào khác!
Sáu căn
thanh tịnh cùng với năm giác quan của nhục thể có khác, năm giác
quan nối kết tâm ý dựa vào nó để sanh hoạt. Do đây chúng ta từ
trước đến nay nơi đời cũng vì nó theo nhiều sanh ra nhiều, tức vô minh
là chỗ ô nhiễm, cho nên từ nhỏ đến lớn, cứ chạy theo sự vật bên
ngoài, mà tự mình thì không chút giác ngộ.
Sáu căn
không thể thanh tịnh là do nơi chúng ta đầu tiên khởi lên một niệm
bất giác, gây tạo vô minh vọng động và nhân vì vô minh vọng động
đem che lấp chân tâm vốn sẵn có, chạy trốn theo sắc, nhận vọng cho
là chân. “Kinh Viên Giác” nói rằng: [Vọng nhận tứ đại làm thân
tướng của mình, sáu trần duyên ảnh làm tâm tướng của mình.] Liền đem
chân ngã bỏ mất, riêng nhận thân tâm hư vọng làm ngã. “Kinh Lăng
Nghiêm” nói rằng: [Duy nhất chọn mê làm tâm, bên trong quyết định
chọn hoặc làm sắc thân, không biết sắc thân bên ngoài và sơn hà
đại địa, đều là vật trong chân tâm diệu minh, thí dụ như nước lắng
trong, trăm ngàn đại hải bỏ đi, chỉ chọn một bọt nước nổi trên làm
thể.], đây là nói, tâm lượng của con người lớn như hư không, thần
thông diệu dụng, rộng lớn vô biên, nhưng vì tâm người mê muội mà
không tự biết.
Nhưng
giống như con người mỗi mỗi chấp mê không ngộ, quay lưng lại giác
ngộ, hợp chung lại với bụi trần, do tự tâm nắm lấy tự tâm, không
phải giả trở thành pháp giả. Nơi con mắt chỉ có thể thấy sắc, nơi
lổ tai chỉ có thể nghe tiếng, nơi lổ mủi chỉ có thể ngửi mùi hương,
nơi thân chỉ có thể giác xúc, nơi ý chỉ có thể biết pháp, cho nên,
trong sáu căn nơi trên vận dụng không thể vượt thoát ra ngoài phạm
vi sáu trần; tại trong pháp bình đẳng, sanh khởi tưởng mình và người;
ở nơi trong không có đồng và khác, do đốt cháy trở thành hoàn toàn
có khác. Khi đương gặp thiện duyên tiếp làm việc thiện, nhưng nếu
gặp ác duyên lại không tránh khỏi làm việc ác, tất cả chúng sanh,
từ vô
thỉ đến
nay, thiện tăng trưởng thì ác tiêu tan, thiện tiêu tan thì ác tăng
trưởng, thiên đường địa ngục, địa ngục thiên đường, sanh sanh tử tử,
trầm luân khổ hải, không có giờ ra khỏi.
Ta là
phàm phu ngu si cùng sanh cùng đến để làm ít tâm thiện, làm nhiều
tâm ác. Duy Thức gia nói, tâm sở thiện của con người chỉ có 11 loại,
tâm sở ác vẫn chiếm 26 loại. Giả sử nếu người tôi không giả mạo
mình lại công phu tu dưỡng của lễ nghĩa, lại ngăn cấm dục vọng cá
nhân của chính mình, nhưng ở đây không phải vậy, tôi lại dựa vào
tâm tôi, buông lung không hạn chế, vậy thuận tiện có thể tạo thành
trời nghiêng đất ngã, tình hình của con người và thú vật khó phân
biệt. Tâm tạo ác mỗi ngày chạy theo ác càng xấu, tam độc tham, sân,
si, khó khắc chế, là do càng cầu tự do, tức là càng làm cho ba độc
có cơ hội tăng lên, đâu chẳng phải cùng tự do quay long lại với đạo
mà đi nhanh? Giả sử thật ra có thể đạt đến sáu căn thanh tịnh, sáu
căn khi đối với sáu cảnh, liền không trở lại sanh khởi phiền não
mê hoặc của tham sân si, mà lại có thể biết hai thứ căn cảnh,
không phải không không phải có, khác nào hoa trong gương trăng dưới
nước. Có chỗ gọi: [Không vào sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.], xem
mà không tham sắc của nó, nghe mà không tham tiếng của nó, ngửi mà
không tham hương của nó, thưởng thức mà không tham vị của nó. Đại
đức Thiền Tông nói: [Chọn ngày ăn cơm mà chưa nhai một miếng gạo,
chọn ngày mặc áo mà chưa cột một sợi giây]. Từ đây đi ngủ mà chưa
lên giường, chạy bộ mà chưa đạp đất, bên trong không thấy thân tâm,
bên ngoài không thấy thế giới. Nếu từ tâm nguyên mà luận làm gì
có phần nhiễm tịnh? Nói sáu căn thanh tịnh đây, chẳng qua là đối với
phàm phu ngu si mà nói bãi miễn. LụcTổ nói:
[Bản lai
vô nhất vật, hà xứ nhá trần ai] (Xưa nay không một vật, làm gì
chuốc lấy bụi trần.). Đến đây mới có thể chân chánh đạt đến tự do
cùng bình đẳng cho nhân loại, độc lập cùng đại vô uý, vạn vật cùng
ta là bạn bè, chốn ra ngoài nhà tù tam giới, đặng đại tự tại vậy!
Đức Phật
xuất hiện ở đời, nói pháp 49 năm, chỉ có mục đích là khiến người
đời hiểu rõ tất cả đều là hư huyễn, bao gồm chỉ đạo người đời như
thế nào mới có thể quay lưng lại bụi trần, hợp nhất giác
ngộ, lật
lại nguồn gốc trở về chân nguyên, nếu người không chấp thân tâm
cho là thật có, hiểu thấu thân tâm là như huyễn, sáu căn phản
chiếu tự tánh, không theo sáu trần chỗ phát khởi tri kiến, tu tập
lâu ngày, tự có thể căn trần nung chảy tiêu tan, có thể cả hai đều
mất, ba độc tham sân si tiêu trừ, sáu căn cũng đồng thời thanh tịnh.
Kinh nói: [Một căn đã trở lại nguồn gốc thì sáu căn trở thành giải
thoát.] Quả có thể theo chỉ thị của Phật, nương theo thứ tự tu hành,
tất nhiên nhất định có thể thành công.
Tu đặng
sáu căn thanh tịnh, cứu cánh có chỗ tốt nào? Đáp án là [Vượt ra
khỏi tam giới, hoàn toàn giải thoát sanh tử]. Chính là hiện tại,
thân của cha mẹ sanh ra, cũng có thể thâu hoạch được vô lượng diệu
dụng. Như con mắt có thể thấy núi rừng sông biển của trăm ngàn thế
giới, trên đến thiên đường, dưới đến địa ngục, thiện ác nhân duyên
của tất cả chúng sanh và chỗ sanh quả báo, ai cũng đều thấy rõ
thần không thể thấy; nhĩ cũng có thể nghe xa tất cả tiếng trong và
ngoài của trăm ngàn thế giới; mà tỷ có thể ngửi tất cả hương; mà
thiệt thường ăn uống đến của trăm ngàn thế giới; cho đến chua,
ngọt, đắng, cay, tất cả vị đều biến thành thượng vị; thân như tịnh lưu
ly, nội ngoại đều sáng thấu triệt. Trăm ngàn thế giới chúng sanh khi
sống khi chết, hoặc sanh chỗ thiện chỗ ác, chư Phật chư Bồ Tát độ
thuyết pháp độ chúng sanh, vô lượng người trời đi nhiễu chung quanh
nghe pháp vân vân, không một không có thể nơi trong tự thân thấy
các sắc tượng. Mà tâm niệm ý hướng của tất cả thế giới chúng
sanh, cho đến tất cả tâm niệm chân và ngụy, cũng đồng thời nhất
định hiểu biết, không có sai lầm.
Sau khi tu
được cảnh giới [sáu căn thanh tịnh], tuy nhiên chưa đặng vô lậu giải
thoát, nhưng đã hoàn toàn đạt đến thật tánh các pháp, nơi tất cả
pháp không nhiễm trước, sáu căn đều có thể vận dụng lẫn nhau, nhãn
có thể nghe tiếng, nhĩ có thể thấy sắc, lẫn nhau không ngăn ngại
nhau. Thời đây có giống như gương đại quang minh, treo cao trên không,
không chỗ nào không chiếu đến, không chỗ nào không hiện ra, khởi
tâm động niệm, chỉ một viên minh, kinh Phật gọi là [Trí vô phân
biệt], tức là nghĩa đây.
Lý của
Phật cùng tri kiến của phàm phu, tự nhiên có chỗ khoảng cách, chúng
ta thử tưởng đến hiện thời chỗ dùng điện thị (địện chiếu hình) cùng
điện thoại, đều có các thứ điều kiện cùng dụng cụ thiết bị, mới
có thể thấy nghe, riêng ở đây chúng ta chỉ tu đạo mà thâu hoạch
được sau khi thắng cảnh của [sáu căn thanh tịnh], từ chối không cần
các thứ điều kiện dụng cụ trang bị, tức là có thể nhìn thấu vạn sự
vạn vật. Đương nhiên, cần phải đạt đến thắng cảnh sáu căn thanh
tịnh, cũng tuyệt đối không phải sự việc dễ dàng!
5.- Mạn
Đàm Đạo Nhẫn Nhục.-
“Kinh A
Hàm” nói: [Nếu người có đại lực, có thể nhẫn kẻ vô lực, đây chính
là đệ nhất, là tối thượng nơi trong nhẫn.]
Thiền sư
Đạo Nhu nói: [Lui một bước tự nhiên êm ả, nhường ba bước thanh nhàn
biết bao, nhẫn bao nhiêu cú pháp tự tại không lo, nhẫn nại một thời
khoái lạc thần tiên.]
Hàn Sơn
Vấn Thập Đắc nói: [Người nhà nói xấu ta, hận ta, mạ nhục ta, cười
ta, khinh ta, ghét ta, mạ lỵ ta, lừa dối ta, khi đó như thế nào?]
Thu xếp
được trở lại cười nói: [Chỉ có nhẫn họ, từ họ, tránh họ, nhịn họ,
kính họ, không cần nói lý với họ, chờ bao nhiêu năm xem họ như thế
nào?]
Phật nói:
[Dao bén hại thân thể có vết xẹo dễ lành, ác ngữ hại người hận
khó tiêu.]
Cổ đức
nói: [Giết sân thì an ổn, giết sân thì không lo, sân là căn nguyên
của độc hại, sân diệt thì tất cả an lành’]
“Kinh Tứ
Thập Nhị Chương” nói: [Kẻ ác hại người hiền, dụ như ngửa mặt lên
trời mà khạc đàm, đàm không đến trời, trở lại rớt nơi mình, ngược
gió phủi bụi trần, bụi trần không đến người kia, bụi trần quay trở
lại tấp vào mình, kẻ hiền không thể hại, họa tất nhiên hại mình.]
“Phẩm Phổ
Môn” nói: [Niệm bỉ Quan Âm lực, hoàn trước ư bản nhân.] (Niệm năng
lực Quan Âm kia, trở lại nương tựa nơi chính mình).
Có người
mắng chửi Phật, Phật không lý luận với họ, Phật đối với đệ tử
nói: [Như có người đem lễ vật giúp cho nhà ngươi, nhà ngươi
nếu như
không nhận, họ để ở chỗ nào?] Đệ tử đáp: [Họ chính cần thâu lại.]
Cổ nhân
nói: [Thế sự mỗi lần theo chỗ suy nghĩ mà nhường nhịn, nhân luân
thường hoàn toàn ở trong nhẫn.]
Như Đường
triều Trương Công Nghệ chín đời đều ở nhà lớn, sống một trăm tuổi,
thơ của ông viết trong đó một trăm chữ nhẫn đem dâng lên Hoàng Đế
Cao Tông, cho nên có một câu thành ngữ [Trương Công Bá Nhẫn].
Lão Tử
nói: [Trăm chiến trăm thắng, không bằng một chữ nhẫn, vạn lời vạn
khuyên can, không bằng [Im lặng], Phật giáo cho rằng không biện bạch
là giải thoát. “Kinh Phật Di Giáo” nói: [ Nhẫn là đạo đệ nhất, cũng
gọi là Ma Ha Diễn.]
Nhẫn của
Phật gia không giống như Nho gia nói: [Nhẫn nhịn là sĩ nhục, mưu đồ từ
từ báo phục.] hoặc [Tâm nhẫn hại lý, kẻ sĩ có thể giết, nhưng
không thể chịu nhục.] Lại không giống như người có chỗ sợ hãi, can
đảm tức giận, khí nhẫn nuốt trửng tiếng, nhưng không can đảm nói ra,
buồn lo lâu ngày ứ động thành bệnh.
Đại sư
Vĩnh Gia nói: [Theo họ nói xấu, mặc tình họ không phải, đem lửa thiêu
trời chỉ có mình mệt mỏi, ta nghe vừa đúng giống như uống nước cam
lồ, rồi tiêu tan liền vào chỗ bất khả tư nghì, quán ác ngôn là
công đức thì ta đây thì trở thành thiện tri thức, nhân không chê
trách nói xấu thì điều gì biểu hiện lực vô sanh từ nhẫn.]
“Kinh Kim
Cang” nói: [Người nếu thấp hèn, là người đó đời trước gây nghiệp
tội bị đọa vào ác đạo, người đời nay vì thấp hèn, do nghiệp tội đời
trước nếu không bị tiêu diệt.]
“Kinh Hoa
Nghiêm” nói: [Trên mặt không sân cúng dường đầy đủ, trong miệng
không sân nhả ra diệu hương, trong tâm không sân là trân bảo, không
dơ không nhiễm là chân thường.]
Cổ Đức
nói: [Thiện đã từ nơi tâm sanh, ác đâu lìa nơi tâm mà có, thiện ác
là ngoài duyên, nơi tâm thật không có.]
Câu đối
nơi cửa chùa Phật nói: [Đại đỗ năng dung dung thiên hạ nan dung chi
sự, Từ Nhan thường tiếu tiếu thế gian khả tiếu chi nhân.] (Tấm lòng
sâu rộng năng bao dung, chỉ bao dung những việc thiên hạ khó bao dung,
Đức Phật thường cười, chỉ cười người thế gian có thể cười).
Sau thời
Ngũ Đại Tiều Đại nhà Lương có Bố Đại Hòa Thượng, Hòa Thượng này
nói: [Ta có một bao vãi, hư không vào không chướng ngại, phân tán ra
biến khắp mười phương, thâu hồi thấy tự tại.] Nơi nhà Lương Trinh
Nguyên năm thứ 3, ngồi ngay ngắn nơi Nhạc Lâm Tự trên tảng đá to,
nói bài kệ: [Di Lặc chơn Di Lặc, phân thân thiên bá ức, thời thời
thị thế nhân, thời nhân tự bất thức.] (Di Lặc chân thật là Di Lặc,
phân thân ngàn trăm ức, thời gian lúc nào cũng báo cho biết, lúc
bấy giờ người đời tự không biết), nói xong liền nhập diệt.
Ở trong
sách có nói về ông Di Lặc: [Lảo tăng mặc áo cà sa và áo tràng,
ăn cơm no bụng, có người chửi mắng ông là ông lão đần độn, ông
lão đần độn tự nói rất tốt, có người đánh lão đần độn, lão đần
độn lại ngủ say, ông ta ngủ chảy nước miếng lên trên mặt, ông ta
để tự nó khô khan, riêng tôi tiết giảm khí lực, còn ông ta cũng
không phiền não, đó là hạnh ba la mật, lại cũng là ngọc báu mầu
nhiệm ở trong, nếu biết đây mất đi và tăng lên, sao lại buồn đạo
không được hoàn toàn.]
Cuối nhà
Minh Đại sư Hám Sơn nói: [Là không phải không chắc đấu tranh nhân và
ngã, bỉ và thử sao lại phải luận ngắn và dài, chịu đựng một số
thiệt thòi chỗ căn nguyên không chướng ngại, thoái lui nhượng bộ
một bước ba phần cũng không ngại.]
Triều đại
nhà Thanh Trịnh Bản Kiều nói: [Khó được mơ hồ, xin thiếu là phước.],
sở dĩ nói: [Từ xưa người thường thì nhiều phước.] Phải biết sân hận
đối với người chỗ hại rất lớn, căn cứ giới y học chứng minh: [Nếu
người tức giận dữ tợn năm giây đồng hồ, trong thân độc tố tụ tập
phát khởi, có thể do độc tố sát hại 12 con chuột sơ sanh, ác niệm
sanh khởi, thần kinh toàn thân bày tiết ra chất độc, đối với sức
khỏe tạo thành tổn thương rất lớn.]
Phật giáo
có sanh nhẫn, pháp nhẫn, vô sanh pháp nhẫn. (1) Sanh Nhẫn: nghĩa là
chứng lý ngã không, có người khen ngợi, có người hủy báng đều có
thể dùng nhẫn. (2) Pháp Nhẫn: nghĩa là chứng lý pháp không, đối với
đói, khát, lạnh, nóng của thân thể, đối với lo, buồn, khổ não đều
có thể dùng nhẫn. (3) Vô Sanh Pháp Nhẫn: nghĩa là chứng đầy đủ lý
không, không thấy sự sanh diệt của tam giới, tự tâm tĩnh lặng.
Giống như
loại người không thể nhẫn, cho nên có khổ, có chỗ khó, nhân vì chưa
rõ lý của nó, nếu người có thể sáng suốt đạo lý của nhẫn, chính
gặp được đạo tu nhẫn nhục, cái khổ của nó có thể tiêu trừ. Lý đây
có ba:
1,- Là vì
có thể thân cận người không biết cần nhẫn. Giả sử ta làm một sự
việc sai lầm, người kia nói xấu ta, chửi mắng ta và phê bình ta đần
độn, ta nên đem tâm ngọt ngào tình nguyện lãnh thọ. Còn nếu như ta không
có làm một việc sai lầm, người kia đối với ta không lý đấu tranh, ta
cũng nên cần phải có thể thương tiếc họ không biết. Cần yếu kẻ trí
hiểu biết không cùng kẻ ngu đấu tranh, việc lớnï không bằng hóa
thành việc nhỏ, họ chọn đấu tranh chính là ta thực hành Bồ Tát
nghịch hạnh, người thông minh tự mình nên hành đạo nhẫn nhục.
2,- Vì tu
phước bồi đức cần yếu nên nhẫn.Trong Kinh Phật nói: [Người tu phước
trọng đại, chớ nên qua tu nhẫn nhục.] Chỗ nói tu một phần nhẫn, tức
có một phần phước, có một phần phước, tức có một phần tướng, tu
mười phần nhẫn, chính có mười phần phước, có mười phần phước, tức
có mười phần tướng, nhân vì tướng từ tâm sanh. Trong Kinh Phật nói:
[Nay sanh tướng mạo đoan chánh trang nghiêm, là trong đời trước tu nhẫn
nhục mà được.] Kỳ thật có người nói xấu ta chửi mắng ta, ta đều
không có xin lỗi quay mặt và ngược lại, ta đạt đến tiện nghi. Đại sư
Vĩnh Gia nói: [Xem lời nói ác, là công đức.] Nếu như thứ tưởng đây,
lại có việc gì không thể nhẫn chịu?
3,- Vì trả
công đời trước nên cần phải nhẫn, đời nay người họ nói xấu ta và
phê bình cho ta đần độn, ta có thể đời trước nói xấu lỗi của họ,
chửi mắng lỗi của họ và phê bình lỗi đần độn của họ, cho nên hiện
tại là lúc ta phải trả nợ đó, cần gì nhất định phải trở lại cùng
họ tranh luận, nếu như ta trở lại chửi mắng họ, oán cừu như thế
ngày nào mới chấm dứt. Lại nói, họ làm gì mà không bị người kia
chửi mắng, trở lại chửi mắng ta, không phải đời trước ta mắc nợ
họ, nhất định là ngày nay phước đức của ta rất mỏng, chỉ dựa vào cơ
hội, nên cần phải tu phước bồi đức, nếu như ta có hoàn toàn phước
đức,
họ cung
kính tán thán ta không kịp, làm sao hảm hại phỉ báng ta. Nếu họ đến
nói xấu chửi mắng ta, chính là tăng trưởng phước đức cho ta, sao lại
dùng não hận đến cho họ? Nếu người nào sáng tỏ ba thứ nguyên nhân
trên, chính là người hành đạo nhẫn nhục, thì làm sao khổ nạn không
bị tiêu diệt hoàn toàn!
6.- Chân
Nghĩa Của Lễ Bái.-
Phật nói:
[Thân là nguồn gốc của các khổ, không thân thì không khổ].
Lão Tử
nói: [Ta sở dĩ có đại hoạn là vì ta có thân, nếu ta không thân, ta
có
hoạn gì?]
Dục vọng con người do thân mà phát khởi. Tham ái tài sắc, tranh danh
đoạt lợi, đều là thân hưởng thọ mà thôi. Nếu không có thân, tài
sắc các vật liền không có chỗ nhu cầu. Người đã có thân không thể
không cầu, có cầu thì có thống khổ. Chỗ gọi: [Con người vì tiền mà
chết, chim vì ăn mà tử vong.] Cầu không đặng, dốc hết toàn lực, hi
sanh mạng sống tìm cầu, tất nhiên đạt được mục đích mới thôi, cho
nên cầu đây, chính là nhân của cái khổ.
Cầu đã
được, hoạn nạn cũng đã được đã mất, vì tài sắc ràng buộc, không
thể giải thoát, giống như con tằm xây tổ kén con tằm, tự ràng buộc
trói buộc, tài sắc cùng sanh mạng hợp làm một, như keo cao su tợ
nước sơn, không thể phân ly, đi đứng ngồi nằm, không thể tự do, vốn
cầu khoái lạc, ngược lại chuốc lấy thống khổ, đâu không thể hối
tiếc! Phật nói: [Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp. (Các pháp
hành vô thường là pháp sanh diệt). Một ngày nào đó tài sắc tan
mất, mạng căn cũng theo đó diệt vong, do đây có thể thấy,cầu không
được cố nhiên là khổ, cầu được lại cũng khổ. Cố nhiên nếu không
cầu, mới là thoát ly thống khổ chân chánh. Tiên Hiền có nói:
[Người đến không cầu thì phẩm hạnh cao.] Có thể thấy đức không cầu,
đến cao không gì trên.
Nguyên nhân
chính người tôi không thể không cầu, chỗ ở chọn ngày bị khổ chính
là nước xoáy, không pháp giải thoát. Lại có kẻ tận
lực, ban
đầu cầu tài sắc, mê vọng tạo nghiệp sát, sát sanh con vịt, cúng tế
quỷ thần, chỗ hướng đông đốt hương, chỗ hướng tây lạy rập đầu
xuống đất, dựa vào đây cầu đảo, tưởng lìa khỏi thống khổ. Mà trên
sự thật, cầu thần bái quỷ chẳng những không có công, mà ngược lại
có lỗi, nguyên nhân ở chỗ cộng thêm ác nghiệäp, dễ vào tam đồ. Vì
thế nhân loại tưởng cần yếu chân chánh là thoát ly thống khổ, chỉ
có nương nơi cúng bái Phật Đà nhờ khai thị cùng chỉ đạo, mới có thể
thâu hoạch được chân đế vô cầu, được đến chân khoái lạc của vô
thượng tịch diệt.
Pháp môn
cúng bái của người đời, thật không thể đạt đến chân chánh lìa khổ
được vui, đều nguyên nhân Thần và Phật không phân biệt, mê tối nơi
chân đế của Phật giáo. Thậm chí có người quy y Tam Bảo nhiều năm,
chạy đến chùa viện lễ Phật, còn xưng lễ Thần, đã không biết Phật
là người nào, lại không rõ lý luận của Phật giáo, sao có thể nương
nơi pháp để tu trì, thoát ly khỏi khổ não sanh tử? Ở đây vì thương tiếc
bọn chúng sanh ngu muội khổ não, đem sự cúng bái phân làm sáu thứ
nói rõ như dưới đây:
[1] Lạy
Quỷ Thần.
Quỷ ở
trong sáu đường, thuộc nơi ba đường ác. Nhân vì có tội ác, bị trầm
luân nơi cõi quỷ, quỷ nên kính trọng người, sao lại người cần lạy
quỷ. Như nói người kia lạy quỷ, người đó nhất định không chỉ thừa
nhận, thậm chí còn cùng người tranh luận, nhân vì họ lạy quỷ, chính
họ không tự biết. Như lạy thành hoàng, thổ địa, đen trắng vô thường,
một khi thấy phát tài, tiểu quỷ Phán Quan (Phán Quan là ông quan
toàn quyền xét xử), thập điện diêm vương vân vân, đều là lạy quỷ.
Kinh nói quỷ có ba loại, (1) Đa tài, (2)Thiểu tài, (3) Vô tài. Những
loại đây không có lỗi, đều thuộc nơi hai loại quỷ Đa tài cùng Thiểu
tài.
[2] Lạy
Súc Sanh.
Như nói
người kia lạy súc sanh, người kia cũng nguyện không nghe và không tin,
nếu đem lý của nó thì nghĩ không cần giải thích thêm, tự nó
có thể
minh bạch. Như lạy hồ tiên (hồ ly là con cáo), long vương, bò thần,
hoàng tam thái gia (hoàng lang là con chó sói), tề thiên đại thánh
(con khỉ tinh),vân vân, đều là lạy súc sanh. Nhân vì chúng nó nhiều
đời tu luyện, có thể huyễn biến, có ít thần thông, mê hoặc con
người, có lúc người bệnh hoạn đầu nhức, bụng đau, nếu chỉ hứa
nguyện phụng sự, tật bệnh cũng có thể thấy khỏi, những đây đều là
tinh linh làm quái lạ. Nếu là chánh nhân quân tử, phước đức thịnh
vượng, trâu, quỷ, sà, thần, không dám thân cận.
[3] Lạy
Thần.
Như lạy
Khổng Tử, Bao Công, Thần Nông, Vũ Vương, Nhạc Phi, Quan Công, Hàn Vũ
Văn Xương vân vân, vì họ là những người, công lớn vô tư, hộ quốc
yêu dân, đối với xã hội quốc gia cống hiến rất lớn, sống thì làm
anh hùng, chết thì làm thần linh. Vì thế người đời lập miếu phụng
thờ, lưu niệm vĩnh viễn, thâm cảm hậu ân.
[4] Lạy
Tiên.
Tiên là
người giác ngộ nhân sanh, thọ mạng ngắn ngủi, chán sợ vô thường,
tưởng nghĩ muốn sống lâu dài để hưởng thụ lợi ích, trường sanh bất
lão, nhân đó mà lìa các chỗ hổn loạn đấu tranh, càng vào sâu rừng
núi, dứt khói lửa ăn uống, luyện khí hóa thần, trải qua năm tháng
mệt mõi, tu thành đạo tiên, tuổi thọ ngàn vạn năm, đi bộ như bay,
vào lửa không cháy, vào nước không ướt,có thể hóa hình dị cốt,
điểm đá thành kim, như Thái Thượng Lão Quân, Lữ Đồng Tân, Hà Tiên
Cô, Hán Chung Ly, Huỳnh Thạch Công vân vân, đều là lạy tiên.
[5] Lạy
Trời.
Không
luận nhân sĩ trong hay ngoài xưa hay nay, đều cho trời là tối cao trên
hết, thần thánh không lường, nước trời hưởng thọ, chỗ muốn tùy
tâm, cần quần áo thì quần áo đền, tưởng đồ ăn thì đồ ăn đến, cái
vui của thiên đường không phải nhân gian có thể sánh kịp. Chấp nhận
cho thiên thần thường đến kiểm tra xét xử thiện ác của dân
gian,
người làm lành ban cho họ những điều phước lành, ngưòi làm ác ban
cho họ những điều tai ương, nhân đây người người đều lạy trời, hy
vọng trời giáng xuống kiết tường, ngũ phước lâm môn (Năm phước đến
nhà. Ngũ phước nghĩa là năm điều sung sướng ở đời. Năm điều gồm
có: (1) Phú: giàu có, (2) Quý: sang trọng, (3) Thọ: sống lâu, (4)
Khương: mạnh khoẻ, (5) Ninh:yên ổn). Như lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế,
lạy Thiên Hậu Nương Nương, Thiên Tử Nhật, Thiên Tử Nguyệt, Nam Đẩu
Tinh Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân, đều là lạy trời.
Dùng năm
thứ trên để cúng lạy, đều là tập tục của dân gian được lưu truyền
đến nay, trong đó có tu đạo giáo mang đến, có chỗ gay nghiệp cảm,
không luận tu được cùng báo được, nói chung đều là chúng sanh hạng
phàm phu, sanh tử khổ hải, đều chưa giải thoát. Cõi quỷ, súc sanh,
nhân gian, thần tiên, thiên đường, địa ngục, giống nhau đều là sáu
nẻo luân hồi, tùy nghiệp thọ báo khó tránh.
[6] Lạy
Phật.
Là đệ tử
Phật môn, không nên vọng lạy năm thứ vọng cảnh nói trên, chỉ có
lễ Phật đà. Chỗ nói: [Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo
giao nan tư nghì.] (Người lễ chỗ lễ cả hai tánh vắng lặng, con đường
cảm ứng giao tiếp khó nghĩ lường).
Phật đà
đã trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp, đã từng cắt thịt cho chim ưng ăn,
xả thân cho cọp ăn, có thể thật hành những việc khó thật hành, có
thể xả bỏ những việc khó xả bỏ, rộng tu lục độ vạn hạnh, công
tròn đầy quả viên mãn, chứng đặng vô thượng bồ đề, phước đức trí
huệ, đầy đủ viên mãn, giác ngộ chân lý vũ trụ nhân sanh, rộng độ
lục đạo chúng sanh, không thọ sanh luân hồi trở lại, chân thật chỗ
gọi: [ Tất cả không có ai giống như đức Phật.] Phật đà chỉ cho nhân
sanh nơi thế gian như ông như huyễn, như bèo như ảnh, vốn không thật
thể, nhân vì nó đều từ nơi trong vọng tâm sanh ra, nếu không vọng tâm,
tức không cảnh vọng. Phật đà đã trải qua nhiều năm khổ tu mới được
thành quả, đã đoạn vọng tưởng, nên không vọng tâm, nhân
không
vọng tâm, liền không thọ sanh tử khổ não trong sáu đường, cho nên
người đã chân chánh lìa khổ được an lạc, chỉ có Phật đà mà thôi.
Mục đích
lễ Phật chân chánh, không cầu phước báo nhân thiên, không cầu bảo
hộ bình an, không vọng thăng quan phát tài. Phật là Phật đã thành,
ta là Phật sẽ thành, Phật sanh bình đẳng, tại thánh không tăng, tại
phàm không giảm, nhân vì ta tích trử đam mê chưa đạt mục đích, một
niệm sai lầm, ngàn kiếp lầm lỗi, nếu có thể đốn ngộ năng lễ sở
lễ, năng sở gấp đôi tiêu mất, bản tánh tĩnh lặng, rồi sau đó tất
cả tự tại.
7,- Quy Y
Tam Bảo Thân Tâm An Thới.-
Vấn đề
nhân sanh thì thống khổ vô cùng, không ai không trải qua nơi tinh thần
không có chỗ gởi gắm. Chúng ta ở nhà đọc sách hoặc đi công tác
trong thời gian kỳ hạn, chưa chắc không có cảm giác sầu muộn, nhưng
đến sau khi hoàn toàn nghỉ hưu, ở trong nhà thời gian quá dài, lại
gặp thường thường cảm giác được sinh hoạt chỗ vui quá thiếu thốn mà
vì buồn lo cho nên vui hơi nhạt nhẽo. Còn xuất ngoại du lịch, hoặc
cùng người khác hoạt động, lại gặp cảm giác sức tinh nhuệ không
đủ, nhân vì niệm ban đầu hết sức dễ sanh khởi ý tưởng tiêu cực
cùng bi quan. Căn cứ nơi kiểm tra báo cáo, nơi Hương Cảng, có lão
nhân ở cô độc, tâm ông có thái độ tiêu cực, tám lần lòng thành
tự nhận [vô dụng], hai lần lòng thành biểu thị [chờ chết].
Quả như
chúng ta có tín ngưỡng Phật giáo, có quy y Tam Bảo, miệng niệm Di Đà,
mắt xem kinh Phật, tai nghe đại đạo, tâm suy nghĩ chân lý, lễ Phật
tĩnh tọa, liền có thể thân tâm an lạc, vui mừng khi tuổi xế chiều
được về nơi cõi an lạc.
Trong
người chúng ta nếu như tĩnh tọa đối với thân tâm rất có giúp thêm
bổ ích, có thể khiến trung khu thần kinh yên tĩnh thanh tịnh, có công
năng điều khiển trợ giúp nó, máu huyết tuần hoàn và hệ thống hô
hấp thông suốt, giúp đở thay cũ đổi mới, thân tâm vui mừng, không
những không cảm giác phiền muộn, vã lại có thể tiêu
trừ trăm
bệnh. Nguyên nhân thân là do tâm làm chủ, tâm định thì khí hòa, khí
hòa thì huyết thuận, huyết thuận thì tinh dịch đầy đủ, tinh dịch đầy
đủ thì thần lực sáng sủa. Ngoài ra, ngồi tĩnh tọa được lâu, liền
đứng lên nhất tâm lễ Phật, niệm Phật, là dùng trạng thái động và
tịnh điều hòa lẫn nhau, không chỉ phòng bệnh mà còn được sống lâu,
lâm chung có thể nhờ đó được vãng sanh thế giới cực lạc tây phương,
hưởng thọ các lạc, không có các khổ.
Điều kiện
tiên quyết của quy y Tam Bảo, tất nhiên phải giữ tâm tốt, lời nói
tốt, làm những việc tốt. Những điều nghịch thiên trái ngược sự lý
không nên đi làm, hoặc có ác niệm tổn người lợi mình cũng không
nên phát khởi, phàm là tâm kính mến anh em, trung tín lễ nghĩa liêm sĩ
tất nhiên phải giữ tồn tại. Kẻ nói lời tốt, phàm đối với người
có chỗ cần giúp đỡ, không nên không dũng cảm đến trước trực tiếp,
giúp nó có chỗ thành tựu. Đây là người mới vào Phật môn nên thọ
quy giới, linh tinh đều không nghiêm khắc quy định. Nếu cần tiến thêm
một bước thọ ngũ giới, bát giới, xuất gia thọ Sa Di thập giới, Tỳ Kheo
250 giới, Tỳ Kheo Ni 348 giới, Bồ Tát 10 giới trọng 48 giới khinh, làm
sao có được sự ràng buộc của giới luật. Nhân giới sanh định, nhân
định sanh huệ.
Người tin
Phật nên cần phải quy y Phật, Pháp, Tăng. Phật là thánh nhân, Pháp
là chân lý, Tăng là người có thể nối tiếp huệ mạng của Phật.
Phật Pháp Tăng là hy hữu của thế gian, trọng đại của thế giới, chỗ
có Phật pháp không nhiều, cho nên nhất định cần phải hộ trì nó.
Phật Pháp Tăng không những khiến người liễu sanh thoát tử (có thể
sống thoát khỏi sanh tử), cũng có thể khiến người lìa khổ não được
an lạc.
Phật Pháp
Tăng gọi là Tam Bảo. Sao gọi là Quy Y Tam Bảo? Bảo có ba nghĩa: (1)-
Là nghĩa tôn quý. Giá trị siêu việt bất cứ vật chất đều chuẩn bị
bảo hộ, cho nên gọi là rất tôn quý. (2)- Là nghĩa hy hữu. Thế gian
không thể được nhiều, hiện tại đã được, cần phải luôn luôn yêu
quý và bảo hộ, để cho nó không mất. (3)- Là nghĩa tự lợi lợi tha,
nhà của mình đã có bảo vật, đương nhiên hưởng dùng khô
ó thể
giúp đỡ người khác, khiến người khác không chịu nghèo khổ. Phật là
bậc Đại Thánh đã được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Cho
nên chúng ta cần phải quy y Phật.
Pháp,
biểu hiện bề mặt xem chỉ là kinh sách, chúng ta làm gì cũng cần yếu
phải quy y nó? Phải biết khi Phật còn tại thế, chỉ quy y Phật là có
thể, nguyên vì bản thân của Phật lại đầy đủ Tam Bảo. Đây là nói,
Phật đã giác ngộ chân lý của vũ trụ nhân sanh, bản thân ngài chính
là Phật Bảo; tùy thời tùy chỗ, nói ra những lời đã chứng ngộ,
chính là Pháp Bảo; bàn chân đỏ của tướng tỳ kheo, đó là Tăng Bảo.
Nhưng ngày nay Phật Bảo đã viên tịch lâu xa, chỉ lưu lại tượng Phật
bằng đất chạm khắc bằng cây, nó không thể tùy cơ thuyết pháp,
chúng ta hiện tại cần lý giải Phật pháp, chỉ có xem đọc pháp Phật
chỗ đã được lưu lại, chính là Phật kinh, do văn tự hiển bày được
lý, ngộ nhập được các pháp thật tướng. Pháp là mẹ của chư Phật,
có thể xuất sanh tất cả thánh hiền, cho nên sau này có thể quy y
Phật Bảo, nhưng cũng cần quy y Pháp Bảo.
Như thế,
chỉ quy y Phật Pháp nhị Bảo cũng có thể được chăng, còn thế nào lại
cần quy y Tăng Bảo? Nguyên vì Phật Bảo nhập diệt đã lâu, Pháp Bảo
thì lại chỉ giấy trắng chữ mực đen, cho nên phải nương nơi Tăng Bảo
đại diện truyền bá giáo pháp. Có người cho rằng Phật Bảo là thánh
nhân của giác ngộ, lẽ đương nhiên cần phải tôn kính, Pháp Bảo người
ngày nay giải nghĩa lý rõ ràng, như Văn Thù Phổ Hiền và A La Hán là
thánh tăng xuất thế cũng nên cung kính; làm thế nào cần phải quy y
những vị tăng phàm phu chưa đoạn trừ phiền não? Đây là nguyên vì
nhân tăng này có thể dùng làm trụ trì Tam Bảo, nếu như không có
những tăng nhân làm trụ trì thì chính không biết có Phật cùng Pháp
chăng và hơn nữa Tam Bảo làm sao còn trụ thế? Không lo ngại, những
cao tăng đạo cao đức trọng, cố nhiên có thể nối tiếp hưng thịnh
giống Phật, hóa độ phần tử tri thức thượng căn lợi trí; tức là
khiến tri thức nhân tăng so sánh thấp bằng như nước, cũng có thể
tiếp tục giữ gìn huệ mạng của Phật, dẫn đạo chúng sanh hạ căn trí
cạn, nhân vì tri thức của họ tiếp cận lẫn nhau bằng phẳng như nước,
bỉ thử dễ dàng phù hợp với nhau, thời gian lâu duyên chín mùi, đối
với Phật
pháp tự
nhiên gặp tín tâm sanh khởi, liền khiến bước vào nương nơi Phật môn,
chỉ cần trải qua tăng già chứng minh, quy y Tam Bảo viên thành, liền
có thể xưng là đệ tử Phật giáo. Nói chung, hiện chúng xuất gia sẽ
trở thành tỳ kheo, đều có thể là người tàm chứng, quy y Tam Bảo.
Như chưa
từng quy y, không luận là người như thế nào đối với Phật giáo tín
ngưỡng như thành kính ra sao, nói chung không thể xưng là tín đồ Phật
giáo. Nhân vì họ sau khi tin Phật giáo, tất nhiên phải quy y Tam Bảo
mới phù hợp mẫu mực.
Quy y Tam
Bảo, đã là một cử chỉ xuất sắc, sao lại không được vui? Nhân đây,
không chỉ tự mình đã quy y Tam Bảo, phàm là hiếu tử hiền tôn, đều
nên khuyén khích trưởng bối, bà con thân thích, cho đến bằng hữu nên
quy y Tam Bảo, chung nhau thắm nhuần.
8,- Vì
Người Sơ Cơ Học Phật Góp Ý Kiến.-
Đối với
nhân sĩ mới bước vào tiếp xúc Phật giáo, rất trọng yếu là đem tâm
lượng mở ra, mở lớn, dùng thái độ khách quan để bền tâm nghiên
cứu, giả sử dùng ngày giờ cầu chứng chân lý, chỗ gọi: [La Mã cũng
không phải là một ngày xây dựng được thành.] Ở đây nếu không đưa
người vào bảo sơn để về tay không thì cũng không khác gì thiếu Phật
đà thị hiện nơi đời, nói pháp 49 năm.
a)- Học
Phật Khó Khăn.
Chính tôi
ở trong Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán có một năm, thấy người mỗi ngày
đến mượn sách cùng xem kinh, thật không có gì phức tạp. Chúng nó
không thiếu thời gian, đều là học sinh trung học và cao đẳng chuyên
khoa, họ vừa mới đến, đều ấp ủ hy vọng rất lớn, cần nghiên cứu
một số kinh Phật, để giải quyết đại vấn đề nhân sanh. Nơi đây chúng
nó nhìn lên tượng Phật, rủ lòng thương xem một số kinh, nhưng nguyên
nhân chúng đều không biết nghĩa lý, kết quả khiến trở nên thẩn thờ
mờ mịt không biết gì, thảy đều thất bại.
Chúng nó
đã là trong một số đại học sanh, đương nhiên đối với vật lý hóa
học vân vân nhất luật tinh thông, còn đối nơi tăng nhân giữ cửa,
nói chung hiểu được chưa từng tiến qua cửa trường, thì làm sao có thể
hiểu rõ giống như đại học sanh, còn tăng nhân thà để họ tự mình
không hiểu và nếu muốn hiểu cũng nguyện xin đi đến ta để hỏi.
Bản nhân
học thức tuy sai biệt, chỉ cần giữ vững bản nguyện hoằng dương Phật
pháp, làm việc không cần hỏi bạn, chủ động cùng chúng nó nói
chuyện. Chúng nó gặp tôi (bản nhân) thuyết pháp Phật kinh rất thâm
sâu, Nhân sĩ Phật giáo hỏi làm thế nào không đem nó dịch thành văn
bạch thoại? Tôi trả lời, văn bạch thoại có lợi mà cũng có hại,
giống như các vị cố nhiên dễ hiểu, nhưng không dễ dàng do văn hiển
được lý, nhân vì Phật thuyết tất cả pháp, chủ yếu mục đích là hiển
lý, cho nên không xem trọng văn tự, nhân vì văn tự thật khó đạt
lý, nếu trở lại dịch thành văn bạch thoại, thì khoảng cách về lý
càng xa. Nói chung các vị hiểu cao và trí sâu, thấy lý cũng sâu, còn
hiểu thấp thì trí cũng thấp, cho nên thấy lý cũng thấp, văn tự là chỗ
chứa của lý không có cùng tận, nên kinh nói: [Chữ chữ bao hàm nghĩa
lý rất nhiều.] Tùy theo người trí huệ mà phân chia cạn hay sâu, cho
nên xưa nay tăng hay tục, đọc kinh văn mà ngộ được lý, có thể đếm
trên đầu ngón tay, đây là lý do. Người ngày nay không nghiên cứu
căn bản của nhân sanh, nhưng chỉ biết thô thiển bên ngoài, cho nên
một khi chưa trải qua lý luận Phật giáo đến chỗ thâm sâu, liền
không dễ dàng thấu hiểu, chúng nó sau khi tự đến các vị khác giới
thiệu đơn giản một điểm Phật lý, chúng nó giống như trong mộng mới
được tỉnh ngộ.
b)- Làm
Học Giả Phải Không Hổ Thẹn Cứ Đến Hỏi.
Một ngày,
có một vị sinh viên tốt nghiệp chuyên nghiệp, họ muốn nghiên cứu
triết học, trước hết đến nghiên cứu Phật học, nhằm để trợ giúp
trau dồi thêm kiến thức. Ông ta không dự tính xem kinh không hiểu,
đại phát ngôn bất mãn, nói rằng hiện tại là thời đại gì lại dùng
một số cổ văn, khiến người không được vào cửa của nó. Tôi tức
thời bình tâm hòa khí đến chỗ ông ta liền mời ông ta ngồi xuống, đem
Phật giáo
đại cương giảng giúp cho ông ta nghe, ông ta rất ngạo mạn đối với
tôi liền nói: [Ông biết đạo còn trình độ của tôi như thế nào
không?] Tôi liền nói: [Trình độ của ông đương nhiên so với tôi thì
cao hơn, như thế, thỉnh ông giảng giúp tôi nghe.] Ông ta nói: [Tôi vẻ
một vòng tròn ông có thể hiểu không?] Ông ta giảng theo hình vẽ.
Tôi nói: [Pháp giới đều chạy theo đây, rồi pháp giới lại trở về
đây, có phải không?] Ông ta nói: [Không phải, đây là thái không
thấu suốt, như ở đây ông nói, tứ đại giai không.] Tôi liền hỏi ông
ta: [Tứ đại giai không là gì?] Ông ta từ chối không đáp. Lúc đó,
tôi mới biết đạo của ông ta đối với Phật giáo ngoài chữ hán hoàn
toàn còn ấu trỉ, có thể nghi ngờ ông ta xem kinh Phật đều không
hiểu. Một lần nơi hội trẻ con, ông ta gặp lại tôi hỏi: [Hiện tại
các pháp có chăng? Tôi đáp, Duy Thức Tông nói: [Duy tâm chỗ hiện,
Duy thức chỗ biến.] “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Theo nghiệp phát hiện.],
chính là tùy theo tâm chúng sanh, phát hiện các thứ vật tượng. Ông
ta lại hỏi: [Chúng ta có chân tâm không?] Tôi nói: [Chân đối với
vọng mà lập, nếu như không có vọng, cũng không có chân. Như vua đối
với dân mà lập, nếu không có dân, vua cũng không thể được. Thí dụ
như đối với Phi mà lập, nếu không có Thị, thì Phi cũng không thể
được. Tất cả các pháp, không ai không như thế.] Tôi đối ông ta sau
khi giảng một thời gian ngắn, ông ta kiêu ngạo mới dịu hẳn, khi chia
tay, liền nói tôi sẽ trở lại thỉnh giáo tiếp.
c)- Phật
Lý Chưa Rõ Không Nên Loạn Đi Đến Phê Bình.
Có một
tiên sinh nọ ở đại học đã nhận dạy nhiều năm, thời thường ông ta
đến hiệu sách mượn sách về nhà xem đọc, quy ước quan trọng mượn
sách tối đa chỉ có hai năm, xem xong phải mang trả lại, ông ta xem kinh
thơ rất nhiều. Lần thứ nhất, ông ta đối với tôi chỉ là một vị học
sinh, nhưng ông nói: [Tôi là giáo thọ giảng Phật giáo lý luận rất
tốt.] Ông ta chẳng qua thần thoại rất nhiều, khó có thể khiến người
tin tưởng ông ta. Khi ông ta đến Đồ Thư Quán, ở đây tôi cũng thường
đàm luận với ông ta, ông giảng nhân tình ở đời rất nhiều, ít giảng
Phật pháp. Ông ta vốn là người cũng tự mình khoe là giáo thọ đại
học, học thức uyên bác, nói năng nhất định siêu nhân. Tôi cho ông
ta đây
tưởng
tượng Phật pháp sai lầm, trên thế gian pháp, ông ta có thể xưng là
giáo thọ đại học, còn ở trên Phật pháp, thật tại nói lên, ông ta
chỉ là học sinh. Nhân vì Phật pháp như biển cả, ông ta xem Phật kinh
có thể được bao nhiêu? Nhất là đầu óc của ông ta, hoàn toàn chất
đầy khoa học cùng tư tưởng triết học, mỗi lần đem Phật lý cùng khoa
học đàm luận hỗn hợp làm một, rất khó lý giải nguyên ý của Phật
kinh. Nguyên vì Phật lý siêu quần tuyệt luân, bàn luận thế sự rất
khó cùng so sánh để dự thảo, tất cả tư tưỏng phàm tình của thế
gian, chung cuộc khó thấy rõ chân đế của Phật giáo, dụ như ánh sáng
của con đom đóm đem so sánh với ánh sáng mặt trời.
Thiên Thai
Tông nói: [Đem tâm không thể nghĩ bàn, quán cảnh không thể nghĩ
bàn.] Tâm không thể nghĩ bàn đây, không thể nói có, cũng không thể
nói không, không thể nói cũng có cũng không; lại không thể nói
không phải có không phải không, lớn nhỏ vuông tròn, cũng lại như
thế. Tâm không thể nghĩ bàn như thế, cảnh không thể nghĩ bàn cũng
như thế. Do quán như thế, làm sao giống nhau không phải là thần
thoại? Bản thân nhà ngươi tức là thần thoại to lớn, nhà ngươi trước
khi chưa sanh, nguyên là không có thân nhà ngươi, sau khi nhà ngươi tự
nhảy vào thai, buộc túm lại một bộc nước, biến thành thân nhà
ngươi, Thử hỏi, bộc nước nhỏ đây có phải là thân của nhà ngươi hay
không? Sau khi ra khỏi thai, do nhỏ đến tráng niên, do tráng niên đến
già, do già đến chết, rồi trở lại không có. Thử hỏi, thân thể nhà
ngươi cứu cánh là có hay là không, hoặc không phải có hay không
phải không? Thân là như thế, vũ trụ vạn hữu không ai là không như
thế. Phật nói tất cả vạn vật trong thế giới, đều là từ nhân duyên
sanh mà có, rồi từ có trở về không, không thể nói nó có, cũng
không thể nói nó không. Bọn chúng không hiểu rõ chân đế Phật
pháp, chỉ nói nó là thần thoại.
c)- Tâm
Là Vạn Năng.
Tôi khi
giảng cho mọi người nghe, Cơ Đốc Giáo cho thượng đế là vạn năng,
Phật giáo cho vạn pháp duy tâm. Tất cả vạn vật trong thế gian, đều tùy
tâm biến hiện, tâm cho nó lớn thì nó lớn, tâm cho nó nhỏ
thì nó
nhỏ, dài ngắn vuông tròn, cũng lại như thế. Bản thân của tâm chính
là tướng không lớn nhỏ vuông tròn vân vân, chỉ nhân vọng chấp mà
có, nếu không vọng chấp, đương nhiên tức là không lớn nhỏ vuông
tròn vân vân sẽ có thể được. Tâm có chấp trước, tức có phân
biệt, có phân biệt, tức có chỗ trở ngại, thấy trước không thấy
sau, thấy bên trái không thấy bên phải. Nếu như chứng được trí không
phân biệt, thì trước sau phải trái, tất cả vạn sự vạn vật, đều
thấy triệt để căn nguyên của nó, không chỗ chướng ngại, như kiến
đại viên, đồng chiếu một lúc, không rớt trước sau. Kẻ không trí, cho
đây là thần thoại, kẻ có trí, cho là rất bình thường, người người
vốn đầy đủ, mỗi mỗi không phải là không. Nhân vì tâm của người
tôi, gần đây dong ruổi, không có công phu phản chiếu, cho nên vọng
thọ sanh tử.
Phật nói
tâm nếu có thể chuyển vật, tức là đồng Như Lai; nếu tâm bị vật
chuyển, tức là phàm phu. Nếu như tâm người tôi có thể chuyển vật,
tức có thể chuyển đại địa thành hoàng kim, thay đổi đại hải thành
lưu ly, biến thân lớn như tu di, hóa thân nhỏ như hạt cải. Thứ thần
thông diệu dụng đây, đều từ nơi tâm mà được, cho nên tâm là vạn
năng, đâu phải là thần thoại?
d)- Kết
Luận.
Người mới
học Phật, cần yếu xem nhiều kinh Phật, nghiên cứu nhiều chân lý,
bằng không vân vân, tuy tin Phật nhiều năm, nhưng thần xưa và Phật
không phân biệt, trên bề mặt biểu hiện là Phật giáo đồ, nhưng thật
tế, họ thuộc về Phiếm Thần Luận, nói năng đều không phải chánh tông,
đâu có thể giảng lý luận Phật giáo? Chỉ cần bụng trống rổng nếu
cùng đường thì gặp diệu lý theo đó phát sanh, thấy rộng đa văn, lo gì
tri thức không phong phú? Nếu đối với Phật lý không sáng suốt chút
nào, tốt nhất tạm thời chớ thất vọng lại thêm phê bình. Một ngày
nào đó sau khi thấy rõ chân thật ngộ được Phật pháp, thì mới biết
Phật pháp vô biên, mỗi pháp đều mầu nhiệm, không một pháp nào
từng ly khai chân đế.
II.- NHÂN
SANH CÙNG PHẬT GIÁO.-
1.- Nhân
Sanh Quan Của Phật Giáo.
Phật là
ý nghĩa giác ngộ, là người hoàn toàn giác ngộ chân lý của vũ trụ
nhân sanh. Giáo là chỉ cho Phật đà là người chỉ đạo cứu giúp chúng
sanh giải thoát sanh tử. Phật dùng trí huệ vô thượng, nói tất cả
giáo pháp gồm 3 tạng 12 bộ kinh, dùng phương pháp đây giáo hóa chúng
sanh, chuyển phàm thành thánh, lìa khổ được an lạc, nên gọi là Phật
giáo.
[Nhân]
đây so cùng động vật có khác không giống nhau, chỗ gọi là [ Nhân
là tâm linh của vạn vật.] là trí huệ của nhân loại, nó siêu việt
hơn các động vật khác, lại nữa nguyên vì nhân gian sinh hoạt có khổ
có lạc, cho nên ở trong lục đạo, do con người (nhân) tu hành rất dễ
đắc đạo. [Sanh] chính là chúng sanh. Chúng sanh có ba thứ ý nghĩa: (1)
chúng đa nhi sanh, (Sanh ra do nhiều yếu tố) (2) Chúng đa sanh tử, (Sống
chết do nhiều yếu tố) (3) Chúng duyên hòa hợp nhi sanh. (Các duyên
hòa hợp để sanh). [Thai] do ba người là cha, mẹ, mình, [Noản] lại thêm
ấm áp hai duyên: ẩm ướt và mình; [Hóa] chỉ nghiệp duyên của mình.
“Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Noãn do tưỏng mà sanh, thai do nhân tình mà
có, ẩm ướt do hiệp cảm mà nên, hóa do ly tán tương ưng.]
Nhân loại
do sanh ra đi đến già chết, do đọc sách đi đến thành gia lập nghiệp,
là nương nơi sự ăn ở hành động, suốt ngày đi đêm về hôm, mục đích
không phải cần kéo dài sanh mạng. Chỉ sanh mạng đây, thế nào cũng
có một ngày bị đình chỉ hoạt động, nhân vì phàm có sanh tất nhiên
phải có chết, nếu tưởng không chết, đâu cần phải cầu vô sanh.
[Nhân
sanh] hiệp lại để giảng, chính là sinh hoạt và sanh mạng của nhân
loại, cứu cánh ý nghĩa và giá trị của nhân loại như thế nào? Những
người có nhân sanh quan không đồng với các người khác, là nhân vì
có dân tộc, văn hóa, giai cấp, chức nghiệp và tông giáo vân
vân không
đồng, nhân sanh quan của chúng đều có, nay lược phân có tám thứ,
theo thứ tự nói rõ.
(1)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là thuận theo vận mạng
an bày. Một thứ người đây suốt ngày sống mơ hồ cho qua ngày tháng,
cơm đến thì ăn cơm, có áo thì mặc áo, đại gia sinh hoạt như thế nào
thì họ cũng sinh hoạt theo như thế đó, đặc biệt vấn đề sanh, già,
bệnh, chết, họ cũng tự nhiên, nhận cho đó là một sự việc bình
thường, đối với nhân sanh đã không có nghi vấn, cũng không đi tìm
kiếm phương pháp để giải quyết nhân sanh, còn đối với vấn đề sanh
tử họ lại càng thêm không có phương pháp.
(2)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là hưởng lạc chủ nghĩa.
Một thứ người đây ôm ấp dựa vào một thứ phóng túng có thái độ đi
tìm khoái lạc, có năm sanh, nhưng không đi nghiên cứu sanh tử, ngay cả
quốc gia dân tộc phát sanh biến hóa như thế nào, cũng chẳng quan
tâm, không luận ở trên tinh thần hoặc ở trên vật chất, đều là
hưởng thụ cho thỏa thích, thậm chí vì đạt được mục đích, không bỏ thủ
đoạn nào, tận dụng tâm trí, hưởng thụ cho khoái lạc. Quá đáng hoặc
làm ra đối với con người có những sự việc không lợi, nhưng cũng
không kiêng nể. Chỗ gọi là: [Sáng nay có rượu sáng nay say, ngày mai
sầu lại ngày mai trực tiếp.] Nhân đây, lại tạo tác tội nghiệp vô
biên, báo ứng chậm hay sớm tự mình nhận chịu, không người nào có
thể thay thế.
(3)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là chủ nghĩa bi quan. Quả
như sinh hoạt trải qua không được như ý, liền sanh khởi ưu sầu và bi
quan, suốt ngày oán trời trách người. Không luận đối với vấn đề gia
đình, bằng hữu, sinh hoạt, công tác vân vân, đều sanh khởi bi quan,
nhận cho là hoàn toàn không có ý nghĩa, nhân vì thường sanh yếm thế,
hoặc trốn tránh quan niệm hiện thật, tự khốn khổ lấy, lại rất có
thể có khuynh hướng tự sát.
(4)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ được thiết lập tam bất
hủ (ba không hủ bại. Tại Trung Quốc có học thuyết tam bất hủ tức
là [lập đức, lập công, lậâp ngôn.] Lập Đức nghĩa là phải có nhân
cách hoàn bị; Lập Công là đối với quốc gia thiên hạ kiến lập công
to lớn và kiến lập sự nghiệp vĩ đại; Lập Ngôn là dùng văn chương
diển tả khí thế trung thành mạnh mẽ truyền đời. Đại khái con người
chí sĩ có nhân từ của Trung Quốc, đại đa số là tận lực nơi tam bất
hủ bại này, tức là khiến lao thân, lao sức, lao tâm, nhận lãnh các
thứ gây chiến thống khổ, do mưu tính tại chỗ. Chỗ gọi là: [Kẻ sĩ thì
dùng thân liều chết vì danh, kẻ sĩ thì dùng thân liều chết vì gia
đình.] Nhân sanh quan của những thứ người đây, chủ yếu chính là có
thể lưu tiếng thơm vạn đời, gọi là truyền đến đời sau không hủ bại.
Nó đối với xã hội có nhất định cống hiến., nhưng đối với vấn đề
sanh tử lại chưa chắc có thể đủ để giải quyết.
(5)- Đây
là một thứ hạng người có nhân sanh quan của họ là tin có thiên
thần. Họ nhận cho bên ngoài của nhân sanh có một thiên thần sáng
tạo của vạn hữu, nhân loại tổ tiên cũng do thần này sáng tạo, tất
cả vũ trụ thế gian đều do thần này sáng tạo cùng làm chủ tể. Cá
nhân thiên thần đây ở Ấn Độ gọi là [Phạm Thiên Đại Thần], nơi Gia
Tô Giáo xưng là [Thượng Đế], tại Hồi Giáo xưng là [Chân Thần], giáo
đồ của chúng nó chấp nhận nhân sanh chính do thiên thần cho vinh quang
mà sanh tồn. Nhân đó, thứ người đây đem vấn đề sanh tử của chính
mình hoàn toàn giao phó cho chúng thần kia đi giải quyết.
(6)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là luân lý đạo đức. Nho
Gia có tam cương ngũ thường, tứ duy bát đức, do đây hành trì, người
nhỏ có thể dùng nó để tu thân tề gia, người lớn có thể dùng trị
nước bình thiên hạ. Chu Tử nói: [Phụ tử có tình, quân thần có nghĩa,
phu thê có biệt, trưởng ấu có tự, bằng hữu có tín.] Mà tại phương
diện đạo đức học thuật có chỗ thành tựu, chính có thể
dùng duy
trì địa vị của tự mình, nếu có thể bảo tồn nhân cách, chúng nó lại
cho là vấn đề nhân sanh đều có thể giải quyết.
(7)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là vô vi nhậm hóa. Đạo
Gia cho vô vi biến hóa làm tiêu chuẩn, nhân sanh đến từ vô thỉ, chết
cũng vô chung, tại đây trong nó của vô thỉ vô chung, mới sanh mới
diệt, mới diệt mới sanh, các thứ biến hóa, nên quán vạn vật, mặc
tình nó biến hóa, không suy nghĩ thêm. Tất cả là vô vi, cố nhiên có
thể đều là như thế. Chỗ gọi: [Ban đầu của trời đất không có tên,
mẹ của vạn vật có tên.] Cần yếu con người thường xuyên phải trải
qua quán chiếu sự mầu nhiệm của nó, thứ vấn đề của nhân sanh đây nên
xem để giải quyết.
(8)- Đây
là một hạng người có nhân sanh quan của họ là Phật Giáo. Phật giáo
đối với bảy hạng người nói trên xem cách thức nhân sanh quan của họ
đều rất không mãn ý. Phật giáo nhận thấy cho sanh mạng là thuộc nơi
đó đây của hình sắc, còn tâm niệm là thuộc nơi vọng tưởng phân
biệt, hai thứ đây đều có sanh diệt. Dùng pháp sanh diệt đi tu thì
không pháp nào đạt đến lý vô sanh. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Nếu ở
nơi chỗ dùng tâm sanh diệt để tu nhân, mà cầu Phật thừa không sanh
không diệt, không có chỗ như thế.] Do nơi thứ nhân như thế thì tất
nhiên đặng kết quả như thế, con người đã có sanh tất nhiên có thống
khổ. Lão Tử cũng nói: [Ta sở dĩ có đại hoạn là vì ta có thân, ta
nếu không có thân làm gì có đại hoạn?] Phật giáo nói nhân sanh có
rất nhiều thống khổ, nói tóm tắt có tám thứ khổ:
1/- Sanh
khổ: Nhân sanh trở xuống đều thọ khổ, như bé nhỏ mới lọt lòng mẹ
liền khóc, nhân vì da thịt của nó mềm mại, vừa tiếp xúc thế giới
bên ngoài gặp gió lạnh, bị khổ giống như dao cắt.
2/- Già
khổ: Từ thiếu niên đến tráng niên, do tráng niên đến già cả, tuổi
già dần dần, tóc bạc mặt nhăn, tai điếc mắt mờ, răng hàm rụng
hết, bước đi lụm khụm, đối với nhân sanh, đã
3/- Thống
khổ: Tứ đại không điều hòa, bệnh tật giao tiếp đau đớn, sầu lo tha
thiết bi ai, thay đổi trở nên rên riết.
4/- Tử khổ:
Hoặc nhân vì bệnh tật thọ mạng kết thúc mà chết, hoặc gặp hoạnh
tử bởi tai ương nước, lửa, gió. Chỗ gọi: [Một ngày vô thường đến,
mới biết người trong mộng, tất cả đều mang đi bỏ, chỉ có nghiệp theo
thân.]
5/- Ái biệt
ly khổ: Nhân vật và tài vật của mình yêu thương không được cùng ở
chung một chỗ, sanh ly tử biệt, kết cuộc đều trở về không.
6/- Oán
tắng hội khổ: Thù oán căm ghét nhau mà cứ gặp nhau mãi là khổ.
Người của mình thù oán căm ghét, nguyện không muốn thấy mặt, nhưng
vẫn gặp lại nhau, mà còn thường ở chung chỗ.
7/- Cầu
bất đắc khổ: Tất cả người và vật trong thế gian, trong tâm chỗ
thương yêu, tận dụng tâm tính toán, mong cầu mà không được.
8/- Ngũ
ấm sí thạnh khổ: Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không luận ở
trong nhục thể và trên tinh thần đều có khổ sở, sí thạnh là tức
giận, khổ như lửa thiêu đốt.
Tám thứ
khổ não như trên, chính hoàn toàn do nơi đời trước tạo nhân ác, đời
nay nhất định thọ quả ác. Cổ đức nói: [Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.] (Thiện ác đến cuối cùng kết cuộc
có báo ứng, chỉ giành nhau đến sớm hay đến chậm). Muốn tưởng không
thọ quả khổ, thì đầu tiên cần không tạo nhân ác. Cứu cánh cái gì
là căn nguyên của khổ? Chính là khát ái, dục vọng, tham lam, ái
trước, nếu có thể triệt để diệt trừ nhân khổ của khát ái, buông
bỏ nó, trừ bỏ nó, xa lìa nó, ngừng thôi nó, đem tất cả dục vọng
hoàn toàn tịch diệt. Chánh niệm khởi, vọng niệm trừ, làm sao vĩnh
viễn không gặp trở lại để phải nhận tám thứ hoàn toàn thống khổ
này. Muốn tưởng đoạn trừ tám thứ nhân thống khổ, tất nhiên nhất
định cần phải dùng đến chí thành khẩn thiết để tâm triệt để huấn
luyện tịnh hoá chính mình, mới có thể thu hoạch được tự do và giải
thoát.
Phật
trước khi nhập diệt, A Nan hỏi Phật: [Khi Phật tại thế, chúng tôi
nương nơi Phật mà trụ, Phật sau khi bỏ đời, chúng tôi nương ai mà
trụ?] Phật trả lời A Nan: [Ta sau khi bỏ đời, các ông nên nương nơi
tứ niệm xứ mà trụ]. Do đây có thể biết, tứ niệm xứ nơi phương diện
tu đạo, rất rõ ràng chiếm lấy địa vị trọng yếu. Tứ niệm xứ là: (1)
Quán thân bất tịnh, (2) Quán thọ thị khổ, (3) Quán tâm vô thường, (4)
Quán pháp vô ngã. Nhân vì chúng sanh nơi trong năm ấm của sắc thọ
tưởng hành thức, trải qua thường sanh khởi bốn thứ điên đảo, dùng
sắc thân bất tịnh làm cho thanh tịnh, dùng cảm thọ thống khổ làm cho
an lạc, dùng ý niệm và hành động trôi chảy không dứt cho là
thường, dùng tâm đối cảnh tác dụng sanh khởi thiện ác cho là ngã.
Có bốn thứ điên đảo vọng tưởng đây, lại sản sanh một thứ nối kết
xuyên xuất đó là ưu bi khổ não và tai nạn khó xử, ngã Phật nhầm
xem xét không có chánh tri kiến của chánh nhân, cho nên nói ra phương
pháp của tứ niệm xứ, cần yếu người quan sát kỹ lưỡng, thân là
không thanh tịnh, thọ là không khoái lạc, tâm là không thường trụ,
trong pháp đều không có ngã. Người đời quả có thể tiêu trừ bốn
thứ điên đảo vọng tưỏng đây, tất cả ưu bi khổ não, lại không gặp
sản sanh, còn có thể thâu hoạch được thường lạc ngã tịnh, khoái lạc
chân chánh.
Lược
Thuật Tứ Niệm Xứ.
(1)- Quán
Thân Bất Tịnh.
Thân thể
của con người, có ngũ tạng lục phủ, mủ máu gân xương, da lông tóc
móng, trong thân có 36 vật, đều là giống nhau không thanh khiết, bao
gồm có năm thứ bất tịnh: (a) Sanh chỗ bất tịnh. Ở trong bụng mẹ, trụ
nơi sanh tạng, phía dưới thục tạng, sau khi trải qua mãn mười tháng,
từ âm đạo sanh ra. (b) Thứ con bất tịnh. Vào thai bắt đầu kết thành,
ôm lấy tinh cha huyết mẹ, đỏ trắng hai giọt, máu mủ nhơ nhớp, hỗn
hợp tạo thành. (c) Tướng ngoài bất tịnh. Con mắt có nước mắt, lỗ tai
có cứt ráy, lỗ mũi có nước mũi, miệng có nước miếng, thân có bùn
đất, mùi hôi nơi thân xông ra, con người không tự biết. Trong bốn
tánh bất tịnh trên từ ác nghiệp của con người bất tịnh mà sanh, cho
nên sau khi sanh ra, lần hồi tiếp xúc ngoại cảnh, tự nhiên sản sanh
các
thứ khát
ái năm cứu cánh bất tịnh. Nghiệp báo của con người kết thúc, củi
hết lửa tắt, chỉ còn lại một trần chính là bất tịnh.
(2) Quán
thọ thị khổ. Thọ là tiếp nhận, năm căn khi đối với năm trần tiếp
nhận những cảnh thiện ác, tốt xấu, khổ lạc vân vân, nhân sanh chỗ
tạo tác tất cả sự sự vật vật không chỗ nào là không thọ khổ. Thí
dụ như, đi bộ quá lâu có thọ khổ mệt mõi đừ người; đứng mãi quá
lâu có thọ khổ chân tê cứng đờ; ngồi quá lâu có thọ khổ làm cho
tê liệt; nằm quá lâu có thọ khổ hôn trầm đần độn. Ăn cơm ít thọ
khổ thấy đói, ăn cơm nhiều thọ khổ quá no; áo mặc nhiều thọ khổ
quá khô da; áo mặc ít thọ khổ lạnh buốt. Chồng vợ con trai con gái,
sanh hoạt gánh vác lẫn nhau, cảm tình bỏ xuống tội lỗi, tranh cãi
phun nhả xú khí, tứ đại bất hòa, tùy thời sanh bệnh, ngoảnh lại đây
mất nơi kia, ưu sầu thành bệnh, sanh ly tử biệt, kinh hoàng thảm hại
thành bệnh, kêu trời dậm đất, không pháp hình dung; bổng nhiên nhân
gian có niềm vui, nhưng niềm vui ngắn ngủi vô thường, vui quá lại cảm
giác đau khổ.
(3) Quán
tâm vô thường: Người tôi hiện tiền một niệm vọng tâm, quên đông
quên tây, sát na không dừng, phàm tình tâm thô, không dễ phát hiện.
Kinh nói người tôi, một niệm gồm có 90 sát na, một sát na có 900
sanh diệt. Tịnh tọa chốc lát, mới biết vọng niệm như giòng nước lũ,
nhân tâm khởi diệt, không gian thời gian, tất cả vạn vật, tùy theo
đó di chuyển, nếu có thể đem tâm tất vọng đây ngừng lại, vũ trụ
vạn hữu cũng tùy theo đây đình chỉ. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Một
người phát hiện chân lý trở về nguồn cội, mười phương hư không, tất
đều tiêu diệt.] Đại sư Vĩnh Gia nói: [Trong mộng rõ ràng có sáu cõi,
sau khi giác ngộ không, không cả không đại thiên.] Thời hư không đại
địa đây còn không thể được, lại có cái gì cần thọ sanh trụ dị diệt,
dài ngắn vuông tròn, để tất cả đều về nơi đại hải tịch diệt.
(4) Quán
pháp vô ngã. Chữ pháp bao quát gồm có, thế gian pháp, xuất thế gian
pháp, hữu vi pháp, vô vi pháp, tương đối pháp, tuyệt đãi pháp, thiện
pháp, ác pháp, tất cả các thứ pháp, đều bao quát ở trong. Trong
thân các pháp vô ngã, ngoài thân các pháp cũng vô ngã. Nơi ngũ
ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, thất đại, trong tất cả
pháp đều kiếm không được một cái ngã của chủ tể, cho nên nói con
người vô ngã, nhân ngã chỉ là một thể giả. Giả có ba thứ, 1>
Đời trước
hành nghiệp, thác sanh vào cha me, là nguyên nhân thành giả. 2> Là
theo thai tương tục, dẫn đến bạc đầu, là tương tục giả. 3> Là dùng
thân cư xử không phải thân, tức là tương đãi giả, giả đây chính là
không.
Nhân sanh
quan của Phật giáo, tức là dùng quán huệ của tứ niệm trụ đây, chỉ
trụ nơi bốn cảnh của thân thọ tâm pháp, không khiến bốn thứ vọng
tưởng sanh khởi, thì có thể phá trừ ngã chấp; nếu có thể chứng đến
lý ngã không, tức có thể lìa khổ đắc lạc, chuyển phàm thành thánh,
đây là thuộc nhân sanh quan của người Phật giáo tiểu thừa. Còn nhân
sanh quan của người Phật giáo đại thừa là dùng tứ vô lượng tâm từ
bi hỷ xả, rộng độ chúng sanh, ái niệm chúng sanh, cũng như con của mình,
thấy người họ khổ, cảm đồng thân thọ. Chỗ gọi: [Chúng sanh độ hết,
mới chịu chứng quả bồ đề.] “Kinh Hoa Nghiêm” nói: [Không vì thân mình
mà cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ.] Thứ tinh thần đại
vô úy đây, đều không phải chúng sanh phàm phu và người tiểu thừa
có thể phân biệt đến được, cho nên khi Phật còn tại thế nói pháp,
nhiều lần thường khen ngợi người đại thừa mới là con chân chánh của
Phật, người tiểu thừa chỉ là con thứ; con thứ không thể dùng kế
thừa vương vị, con chính là do chánh thê sanh ra, mới có thể kế thừa
vương vị. Vì thế “Kinh Pháp Hoa” nói: [Đây là con thật của ta, là cha
thật của ta, nay ta đã có tất cả tài vật đều là con ta có.] Tài
vật đây tức là thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp,
vô lượng công đức thần thông diệu dụng của Phât. Từ đây trở lên
mới là nhân sanh quan chân chánh của Phật giáo.
2.- Phước
Huệ Cùng Nhân Sanh.-
Con người
sống ở thế gian, rất trọng yếu mà không thể thiếu đó là áo mặc,
cơm ăn, nhà ở, sinh hoạt, không luận nam nữ già trẻ, giàu có, sang
trọng, nghèo hèn, bần tiện, sống lâu cùng khó, hiền ngu đẹp xấu,
đều cần nương nơi bốn sự việc đây mới có thể sinh hoạt. Nhân đây,
phàm con người mỗi mỗi nhiều năm nhiều tháng, sớm đi chiều về, lao
thân khổ trí, đông bôn tây chạy, đều làm cho đầy đủ nhu cầu cơ bản
của con người.
Một sớm
người đói được ăn, người lạnh được áo, người mệt được nghỉ, an ổn
trôi qua, sinh hoạt bình thường, nhưng đã được Lũng Sơn (Lũng Sơn nằm
giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, Trung Quốc) lại trông mong nước
Thục (Nước Thục là một trong Tam Quốc: nước Thục, nước Ngụy, nước
Ngô), không cho là đủ, lại cầu nhà lầu xe hơi, áo gấm ăn ngon. Kinh
nói: [Người biết đủ, tuy nằm trên đất, cũng cho an lạc, người không
biết đủ, tuy chỗ thiên đường, cũng không vừa ý.] Do đây có thể
thấy, dục không ngừng nơi cảnh, nếu cầu không được, mới trên khổ
cộng thêm khổ. Có người tưởng cần yếu đạt đến mục đích, đến nỗi
trộm cắp cướp đoạt, lừa dối người đời, tế thần lạy quỷ, cầu cơ
hỏi bói, xem tướng đoán mạng, kết quả muốn tích trử nhưng không thể
thâu hoạch được từ nơi tâm, đông tây thành tựu, nhân đây thần mất
khí tan, sầu khổ dung chứa đầy mặt, chọn ngày không là quái lạ oán
trách chính mình con đường số mệnh quá nhiều không may, lại còn oán
trời trách người.
Kỳ thật,
nhân vì con người không có sáng suốt để tự hiểu biết, không nhìn xa
hiểu rộng, lực lượng thù thắng của con người đối với thiên địa quỷ
thần, là tài ba xuất chúng, chân chánh có thể tự dùng kéo lại vận
mệnh ác liệt của chính bản thân mình. Lý do con người bỏ gốc theo
ngọn, chạy theo hướng đường tà, giống như cát vốn không phải cơm,
lại muốn thành cơm ngon, dẫu cho dù trải qua kiếp trần, cơm cũng
không được thành công. Xưa có nói: [Trời tạo tai họa còn có thể
thao túng; tự tạo tai họa không thể sống.] Do đây có thể biết, kiết
hung họa phước của con người, sống lâu hay cùng thông, hoàn toàn ở
nơi cá nhân đem bảo trì cùng thao túng, đều không phải người thế tục
có thể giải thích, thế nên họ cho là [Sống chết có mạng, giàu sang
do trời.] Giải thích như đây tùy tiện không tiêu chuẩn, đều là giải
thích sai lầm.
Nhân sanh
ở đời, đã có cần yếu như cơm ăn áo mặc nhà ở chỗ sinh hoạt, chính
được nương tựa nơi thiên thời địa lợi, ngoài ra còn khổ tâm chí, lao
sức gân cốt, mới thu hoạch được nhà lộng lẫy, kho chứa to lớn, ăn
no đủ mặc. Chu Thư có nói: [Nhà nông không sản xuất thì cơm thiếu
ăn, công nhân không sản xuất thì mọi việc đều thiếu, sĩ phu không
sản xuất thì ba điều quý ( phước, lộc, thọ) mất hết, thương gia
không sản
xuất thì tài sản hao mòn.] Tuy nhiên đạo lý giảng như thế, nhưng trên
sự thật rất kỳ quái, có người sanh ra, không động lao một sợi lông,
lại thu hoạch được măc đẹp ăn ngon, phú quý kề bên người; ngược
lại có người suốt ngày chạy ngược chạy xuôi, phong trần lao khổ,
hoàn cảnh khó chống lạnh, miệng khó chống đói, giường không được
ấm, chăn không được êm, quả như đem hai hiện tượng đây so sánh, [Đều
tận khả năng, đều muốn nhu cầu] nhưng cách ngôn của đại đồng, dường
như không thể trình bày hoàn mỹ.
Nhân vì
chúng ta chú mắt cùng thấy, không luận nam nữ già trẻ, phú quý
nghèo hèn, người ai không là ở nơi cần cù tận tụy, đều tận sức
của mình, để mưu kế sanh tồn; lại có hạng người vàng ngọc đầy nhà,
hoa trời rượu đất, nhưng có người nghèo rớt mồng tơi, không chỗ nương
tựa, do đây có thể thấy, đều không phải hoàn toàn nhờ tự lực mới
có ăn, mà phải nhờ tâm ý quyết định đâu đó đầy đủ mới được an cư
lạc nghiệp. Cố nhiên sách nói rằng: [Người khéo léo có dư, người
đần độn không đủ.] Nhưng đây không thể bảo chứng người khéo léo
quyết định có dư, người đần độn tất nhiên không đủ. Thí dụ như Tử
Nha cùng Quản Trọng, đều có tài nhấc lên trời đào xuống đất, nhân
vì thiếu niên thất chí, nên nhận đầy đủ khổ não khốn thiếu. Đề cử
thêm, Lưu Thiền cùng Tấn Huệ Đế đều là đần độn, tài không chịu
được, nhưng nó có thể kế thừa phụ vương làm Quốc Chủ, ăn uống đều
là trăm vị trân quý, ở thì chỗ Cung Điện Đường Hoàng, mặc thì áo
lông cừu ngàn vàng, ngồi thì bao vây chung quanh cung nga mỹ nữ lôi
kéo, tam cung lục viện, 72 cung nữ đầy đủ. Do Đây lại biết, tuy nhiên
tự mình có thể khát khao thao túng tất cả vận mệnh thiện ác của
người khác, nhưng lại người khác cũng có thể chi phối tai họa phước
lành của mình.
Tuy nhiên
định luật tự làm tự chịu, đều không phải người tâm thần bề ngoài,
có thể dòm thấy nơi một phần rất nhỏ, nhân vì mỗi người chỗ tạo
tác nghiệp nhân thiện ác, lại có ngàn sai vạn biệt, nhân tâm không
đồng giống như mặt nó, nghiệp quả không đồng giống như tâm nó. Có
người tạo nghiệp đời trước trước khi sanh, đời nay sanh để thọ báo,
có người đời nay sanh tạo nghiệp, đời sau sanh thọ báo, cũng có
người đời
nay sanh tạo nghiệp, nhiều đời sau sanh thọ báo. Phải biết, đời trước
lại có đời trước nữa, đời sau lại có đời sau nữa, Đã có đời trước
cùng đời sau vô cùng vô tận, đương nhiên đã có nhân quả cùng báo
ứng cũng vô cùng vô tận.
Nhân đây,
chúng ta cần tưởng đến lìa khổ được vui, chuyển hóa tinh thần tội
lỗi trở thành cát tường hòa nhã, chính là nên trồng cây phước tu
dưỡng cây thiện, rộng tích trử âm đức. Giả sử gặp thấy riêng người
nghèo bệnh vừa vừa, hoặc hiểm ác vĩ đại ập lên đầu, cho dù khổ
nạn không đủ sức cứu vãn người kia, nhưng cũng cần sanh khởi tâm
đồng tình, tâm lân mẫn, tâm thí xả, tâm cứu hộ, nhờ những tâm sanh
thiện trên, nên phước đức càng ngày càng tăng. Người đời không rõ
lý này, khi chọn làm đã không xả tài, lại chưa làm lợi cho người
sao lại có được phước đức? Phải biết Ngã Phật có nói, người người
vốn đầy đủ vô lượng tánh công đức, có tu thì hiển bày, không tu thì
ẩn nấp, hiện tại giả như người kia sanh thiện, tức là tự tánh hiển
bày phước đức. Nếu lại nữa lợi đem tài riêng của mình cứu giúp sanh
mạng người kia, người kia và đây cả hai đều thu hoạch được lợi ích,
nếu như mình có tâm mà không có sức, tuy nhiên đối với người kia
không có lợi ích, nhưng có thể riêng mình được phước, cũng như dùng
đèn đốt đèn, sau khi đèn của mình cháy sáng tỏ cùng đèn của người
kia đều không tổn giảm. Nếu người có thể đem phước đức trí huệ vốn
đầy đủ của tự tánh, tu tập lại tu tâp, hiển bày lại hiển bày, tích
lủy qua năm tháng, hạnh tròn đầy quả viên mãn, công đức pháp tài,
tự có thể toàn bộ sáng tỏ rực rỡ, lúc này đủ khả năng dùng
chuyển hóa sông dài làm bơ sửa, biến đại địa thành hoàng kim, lấy
không hết, dùng không cùng. Dụ như Phật đà từ vô lượng kiếp về
trước, năng làm những việc khó làm, năng nhẫn những việc khó nhẫn,
như xả thân cho cọp ăn, lóc thịt cho chim đói, do đó mới có trăm
phước kết tập đầy đủ ngày nay, vạn đức trang nghiêm, theo tánh hiển
hiện, biểu lộ không sót.
Nếu tâm
có thể đủ để bồi đức và trồng phước thì thân thể tự trở nên chân
chánh và cường tráng, nghiêng về cát tường, tỵ hiềm hung bạo, chuyển
họa làm phước, áo mặc, ăn uống, nhà ở, sinh hoạt
cũng tùy
theo đó mà đến. Tâm khi tu thiện, chính thuộc về đạo đức, nếu có
đạo đức, tất nhiên có phước khí, nếu có phước khí, tất nhiên hành
động vận dụng tốt. Khá nên là cần có hồng phước, vì chưa có trí
huệ như biển để khai lộ tiên phong; nhưng nếu bị sa ngả vào hầm hố,
lầm vào lối rẽ, không là keo kiệt không chịu buông xả, lại còn xa
xĩ dâm đãng, không phân phải trái trắng đen, nặng nhẹ đảo ngược,
đây có tạo tác, đều là ác hạnh, nhưng không chịu người kính trọng.
Nhân đây, sau khi có phước, nhất định cần phải có trí huệ, mới có
thể tôn nghiêm đoan chánh, là người thượng nhân. Người phải đầy đủ
hai thứ phước huệ, mới được gọi là thế tôn, trí có khả năng phân
tích thiện ác tốt xấu, là không phải tà chánh, cho nên cần phải tìm
cầu trí huệ, để tạo dựng làm căn cơ. Đây là nhân sanh ở đời, lập
thân hành sự là tông chỉ cụ thể.
3.- Phước
Huệ Cùng Thiện Ác.-
Chính con
người trong “Kinh Kim Cang” nói: là một trong 12 loại chúng sanh, bản
chất của nó, do các duyên hòa hợp tạo thành, các duyên một ngày
nào đó phân tán, sanh mạng cũng cáo chung kết thúc. “Kinh Lăng
Nghiêm” nói: [Nhân duyên hòa hợp, hư vọng có sanh, nhân duyên biệt
ly, hư vọng gọi là diệt.] Do đây có thể biết, nhân sanh của người
tôi, thân thể bên trong và thế giới bên ngoài, chỗ thấy của con
mắt, chỗ nghe của lổ tai, tất cả vạn sự vạn vật, chẳng qua do hư
vọng mà sanh, huyễn hóa không thật, như đớm hoa trong hư không, như
mặt trăng trong nước, vốn không có thật, đây chỉ duy có Phật giáo
triệt đễ mới hiểu rõ sáng sủa mà thôi.
“Trung
Quán Luận” nói: [Các pháp không tự sanh, cũng không từ người khác
sanh, không chung nhau sanh mà cũng không không có nhân mà sanh, cho nên
nói vô sanh. (Bản tánh của các pháp kể cả con người có từ vô thỉ,
không có vấn đề tự sanh, mới sanh......cho đến không nhân để sanh).]
Lại nói: [Đã sanh không có sanh, chưa sanh cũng không sanh, đã lìa sanh
chưa sanh, sanh thời tức vô sanh. (Như đã giải thích ở câu trên, đã
có mặt từ vô thỉ, không có vấn đề đã sanh, có sanh, chưa
sanh.....cũng không có danh từ sanh và vô sanh).] Do đây chứng
minh vững
chắc, có thể nói rõ, bản tánh của con người, không sanh không diệt,
thường trụ sáng sủa, chân thật trong sạch tròn sáng, không biến
đổi. Người thường không biết, nhận cho người tôi, sau khi lọt lòng
mẹ, gọi là [sanh]. Hình trạng diện mạo hài nhi mới sanh, gọi là sanh
tướng, không biết sau khi lớn lên tướng mạo thay đổi, sanh tướng tức
là không còn. Nếu như nhận cho là trước khi chưa ra khỏi thai, gọi là
sanh tướng, theo thường thức thì không phù hợp. Người tôi nên biết,
tướng mạo của tôi sanh sống, nơi đã sanh và nơi chưa sanh, hai thời
gian đó, đều có thể được vậy không. Phàm sự vật có sanh thì có
diệt, thể của nó còn không có sanh, sao lại nói có diệt. Cho nên
luận nói: [Đã lìa sanh và chưa sanh.] cho nên nói vô sanh. Câu thứ tư
nói: [sanh thời tức vô sanh.] nơi biểu hiện bề mặt xem thấy dường như
tự tướng có mâu thuẩn, trước sau không có phù hợp. Kỳ thật, nơi
bản thể pháp tánh mà nói, sanh không sanh tướng, diệt không diệt
tướng, mà lại sự viêïc sanh sanh diệt diệt không ngăn ngại, đâu có
phải khi sanh tức là không sanh. Nhân vì các Phật Thánh, do tu mà
chứng đắc, thanh tịnh bản nhiên, tánh tịnh minh thể, tánh thể thấy
thấu suốt, không sanh không diệt, không nhân không ngã, không nhân
không quả, không thiện không ác, vĩnh viễn giải thoát lục đạo, được
đại tự tại. Phàm phu thì không như thế, từ vô thỉ đến nay, vô minh
che lấp, thời gian lâu dài trầm luân theo âm thanh sắc tướng vật
dục, nơi chân thể pháp tánh, chỉ thấy có sanh có diệt, có sống ngàn
tuổi, có hiền có ngu, có quý có tiện, có vọng tưởng điên đảo, tất
cả đều đầy đủ.
Tổng Quan
Kinh Luận Chí Lý, Thánh Phàm phân hai con đường, đều do tâm thiện ác
tăng giảm gây ra. Nhân đây chúng ta nếu dùng tâm thiện, tức người
thuộc bậc trên; nếu dùng tâm ác, tức người thuộc bậc dưới. Thế
Tục Y Bốc Tinh Tướng Chi Thư nói: [Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm
sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt. (Có tâm mà không có
tướng, tướng theo tâm sanh ra, có tướng mà không có tâm, tướng theo
tâm tiêu diệt).] Cũng có lý của nó. Do đây mà quán nó, kiết hung
họa phước của thế gian, sống lâu bần cùng, chủng tộc quý tiện, vinh
nhục đặng mất, nó đã từng không ngoài bản tâm thiện ác tăng giảm
mà thôi. Thiện tăng lên là được phước đức trường thọ vinh hiển; ác
tăng lên là thiên tai, họa ác, thấp hèn, vinh nhục, mất
mát. Đây
là do sĩ phu của Phật pháp minh bạch cụ thể, không cần phải cầu hỏi
thầy bói họa phước, cũng không cần hỏi thần linh cầu phước, ngược
lại chỉ quán tự tâm thiện ác, tâm thiện thì tất cả đều tốt, tâm
ác thì tất cả đều hung dữ. Tục ngữ có nói: [ Phước đến thì tâm
linh.] Đây chính là thiện niệm thúc đẩy tâm linh cảm sáng suốt phát
huy.
Nơi Trung
Quốc, Nho, Thích, Đạo, và mỗi đạo có Tông giáo riêng, ai cũng đề
xướng con người cần yếu phải hành thiện, xả kỷ để làm người. Chỗ
gọi: [Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất
hữu dư ương. (Nhà tích trử điều thiện, nhất định có dư phước, nhà tích
trử điều bất thiện, nhất định có tai ương)] Đây là định luật ngàn xưa
không thể dời đổi. Chồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, nhân quả
báo ứng, như ảnh theo hình, ai có thể không tin. Nhân đây đến chỗ
dựa vào huyền bí [Làm lành rất vui] bốn chữ lớn đây, ý của bốn
chữ đây nhầm để thức tỉnh con người, cần tưởng đến an cư lạc nghiệp,
đầu tiên cần chánh cái tâm, tâm chánh thì thân tu, thân tu thì tề
gia, tề gia thì trị nước, nước được trị thì sau đó thiên hạ thái bình.
Người đời đã nói [Làm thiện rất vui], cũng nhất định có [Làm ác
rất khổ.] đây là nguyên lý tồn tại, nhân vì không có [Làm ác rất
khổ], thì tuyệt đối hiển nhiên không ra đạo lý [Làm thiện rất vui],
hai câu đây tất nhiên nhất định lẫn nhau sanh lẫn nhau diệt, tương đối
thành lập. Chỗ gọi: [Đây có nên kia có, đây không nên kia không.]
Lý của hai câu đây, tuy nhiên đối chiếu nhau để đánh giá, nhưng hết
sức kỳ lạ, đều dựa vào một phương diện huyền bí [làm thiện rất
vui], dường như chưa từng thấy nêu lên một phương diện là [Làm ác
rất khổ], đương nhiên lý đây không khó thấu hiểu, nhân vì người đời
thời nào khắc nào cũng hoan hỷ điều vui, chán ghét điều khổ, không
phải chỉ thấy thống khổ như oan gia, chính là một chữ khổ cũng không
đề cập, lý do ai ai cũng vui mừng khi nói đến cát lợi, nhưng không
thích nghe tiếng nghịch tai, dường như có thể tránh né không chịu nghe
các điều thống khổ. Kỳ thật không phải như thế, chính vì người đời
không từng đi sâu nghiên cứu căn nguyên của cái khổ, cho nên mới
nhận chịu các thứ thống khổ, giả sử đại gia có thể đủ nhìn xa căn
nguyên của giải khổ, dùng sức trí huệ đem chém đứt căn nguyên của
cái khổ, thử hỏi thống khổ lại phát sanh từ chỗ nào? Nhân đây
chún
làm thiện
rất vui] phản lại phương diện đạo lý [làm ác rất khổ] để thường
cảnh giác người đời. Giả sử người đời sợ quả khổ, tức không nên
mắc nợ giống nhân khổ, nhân khổ không giống thì quả khổ không
thành.
Ở đây
đầu tiên giải thích hai chữ thiện ác, thử hỏi đại gia nhận biết sao
là thiện, sao là ác? Thật tại thiện ác không có tiêu chuẩn nhất
định. Nếu người dùng dao gậy là thuộc nơi đồ hung dữ, nhất định là
ác, giả sử lợi dụng dao gậy đi cứu mạng sống, tức biến thành là
việc thiện; nếu người dùng tiền của là thuộc nơi thiện tốt, gọi nó
là thiện, giả sử lợi dụng tiền tài đi giết mạng sống, tức biến
thành việc ác. Do đây chỉ là một việc, thí dụ đề cử tất cả, không
có giống nhau là thuộc nơi thiện, hoặc thuộc nơi ác. Thật tại thiện
ác do tâm mà phát sanh, tâm muốn thiện thì tất cả đều biến thành
thiện, tâm muốn ác thì tất cả đều biến thành ác, thiện ác tại
tâm, không tại nơi vật, do đây mà luận, tất cả thiện ác đều do tâm
làm chủ, vật ngoài đều theo tâm mà chuyển đấy thôi.
Đối với
triết lý của [Làm thiện rất vui], nơi đây xin đề cử thí dụ, giả như
người tôi theo thời theo chỗ, thình lình thấy có người gặp tai họa
rất nguy hiểm, sát bên cạnh bờ vực thẳm hố sâu, kịp thời tôi chạy
đến gấp cứu được một sanh mạng. Chỗ gọi: [Cứu một sanh mạng thù
thắng hơn xây bảy cấp chùa chiền.] Thử tưởng tượng, tâm mình nợ
phước đức hưng thịnh cao như thế nào, khả năng suốt ngày biểu lộ nét
mặt vui mừng rõ ràng, cộng lại hiểu biết tự mình đã làm một việc
to lớn bằng trời đã cứu một mạng người bên bờ vực thẳm. Phải biết
thân thể do tâm làm chủ, tâm khi khoái lạc thoả thích, tự nhiên ảnh
hưởng đến tỳ mạnh khoẻ và vị khai mở, tâm an tịnh, thần yên tĩnh,
ngủ nghỉ an ổn, tâm mở rộng, thân thể thoải mái. Người đây đã có
thể tâm lý được bình an, hoan hỷ nơi tâm, tất nhiên [bên trong có những
gì thì sẽ hiện hình ra bên ngoài.] Trên mặt khi thường hiện dung hoà
hoan hỷ, có thể nói người thấy người vui, thân thuộc xem trọng, bằng
hữu kính ngưỡng, ở bậc trên tất nhiên được kẻ dưới kính trọng, ở
bậc dưới tất nhiên được cấp trên che chỡ, nhân vì thiện lạc,
đức dầy
chở phước, cho nên có thể đủ sống thọ, giàu có đầy đủ, không gặp
ác vận, gặp hung hóa kiết, gặp nạn thành an lành.
Nguyên lý
ngược lại chính là [Làm ác rất khổ.] Mặt đây cùng mặt trước phản
nghịch nhau. Giả như người tôi vô cớ giết hại mạng người, tâm của
họ có nợ với tôi như thế nào mà tôi phải ưu lo. Không luận người
kia hung ác ra sao, hoặc tâm xấu như thế nào, nếu tôi làm những việc
trái trời nghịch lý thì tôi nhất định tâm hốt hoảngï thịt run, sợ hãi
dị thường, khi ăn cơm nhắc đến ruột treo, ngủ luôn nằm ác mộng, ăn
không ngon miệng, ngủ không an gối, đi đứng ngồi nằm đều nghi thần nghi
quỷ. Nếu như một cá nhân khi thường tâm bị không an lạc, ngày tháng
lâu dài, tất nhiên bị ảnh hưởng đến, nào tì bị thương vị bị tổn, tiêu
hóa không tốt, tâm hồi họp mất ngủ, như thế tích lủy tháng năm,
nhất định thể lực suy yếu, mặt vàng bắp thịt teo nhỏ, người thấy
người chán ngấy, thân thuộc ghét không quan tâm, bằng hữu không nhìn
lại, bần cùng tài tận, không chỗ kiếm ăn, nghèo bệnh vừa vừa, đói
khát bức não, lúc này tuy có từ thân hiếu tử, cũng không thể cứu
nhau, nhân vì nhân quả báo ứng, tự làm tự chịu, chính là chư Phật Bồ
Tát, cùng thiên địa quỷ thần, đều không thể cứu vãn một phần rất
nhỏ, đây chính là hiện làm hiện báo của [làm ác rất khổ] phần mình
nên chịu, không thể chuyển dời cho người khác.
Phần
phước của con người, giống như đèn dầu, khi đèn thêm dầu, lửa hoa
càng sáng, đèn dầu nếu cạn, ánh sáng lửa liền tắt. Nhân đây chúng
ta nên phải thời khắc nào cũng phải tu phước, phát huy niệm thiện
trong tâm, thật hành tu phước, không ai hơn, kính trọng sư trưởng, cúng
dường Tam Bảo, in khắc kinh Phật, tặng y thí thuốc, cứu tế tai ương,
trai giới phóng sanh, tu kiều bồi lộ vân vân, tạo những việc lành
đây, tức là tu phước, sống lâu như ánh sáng, phước như ngọn lửa,
nhất định dài lâu. Ngược lại, sát sanh hại mạng, tổn người lợi mình,
tìm cầu vật dục, già gian xảo, làm loạn to lớn, đầu cơ thủ lợi, sai
lầm giả trá, lừa dối phỉnh gạt ganh tị hiền năng vân vân, tức là
làm ác, đây có ác nghiệp, như dầu khô lửa tắt, sống mà bịnh khổ
họa đến, chết mà đọa lạc ác đạo.
Có phước
mà không huệ, dù cho có khả năng sống trường thọ, cũng là thiếu
sót, nếu là giàu có mà bất nhân, khiến người khinh thường, danh xấu
ngàn thu, ác thông suốt đầy tràn. Phật nói: [Trí huệ như người có
mắt.] Một cá nhân nếu như không có mắt, dù cho có thể đi bộ, đường
không rõ, tuy khỏi có rớt xuống hầm hố, ngả vào hào thành nguy
hiểm. Tất nhiên phải thấy rõ thiện ác, biện minh thị phi, biết gần
xa, lường cao thấp, đọc kinh cầu hiểu, đi du lịch trải nghiệm, học rộng
nghe nhiều, làm công phu đây, tức là tu huệ, có phước gồm có huệ,
tự mình đã có oai có thể quý, có phong thái có thể kính, nhan sắc
sáng bóng, khí lực tràn đầy, áo mặc ăn uống đầy đủ, gia đình hòa
thuận, cho dù đến phương nào, thường làm cho mọi người nghiêng thành
quý mến, xa thì có thể trông, gần thì không chán, sanh ngày nay thì
làm thầy, chuyển đời sau sanh đường lành, đâu không vinh dự sao!
Cần yếu
của người tu phước, rất quý trọng tín tâm kiên cố, nổ lực tinh tấn,
ngày lâu tháng dài, phước huệ đầy đủ, tuy không cầu đến, tất cả
thuận lợi, tự nhiên vận hành. Không cần cầu thần cầu quỷ, vọng
tưởng thăng quan phát tài, cát tường như ý, đông thành tây tựu, một
vốn vạn lợi vân vân, đây là tập tục mê tín. “Kinh Địa Tạng” nói:
[Như quả các người sát hại súc sanh, đem đây cầu phước, không những
không lợi ích, lại kết tội duyên, chuyển thêm tội nặng.] Các thiện
nhân trên, cần cầu ít già bình an, mạng sống trường thọ phú quý,
phước huệ song tăng, chỉ có nhờ cậy Phật đà khai thị, thật tế thực
hành, tích lủy ngày tháng, tự có thu hoạch, được thọ dụng rộng lớn.
Một niệm
tâm tánh của con người, có lý có sự. Lý đây, thể tánh không biến,
tinh vi rộng lớn, độc nhất không hai, như băng tức nước, thiên đường
địa ngục, đều như bào ảnh, làm thiện làm ác, đều không phải thật
có. Sự đây, không có một sự một pháp, không hiển bày sáng sủa rõ
ràng, như nước kết thành băng, Quy y nhị bảo, tất cả giống như thế
(chỉ quy y nhị bảo). Chỗ gọi: [Đều từ nơi pháp giới đây lưu chuyển,
cũng đều trở về nơi pháp giới này.] Phàm phu chúng sanh không biết
giải thích băng tức là tánh nước, chỉ thấy dụng tùy duyên, không
thấy thể bất biến, cho nên từ vô thỉ đến nay, thuận theo dòng sanh
tử, uốn cong vào thống khổ, làm thiện lên thiên đường, làm ác
rớt vào
địa ngục, chấp cho là thật có, không hiểu được chân không. Nhân đây
Phật đà tạm thời dùng phương tiện, đầu tiên dùng nhân thiên thừa,
dạy người tu ngũ giới thập thiện, khiến họ đặng thiện báo nhân
thiên. Trong bốn Tất Đàn (Tất Đàn nghĩa là Thành Tựu), gọi đây là
thế giới tất đàn, khiến họ sanh tín tâm. Do đây họ dần dần đạt đến
làm người tất đàn, gọi là Đối Trị Tất Đàn, cũng gọi là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn. Trong bốn tất đàn, bao gồm 12 bộ kinh, tám vạn bốn
ngàn Pháp Tạng. Phật vốn không pháp có thể nói, vì có bốn nhân
duyên tất đàn, nên cũng có thể nói pháp.
Quả như
người người đều có thể các điều ác chớ làm, các điều lành nên
phụng hành, lập chánh vị thiên hạ, hành đại đạo thiên hạ, thế giới
tự nhiên hòa khí tốt lành, chiến tranh tiêu trừ, mưa thuận gió hòa,
quốc thới dân an, ngũ trược ác thế tức thời biến thành thanh tịnh
lạc độ!
4.- Phiền
Não Cùng Thống Khổ.-
Nhân sanh
nơi thế gian, sinh hoạt ăn uống, đón khách đãi khách, giao tế qua
lại, mưu sanh sự nghiệp, suốt ngày bận rộn long đong, nơi trung gian
của nó, tùy thời tùy chỗ, gặp phát sanh khiến người không vui vẻ bởi
phiền não thống khổ. Hoặc nghèo bệnh vừa vừa, đói lạnh bức bách;
hoặc kẻ ác yêu quý làm tan nát nhà cửa, kẻ thù gặp nhau; hoặc sanh
ly tử biệt, hoặc hồn dẫn dắt vòng quanh trong mộng; hoặc danh lợi
lôi cuốn, mưu đồ không thành. Bởi thế dẫn đến ngày thường bị lôi
kéo đánh đập mất tinh thần, mặt mày ủ rũ, thậm chí ngồi nằm bất
an, thống khổ quên ăn bỏ ngủ vân vân, cuối cùng bức hiếp đến nỗi
chạy vào không đường, chỉ có con đường sống tự sát. Phật nói: [Kẻ
được thân người, như kẻ sĩ trên tay, kẻ mất thân người như đất đại
địa.] Nó khó như thế, sao không trân trọng để mà xem.
Ngã Phật
là một đại y vương, có thể trị bệnh về phần nội tạng của tất cả
chúng sanh, không luận thân bệnh, tâm bệnh, tóm lại có thể trị tận
gốc, như đau đầu trị đầu, đau chân trị chân, mà thầy thuốc của thế
tục dĩ nhiên không giống nhau. Cho nên muốn trừ căn bệnh nội
kết cơ
bản của gió tự sát, tất nhiên phải hiểu rõ lý giải Phật giáo,
nhân vì Phật giáo chuyên nghiên cứu tâm lý con người và thái độ
của bệnh tư tưởng trên.
Kẻ tự
sát, đầu tiên nguyên nhân tư tưởng hẹp hòi, hạn chế cá nhân nơi
tiểu thiên địa, họ không biết ngoài tiểu thiên địa còn có đại thế
giới trời cao biển rộng. Giả sử gặp đến vấn đề nan giải, phiền não
nội kết ứ động, liền không thể tự xử. Phiền não thống khổ, đều do
tư tưởng hẹp hòi đây sanh khởi. Trên sự thật, chỗ có phiền não
thống khổ, giống như hình tượng trong gương, mặt trăng trong nước, có
ảnh của nó mà không thật thể, tìm nó hoàn toàn không thể được.
Nếu đem tư tưởng hẹp hòi đả phá bỏ ngoài tai, tự quán chiếu tâm
nó, tức có thể giải thích phiền não giống như băng, thì thống khổ
tiêu tan, trở mình tỉnh ngộ, như nằm mộng được giác ngộ, mở mắt xem
đến đại thế giới của trời cao biển rộng, tất nhiên không gặp tầm
mắt hẹp hòi. Đông đảo chúng sanh cố chấp kẻ mình thấy thì nhiều, kẻ
giác ngộ thì ít, mặc dù kẻ có trí báo cho nó biết đều là hư vô,
nhưng người nó cũng kiên trì không tin, vẫn hướng về phiền não thống
khổ chui luồn vào bên trong, càng chui càng sâu, kết quả bị trói
buộc, không thể tự ra, lún xuống sâu luân hồi, vĩnh viễn chịu sanh
tử, đâu có thể không oan uổng?
Tu đạo
trong Phật giáo, tức là phương pháp rất tốt để đối trị căn bản phiền
não thống khổ. Tu là tu lý, đạo là đạo lộ. Người tu đạo, chính là
tu đạo lộ của lý trong tâm. Thí dụ như đạo lộ trong thế gian, đầu
tiên cần yếu thông suốt con đường lưu thông không bị trở ngại, nếu
như không lưu thông, người và xe bế tắc liền ngừng lại xe bị chật
nứt thành lo âu. Tâm lộ của con người tôi thì cũng như thế, trọn
ngày nào ba độc tham sân si làm trở ngại, tâm lộ bế tắc, đi bên
trái không thông, đi bên phải cũng không vượt qua, bốn phương tám
mặt, không có con đường để đi, kết qua ûsản sanh các thứ thống khổ
ra đời, thửû hỏi thống khổ do đâu mà đến? Tri cứu căn nguyên, từ
vọng tưởng sanh, vọng tưởng vốn không có nguồn gốc, quả như có
nguồn gốc, có thể đem ra trao cho người xem thấy. Đã là vọng tưởng,
nhìn lại gọi là nghĩa tâm tư, vốn không chỗ có, vọng tưởng đã là
không, vậy khổ từ
đâu đến?
Cho nên Phật nói các khổ hoàn toàn là do vọng tưởng tạo những điều
quái lạ, nếu không vọng tưởng, thống khổ hoàn toàn không. Chỉ vì
chúng sanh mê hoặc không biết, say đắm sanh mộng tửởng , hư vọng tạo
nghiệp, hư vọng thọ khổ. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” Phật đối với A Nan
nói: [Thí dụ như có người nói đến ô mai chua, nước trong miệng chảy
ra, như thế nói chua không từ ô mai sanh, cũng không phải từ miệng
vào. Tư tưởng bị chà đạp treo trên vách núi, còn tâm dưới chân lại
bị chua chát, như vậy chua chát không sanh từ vách núi, cũng không
phải chun vào từ dưới chân.] Do đây chứng minh, tất cả thống khổ,
đều từ vọng tưởng sanh, nếu không vọng tưởng, thống khổ do đâu mà
có?
Thí dụ
như, có một chồng vợ đối đãi nhau tha thiết, ăn ở với nhau nhiều
năm, chiếu cố nhau đậm đà, không lúc nào không hòa thuận, hình ảnh
không lìa nhau; một trong hai người, bổng nhiên vô thường cướp đi mạng
sống, một người còn lại, nhất định sầu khổ không tự kềm chế, thống
khổ khó nhẫn, hoàn cảnh đổi thay, cũng sầu mặt ủ mày chau che lấp
sâu thẫm, buồn thảm sầu mãi không vui. Thử hỏi thống khổ từ đâu
sanh ra? Phật nói đây là ái biệt ly khổ (yêu nhau mà bị xa lìa là
khổ), nếu như hai người ngày trước không yêu nhau kết tụ thì ngày nay
nào có thống khổ vì biệt ly. Quả như một người còn sống, ngồi cô
độc nơi gian nhà nhỏ, hoặc đứng lại trước sân nhà, tinh thần tập
trung trước sân nhà, suy nghĩ tìm kiếm người bạn đời trước, hai người
một lần đi đến một chỗ nơi xem hát, du lịch, bơi lội, đá cầu, lúc đó
có biết bao cam mật khoái lạc, hiện tại người bạn yêu đã từ tần,
lập tức thành vĩnh biệt, khó vui lại lần thứ hai, càng tưởng lại
càng thống khổ, thậm chí tưởng đến thần kinh thác loạn, thống khổ
khó gọi. Giả sử lúc này lỡ như có bằng hữu, nó và người yêu đi
xem hát, mình bổng nhiên đầu tiên cảm tấy sầu lo nổi lên,
lúc đó
chúng nó đang tiến vào hí viện, mắt xem trên vũ đài, nào hồng nam
lục nữ, ca xướng vũ múa, một đám càng hoan hỷ, tâm hoa mình càng
phẩn nộ, lúc này tư tưởng bạn yêu của mình nhớ lại đã mất từ lâu,
thống khổ cũng chấm dứt. Sau khi trở về nhà, tư tưỏng người yêu đã
chết khởi lên, thống khổ trở lại tái sanh, như đây khổ lạc quanh co
lật lại, tất cả đều do vọng tưởng sanh ra.
Phật nói
tâm sanh các pháp đều sanh; nơi trong không thống khổ, thống khổ bổng
nhiên sanh. Thử hỏi thống khổ rốt ráo là có hay là không? Quả như
là có, khi ở hý viện, tại sao không có khổ não? Quả như là không,
khi trở về nhà, tưởng lại phát khởi hình ảnh cái chết của bạn yêu,
tại sao thống khổ lại sanh ra? Lại tiến thêm một bước để nghiên
cứu, thống khổ do nội tâm sanh chăng, do ngoại cảnh sanh chăng? Quả
như thống khổ do nội tâm sanh, tâm vốn thường trụ, thống khổ cũng
nên thường trụ, trên sự thật không phải vậy, thống khổ khi có khi
không. Quả như thống khổ do ngoại cảnh sanh, ngoại cảnh cùng ta đều
không quan hệ, cảnh có thống khổ, sao ta lại không biết. Như thế
quanh co, suy cùng tìm dần dần, thống khổ triệt đễ do ai đem lại? Tìm
lại tận gốc rễ, nhưng là hư vọng, hoàn toàn tìm không thể được.
Người tôi
hiện tiền, chỗ thấy chỗ nghe, tất cả sự vật, đều là chỗ hiện vọng
tưởng. Thử đề cử cảnh mộng làm thí dụ, người tôi chính khi ở trong
mộng, không biết mình là mộng, cảnh vật trong mộng, thương ghét lìa
hợp, tất cả đều thật. Bổng nhiên tĩnh lại, mới biết thương ghét
trong mộng, tất cả đều là hư vọng. Người tôi chưa đến minh tâm kiến
tánh, chỗ đại thấu suốt đại ngộ, còn nương vô minh vọng tưởng, chi
phối nhân sanh tuần hoàn xoay vần, người mắt sáng quán thấy, dụ như
những sự vật trong mộng, chỗ đương sanh ra, theo chỗ diệt tận, huyễn
vọng qua lại nhau, huyễn vọng qua lại đây không phải chân.
Giả sử
người tôi muốn tiêu trừ phiền não thống khổ, tưởng được đến nhân
sanh chân chánh khoái lạc, đầu tiên nhu yếu chân kính nghiên cứu
chân đế của Phật giáo, kỹ lưỡng tinh tế tìm hiểu, tận cùng nguyên
lý tinh sáng, sau đó mới dẫn đạo giáo lý Phật đà, phải chắc chắn
thiết thực, tu tập thiền định, đình chỉ chấm dứt vọng niệm, vọng niệm
không khởi, vọng cảnh không sanh, ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh
không tâm, tâm cảnh nhất như, lúc này có phiền não thống khổ phát
sanh hay sao? Chỗ gọi phiền não tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn là
thế.
5.- Bàn
Luận Về Khổ Cùng Không.-
Có một
số nhân sĩ phê bình Phật giáo là tiêu cực, bi quan, chỗ căn cứ của
họ không ngoài hai thứ nguyên nhân: một là khép kín nơi phương diện
lý luận của Phật giáo, hai là khép kín nơi phương thức tu hành cùng
phương diện sinh hoạt của tín đồ Phật giáo.
Đầu tiên
giảng khép kín nơi vấn đề lý luận. Tôi cũng đã trải qua thường nghe
người đời nói: [Phật giáo đồ bọn ngươi trọn ngày không là giảng
khổ, lại là giảng không, người ngày nay không bằng lòng để ý nghe.]
Quả như giảng đến người bệnh cùng người chết, có phải không giảng
nên không nghe, đều ở nơi không gặp bệnh không gặp chết phải không?
Đương nhiên đã trải qua thân hữu, gia quyến bệnh nặng hoặc tử biệt,
lại như trời tốt nắng ráo bổng nhiên sét đánh thình lình tử nạn,
cảm đến chấn động thần kinh và bi thương. Tất nhiên sanh già bệnh
chết là con người không ai tránh khỏi, quả như một sớm chuyển đến
chính mình, lúc đó biện minh như thế nào? Cổ đức có nói: [Tôi thấy
người khác chết, tâm tôi nóng như lửa, không là người khác nóng,
canh giữ sẽ đến tôi.] Lại nữa nói: [Thời gian qua, vui vẻ bàn luận
sự việc già chết, như ngày nay vẫn đến trước mắt.] Thật đủ để
khiến người ta tỉnh ngộ! Người đời đều biết năm đến chưa đến, năm
nay chính cần yếu chuẩn bị lúa gạo cho năm tới, trời đông chưa đến
chính cần yếu chuẩn bị áo ấm cho trời đông, cũng là vì sự việc sanh
già bệnh chết khi chưa đến, nếu không chuẩn bị lúa gạo lương thực cho
sớm thì không kịp.
Người
người ai cũng đều sợ khổ, có phải khổ là hiện thật tồn tại? Chính
nhân vì người người đều sợ khổ, cho nên Phật giáo đặc biệt nhấn
mạnh điều này với nó, đem nó đề ra với mọi người cho nó là như thế
nào? Như thế cần phải nghiên cứu bản chất của cái khổ, khổ đây
đích thực là nhân, theo đây để tìm kiếm cho ra phương pháp để giải
thoát khổ, tiêu trừ căn nguyên của thống khổ.
Các loại
khổ của thế gian tuy nhiên là nhiều, mà quy nạp tìm được, không ra
ngoài hai thứ của thân tâm. Khổ của thân thể gồm có bốn thứ, sanh,
già, bệnh, chết. Khổ của tâm gồm có ba thứ, ái biệt ly,
oán tắng
hội, cầu bất đắc; (Ba thứ khổ: Ái biệt ly: là thương yêu nhau mà bị
xa lìa; Oán tắng hội: là thù ghét nhau mà cứ gặp nhau mãi; Cầu bất
đắc: là hy vọng không thành); lại còn có một thứ vô thường biến
hoại là cái khổ của bức hiếp làm cho đau đớn khổ sở, tức là ngũ
ấm xí thạnh khổ ( Ngũ Ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), hợp nhau
lại có tám thứ khổ quả.
Phật giáo
báo cho chúng ta biết, quả khổ hiện tại, tất nhiên là có thứ nhân
khổ của quá khứ. Cho nên kẻ thật hành Tiểu Thừa, đầu tiên cần
yếu, biết khổ, đoạn tập, chuộng diệt, tu đạo, mới có thể dứt sanh
thoát chết, vượt ra ngoài ba cõi.
Quả khổ
đã là do nhân khổ chiêu cảm tạo nên, như vậy nhân khổ là như thế
nào? Phật giáo giảng nhân khổ chính là sáu thứ, tham dục, sân nhuế,
ngu si, cao mạn, nghi hoặc và tà khiến một trong năm thứ, (Năm thứ
lợi sử: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ kiến, Tà
kiến. Tà kiến có mặt nhiều chỗ như:
-, Trong
Thập Sử: tham, sân, vô minh, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến
thủ
kiến,
giới thủ kiến, Tà kiến.
-, Trong
Thập Ác: chia làm ba lãnh vực: thân, miệng, ý:
*- Thân:
sát sanh, trộm cắp, dâm dục (tà dâm)
*- Miệng:
vọng ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu,
*- Ý:
tham, sân, Tà kiến (si)
Ngũ dục
lại có mặt phía trong: tài, sắc, danh, thực, thùy; ngũ dục lại có
mặt phía ngoài, tức năm căn đối với năm trần chỗ sanh ra dục vọng,
một số đây đều là nhân khổ. Thứ nhân khổ đây, tất nhiên đạt đến
quả khổ, đây là những sự việc phi thường công bằng, tức chỗ gọi
là tự làm tự chịu, thù ghét người khác không được.
Phật giáo
nói: [Bồ Tát sợ nhân, chúngsanh sợ quả.] Người có trí huệ nhân vì
sợ kết quả ác, lúc ban đầu không dám tạo nhân khổ; người ngu si
không tin nhân quả, chính tạo nhân ác bừa bãi, đem đến chính chiêu
cảm quả ác. Người học Phật đương nhiên biết đạo không tạo nhân ác,
đem đến chính không kết quả ác, mặc dù nhân thuộc
quá khứ
không biết mà lỡ tạo nhân ác, cũng quyết định không oán trời trách
người, nên đem an nhiên thừa nhận quả khổ, nhân biết [Phước họa
không cửa, chỉ người tự chuốc lấy].
Có chỗ
nói: [Tùy duyên tiêu trừ nghiệp cũ, lại không tạo tai ương mới.] Rõ
ràng đây là đạo lý của Phật giáo đồ, tuy có khổ não, nhưng thân
thọ khổ, mà tâm không phiền não, nếu không rõ ràng nhân khổ cùng
người chịu quả khổ, không những thân thọ khổ, mà tâm cũng hận
phiền não, oán trời trách người, cho là mình một đời đã tạo rất
nhiều việc thiện, là thế nào sao lại bị quả ác này, đâu không phải
là không có nhân quả! Kỳ thật họ không biết đạo lý nhân quả có
ba đời, không phải là con số chữ ba, mà đây là chỉ ba đời, quá khứ,
hiện tại và vị lai. Ba đời: (1) Hiện Báo, đời nay tạo nghiệp thiện
ác, đời nay thọ báo. (2) Sanh Báo: đời nay tạo nghiệp thiện ác, đời
sau thọ báo. (3) Hậu Báo: đời nay tạo nghiệp thiện ác, đến đời sau
thứ hai, mới thọ quả báo. Người không hiểu rõ đạo lý đây, lầm cho
là không có quả báo.
Phật giáo
đồ chúng ta, làm thế nào trọn ngày sao không giảng lý không. Đây
cũng là nguyên nhân làm cho người đời sợ khổ, nếu có thể biết đạo
vũ trụ nhân sanh đều là không. Phía bên trong tâm lại bị chịu khổ. Phật
Kinh có nói: [Các pháp theo duyên mà sanh, các pháp theo duyên mà
diệt.] Duyên sanh không chủ, đương thể tức là không. Phật nói vũ
trụ vạn hữu, đều là bốn đại hợp thành. Dùng người để trình bày rõ
hơn, như da thịt gân xương đều là địa đại hợp thành, nước mắt nước
mũi, nước bọt, máu đặc, đều là thủy đại hợp thành, uất nóng, khô,
nhiệt đều là hỏa đại hợp hành, hô hấp vận chuyển đều là phong đại
hợp thành. Do đây địa thủy phong hỏa trong bốn đại không có ngã, cho
nên nói là không, nếu người có thể quán sát lý vô ngã (lý không
ngã), phiền não thống khổ tự nhiên không sanh.
Lại nói
Phật giáo đồ vấn đề tu hành và sinh hoạt, giống như người ta thấy
đến, các ngài suốt ngày tĩnh tâm và mặt lạnh thờ ơ ít muốn bôn ba
lao lực; các ngài nhận thức đối với xã hội càng thấy hư danh và tư
lợi, cho nên không đi kết thân, do đó người đ
hái độ
tiêu cực hoặc cho các ngài là những kẻ trốn tránh hiện thật. Phải
biết người đời, trên có cha mẹ, dưới có vợ chồng con cái, sinh hoạt
mỗi ngày, họ không phải bị cưởng bức, nhưng chính họ phải đi bận rộn
bôn ba, sớm đi chiều về, làm việc mưu sanh; quả đúng như vậy, cuộc
sống nào là áo mặc nhà ở cơm ăn sinh hoạt hàng ngày của gia đình,
chính họ gặp phải vấn đề nan giải phát sanh. Người xuất gia đã không
có con trai lo cưới vợ, con gái lo lấy chồng, cho nên không có gia
đình chồng chất lo âu, cuộc đời chỉ ăn ở nơi chùa miếu, chỉ một y
phục mặc hơn mười năm, trọn ngày tự do tự tại không lo nghĩ. Nhưng
đây không phải là nói người xuất gia nhường lại cho đời độc lập tự
do, vã lại xem nhiều ít xưa nay tăng già trọn đời lao thân làm công
việc xây dựng chùa và lao tâm làm công việc thuyết pháp độ sanh.
Lại nữa, một số người xuất gia bế quan tu học, cũng là tự mình tròn
đầy sự thật của tích cực, là tương lai chuẩn bị làm tốt cho việc độ
tha và tự lợi, nếu có thể giải thích sự hành trì của người xuất gia
hoàn toàn sai sựï thật, chính không chắc đã giải thích sai lầm.
6.- Điều
Vui Không Thích Nghi Nhu Cầu Của Người Thế Gian.-
Người ta
thường nói: [Chúng ta nhất định tìm cầu khoái lạc của nhân sanh.] Mà
ngày nay các nhà viết sách chủ trương: [Điều vui của nhân gian không
thích nghi nhu cầu]. Đâu chẳng phải cùng người thế gian lời nói hay
luận điệu trái ngược chống lại với người khác? Không lầm, Phật
giáo chúng ta chỗ giảng đạo lý, là tương đối khác nơi thế tục. Do
nơi tư tưởng cùng quan niệm của con người, sản sanh tánh cách cùng ham
thích của cá nhân, tất cả đều không thể nhảy ra ngoài phạm vi tri
kiến của phàm phu. Cùng một sự vật, anh Giáp nhận cho là tốt đẹp,
anh Ất nhận cho là xấu ác, mà anh Bính thì lại xem cho là không xấu
cũng không tốt. Thậm chí cá nhân quan niệm cũng gặp phải trải qua
thường biến hóa, ngày trước nhận cho là đúng, ngày nay thì giác ngộ
nó đều không phải như thếû. Có thể biết tất cả thiện ác tốt xấu
của thế gian, rất khó định nghĩa cho đúng, nhân vì tâm con người lúc
nào cũng bị nghiệp thức chi phối, ngoại cảnh cũng theo tâm chuyển
biến, các thứ quan niệm cùng tri kiến hoàn toàn tính toán mê vọng
của phàm phu, đều có thể nói không có chân lý. Chỗ gọi: [Tình thì
có
lý thì
không.] Chúng ta nói chân lý chỉ là có trong cộng đồng định nghĩa;
còn chân lý phải được các nơi trong bốn biển đều đúng mục đích, bất
cứ người nào đều không thể đem nó ra lật đổ, và không phải một
nhóm người dễ lĩnh hội.
Phật nói:
[Nhân sanh trong thế gian, khổ nhiều vui ít.] Câu này nói cần nhẫn
chân thật để thể hội cũng không dễ, chỉ là người ta thông thường
đều không quan tâm vui vẻ để suy nghĩ cân nhắc kỹ càng.
Dùng vấn
đề kết hôn để khẳng định, một nhóm đều cho là việc vui mừng của
nhân sanh, không để ý phí tổn. Sau khi kết hôn, chúng nó hoàn toàn,
nếu hai người tâm đầu ý hiệp, gắn bó keo sơn, nhân vì chúng nó đã
được bộ máy tình yêu, nên không thấy chỗ khuyết điểm lầm lỗi. Nhưng
ái tình trở lại ái tình, bao tử đói cần yếu là phải ăn cơm, dù cho
không nhận giây phút phân ly, nhưng phải xuất ngoại chạy đông chạy
tây để tìm kế mưu sanh, lúc đó bậc trượng phu lo sợ vợ con ở nhà
không yên, vợ con cũng lo ngại chồng đi xa sợ có ngoại tình, hai
người vướng víu không rời, như thế làm sao có hỷ lạc được? Kinh Phật
có nói: [Nhân ái sanh ưu, nhân ưu sanh bố, nhược ly ưu ái hà ưu hà
bố?] (Nhân yêu sanh lo, nhân lo sanh sợ, nếu lìa nơi yêu, làm gì lo
làm gì sợ). Lại hơn nữa nhân sự bãi bể nương dâu, vô thường trong
nháy mắt, ân ái không dễ bền chặt lâu dài, ở với nhau lâu ngày,
khả năng sinh hoạt đã chuyển biến thúc đẩy trở nên nhạt nhẽo, nói
không nhất định lúc ấy mới phát hiện hai người chỗ tốt không còn
giống nhau, vợ thích yên tĩnh chồng thích hoạt động bên ngoài, hoặc
nhân tín ngưỡng không giống nhau, ý kiến trái ngược nhau, theo trách
mắng lẫn nhau, cãi nhau không thôi, thậm chí đòi ly hôn phân chia nhà
cửa. Lại nữa, hoặc sau khi sanh con trai con gái, sinh hoạt trách nhiệm
càng nặng, chỉ có tăng thêm thu nhập, bằng không lại cần phải lường
tính thu nhập để chi tiêu. Giả như con trai không nghe cha dạy dỗ, con
gái không giữ gia quy, bằng cách hà khắc vào khuôn phép, một không
thuận ý, liền sanh oán kết căm thù. Hơn nữa trong gia đình không luận
có bệnh gì đó, hoặc có khốn nạn, tất cả nơi thân đều thọ nhận,
phiền não quá nhiều, thạât tại không sao kể hết! Thử hỏi vui ở chỗ
nào?
Người đời
khổ nhiều vui ít, giống như người thể nghiệm được đến đích. Nếu đi
sâu một tầng nữa để nghiên cứu, dù rằng thỉnh thoảng đạt đến một
điểm vui nhỏ, cũng chẳng qua cho khổ là vui. Như người chạy bộ cảm
thấy mệt nhọc, liền ngồi xuống nghỉ mệt cho là vui; ngồi thời gian
lâu lại cảm thấy không thích, nhưng lại đi bộ cho là vui. Đây chẳng
phải là nhân khổ hiển bày vui?
Đã có
đại sứ của đại sứ quán quốc gia nọ, một ngày kia bổng nhiên bị tai
họa do lũ giặc bắt cóc gia đình cưởng bức phải chuộc, lúc ấy gia
đình quyến thuộc của ông tất nhiên không an, khổ không thể nói, đang
lúc không biết như thế nào định trù bị và gom góp tài vật để trao
đổi, bổng nhiên lũ giặc đem người phóng thích, lúc ấy tất cả gia
đình hoan hỷ vô cùng ra ngoài nghinh đón, có thể nói khoái lạc không
thể so sánh. Nhưng tư duy thâm sâu điều vui đây từ chỗ nào đem đến?
Truy tầm tận cùng nguồn gốc, do khổ đổi lại, nếu không ngay lúc đó
cái khổ do kẻ bắt cóc sao lại được vui ngày nay? Từ đây suy ra, cái
vui của nhân gian, ai cũng đều cho là do cái khổ đổi lại.
Mỗi ngày
xem báo, thấy anh tay nghề đua xe đạp, đạt được hạng nhất, thưởng
vàng kim số vạn, lúc ấy tiếng hoan hô kêu to, nở mày nở mặt, vui
không thể điều khiển, dự tính sáng mai sau giờ ngọ cùng thái thái đi
du lịch, một lúc khinh tâm, ghe đến giữa biển, tất cả đều chết. Đây
chính là khổ của cực vui sanh bi thương.
Nếu nói
quan vị là vui, đem sự việc Ni Khắc Tốn Vi Lệ của Mỹ Quốc, ông được
bầu cử làm Tổng Thống, trước một ngày chưa biết thắng bại như thế
nào, do nơi tinh thần quá căng thẳng. Một đêm chưa tối có thể vào
ngủ. Đến [Sự kiện đập nước.] cưởng bức ông nơi cánh đồng, khiến ông
thân bại danh liệt! Còn Nam Hàn Tổng Thống Phác Chánh Hy chấp chánh
18 năm, tuy nhiên đối với Nam Hàn, ông cống hiến rất nhiều, kết quả
ông bị mưu sát, bà vợ của ông cũng ở 70 năm bị người đầu giết
chết. Phàm những thứ đây, ai cũng cho là cái khổ đổi lại làm vui.
Có người
sớm đi chiều về, hy sanh tìm cầu của cải, cho là có tiền mới là vạn
năng, của cải mới là khoái lạc. Nó không biết của cải khiến bản
thân có đủ lôi cuốn rất lớn, khiến người kiếm lời mười vạn lại
tưởng đến trăm vạn, được trăm vạn lại tưởng đến ngàn vạn, dục
vọng vô cùng, không pháp ngừng tay, như thế không dứt chỗ lao tâm
kiệt sức, khổ lạc thật khó phân biệt.
Lại có
người không chịu an phận thủ cho mình, thấy người khác địa vị cao đa
tài, lại sanh tâm tham niệm, làm sao cho đạt được mục đích, không từ
chối bất cứ thủ đoạn nào, ăn trộm ăn cướp, gian xảo phạm tội,
không chỗ nào không làm. May mắn hơi khá có chỗ thu hoạch, liền tận
tình hưởng thụ. Nhưng khéo chọn lấy phi thường, cuối cùng không phải
kế sách lương thiện, bất ngờ một khi không cẩn thận, đi đến thân
bại danh liệt, thử hỏi vui cùng khổ ai nhiều hơn? Có thể biết không
luận tìm cầu nhân gian, bất cứ sự vui nào ai cũng thấy có khổ não
cùng theo, tìm cầu càng nhiều, thì thống khổ càng lớn.
Làm cho
một kẻ trí, cần rõ ràng là không phải phân biệt tà chánh, bất cứ
sự việc gì phải từ chỗ xa để nghĩ tưởng, không nên ngoảnh lại chỉ
xem lợi ích nhỏ trước mắt. Phàm đối với người đặc biệt có sự việc
lợi ích nhỏ, nên lượng sức mà làm; như đối với người đặc biệt có
chỗ tổn hại, vạn sự chớ ướt tay. “Trung Dung” có nói: [Quân tử vốn
vĩ căn cứ nơi chức vị của nó để làm, không cần bên ngoài của nó
nhỉ. Vốn dĩ phú quý thì làm phú quý nhỉ. Vốn vĩ bần tiện thì làm bần
tiện nhỉ. Vốn dĩ nước Địch bình yên thì làm cho nước Địch bình yên nhỉ.
Vốn vĩ hoạn nạn thì làm hoạn nạn nhỉ. Quân tử không vào thì không
tự được yên ở nơi dó.] tức là ý đây vậy.
Phải biết
phú quý bần tiện, đều quan hệ chiêu cảm nơi làm thiện làm ác của
đời trước. Cho nên gọi: [trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu.]
Giả như đời nay không tu thiện mà ngược lại làm ác thì cũng giống
như ngọn đèn mà không thêm dầu, để đèn cháy cạn dầu thì gặp đại
họa, đây là không phải thường có thể sợ vậy.
Các người
tìm cầu cái vui của thế gian, không là lãng phí kim tiền, lại còn
tiêu hao tinh thần, đời trước gây tạo bần cùng khốn khổ, đời nay
làm cho khiến nhiều bệnh đoản mạng! Nếu dùng nhân quả để nói, đây
chỉ là khổ nhỏ của hiện báo, chuyển đời trở lại chịu đại khổ của
sanh báo, giả sử lai sanh thọ báo chưa hoàn tất, nhưng phải thọ hậu
báo tái trở lại nhiều đời nhiều kiếp. Nhân đây chúng ta thà xin một
số khổ nhỏ, không cần tìm cầu cái vui của nhân gian. Chỗ gọi: [Xin
đặng khổ trong khổ, mới là người thượng nhân.]
Tổng hợp
lại nói, muốn được cái vui chân chánh của nhân sanh, cần thiết
không nên giới hạn nơi hưởng thọ vật chất, mà nên công phu ở nơi
phương diện tinh thần,
nhân vì
đời trước có giới hạn, đời sau mới vô cùng. Khổng Tử giảng cho Nhan
Hồi nói rằng: [Một cái giỏ đựng cơm, một bầu rượu uống, ở am nhỏ
hẹp, người không chịu được lo buồn nay sao, Nhan Hồi cũng không cải
cái vui này của Khổng Tử.] Có thể biết cái vui cùng vật chất phú
quý không quan hệ. Mà vả lại cái vui trên tinh thần là tích phước
và thuận theo thiện, thì thiện có thiện báo; còn cái vui của ngũ
dục lạc (Ngũ dục lạc là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ) trên vật chất, chính là tổn đức mà thuận theo ác, thì ác
có ác báo. Cho nên có người hiểu biết, không tham cầu khoái lạc
trên vật chất, mà nên tìm cầu an tịnh trên tinh thần.
7.- Pháp
Của Thế Gian Và Xuất Thế Gian.-
Phật đà
chỗ nói pháp thế gian cùng pháp xuất thế gian, không ra ngoài tất
cả tâm pháp của người tôi. Người xưa nói: [Phật nói tất cả pháp,
không lìa tất cả tâm, nếu lìa tất cả tâm, làm sao dùng tất cả
pháp.] Do đây có thể thấy, tất cả kinh điển gồm ba tạng mười hai
bộ, đều giảng kể lại một tâm niệm của chúng sanh, nếu không tâm
của chúng sanh, Phật cũng không có pháp để nói. “Kinh Kim Cang” nói:
[Nếu người nói, Như Lai có nói pháp, tức là chê bai Phật, không thể
giải thích ta có nói pháp.] tức là nghĩa đây vậy.
Đầu tiên
Phật giảng lý tục đế của pháp thế gian, tức là sáu đường, thiên
đường, địa ngục, người, súc sanh vân vân. Loại chúng sanh đây, tức
có chánh báo của năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tất nhiên
nương y báo của áo mặc, cơm ăn, nhà ở, sinh hoạt mới có thể sanh
tồn. Chánh báo là do nghiệp của quá khứ, chiêu cảm tâm thân của
đời nay, y báo là tất cả sự vật trong thế gian làm chỗ nương tựa
của thân và tâm. Đời trước làm rất nhiều việc thiện, đời nay liền
cảm thọ hai báo là chánh báo và y báo rất tốt; đời trước tạo rất
nhiều việc ác, đời nay liền cảm thọ hai báo là chánh báo và y báo
rất xấu ác. Do đây các pháp thế gian, tuy có ngàn vạn sai biệt, quy
nạp mà nói, không ra ngoài phước huệ, thiện ác, nhân quả và báo
ứng. Do đây, chúng ta muốn tưởng đến an lạc giàu có tôn vinh, chính
cần phải tu tập bồi đắp cho nhiều phước đức, trồng rộng thiện căn.
Cổ đức nói: [Trồng cây cần phải bồi đắp gốc cây, trồng đức cần
phải bồi đấp cái tâm.] Muốn cầu giống phước tất nhiên cần phải
theo tâm của nó. Người tôi có khi sanh khởi tâm niệm ác làm tổn
người lợi mình, nhất thiết phải khiến tâm niệm đó cấp tốc mau tiêu
diệt, chỉ cần khi tâm sanh khởi hiếu để trung tín và lợi người lợi
vật, lại thêm khi thường bảo trì, đều nên dùng [không vì thân mình
cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ] là hoài bảo trọn
đời. Chỗ nói: [Người chưa đoạn ác nay đoạn ác, người đã đoạn ác nay
không cho sanh khởi, người chưa sanh thiện nay sanh thiện, người đã sanh
thiện nay tăng trưởng.]
Ngoài
đây, như người đặc biệt có khởi lên tranh chấp, chúng ta tận khả
năng khéo khuyên khiến họ chấm dứt tranh chấp, hoặc gặp người tạo
ác nghiệp, nên dùng nhiều phương diện khuyên can, rộng hơn mở bày
thuyết pháp, khiến họ bỏ ác theo thiện. Đối với người có nói lợi
ích, không cần nói nhiều, ngược lại tất nhiên cần phải nổ lực tự
hạn chế. Chúng ta cần thực hành những việc tốt, thí dụ như phò nguy
giúp người, tạo phước cho xã hội, hoặc lễ Phật bái sám, tham thiền
tụng kinh, đều cần dũng cảm tiến tới, để đạt công đức viên mãn.
Phải biết
thân, niệng, ý là đầu mối của con người lên thiên đường cùng xuống
địa ngục, ba chỗ đây nếu như tu phước thiện lương, lại đặng
thiện
báo; ba chỗ đây nếu tạo các thứ tội ác, lại thọ ác báo; phải
biết quả báo thiện ác, các đức Phật các Bồ Tát cũng chẳng có thể
thay đổi dễ dàng. Nhân đây chúng ta chỗ tạo tác chỗ hành động, cần
phải suy nghĩ ba lần rồi sau mới thực hành. Phật gia chỗ nói: [Giữ
miệng, nhiếp ý, tu thân chẳng cho phạm, như là hành giả được độ
đời.] Đây là đạo lý của thiên kinh địa nghĩa.
Một cá
nhân thiếu phước cố nhiên có thể bi thảm, còn có phước mà không
có huệ chính là si phước, người si phước dễ tạo nghiệp ác, như có
tiền tài không cẩn thận vận dụng, hoặc có nhân tài không được chi
phối, đây đều là do không huệ gây ra. Nhân đó chúng ta sau khi có
phước, cần phải tu trí huệ. Đạo tu trí huệ cốt yếu phải xem và nghe
nhiều kinh Phật, theo văn tư tu, tự ngã thể chứng. Chỗ gọi: [thâm
nhập kinh tạng, trí huệ như biển.] Người có phước như người có chân,
người có huệ như người có mắt. Giả như người có chân mà không có
mắt liền bị rớt xuống hố, người có mắt mà không có chân, thì bước
một bước khó thực hiện, cho nên cả hai điều trên không thể thiếu
một.
Lý tục
đế của pháp thế gian, không thể vượt ra khỏi phạm vi của các pháp
thiện ác, mà các pháp thiện ác lại nương nơi thân, miệng, ý làm
căn bản. Nếu trở lại một lần nữa để nói thiện ác các pháp lại
không thể ly khai một tâm niệm của chúng ta, nhân vì một tâm niệm
của chúng ta muốn thiện, thì tất cả tạo tác đều biến thành thiện,
một tâm niệm đây muốn ác, thì tất cả hành động đều biến thành ác,
trừ ngoài tâm đây, lại không có một pháp nào có thể thay thế tạo
thành nhân tố của các pháp thiên ác. Do đó, các pháp thiện ác
muốn sanh khởi, tất nhiên phải mượn một tâm niệm của người tôi làm
chỗ nương tựa cho chúng nó.
Vã như
trở lại đi sâu một tầng nữa để nghiên cứu, một tâm niệm đây đã
có thiện ác dẫn đến, thì một tâm niệm đây là bản thể của thiện
ác. Chẳng qua một tâm niệm đây cứu cánh là thuộc nơi thiện nào?
Hoặc thuộc nơi ác nào? Giả như nó thuộc nơi thiện, thì không thể
thuộc nơi ác; như thuộc nơi ác, thì không thể trở lại thuộc nơi
thiện,
nhân vì
hai tánh thiện ác trái ngược nhau, một tâm đâu có thể phân định làm
hai được?
Lại nữa
Phật nói, tâm đây không phải lớn nhỏ vuông tròn, cũng không phải
xanh vàng đỏ trắng, không phải sắc không phải không, không phải
pháp nhân quả, đã nói cái tâm tất cả đều không phải, sao lại có
thể nói nó là nguồn gốc của thiện ác? Kỳ thật, tâm đây không chỉ
không phải là nguồn gốc của thiện ác, mà lại cần tìm cầu nguồn
gốc của tâm, cũng là hoàn toàn không thể được, nhân vì tâm chưa
khởi, muốn khởi, đang khởi, đã khởi đều là sát na sanh diệt, tìm tâm
trên còn không thể được, thử hỏi các pháp thiện ác từ đâu sanh ra?
“Kinh Lăng
Nghiêm” nói: [Do tâm sanh nên, các thứ pháp sanh, do pháp sanh nên,
các thứ tâm sanh.] Ý nói cái tâm xưa nay vốn không sanh, nhân vì có
cảnh, các cảnh xưa nay cũng không, nhân vì tâm sanh. Hai câu nói
trước, tâm sanh nên pháp sanh, là nói pháp không tự tánh, chính từ
nơi sanh khởi. Hai câu sau nói, pháp sanh nên tâm sanh, là nói tâm
không tự sanh, chính do pháp mà hiển, nói cho rõ tâm vốn không sanh,
pháp cũng không có, hai thứ tâm cảnh, vốn không tự tánh, xét đến
cùng đều là không trong trạng thái vắng lặng. Có như nhãn căn nhân
nơi sắc có thấy, nhĩ căn nhân nơi tiếng có nghe, giả như không có
các pháp sắc và tiếng, thì cái thấy và nghe của tâm cũng không thể
sanh khởi tác dụng, cho là tâm và cảnh cướp đoạt lẫn nhau, tự có
sanh diệt, lúc có lúc không, biến hóa vô thường. Nhưng nơi trong sanh
diệt đây, có một tánh không sanh diệt, đó là trạm nhiên (Trạm
nhiên là thể tánh trong sáng) thường trụ. Chỗ gọi là: [Trong nhục
thân đây có diệu pháp thân, thể tánh của nó sáng suốt kỳ diệu
thấu suốt, soi sáng cổ xưa bay cao đời nay, một khi cổ xưa không biến,
vĩnh cửu thường hằng.] Ngoại cảnh có mà không có theo nó, ngoại
cảnh không mà cũng không theo nó, có trong không cũng giống như gương
sáng to lớn treo cao, người đến thì người hiện, vật đến thì vật hiện,
nhưng bản thể của gương thì không bị vật tượng làm nhiễm ô. Thấy nghe
hiểu biết của chúng ta, lại cũng như thế, cảnh hiện thì biết có,
cảnh lìa thì biết không, nhưng tánh thấy nghe của bản thân thì
không
thuộc nơi có không. Do đây có thể biết, phàm có sanh diệt đến đi,
nghiệm biết không phải là thường trụ, phàm không theo có không biến
hóa, thì cắt đứt định kỳ cho là thường trụ.
“Kinh Lăng
Nghiêm” quyển hai, Vua Ba Tư Nặc hỏi Phật về sanh diệt: [Phật nói Đại
Vương, mặt của Đại Vương tuy nhăn, tánh thấy trong sáng của Đại Vương
chưa từng nhăn, người nhăn là biến, không nhăn không phải không
biến, biến đây là bị sanh diệt, người kia không biến, đầu tiên không
sanh diệt, tại sao nơi trong đây, nhà ngươi bị sanh tử.] Mặt nhăn là
nói, do từ nhỏ đến tráng niên, do tráng niên đến già, biến hóa
không ngừng. Người kia không biến, là chỉ cho tánh thấy nghe, không
chỉ ba năm không biến, cho đến tuổi già cũng chưa từng biến. Do đây
kiểm nghiệm biết, trước kia cha mẹ chưa sanh, cho đến sau khi thân này
hoại diệt, bản tánh cũng chưa từng diệt, vạn cổ thường còn. Người
đời nếu có thể oán trách ban đầu khổ tu, nếu trải qua năm tháng,
bổng nhiên thấy được tánh đây, thì gọi là [minh tâm kiến tánh]. Minh
tâm là sau khi thấy tánh, thì đối với tất cả chân lý của vũ trụ
nhân sanh, không chỗ nào là không biết, không chỗ nào là không
hiểu, đối với người nói pháp cũng không dụng tâm ý thức, có giống
như gương sáng chiếu khắp vạn vật, thể của nó bất động. Đến lúc
này, không phải chỉ lìa khỏi vọng trần, chính là giả danh của chân
như Phật tánh cũng không thể được, nhân vì hóa độ chúng sanh, mới
nói chân nói vọng, bệnh vọng nếu trừ, chân cũng không lập.
“Kinh Lăng
Nghiêm” nói: [Nói vọng hiển bày các chân, vọng chân cả hai giống
nhau đều vọng.] Như người nằm mộng thấy nghe các thứ, khi tỉnh giấc
tất cả không một vật. Thiền sư Pháp Dung nói: [Nếu thân tâm vốn
không, Phật pháp cũng vốn không, tất cả pháp cũng vốn không, vốn
không cũng vốn không. Nếu biết vốn không cũng giả danh, giả danh là
đạo Phật. Đạo Phật không phải trời sanh, cũng không từ đất sanh,
chân thật là tánh không của tâm, chiếu soi khắp thế gian như mặt
trời.] Có thể thấy, Phật thuyết các pháp, đều là pháp dược để đối
trị tâm bệnh, tâm bệnh được giải trừ, pháp dược hoàn toàn cũng
không dùng.
Lý chân
đế của pháp xuất thế gian, lại không lìa một tâm niệm đây. Trước
đã nói, thân nương thế giới mà lập, thân nương nơi tâm mà tồn tại,
vậy tâm lại nương chỗ nào mà lập? Tâm nương nơi vọng tưởng mà trụ,
nếu không vọng tưởng điên đảo, tức tâm không thể giác ngộ, cũng
không tướng của chỗ giác, năng và sở cả hai đều mất, chỉ còn bản
giác. Bản giác cũng đối với thỉ giác mà lập, nếu không thỉ giác,
tên bản giác cũng không thể lập, không danh không tướng, chỉ còn
năng lực của cái tên Đại Viên Cảnh Trí. Chân tâm bản giác, nguyên
không có thân tâm và thế giới, nhân vì có chánh báo của thân thể,
mới có y báo của thế giới, mà chân tâm đây vô thỉ vô chung, kẻ
thọ nhận sanh diệt tức là vọng tâm, kẻ không thọ nhận sanh diệt
tức là chân tâm. Vọng tâm là như thế nào, vọng tâm đối với cảnh
mà sanh, nếu lìa cảnh liền giống như lông rùa sừng thỏ. Chân tâm lìa
cảnh chính tồn tại độc lập,. “Kinh Kim Cang” nói: [Ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm. (Cần phải không có chỗ trụ tâm này mới sanh)] tức là
lìa cảnh mới có thể tâm sanh. Cổ Đức nói: [Không cùng vạn pháp làm
bạn hữu.] tức là lìa cảnh, riêng có chân tâm.
Phàm phu
hoàn toàn bị trói buộc, vạn kiếp không thể lìa cảnh riêng có tâm
sanh, giả sử thật có thể lìa cảnh tâm sanh, đó tức là chân tâm,
siêu phàm nhập thánh, tuy nhiên như thế, nếu lìa ngoài vọng tâm,
riêng thấy chân tâm, khác nào mài gạch ngói làm kiếng, nấu cát
thành cơm, vĩnh viễn không có chỗ. Cho nên người minh tâm thấy tánh,
không cần lìa ngoài vọng tâm để riêng tìm cầu chân tâm. Nếu ngộ thì
toàn vọng tức chân, nếu mê thì toàn chân thành vọng, chân vọng
không một không hai, như mặt trăng thứ hai, không phải là ảnh mặt
trăng. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, lầm nhận tâm thức là
chân tâm, đây mới là người có thể thương hại.
Dùng pháp
xuất thế để nói, vật tức không phải tâm, tâm tức không phải vật,
hai đây nếu không mê hoặc, tức là kẻ giác ngộ. Như mắt tôi thấy
sơn hà đại địa, tất cả vạn tượng, có thể chỉ ra các thứ danh xưng,
đều là ảnh tượng của tiền trần, không phải bản tánh của cái thấy.
Lúc này phải hồi quang phản chiếu, truy tầm như thế nào nguồn gốc
cái thấy của tôi thấy, nơi trong cái thấ
ượng sự
vật, trong sáng thường chiếu, mới là chân thấy của người tôi. Tánh
thấy như thế, tánh nghe cũng thế, như người tôi ngồi tĩnh tọa trong
nhà, bên ngoài có nào tiếng phi cơ, tiếng xe hỏa, tiếng rống của con
bò, tiếng ngựa hí, tiếng con trai gọi, tiếng con gái trả lời, tiếng
nhi đồng cười giởn, tiếng cười hổn tạp vang lên vân vân, nghe rành
mạch rõ ràng, những tiếng vừa kể trên, đều là vật ngoài tâm, nên
quay đầu hỏi lại, trừ các tiếng ngoài kia, cứu cánh tánh nghe của
tôi là cái gì? Chỗ không rõ ràng, lại nên nổ lực, như mèo bắt
chuột, đi sâu vào tìm tòi, đi đứng ngồi nằm, mang y khất thực, đàm
luận tịnh mặc, lớn nhỏ tiện lợi, phàm tất cả đây, tâm tham cứu tinh
tế, luôn luôn không gián đoạn, dùng an trụ đây dài lâu, tự mình có
ngày gặp thời cơ chín muồi, bổng nhiên đại ngộ, đại địa không tất
đất, toàn đại địa nguyên là của chính mình, liền thấy lý thể của
pháp thân. Chứng đắc thanh tịnh pháp thân, đầy đủ vô lượng thần
thông diệu dụng.
“Kinh Lăng
Nghiêm” nói: [Một trong nơi đây là vô lượng, vô lượng là một, hiện
lớn trong nhỏ, hiện nhỏ trong lớn, đạo tràng bất động, biến khắp
mười phương giới, thân hàm chứa vô lượng hư không trong mười phương,
nơi một đầu sợi lông hiện chùa Bảo Vương, ngồi trong vi trần chuyển
bánh xe pháp to lớn.] Do đây có thể biết, diệu dụng của tâm, không
thể nghĩ bàn, phàm phu chúng sanh, không thể tưởng tượng, đây tức là
chân tướng của Phật pháp xuất thế.
Người đời
không rõ lý của Phật, cho là Phật giáo hoàn toàn xuất thế, lìa bụi
trần dứt thế tục, so cùng đời không ăn khớp. Tôi là người Hán thế
tục, đã không xuất gia, lại không tu đạo, sao nhất định phải học tập
Phật pháp, ông chính không biết, Phật nói chân lý của xuất thế,
nhưng cũng nói tục đế của thế gian. Như người tôi, đi đứng ngồi nằm,
mang y xin cơm, hôn phối giá thú, cha từ con hiếu, giao tế kinh tài,
vệ sinh bảo vệ sức khỏe, sĩ nông công thương, y dược xem tướng, bao la
vạn hữu, không chỗ nào không nói đến. Nhân đây xin khuyên người
đời, phàm làm người, cần yếu học Phật, nó không những có thể
khiến con người tràn đầy học vấn cùng đạo đức, bao gồm gợi ý tư
tưởng
nhân loại cùng khảo nghiệm, đều không phải nhất thiết người xuất
gia, mà gồm tất cả những người mới vào cửa Phật.
Phải biết
tục đế của pháp thế gian, là dùng ngũ giới thập thiện làm cơ sở
của nhân thiên. Chân đế của pháp xuất thế gian, là dùng tứ đế,
thập nhị nhân duyên cùng lục độ vạn hạnh làm bậc thang tu đạo thành
Phật. Nếu dùng Phật pháp nhất thừa tối thượng để nói, là phiền
não tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn, không có hoặc để đoạn, không
có đạo để chứng, thế pháp tức xuất thế pháp, xuất thế pháp tức
thế pháp, lìa pháp thế gian không có Phật pháp, lìa Phật pháp không
có thế gian pháp. Lục Tổ nói: [Phật pháp tại thế gian, không lìa
thế gian để giác ngộ, lìa thế gian tìm bồ đề, thích hợp như tìm cầu
sừng thỏ.]
Giả như
người đời chân chánh ngộ đặng lý pháp vô sanh, [Tre xanh tận cùng
là pháp thân, hoa vàng xanh tươi đều là bát nhã] Cảnh giới đến đây,
lại ở chỗ nào phân chia pháp thế gian và pháp xuất thế gian.?
8.- Vũ
Trụ Vạn Hữu Từ Đâu Đến.-
Ngày nay
khoa học tiến bộ mặc dù một ngày đi ngàn dặm, nhưng đối với vũ trụ
và nhân sanh đã có những câu đối lâu đời để lại.
Căn cứ
truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc: vũ trụ trước khi chưa khai mở
rộng lớn, thế giới hổn độn một hình tròn, Họ Bàn Cổ là người đầu
tiên xuất thế, đầu lớn như núi, tay cầm cái rìu, đem vũ trụ chẻ ra
làm hai, phân thành trời đất.
Ngũ Vận
Lịch Sử Niên Ký nói: [Nguyên khí Hồng Mông, manh nha bắt đầu nẩy
mầm, liền sanh ra trời đất, Họ Bàn Cổ chính là thủy tổ của trời
đất vạn vật.]
Tục Điển
có thuyết, con người do nguyên khí sanh, tức là tự sanh. Có thuyết, do
cha mẹ sanh, tức là người khác sanh. Có thuyết nguyên khí mượn cha mẹ
sanh, tức là cộng sanh. Có thuyết tự nhiên sanh, tức là không nhân
tự sanh.
Đạo Gia
nói, vô cực sanh thái cực, thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh
tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái sanh vạn vật. Lão Tử
“Đạo Đức Kinh” nói: [Vô danh, là đầu tiên của trời đất; hữu danh là
mẹ của vạn vât.]
Tranh Tử
nhận cho là, con người do khí sanh, con người chết hoàn trở lại nơi
khí, thấy sanh như chuyển đi, thấy chết như trơ ûvề. Do đó vợ chết
không thương tâm, lại còn vổ bồn mà ca. “Thượng Thư” nói: [Hồn bay
lên trời, Phách trở về nơi đất.] Nho ĐạoTrung Quốc, đều cho không là
nơi có thể sanh khí, dùng khí để tạo thành hình, là lý do sản sanh vũ
trụ và nhân sanh.
Ấn Độ có
96 phái ngoại đạo, nhận xét đối với vũ trụ và nhân loại, tất cả
mỗi người một ý khiến khác nhau. Có vị chủ trương trong nhân có quả,
trong nhân không quả; có vị chủ trương cũng có quả cũng không quả;
hoặc không phải có quả, không phải không quả. Như sáu phái ngoại
đạo hành trì, phái tự ăn than lửa, phái tự đi trên lửa, phái lỏa
thể, phái nằm trên gai, phái trì giới gà, phái trì giới bò vân vân,
đều là độ chừng không phải nhân đương nhiên cho là nhân, độ chừng
không phải quả đương nhiên cho là quả. Lại có ngoại đạo tùy tiện
chủ trương mới sanh, sanh từ cái không, sanh từ gió, sanh từ vi trần,
sanh từ ngũ đại , sanh từ Thần Ngã, sanh từ Tự Tại Thiên và sanh từ
Đại Phạm Thiên, Bà La Môn sanh bằng miệng, Sát Đế Lợi sanh bằng
cánh tay, Tỳ Xá sanh bằng sườn, Thủ Đà La sanh bằng bàn chân; lại
có chủ trương Tự Nhiên sanh vân vân, tất cả đều bất nhất.
Cổ Đại Ai
Cập Thần Thoại nói: vũ trụ là một cái hộp hình vuông lớn, tất cả
tinh cầu, tất cả sanh mạng đều ở trong hộp vuông, tự nhiên xuất
hiện. Tông giáo tây phương có xưng là Thượng Đế có quyền năng sáng
tạo vũ trụ vạn hữu. Như Cựu Ước Sáng Thế Ký nói: [Thượng Đế
dùng đất
bụi trần trên địa cầu, tạo con người, đem sinh khí thổi vào trong lổ
mủi của nó, nó liền thành con người linh hoạt.] và [Thượng Đế tạo
hai ánh sáng lớn (mặt trời mặt trăng), qua ống nét lớn ban ngày,
ống nhỏ ban đêm. Lại tạo chúng tinh cầu.]
Dùng trí
huệ quán sát của Phật đà, sanh mạng của vũ trụ và con người chúng
ta, đều do tâm thức của chính mình sáng tạo thành hình, không phải
riêng tâm thức nhân loại và thế giới sáng tạo, mà cả đến chúng
sanh sáu đường và pháp giới bốn thánh, tất cả đều do tâm thức sáng
tạo mà có. Nếu tâm tạo tác ngũ nghịch thập ác, ba đường ác lại
theo đó mà xuất hiện. Nếu tâm trì ngũ giới thập thiện, ba đường
thiện cũng lại theo đó mà xuất hiện như ảnh theo hình. Ba đường thiện
và ba đường ác, là thuộc Phàm Thánh Đồng Cư Độ; nếu tu tứ đế, thập
nhị nhân duyên, liền xuất hiện Phương Tiện Hữu Dư Độ; nếu tu từ bi
hỷ xả, tứ vô lượng tâm, liền xuất hiện Thật Báo Trang Nghiêm Độ;
nếu tu lục độ vạn hạnh, đạt đến ba giác ngộ ( Ba giác ngộ là Đẳng
Giác, Diệu Giác, Viên Mãn Giác Ngộ) viên mãn, liền xuất hiện
Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Có học giả nước ngoài hỏi: [Tìm cầu chân
lý, không phải khách du lịch chỗ xa, do tự mình đào lên từ dưới
chân, chỗ đây chính có nguồn suối chân lý.] Dùng Phật pháp mà nói,
tâm đây tức là nguồn suối của sanh mạng và vũ trụ.
Người tôi
trọn ngày mang y khất thực, làm việc ngủ thức, chỗ tâm sử dụng,
đều là tâm vạn năng. Tâm vạn năng như thế nào mà chúng sanh suốt
ngày say rượu trong mộng tử, tìm vui trong khổ mộng, một điểm mộng
mình không biết, nhân vì nó chưa tỉnh ngộ, do oan uổng tạo nghiệp, rồi
oan uổng thọ khổ.
Tông
Thiên Thai có nói: một tâm niệm đầy đủ ba ngàn các pháp, đây chính
là từ “Kinh Pháp Hoa”, Mười Như Thị, Phẩm Phương Tiện nói đến. Mười Như
Thị tức là, (1)Như Thị Tướng, là tướng dùng làm bằng chứng bên
ngoài. (2) Như Thị Tánh, là tánh dùng làm bằng chứng bên trong. (3)
Như Thị Thể, thể là dùng làm chủ bản chất. (4) Như Thị Lực, lực là
dùng công năng. (5) Như Thị Tác, tác là dùng chuyển động. (6) Như Thị
Nhân, nhân là dùng nội kết đời trước. (7) Như Thị Duyên,
duyên là
dùng trợ giúp phân tán. (8) Như Thị Quả, quả là dùng nội kết tạo
thành. (9) Như Thị Báo, báo là chấp nhận báo thù. (10) Như Thị Bổn
Mạt, bổn mạt là cứu cánh vân vân, dùng chín mục trên là như thị,
là đều cứu cánh bình đẳng. Mười như thị đây đều không lìa khỏi tánh
đầy đủ nguyên lý của nhất tâm tam quán, Không, Giả, Trung.
Ba ngàn
các pháp đây, tức là một tâm niệm đầy đủ mười pháp giới, mười
pháp giới trao đổi lẫn nhau liền thành một trăm pháp giới, mỗi giới
có thế giới năm ấm (Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thế
giới chúng sanh, thế giới quốc độ, thành ba trăm thế giới, mỗi giới
có mười như thị, thì thành ba ngàn thế giới, tâm có giới tuyến như
thế, tức đầy đủ ba ngàn các pháp, không phải là nhất tâm tại
tiền, tất cả pháp tại hậu, cũng không phải là tất cả pháp tại
tiền, nhất tâm tại hậu. Đã không phải tâm có thể sanh ba ngàn,
cũng không phải có thể bao hàm cả ba ngàn. Tức tâm là tất cả
pháp, tức tất cả pháp là tâm. Tâm sanh thì tất cả pháp sanh, tâm
diệt thì tất cả pháp diệt, hai tâm và pháp như thế, không thể mở
bày phân chia.
Cho nên
yếu nhân của Tông Thiên Thai sử dụng tâm bất tư nghì (Tâm không thể
nghĩ bàn), quán sát cảnh bất tư nghì, quán một tâm niệm là không,
thì ba ngàn các pháp đều không; quán một niệm là giả, thì ba ngàn
các pháp đều giả; quán một niệm là trung đạo, thì ba ngàn các pháp
đều trung đạo. Một tâm niệm tức là không, tức là giả, tức là trung
đạo. Thì ba ngàn các pháp cũng tức là không, cũng tức là giả, cũng
tức là trung đạo. Tâm pháp không phải một, không phải ba, ba và một
bất khả tư nghì.
Từ phương
diện [Giả] mà phân tích, một tâm niệm khởi lên liền có ba thứ giả.
(1) Pháp trần đối với ý căn sanh khởi tất cả pháp, tức là nhân
thành giả. (2) Niệm trước diệt niệm sau sanh, thứ lớp không gián
đoạn, tức tương tục giả. (3) Dùng tâm tương đối không phải tâm, biết
có tâm đây, tức là tương đối giả. Dùng thân thể chánh báo xem thấy
có ba giả. (1) Đời trước hành nghiệp, gá sanh nơi cha mẹ, tức là
nhân thành giả. (2) Từ nơi thai tương tục, cuối cùng già yếu, tức là
tương tục giả. (3) Dùng thân tương đối không phải thân, tức là tương
đãi giả.
Dùng thế
giới y báo, xem thấy có ba giả. (1) Bốn vi trần thành cột trụ, tức
là nhân thành giả. (2) Thời tiết cải biến, tức là tương tục giả.
(3) Dùng cột trụ đối đãi không phải cột trụ, tức là tương đãi giả.
Thân tâm
thế giới đã có ba giả, giả tức là không, không tức là giả, không
giả không hai, là gọi trung đạo, Phật giáo thì dùng quán sát vũ trụ
và sanh mạng đây tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Người
quán sát như thế, thì gọi chánh quán, nếu người quán sát khác hơn,
đó là tà quán.
Cổ Đức
có nói: [ Nếu người biết được tâm, đại địa không tất đất, ba cõi
không pháp riêng biệt, chỉ là một tâm tác dụng.] Đây là Phật giáo
giải thích sự hình thành của vũ trụ vạn hữu.
III.- QUÁN
TỪ BI CỦA PHẬT GIÁO.-
1.- Chân
Nghĩa Của Hộ Sanh.
Phật giáo
dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thật hành phóng
sanh. Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não.
Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng
từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu
bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài
thân, để cầu được sanh tồn riêng mình. Con người đã tham sống sợ
chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến
mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động
vật khác chúng nó sao lại không như thế?
Phải biết
con người cùng vạn vật, phải vì sanh tồn không nên hại nhau. Con
người phàm có huyết khí, đều có tri giác, đã có tri giác thì có sanh
mạng, nhân đây, khoảng cách người và vật, tuy phân chia tri giác có
cao thấp, nhưng tâm của chúng ham sống sợ chết thì giống như con
người. Do đó, mình kiểm tra và tìm hiểu thêm sanh vật khác nó, giả
sử người tôi bị giặc bức hại, khó biết thoát chết, tâm trạng cảm
thọ như thế nào? Sao không đau đớn! Lại nữa đương lúc này, tôi vốn
phải chết vì chúng chuẩn bị giết tôi, bổng nhiên trong đó có một
người giặc ra lệnh thả tôi ngay lập tức, lúc đó tâm tôi có nên vui
mừng không? Dự đoán người giặc thế nào cũng trở lại, đúng thế,
người bạn của tôi ra ngăn chận chúng nó không cho giết tôi, cho nên
tôi được
thoát
chết, như thế tâm trạng tôi có nên hận thù không? Không cần trả thù,
vì các động vật như, con cá, tôm tép, con ốc, loài trai sò, rùa, ba
ba vân vân, so cùng con người không giống nhau, vì chúng nó bị con
người nào bắt để trên mâm, dùng dao xẻ thịt, nào bỏ chúng vào nồi
nấu sống rồi sau đó đem chúng ra lấy búa đánh đập cho bể võ lấy
thịt để ăn; khi chúng nó nằm trong lò sát sanh, tôi liền tự nghĩ
thân nầy của mình và quyến thuộc bạn bè của mình, trong khoảnh khắc
thọ nạn hình dung giống như những động vật nói trên chết trong đau
khổ, tuy có miệng mà không có lời, như thế tình huống thống khổ xem
thấy hồn phi phách tán của chúng nó, so cùng các thứ cảnh tượng
gặp giặc của tôi, đương nhiên không khác.
Có nghĩa
là trời sanh động, chuyên làm lương thực cung cấp cho con người, không
biết thứ quan niệm đây, hoàn toàn phát ra nơi riêng tư của mình. Như
ở trong nhân loại, cũng có chủng tộc, quốc gia, gia đình, tông thân
cho đến bằng hữu thân thiết vân vân phân biệt phân tán sâu xa. Mỗi
khi gặp đại nạn phủ lên đầu, còn tự biết chạy xa bay cao, không
rảnh ngoảnh lại xem sự sống chết của người khác, hà huống động vật
thuộc đẳng cấp thấp không đồng so với loài người phải không? Do đây
nói chung, đại đa số nhân loại đều không rõ lý vô ngã, có tâm
riêng tư nên không so sánh mạnh yếu. Đã có mạng sống đều muốn bổ
dưỡng, ăn thịt kẻ khác dùng để bồi dưỡng thân mình, nhưng biết bồi
dưỡng, không ngoảnh lại xem chúng bị giết hại tàn nhẫn, lẽ tất
nhiên giết hại sanh linh, dựa vào lực lượng của người khác, dùng để
lấn át kẻ nhỏ yếu, ăn thịt kẻ nhỏ yếu, như chim lớn ăn thịt chim
nhỏ, thú lớn ăn thịt thú nhỏ, cá lớn ăn thịt cá nhỏ và trùng lớn
ăn thịt trùng nhỏ. Lang sói hổ beo dùng sức mạnh ăn thịt người,
người dùng sức mạnh ăn thịt lang sói hổ beo; mùa hè ban ngày rắn ăn
thịt chuột già, mùa đông, ban ngày, chuột già ăn thịt rắn. Kia đây
ăn nuốt lẫn nhau, cứu cánh ai cam tâm để cho đối phương ăn nuốt? Con
người ăn thịt, cho là thói quen thường dùng, không biết không có
tội, trái lại còn cho là đúng. Mạnh Tử cũng có nói: [Thấy nó sống
không nhẫn, thấy nó chết, nghe tiếng nó không nhẫn ăn thịt nó.]
Xưa vua
Thành Thang ở nước Thương đi du ngoạn gặp một thợ săn, thợ săn nầy
bố trí bốn mặt lưới và nói với vua: [ Bệ hạ đi từ lên trời, từ
xuống đất, từ bốn phương, đều gặp lưới của tôi.] Vua Thang bảo bố
trí ba mặt, để lại một mặt; thợ săn thay đổi nói: [Bệ hạ muốn bên
phải thì bên phải, muốn bên trái thì bên trái, muốn trên thì trên,
muốn dưới thì dưới, không dùng mạng sống, chính vào cửa nào cũng
đều bị lưới của tôi.]
Lại nữa,
vào thời Xuân Thu, nước Trịnh có người đem cá tặng cho đại phu Tư
Sản, Tư Sản không ăn, khiến đầy tớ thả cá lại trong ao. Do đây quán
thấy, thực hành giới sát phóng sanh, không phải có riêng nơi Phật
giáo, quân tử Nho sĩ cũng có thực hành. Hơn nữa gần đây mới vận
động bảo hộ động vật, đã được lan truyền đến toàn cầu, lại được
chánh phủ chống đỡ, khiến cho sanh vật tránh khỏi tuyệt chủng, quan
trọng là cơ hội được sanh tồn.
Trong Tam
Tụ Giới ( Tụ nghĩa là nhóm, Tam Tụ Giới nghĩa là ba nhóm giới cấm,
gồm có Nhiếp Luật Nghi Giới, nghĩa là những điều răn đều thâu nhiếp
vào luật nghi; Nhiếp Thiện Pháp Giới, nghĩa là những điều răn đều
thâu nhiếp vào pháp lành; Nhiêu Ích Hữu Tình Giới, nghĩa là những
điều răn đều thâu nhiếp vào chúng sanh.) Giới cuối là dùng Nhiêu
Ích Hữu Tình Giới làm nhiệm vụ trọng yếu, cho đến nhìn tôi dạy bốn
chúng đệ tử (Bốn chúng đệ tử: Tỳ kheo, tỳ kheo ni; sa di, sa di ni)
nơi ngoài cực lực đề xướng giới sát phóng sanh, cũng cần yếu nhìn
lại công tác hộ sanh của thế giới, đem phối hợp thời đại tiến bộ,
không luận dưới nước, trên đất, trên phi cơ, chỉ cần yếu là năng
lực phổ cập, không ai không cứu khổ, đều cho đây là bồi dưỡng tâm
từ bi và cũng cho đây là chánh đạo.
2.- Giới
Sát Cùng Phóng Sanh.
Năm gần
đây, bến tàu nơi chỗ tôi phát sanh trộm cắp cướp giật, người ta đã
nhận cho là đại ác của xã hội, vẫn chưa chú ý đến sát sanh lại là
đại ác trong đại ác. Đạo tặc chỗ cần yếu của chúng là vàng bạc
châu báu, đấy chỉ là tài vật ngoài thân của con người, cho
nên dễ
bỏ, nhưng tánh mạng nhục thể lại có ai có thể bỏ được? Thí dụ như
thời Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, chỉ ở một chỗ Đông Kinh, nơi đó
giết chết đồng bào số mười vạn, đây là hành động tàn khốc phi
thường. Còn riêng tại Hương Cảng, nội trong một ngày, chỗ sát sanh
vật có thể ước lượng chỉ số mười vạn? Người ta vẫn thấy cho là lý
đương nhiên, không có suy nghĩ hậu quả. Phải biết: [Muốn trên đời
kiếp đao binh như thế nào, chỉ tiếng kêu hét nửa đêm của lò sát
sanh.]
Giới sát
cùng phóng sanh không chỉ Phật giáo đề xướng, tức thánh hiền cổ xưa
của nước ta không ai không chủ trương. Như Mạnh Tử nói: [Thấy người sống
không nhẫn tâm thấy người chết, nghe tiếng người không nhẫn tâm ăn
thịt người.] Nhan Lổ Công lập ao phóng sanh gồm 81 chỗ. Ông có nói:
[Ngày sống là đức lớn, ] Lại nói: [Trên trời có đức hiếu sanh.]
Phàm cõi này con người cần tránh giới sát và phóng sanh.
Lại nữa
giải thích thêm, trong động vật, lang sói hổ báo chỉ ăn thịt bầy thú,
chim ưng chim chiên cũng thuộc loài thú chỉ ăn thịt bầy chim, cá mập
rái chó thì ăn thịt cá tôm, chỉ con người là động vật tối linh mạnh
hơn các vạn vật, nhưng tại sao lại ăn thịt những kẻ yếu? Không luận
các động vật sống dưới nước trên đất liền bay trên không, miễn là
mục đích ưa thích có lợi cho ăn mặc, không ai không sử dụng các thứ
phương pháp đem lại lợi ích cho mìnnh, thích sống chỗ chỉ biết xâu xé
lẫn nhau, thử tưởng tượng đây là những sự việc đa số tàn nhẫn! Cổ
Đức nói: [Thịt của ta và thịt của chúng sanh, tên khác nhưng thể không
khác, nguồn cội đồng một chủng tánh, chỉ khác biệt là hình tướng.]
Thân thể của ta là do da thịt gân xương kết thành, còn thân thể của
chúng nó sao lại không phải là do da thịt gân xương tạo thành, ta đã
ham sống sợ chết, chúng nó đâu có thể xem sự chết như sự trở về?
Chúng ta nơi lò sát sanh từ sớm đến tối luôn luôn truyền đến tiếng
kêu cứu của heo bò, lúc đó con người nghe đến thật khiến bất nhẫn,
đây cũng là người bị phạm giới sát rồi sẽ bị lôi kéo vào sân hình
phạt vang lên cao tiếng kêu cầu cứu cũng giống như tiếng kêu cầu
cứu của súc vật không khác?
Sách
chuyên chở, thuở trước có tiên nhân tên là Hứa Chân Quân, lúc
tuổi trẻ thích đi săn bắn, có một ngày bắn được hai nai con, nai già
thấy nai con bị thợ săn bắn trúng thương nơi bụng, lập tức nơi trong
đồng nội chạy ra, dùng miệng kêu thương, vì hai nai con bị thương quá
nặng nên bị chết, không thấy được nai con, nai già cũng chết theo,
Hứa Chân Quân thấy rất kỳ quái, nai già chưa từng bị thương, mà sao
lại cũng chết theo? Lúc đó đem nai già cắt da bụng mở ra để xem,
ruột trong bụng của con nai già đứt từng đoạn từng đoạn, lúc đó mới
biết đạo nghĩa của con nai già do nơi thương tâm quá độ khiến phải
chết, Hứa Chân Quân từ đây bỏ nghề săn bắn, liền quyết tâm lên
núi tu đạo, quả nhiên không bao lâu liền thành tiên. Chúng ta đều
biết đạo mến tiếc nhi nữ của mình, huống hồ súc sanh sao lại không
được như thế! Ví như đem mèo con quăng bỏ đi, mèo mẹ suốt đêm tìm
kiếm kêu la không dứt. Chó mẹ sau khi sanh con, không cho bất cứ ai
đến gần; những sự kiện trên đây có thể chứng minh.
Có người
nói: [Trời sanh những vật như gà vịt heo bò vân vân, là để cung cấp
cho con người dùng ăn, là cái gì không cung cấp cho người sát sanh?]
Ta không biết họ căn cứ vào đâu, hiển nhiên những người đây chỉ
biết sự sanh tồn của chính mình, không quan tâm đến sự sống chết của
người khác. Quả như người tưởng cho ăn thịt là trời sanh súc vật là
để cung cấp cho con người ăn dùng, làm sao có thể cho là như thế
được? Nói ngược lại, lang sói hổ báo cho thịt người là để chúng ta
ăn dùng, con rận bọ chét muỗi mồng sâu bọ là để hút máu loài
người, loài người sao lại không cho trời sanh chúng nó là để hút
máu chúng ta?
Lại có
người nói: [Quả như các vật heo bò gà vịt vân vân vĩnh viễn không
sát sanh, lâu ngày không phải là chúng nó tràn đầy khắp nơi hay sao?
Như thế đất là chỗ đứng của chúng hay sao!] Lời nói đây lập luận
cũng không đứng vững, như con kỳ lân, con gấu mèo, con chim phượng
hoàng, con chim kên kên, con yến, con cá vàng vân vân, đều chưa có ai
sát hại chúng nó, nhưng chúng nó cũng chưa thấy tràn đầy thế giới.
Ngược lại, heo bò gà vịt mỗi ngày giết chết trên ngàn vạn
con, đều
chưa thấy chúng nó giảm xuống ít lần, người người đều biết mèo thì
ăn thịt chuột già, mà mèo cũng rất ít có người giết để ăn thịt,
nhưng trên thế giới rốt cuộc mèo nhiều hay là chuột nhiều? Lại nữa,
lang sói hổ báo đâu có thể nói, như quả người trong thiên hạ vĩnh
viễn không bị ăn tươi nuốt sống, lâu ngày không thì cũng tràn đầy
thế giới hay sao? Kỳ thật đây đều là người nước Kỷ (Người nước Kỷ
thời nhà Chu, nay thuộc tỉnh Hà Nam,Trung Quốc) buồn lo trời. Tỷ như,
trên địa cầu đây, có quốc gia nam nhi sanh ra quá nhiều, liền sầu lo
tương lai không có nữ nhân; có quốc gia sanh ra nhữ nhân quá nhiều,
liền sầu lo tương lại không có nam nhân; có quốc gia người thấp lùn
quá nhiều, liền lo sợ tương lai người thấp lùn giống như con ong vẽ,
con kiến; có quốc gia người cao quá nhiều, lại lo sợ tương lai cao đến
đụng trời; sự thật những sự kiện như trên đều không thể được, sao
lại phải sầu lo quá đáng?
Lại có
người nói: [Đối với người không sát hại có lợi còn thuộc về tình
lý, như bò ngựa có thể dùng phục vụ cho người, nhưng độc xà mảnh
thú đối với người thì có hại, mặc dù có hại cũng không nên sát
hại?] Người tôi chỉ biết dự định cho mình, giống như theo chỗ chưa dễ
mà ở, để mưu tính giúp đỡ súc sanh. Phải biết động vật làm hại
người có hai lý do: một là chúng nó sanh ra thuộc loại vô tri, hai là
chúng nó chỉ biết tự vệ. Như động vật rắn, con bò cạp vân vân, nếu
người không phạm chúng nó thì chúng nó không làm tổn hại người.
Ngược lại, cầm thú cũng như con người, đối với chúng nó giết tận
những động vật có hại, thì nhân loại đâu không phải rất khó tồn
tại? Trang Tử nói: [Mình đây thì không phải kia, thường tình của kia
và ta thì cũng vậy.] Nhân vì mỗi người đều có tâm riêng tư, do đó ở
khắp nơi luôn luôn có tâm làm tổn hại người để lợi mình. Ngã Phật
thì không phải vậy, kia và mình phá trừ ngã chấp, đã không ngã
chấp, thì sao lại tự mình có riêng tư, cho nên thấy tất cả chúng sanh
đều bình đẳng, không luận động vật sâu bọ hàm linh đều đầy đủ Phật
tánh, hiện tại chúng nó tuy nhiên là chúng sanh chịu khổ não, tương
lai do tu mà chứng giống nhau có thể thành Phật, nhân đó không chỉ
không nên sát hại chúng sanh, mà lại cần đối với chúng sanh khởi
tâm cung kính
mới phải,
đều nguyên do đức Phật là Phật đã thành, còn chúng sanh là Phật sẽ
thành.
Mỗi khi
thấy người đời dùng giết gà vịt cúng tế hiệp kỵ tổ tông, hoặc cầu
thần giáng phước, nhưng vẫn bệnh suốt năm, có khi gặp thiên tai nhân
họa, ngược lại chỉ cần ngăn cấm đồ tể sát sanh. Có khi dùng mổ
giết để trồng phước, có khi dùng cấm giết để bồi đức, rốt cuộc
cái gì phải cái gì quấy, dường như không có định kiến. Phật Kinh
thường nói: [Kẻ làm lợi cho người chính là lợi cho mình, kẻ mưu hại
người chính là hại mình.] Nhân quả tuần hoàn, không thể thay đổi,
dùng sát sanh để cầu trường thọ, chính là phản lại luật nhân quả,
không phải đặc biệt có được như nguyện, mà phản lại có thể bị quả
báo đoản mạng. Như quả cần cầu không bệnh suốt năm, gặp nạn thành
cát tường, chính là do tích đức tích phước mà được, không những không
sát sanh mà lại cần yếu phải phóng sanh, không những không keo kiệt
tiền tài, mà lại cần phải bố thí, như thế mới có thể tiêu tai khỏi
nạn, tăng phước tăng thọ.
Phóng sanh
không hỏi phóng động vật lớn hay động vật nhỏ, lớn hay nhỏ công
đức đều giống nhau, chủ yếu là xem phát tâm lớn hay nhỏ. Phât kinh
có nói, tất cả chúng sanh đều là cha mẹ con gái con trai huynh đệ tỷ
muội đời quá khứ của chúng ta. Thấy chúng nó chịu thống khổ, chúng
ta đâu có thể nhẫn tâm không cứu sao? Lại nói, phóng sanh có thể
bồi dưỡng tâm từ bi, phóng sanh không luận nhiều hay ít, thời gian
lâu ngày, tâm từ bi lại gặp dầu tự nhiên phát sanh, tâm từ bi tức
là tâm thiện, có tâm thiện tức có thiện báo. Sách Tướng nói: [Có
tâm không có tướng, tướng theo tâm phát sanh; có tướng không có
tâm, tướng theo tâm tiêu diệt.] Có tâm tức là có tâm tốt, có tâm
tốt tức là có tướng mạo tốt, tất cả đều do tự làm tự thọ, đều
không phải từ bên ngoài mang đến.
Lại có
người nói: [Không cần giúp người cô độc cùng người bần cùng hoạn
nạn, mà ngược lại chỉ cứu tế những súc sanh, thế không phải là bỏ
gốc chạy theo ngọn hay sao? Sự thật không phải vậy, người phóng sanh
tất nhiên có tâm từ bi cùng tâm đồng tình, thấy chúng sanh có khổ
nạn, liền thương yêu đồng đẳng, nguyên nhân không chỉ
phóng
sanh, mà lại còn cứu tế tất cả bần khổ, người không chỉ phóng sanh,
còn phải cứu tế những người cô độc, như thế mới có thể đạt đến
tam luân thể không (Tam Luân là không, giả, trung đạo, thể của chúng
đều ở trạng thái không) , cho nên hai thứ này cùng nhau giúp đỡ
cùng nhau thành công.
Tôi kính
khuyên người đời, cần học Phật giáo để quán chiếu bình đẳng, trừ
bỏ tự tâm riêng tư, thực hành giới sát và phóng sanh, cần yếu nghĩ
đến giới sát và phóng sanh, đầu tiên phát khởi tâm ăn chay, tận
dụng năng lực của chính mình, từng bước đạt đến tâm niệm thương nhân
dân và thương động vật.
3.- Con
Người Làm Gì Cần Giới Sát Và Phóng Sanh.-
Phật giáo
xem trọng từ bi, chế luật dùng giới sát làm căn bản, dùng phóng
sanh làm cơ sở hành thiện. Vì thế Đại Sư Trí Giả mua đứt Tì Lương, xoá
bỏ sự bắt bớ nơi giang thượng, phóng thích sự ngăn cấm đời sống,
thật chính tâm của người đây từ bi giống nhau. Cổ Đức có nói; [Thịt
của ta và thịt của chúng sanh, tên khác nhưng thể không khác, nguồn
gốc đồng một thứ tánh, chỉ là khác nhau hình thể.] Đây là nói chim
bay thú chạy, cá lội rùa bơi, tất cả động vật danh tự cùng ngoại
hình, tuy nhiên có chỗ không giống nhau, nhưng thân thể chúng nó đều
chưa ly khai da thịt gân xương của đại địa, nước mắt nước bọt máu mủ
của thủy đại, nhiệt độ ấm áp khô ráo nóng của hỏa đại, hô hấp
vận chuyển của phong đại. Thân thể con người đã là đất nước gió
lửa tứ đại tổ hợp thành hình, thì heo ngựa bò dê tất cả súc sanh,
cũng không ai đều không như thế. Tất cả nhân loại dĩ nhiên đã ham
sống sợ chết, sợ bệnh sợ già, biết bệnh biết ngứa, lạnh thì cầu
ấm, đói thì kiếm ăn, gia thân ân ái không nguyện bỏ lìa; tất cả
chúng sanh bay lặn ăn uống trồng trọt sống trên đất, cũng không ai
không như thế. Thí dụ như mèo chó cũng biết yêu và bảo hộ con cái
của chúng nó, bò già thường thấy liếm con nghé, gà mẹ bảo hộ gà
con dùng thân bao che không lìa, con lươn yêu con bằng cách thân mình co
lại cong queo, ngôn ngữ của chúng nó tuy nhiên cùng với con người có
khác, nhưng tâm hiểu biết cùng đau ngứa đều không có không giống
nhau.
Chúng ta
thường thấy có một số người yêu súc vật nồng nhiệt, đem mèo chó
ôm bồng trên thân, khi nó đói đem đồ ăn uống cho nó dùng, loại bò
ngựa vân vân theo mình ra vào, nuôi chim làm bạn lữ, sớm chiều yêu
thích bảo hộ, lo sợ chúng nó đói khát, ngăn che gió thổi mưa tạt
vào. Thích yêu động vật mỗi loại không giống nhau, nhưng đối với sanh
vật tình yêu và bảo vệ so cùng đối với nhân loại tình yêu không
hai. Do đây suy nghĩ không chỉ nhân loại súc vật và loài người đồng
khí, nên cần phải thân ái lẫn nhau, đối với tất cả sanh vật cũng
không ai đều không như thế, người chúng ta đặc biệt có điểm là tâm
từ bi, nỡ nào ăn thịt chúng nó, lột da chúng nó, uống máu chúng
nó, nấu dầu mỡ chúng nó? Huống chi Phật Kinh nói, thiên hạ tất cả
chim bay thú chạy đều là cha mẹ anh em tỷ mụi đời quá khứ của chúng
ta, cũng là các Phật Bồ Tát đời vị lai. Nhân vì thân chúng ta ở
trong sáu đường, qua lại tuần hoàn, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh,
trải qua vô lượng kiếp, đâu có thể chỉ định những chúng sanh ấy
tuyệt đối không là cha mẹ đời quá khứ của chúng ta, huynh đệ, tỷ
mụi, chồng vợ, con trai con gái đời quá khứ của chúng ta? Vì hiếu
thuận cha mẹ đời quá khứ, cung kính chư Phật đời vị lai, cho nên tuyệt
đối không thể sát sanh ăn thịt chúng nó, cung dưỡng riêng mình. Nhân
vì chúng nó đời quá khứ tạo nhiều nghiệp ác, nay sanh theo nghiệp
thọ báo, rơi vào loại khác, báo hết chuyển sanh, giả sử nếu một
ngày nào đó chúng nó giác ngộ những lỗi lầm trước, cải ác hướng
thiện, nghe pháp tu đạo, ai lại bảo đảm nói chúng nó không thể làm
hiền làm thánh?
Lại nói,
động vật bao gồm nhân loại, con người đâu phải cũng cần ăn thịt
người? Thế nào là người ăn thịt người, người đời chính nhìn nhận cho
là không hợp tình hợp lý? Kỳ thật nguyên thỉ người hoang dã, không
phải là không có sự việc phát sanh người ăn thịt người? Chẳng qua
lúc bấy giờ người đã gần bằng cầm thú. Rốt cuộc ai cần phải ăn
ai? Nếu cần truy căn tầm nguồn gốc, không ngoài tự lợi riêng tư, kẻ
mạnh ăn thịt kẻ yếu mà thôi. Nếu luận chim bay thú chạy ăn tươi
nuốt sống lẫn nhau còn có thể không phải là không tha thứ, nhân vì
chúng nó vô tri, mà nhân loại tiêu biểu chính mình là tối linh của
vạn vật, làm thế nào cần học hành vi vô tri của cầm thú? Như quả
nói nhân
vì chúng nó ngoại hình cùng với con người không giống nhau, cho nên
cần sát chúng nó để ăn, như thế nhân loại cũng có chủng tộc không
giống nhau, đầu tóc nhan sắc, thân thể dài ngắn, cũng có sai biệt.
Người ăn thịt người chính không nên cần phải, ăn thịt người cho là
động vật của bên ngoài, chính chấp nhận cho là lý đương nhiên, đây
là vị [thánh hiền] kia nói? Hoặc có một bộ [sách] kia chỗ ghi chép?
Không cần
nói nhân loại giết súc sanh ăn thịt, để bổ ích cho chính mình, chính
là nước này cùng nước kia đánh nhau, đánh qua đánh lại kẻ thắng lợi
đem nhân dân của nước bại trận tàn sát, hiếp dâm, đánh đập, lăng
nhục, tất cả thủ đoạn đều đem ra sử dụng cùng cực, thường làm thế
nào để cho mọi người xem. Tức là khiến đối với nhân dân của nước
mình bảo hộ hết mình, nhưng không khỏi phân biệt là không đồng hương,
nếu là đồng hương thì phải giúp đỡ, không đồng hương thì lại đày đi
xa. Trong đồng hương, lại phân chia là không bạn hữu, nếu bằng hữu
thì chiếu cố, không bằng hữu thì không chiếu cố. Nơi trong gia đình
cũng phân biệt cha mẹ, anh em, tỷ muội, chồng vợ, con trai con gái,
nếu kẻ chí thú cùng mình tương hợp, lại tương thân tương ái, kẻ ý
kiến cùng mình trái ngược nhau, thì lại mắt nhìn hướng khác. Người
thân trong nhà cùng mình lại so sánh nhau, sau cùng lại cho mình là
quan trọng. Người cùng nhân gian, thân thể tên chữ hoàn toàn giống
nhau, quan điểm cảm thọ cũng không sai biệt, còn có như thế này so bì
thân sơ thân cận cách li, hà huống súc sanh đối với người ngoài? Nho
Gia có nói: [Chỗ mình không muốn, chớ thí cho người.] Tự mình muốn
cầu mạnh khỏe sống lâu, lại khiến sanh vật khác ốm gầy chết yểu,
đây cũng là lý nhân quả có thể ăn khớp? Mạnh Tử cũng nói: [Cha
nó giết người, người cũng giết cha nó, anh nó giết người, người
cũng giết anh nó.] Không cần cho sanh vật cùng người không giống
nhau, chúng nó không gặp cùng người trả ân hay báo thù, kỳ thật
trong sách đã ghi sự viêc súc sanh báo thù xem thấy rất nhiều! Súc
sanh dù cho đời nay không thể báo thù, rồi cũng báo thù trong đời
sau hoặc nhiều đời sau nữa, lý nhân quả thường làm sao mảy mai không
có thích hợp?
Nhân loại
chỉ biết tự mình hưởng lạc, không nghỉ đến loại khác bị tai họa, không
nhường những sanh vật trên núi đao, dưới chảo dầu, cố tâm giết mổ
bụng, rút ruột, lấy gan chúng nó, rồi đến khi mình bị báo ứng, lại
kêu trời trách đất, nói đau không chịu được. Kinh nói, tất cả chúng
sanh đều bình đẳng, phàm kẻ có tâm đều sẽ thành Phật. Giết hại heo
ngựa bò dê, cũng giống như tàn sát anh em tỷ muội của chính mình nào
có sai biệt? Nếu hơi có chút tâm từ bi, ai nở tàn sát sanh linh?
Không chỉ nói đích thân mình giết, hoặc thấy người khác giết còn sợ
bị tội treo ngược. Nhà để mổ giết có bảng treo trước cửa và một
miếng thẻ bài bố cáo rằng: [Phàm người có thần kinh suy nhược xin
đừng đến đây.] Những người sát sanh hại mạng, tâm họ rất hung ác.
Ta dạy
những nhân sĩ khi thấy những sự việc sát sanh tâm rất sợ hãi như
đứt ruột và thống khổ đến nỗi khóc nước mắt chảy dài không dứt!
Nhân đây đích thân ra tay vô duyên đại từ, cùng khởi tâm bình đẳng
đại bi , cần xin những thiện nam tín nữ nào, hoan hỷ tùy duyên trợ
giúp, gieo trồng giống phước, tích cực phóng sanh để giải cứu các
chúng sanh sống nơi sông nước, nơi mây trời, nơi đất liền hiện
thân bị
ngục tù, khiến chúng nó bay cao chạy xa, biển rộng tha hồ bơi lội.
đều được chỗ ở, đều được mạng sống, cũng nhờ đây tâm chúng ta cảm
thấy hứng thú biểu lộ một điểm đồng tình đối với khổ nạn của
chúng sanh.
4.- Trì
Trai Cùng Ăn Rau Cải Có Không Giống Nhau Những Gì.-
Vài năm
trước đây, có chồng vợ thường trì trai nhiều năm, một ký giả hỏi
có phải ông bà thường trì trai nhiều năm? Hai ông bà đáp: [Hai người
tôi thường ăn trai, mà không phải là thường trì trai.] Nhân vì hai
ông bà tin Phật nhiều năm, đương nhiên biết đạo trì trai là sau giờ
ngọ (sau 12 giờ trưa) không ăn cơm, còn ăn trai là không ăn thịt
chúng sanh, đây là hai ông bà trả lời cho ký giả. Kýù giả rất quý
trọng nhưng hoang mang không hiểu rỏ.
Đại Thừa
Phật Giáo truyền vào Trung Quốc về sau, lại đem chữ trai triền vào
không cho ăn thịt chúng sanh, vì thế [Từ Uyên] giải thích là:
[Ăn rau
cải gọi là ăn trai], [Chư Tăng ăn cơm gọi là ăn trai], [Trai phạn cho
chư Tăng gọi là trai tăng]. Phật giáo Trung Quốc rất sớm cũng đem
[Trì Trai] cùng [Ăn Trai] thông dụng lẫn nhau. Thí dụ, chùa Phật có
Trai Phạn, Trai Đường, Trai Chung, Trai Thất (nhà trai), Trai Hội, Vô
Giá Trai Hội (hội trai không che giấu), Thiên Tăng Trai (ngàn Tăng
trai), Vạn Nhân Trai, Tam Nguyên Trai (ba năm trai, Lục Trai Nhật (sáu
ngày trai), Thập Trai Nhật (mười ngày trai), Tam Trường Trai Nguyệt
(trường trai ba tháng) vân vân. Những danh xưng đây gọi đều là dùng
chữ Trai làm đại biểu ăn rau cải, nếu tận lực phân chia, chữ Trai
có thể giải thích là không ăn thịt bao gồm không ăn quá 12 giờ trưa,
gọi là không ăn quá giờ ngọ, mà ăn rau cải tức là nói chung chung
không ăn thịt chúng sanh mà thôi.
Do ta thấy
giáo pháp nói không cần phải ăn rau cải để khoẻ mạnh mà chính là
cần phải trì trai, kỳ thật tại Trung Quốc có một nhóm người ở trong
ký ức của họ đều nhận cho ăn rau cải chính là ăn trai, thứ quan
niệm đây tại Trung Quốc đã lưu hành hơn ngàn năm.
Chữ Trai
cổ nhân đọc âm là tề, nghĩa là như nhau. “Lễ Ký” nói: [Tán tề bảy
ngày, chí tề ba ngày.] (Tán Tề là nghỉ ngơi trai giới; Chí Tề là tận
lực trai giới). Như quả, cố chấp không sửa đổi, nhất định theo Ấn Độ
sau giờ ngọ không ăn cơm gọi là ăn trai, mà không thể dùng rau cải
ở nơi Trung Quốc; lại cần phải đem chữ trai đọc theo cổ âm thành chữ
[tề]. Một chữ Trai Tự Điển giải thích: [Trai giới cũng là tôn kính.],
tức là ý cẩn thận phụng sự. “Mạnh Tử” trong Luy Lâu nói: [Trai giới
tắm gội.] Thời Tần Triều có đại nghi lễ tế trời cúng thần, cần
yếu phải tắm gội thay y, ăn rau cải không uống rượu. “Kinh Dịch” có
nói: [Tẩy tâm gọi là tề, phòng ngừa tội lỗi tai họa gọi là giới.]
Tức tề cái tâm, yên tĩnh ý nghĩ của tư tưởng, giống như người đời
nhàn rỗi cùng với vợ con, cũng gọi là trai. Giới là cấm tội lỗi
của thân miệng ý, nên gọi là tề giới. “Lễ Ký” cũng nói: [Tề giới
dùng để bố cáo quỷ thần.] Trước khi tế lễ trước hết phải nghỉ ngơi
trai giới bảy ngày, tận lực trai giới ba ngày, chọn đây biểu thị cung
kính phụng sự quỷ thần. Ấn Độ cổ xưa tế lễ quỷ thần, cũng cần
[trai giới tắm gội], mà mỗi cách 15 ngày long trọng phụng hành nghi
thức tụng kinh sám hối. Phật giáo ta cũng có [Bố Tác], tức là tập
họp đại chúng thuyết
giới,
đoạn trừ các ác hạnh, tăng trưởng các pháp lành. Nghi lễ trai bổn
là thanh tịnh, phòng ngừa các tà vật, đình chỉ ham muốn, tai không nghe
âm nhạc, miệng không nói loạn ngữ, tâm không nghĩ ngợi quàng xiên,
thân không làm xằng làm bậy, tức là bảo tồn hảo tâm, nói hảo
ngữ, hành hảo sự. Về sau Phật giáo Ấn Độ đem [Trai] chuyển thành
[Thời]. “Tát Bà Đa Luận” nói: [Từ sớm đến giửa ngày người đời cho
sự việc tốt tươi nên ăn cơm, gọi là Thời Cơm. Từ giữa ngày đến sau
nửa đêm, là họ Yến gặp nhau nô đùa gọi là thời giải trí, tỳ kheo
du hành có chỗ bị xúc phạm, nên gọi là phi thời.] Giờ thìn sáng sớm
là chư Thiên ăn, giữa trưa giờ ngọ là Phật ăn, mặt trời ngả về
tây (buổi chiều) là súc sanh ăn, trời sắp tối là quỷ thần ăn.
Nhân vì tỳ kheo học Phật cho nên ăn trong ngày, đây gọi là thực
thời. Kẻ thọ trì Bát Quan Trai Giới chỉ ăn một ngày một đêm, theo
ngày nay sáng sớm đến sáng ngày mai sẽ xuất hiện (phong tục gọi là
trời mới rạng sáng), tức là công đức viên mãn, chớ không phải
giảm giới.
Trai hội,
sáng sớm do Nam Triều Triều Đại Nhà Tống khai mở đầu tiên, đến Tề
Triều Vĩnh Minh tám năm, Tề Võ Đế có bệnh nhiều tháng không giảm,
phát nguyện quy y Tam Bảo, sắc lệnh ở trong Diên Xương Điện, bảy ngày
cúng cơm cho chư tăng và chư thánh hiền. Nhà trai trang nghiêm tuyệt
đỉnh, bụi trần nhẹ nhất cũng không động, văn võ bá quan, năm phẩm
trở lên, thanh quan bảy phẩm trở lên, đều tụ tập hành hương, cúng
dường tăng bốn ngàn người. Quan địa phương cùng tư nhân thiết trai,
trước sau cũng số, gần một ngàn người, đều là kiến lập trai đàn
hành đạo, hết sức chân thành lễ sám. Chỗ y phục vật dụng của Trẫm
(Danh xưng của vua), đều thí xả, mong mỏi nạn ba đường, nhân đây được
giải thoát.] Nơi nhà trai cúng dường gồm có năm trăm tăng, sánh
bằng tạo một Phật tượng cao quý.
Trung Quốc
đề xướng ăn rau cải không ăn thịt, do Lương Võ Đế có công lớn đề
xướng, Đại Thông Nguyên Niên, Võ Đế trai tăng đến số năm vạn
người. Thời đại Tùy Đường cấm mổ giết và ăn rau cải, quan địa phương
cũng xem trọng. Tùy Văn Đế nhơn chúc thọ tổ chức sanh nhật ngày
mười ba tháng sáu năm thứ ba, sắc lệnh nhân dân toàn quốc cấm ăn
thịt và cấm sát hại để chúc thọ. Võ Đức Đường Cao Tổ
ngày 4
tháng 20 chánh năm thứ 2, sắc lệnh thiên hạ cấm giết và ăn trai.
Đường Trung Tông tháng giêng năm đầu Cảnh Long cấm mổ sẻ. Đường Duệ
Tông năm Cảnh Vân thứ hai, tháng hai cấm mổ sẻ. Đường Huyền Tông
Khai Nguyên tháng 2 năm thứ 3, ngày 28 tháng 3 năm 18, tháng giêng
năm 19, ngày 12 tháng 10 năm 22; mỗi năm tháng giêng, tháng 7, tháng
10 cấm sát sanh toàn quốc, nhân dân ăn rau cải và cấm mổ xẻ. Đường
Võ Hậu thiên thọ ba năm bốn tháng cấm sát sanh. Như Ý năm đầu
tháng năm cắm mổ xẻ. Thánh Lịch năm đầu tháng năm cấm mổ xẻ,
những thứ cấm mổ xẻ đây thẳng đến năm đầu tháng mười hai còn chưa
giải trừ, sau đó nhân Đại Thần Thôi Dung nhiều lần siêng năng can
gián vua, bắt đầu năm 12 tháng về sau vua cho phép bỏ lệnh cấm. Ăn
rau cải và cấm mổ sẻ một ngày, là ngày đản sanh của chư Phật và
Bồ Tát, hoặc sáu ngày trai, mười ngày trai, hoặc trường trai một năm
ba tháng, ba năm trai, ngày khai quốc, hoặc ngày kỵ Hoàng Hậu Hoàng
Đế giá băng, sanh nhật, sanh bệnh tiêu tai, cầu mưa tế trời, trùng
dương, thanh minh, hoặc siêu độ quân dân tử vong trong chiến loạn, đều
ra lệnh xây dựng trai hội hoặc cấm mổ sẻ, không phải chỉ không giết
bò ngựa heo dê, chính là cầm thú bay trên không, thủy tộc cá tôm
vân vân, đều liệt kê ngăn cấm.
Phật giáo
nam truyền xem trọng đối với quá giờ ngọ không ăn phi thường, mà
tuyệt đối không ăn thịt, ngược lại, Phật giáo bắc truyền đối với
quá giờ ngọ không ăn đều không xem trọng, nhưng xem trọng đối với
không ăn thịt. Nếu so sánh hai thứ công đức, rốt cuộc ai được nhiều,
bổn nhân nhiều lần thường vì người mà giảng thuyết, công đức không
ăn thịt, cần yếu công đức quá giờ ngọ không ăn cơm, tuy nhiên như
đây giải thích: đầu tiên chưa thấy kinh truyện của Ấn Độ, năm gần
đây xem Giới Kinh, chung cuộc thấy đến cổ đức có nói: [Ngày nay
nhiều rau cải, không tiết kiệm ăn chiều, đây tuy không phải trai,
nhưng thù thắng hơn ăn máu huyết.] Đây chứng minh bình thời chỗ giảng
không trái Thánh Ngôn Lượng.
IV.- PHẬT
GIÁO VÀ TIỀN ĐỒ CÙNG XÃ HỘI.-
1.- PHẬT
GIÁO CÙNG VẬN MẠNG VÀ TIỀN ĐỒ.-
Ngày nay
đệ tử Phật giáo, xuất gia cùng tại gia, hai phái có nhiệm vụ cần
yếu bắt đầu gánh vác: (1) Một là tự lợi, tất nhiên phải nương theo
vạn duyên, chuyên tâm nhất ý, tinh nghiêm giới luật, khổ tu một
lần. (2) Hai là lợi tha, tất nhiên cần phải nghĩ ra các thứ phương
châm mới, làm thế nào mới có thể khiến người đời tiếp nhận chân
lý của Phật giáo độc nhất vô nhị. Kinh nói: [Lợi sanh làm sự
nghiệp, hoằng pháp là việc nhà.] Đây là chúng đệ tử của Phật, cần
phải quan tâm và gánh vác.
Người đọc
qua Phật giáo sử đều biết Phật giáo thời đại Tùy Đường là thời
đại Phật Giáo Trung Quốc hoàng kim, [Hòa Thượng tại thủ đô là quan
ra ngoài thủ đô.] Chính là đương thời Hòa Thượng rất tôn nghiêm có
thể tiếp nhận Thánh chỉ đến Quan tôn nghiêm của dân gian đối diện
nhau đều có mặt mủi. Hòa Thượng nguyên nhân tại sao? Nguyên vì tăng
lữ lúc bấy giờ tài học xuất sắc, đạo đức cao siêu là chủ yếu
nhân tố đối ngoại, tánh tình hòa bình, chí hướng kiên định, tăng lữ
Phật giáo chuyên tâm ý chí thi thố khử ác tu thiện, đích thực có
thể tôn xưng là mô phạm của trời người. Cho nên mỗi khi pháp sư đang
thuyết pháp, không xa ngàn dậm đến để nghe pháp của sư, đường xe,
đường tàu, đường ngựa, đương máy bay, đến ngồi không chiếu để nghe
pháp, bố trí chỗ ngồi rất long trọng, khiến người thấy một lần sanh
tâm cung kính. Lúc bấy giờ người nghe kinh rất nhiều, nhân vì chúng
họ tậâp quán tiết kiệm, cho nên sinh hoạt an định, mỗi ngày ngoài
công tác, không có kẻ bất lương nào khác hấp dẫn, chỉ có trên tinh
thần
mong mỏi
an ủi thăm hỏi. Ngày nay không thế, nhân tâm không như thời xưa,
thói đời ngày càng xuống thấp, dục vọng vô cùng, có một tưởng hai,
có ba tưởng bốn, nơi trong một ngày hưởng thụ và tiêu pha, muốn bao
nhiêu chỉ một tháng chi tiêu ngang nhau, nhân đây hình thành số nhập
không bằng số xuất, sinh hoạt khó khăn, hoang mang lo sợ suốt ngày,
không thể an ổn được. Do đây có thể biết, người xưa ở trên tinh
thần, càng tìm cầu lại càng khoái lạc, ngày nay trên vật chất càng
tìm cầu lại càng đau khổ, cho nên gần đây có số người uống thuốc
độc tự tử, đâm đầu xuống biển, treo cổ tự sát, không ngày nào
không có, nhân vì vật chất có hạn, nhưng dục vọng không chừng mực.
Kinh nói: [Người biết đủ, tuy nằm trên đất, cũng là an lạc. Người
không biết đủ, tuy ở thiên đường, cũng chẳng vừa ý.] Nhân đây thân
là đệ tử Phật môn, như quả ở cá nhân trong thời đại nước chảy
ngược, muốn dùng Phật pháp phổ độ chúng sanh trong thời này ở chỗ
này, mà nhất định thành công không thất bại, nhưng nếu dùng phương
thức hóa đạo của người cổ xưa ngồi thuyết pháp trên đại tòa, e sợ
không dễ tiếp dẫn bọn này, chúng nó suốt ngày say sưa nơi rượu thịt
tài sắc làm khổ não chúng sanh. Chúng ta nhất định cần tìm một phương
pháp khác, thử lay phương châm mới, mở rộng Phật giáo thâm nhập vào
dân gian, khiến trên trí thức, dưới chúng người ngu đều có thể tiếp
nhận được nước pháp của Phật giáo để tẩy sạch bóng, dần dần đạt
đến cứu cánh bỉ ngạn, mới là ra tay thi hành tùy cơ ứng biến tốt
nhất.
Bản thân
Phật giáo lực lượng tương đương lớn mạnh, chỉ nguyên nhân mỗi người
tự mình làm cải cách, cho nên lực lượng dần dần tan rã. Giả sử
chúng ta có thể nắm lấy ý chí đồng đạo hợp lại, đoàn kết nhất trí,
sức của chúng ta không phải chỉ có thể kiến thiết một tòa bệnh
viện Phật giáo, hay 10 tòa, 20 tòa cũng không thành vấn đề. Chỗ
gọi: [Đoàn kết chính là lực lượng.] Như quả, chúng ta sao lại không
nghĩ biện pháp cứu vãn, nếu không một ngày nào đó, chúng ta bị thời
đại đào thải, e sợ khó có chỗ để đứng. Muốn khiến Phật giáo hiển
vinh và hưng thạnh, đầu tiên cần yếu lãnh đạo phải có phương pháp,
lực lượng cần tập trung, hữu nghị hợp tác, nổ lực hoàn hảo, như thế
tóm lược đề cử một số đầu mối như dưới đây: [Là đối nội,
chúng ta
đầu tiên cần nhiều tăng già có biện tài giáo dục, tận lực bồi
dưỡng nhân tài, phải biết Phật giáo thạnh suy cùng không, hoàn toàn
dựa vào tăng tài nắm vững vận mạng. Chỗ gọi: [Người có thể hoằng
đạo, không phải đạo hoằng người.] Tăng tài hưng thịnh tức Phật giáo
hưng thịnh, tăng tài suy nhược tức Phật giáo suy đồi, do đây xem thấy,
Phật giáo có nhiều tăng tài như nước bằng phẵng không cao thấp, phi
thường, trọng yếu.
Thứ đến,
nhu yếu ở chỗ phân công cho hợp lý để hợp tác, nên cần có tổ
chức tu hành và tổ chức hoằng pháp. Trong tổ chức tu hành, thiết
lập chỗ có chuyên môn niệm Phật và tham thiền, ý nguyện tu Tịnh Độ,
tức có nhà chuyên niệm Phật vãng sanh, ý nguyện tu tham thiền, thiết
lập nhà vãng lai để tuyển chọn thiền sinh đủ khả năng thành Phật.
Trong tổ chức hoằng pháp, phải thiết lập trung tâm thư viện để
nghiên cứu diễn giảng, để nghiên cứu văn hóa giáo dục, kinh sám
vân vân. Phần tổ chức nghiên cứu diễn giảng, phụ trách giảng kinh
thuyết pháp và thảo luận Phật pháp. Phần tổ chức văn hóa giáo dục,
phụ trách xuất bản và phiên dịch kinh thư, tạp chí và sách báo. Phần
tổ chức kinh sám, phụ trách giao tiếp thí chủ, ứng phó siêu độ vong
linh, cầu phước sống lâu.
Ngoài ra,
chúng ta lại chú ý, Phật giáo không riêng chỉ chú trọng nội dung,
lại cần chú trọng xem sự biểu hiện bên ngoài, như quả, chúng ta ra
vào đi đi lại lại chỉ chú ý nội dung, mà không chú ý biểu hiện ra
ngoài, mặc dù khỏi bị người khinh miệt và đàm tiếu. Có rất nhiều người
tu khổ hạnh, vẫn nhận cho là nhân sĩ Phật giáo cần chú trọng thực
tế, không cần quan trọng xem sự biểu hiện bên ngoài, chỉ cần xem sự
đập phá và buông bỏ đó mới chính là có thể đạt đến tự do giải
thoát, Biểu hiện bên ngoài là mặt giả, làm trò hề, căn bản không
dùng đến. Sở dĩ chúng nó y phục rách rưới bẩn thỉu không chịu được,
ra vào cử động hình dáng giống như tăng tế điên. Còn một thứ nơi
trong phi trường quốc tế, từng thấy có một Phật môn đồng đạo, mặc
áo lót dài sau lưng có hình hoa sen, chân thì đi dép, tay xách dù bằng
lông da xuất hiện, đi lúc lắc qua lúc lắc lại nhiều lần, khiến cho
người chung quanh nhìn chăm chú. Thứ ăn mặc đây, khiến người không
dám
gần, cho
nên dù có mất đi người gương mẫu hòa nhã của đệ tử Phật môn.
Ngoài đây đều có rất nhiều đồng đạo ra đường phố không mặc áo
dài, chỉ mặc áo ngắn xuất hiện, tuy nhiên tôi trải qua ba lần khuyên
giải , cũng là uổng công vô ích. Phải biết áo dài chính Phật môn
ngày nay chế để mạêc, để lễ, mặc áo dài chính là đại biểu thân
phận của tăng nhân, người đời gọi chúng ta là Hòa Thượng, là người
xuất gia, sư phụ, đại sư, hoặc pháp sư vân vân, chính là nhân vì
người chúng ta đầy đủ mười oai nghi, mà hoàn toàn được tôn trọng,
mà mặc áo dài hoặc đại bào chính là tốt là người xuất gia nên có
để đại biểu tánh của ngoại quán. Như quả chúng ta bãi bỏ áo dài,
mặc áo ngắn xuất hiện, đầu tròn chân không, so cùng người thế tục
không khác. Thử xem lục quân, thủy quân, cảnh sát, hướng đạo sinh,
giáo sư, học sinh, bác sĩ, hộ sanh, trưởng nhà ga, người bán vé, cha
cố, nữ tu vân vân, khiến người một lần thấy liền có thể biết thân
phận của họ, đương nhiên cũng là hoàn toàn nhờ vào đồng phục tạo
cho dấu hiệu của bọn chúng. Do đây có thể thấy, nhân sĩ Phật giáo
chúng ta đối với đồng phục là trọng yếu, cũng không thể liệt vào
hạng người ngoài. Nhân vì tăng nhân là đại biểu cho Phật giáo, như
quả một người có chỗ sơ hở có thể ảnh hưởng sự tôn nghiêm của
đoàn thể Phật giáo, cho nên mỗi người có trách nhiệm tương đương
trọng đại.
Hai là
đối ngoại, chúng ta cần yếu xây dựng nhiều công tác phước lợi cho
xã hội. Nhân vì thời đại hiện tại không giống thời đại cổ xưa,
hoàn cảnh cũng biến đổi, quả như chúng ta quen với một mùi vị nếp
củ, liền đóng cửa khép nhà, lánh đời ẩn tu, đương nhiên cũng là
một điều kiện khó tiếp nhận công việc quý trọng không thể từ
chối. Nếu rút lui cùng nhân sĩ xã hội tách rời, khoảng cách càng
xa, không khỏi hình thành cách xa quá lâu của thời gian của họ và
chúng ta, do cách xa mà sẽ bị ngộ nhận, cho nhân sĩ Phật giáo là
trốn trách nhiệm hiện thưc, là ký sanh trùng của xã hội, không chịu
cày ruộng mà vẫn ăn, không đi dệt vãi mà vẫn có mặc, liền bị
người đời châm biếm là kẻ vô ích vân vân, khiến người đời chán
ghét và lánh xa, không khả năng tiếp thọ hóa độ và hướng dẫn của
Phật giáo, vào nơi đường chánh.
Nhân đây
chúng ta đối ngoại, tất nhiên phải phát động rộng sâu phước lợi và
văn hóa giáo dục, do xuất thế mà nhập thế, bỏ sinh hoạt rừng núi,
đi sâu vào dân gian. Thí dụ như, thiết lập trường học, viện y khoa,
viện dưỡng lão, viện cô nhi, chỗ gởi trẻ, chỗ phát thuốc, đoàn thể
giáo dục vân vân. Cùng tiếp cận người đời nhiều lần, lợi dụng thứ
phương tiện thiện sảo để giáo hóa chúng sanh. Như quả, nơi tại đây ở
chỗ này, bỏ phương thức mới này không dùng nữa, chỉ ngồi để mất dịp
may, mặc tình Phật pháp hoang phế.
May mắn,
tại đây thời mạt pháp nhưng có cao tăng hoằng tuyền đại thừa, kiên
định phò trì Phật pháp yếu nhược. Đại sư Bảo Hiền tức là một vị có
công phu học vấn cùng đạo đức, chính là xuất hiện một hạng người
lãnh đạo, người ngày nay kính phục tán thán không thôi. Lão nhân tuy
nhiên tuổi gần bảy mươi, nhưng tư tưởng mới khác lạ hơn người, không
rơi vào lối khách sáo, cùng đệ tử thanh niên tương ưng, chuyện trò
vui vẻ, đều không có thái độ cũ kỹ, dung hòa kia và đây, già và
trẻ hòa thành một khối. Lão nhân có khả năng đem ánh sáng hòa hợp
với trần thế, khéo dùng tứ nhiếp pháp nào, bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự, phương tiện huyền xảo giáo hóa chúng sanh, có thể
dùng pháp Bồ Tát pháp, thực hành Bồ Tát đạo, thật là hóa thân
của Bồ Tát. Đệ tử của ngài hơn một trăm, mỗi lần sáng chiều đều
tụ hội nơi một nhà, gió mưa không thay đổi, sắp xếp diễn tập kịch
nói, ca xướng, bình luận, tọa đàm, thảo luận Phật pháp vân vân,
khiến nhóm thanh niên vui vẻ quá mức và mỗi buổi tối thảo luận
thật có ý nghĩa. Cơ hội đây cống hiến hương thơm nguồn vui tiêm
nhiễm, mỗi ngày tiêm nhiễm lần lần giẫm đạp lên đường mòn, vào
cửa Phật giáo tích lũy qua ngày tháng, cảm niệm từ bi hỷ xả tự
nhiên sản sanh. Không đưa đến người vô kỷ luật, sa vào phóng đãng
nơi chỗ bất lương, lầm vào đường sai lầm, đọa lạc vào đường thất
vọng. Công bố liên tiếp nhiều năm suốt mùa đông trong Nhà Giả Đại
Hội, cử hành đại kể chuyện gồm kịch tuồng có liên quan đến cố sự
nhân quả thiện ác của hiếu tử hiền tôn trong thời đại cổ xưa. Nội
dung nhiều màu sắc rực rỡ, nhiều nét đẹp hiện bày, biểu diễn sinh
động khác thường, khiến trong hội trường, số người đến xem cả ngàn,
đều tận tình xin gia nhập, hoan hỷ đến nỗi quên mình, thật có thể
tạo được yếu chỉ giải
trí nơi
vạn Phật pháp, khiến người nhân đây đoạn ác tu thiện, công đức
thật tại không thể nghĩ lường, duy nhất vào trong phước điền tám
Thức, vĩnh viễn làm hạt giống đạo, sanh sản đời đời không thể tiêu
diệt, một ngày căn lành thành thục, tự nhiên xuất hiện ra đời,
chứng thành quả Phật. Huống chi người trong nó rất nhiều thượng căn
lợi trí, độc cảnh sanh tâm, đã trải qua phát đại nguyện, độ tận
chúng sanh, mới chịu chứng quả bồ đề, Do đây có thể thấy, trên bề
mặt tạo ra kịch hát, diễn tuồng kể chuyện, thực tế xem thấy chính là
người đích thân đăng đàn thuyết pháp, mười phương đồng tụ hội, mỗi
người đều học vô vi, công đức đâu có thể lường được?
Sau cùng,
kỳ vọng nhân sĩ Phật giáo chúng ta, nhất trí đoàn kết thật tốt,
cộng đồng hợp tác, đem tâm lý riêng tư của mình, hoàn toàn triển
khai, mỗi ngày không luận tâm tư cùng nguyện vọng, nên đem vận mạng
và tiền đồ Phật giáo làm tiền đề thảo luận, nhu yếu của chúng ta
cần dùng phương pháp gì, mới có thể thúc đẩy Phật giáo phát dương
quang đại, giúp cho người người có thể lìa khổ được vui, đây là đệ
tử Phật môn chúng ta, cần phải quan tâm chú ý và làm tròn trách
nhiệm.
2.- Phật
Giáo Chọn Công Thức Mầu Nhiệm Gì?
Lúc Thế
Tôn còn trụ thế, Phật giáo hòa hợp như nước với sửa, thuần chất
là một vị, đều không có phân chia bộ phái riêng biệt. Phật Đà viên
tịch hơn một trăm năm sau, chúng đệ tử liền phát khởi phân tranh,
chia rẽ thành Thượng Tọa Bộ cùng Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ là
chủ nghĩa bảo thủ, phái bảo thủ đa số là các trưởng lão đại đức
tỳ kheo, chỉ là tiến bộ chậm chạp phi thường; nhưng cũng sáng lập
nhiều bộ phái mới đều là các tỳ kheo tuổi thiếu niên, tráng niên,
anh tuấn (anh tuấn, tài năng nơi người), lại phát triển tiến nhanh phi
thường. Đây chính là nhân vì thời đại luôn luôn biến đổi, chỗ ở
của các tỳ kheo ấy cũng gặp hoàn cảnh có khi bất đồng, các đại gia
đều có thể thích ứng với hoàn cảnh, tâm bệnh thì có pháp dược. Như
quả, nhưng kiến thức cũ xưa, bảo thủ thành luật lệ, mỗi khi thành
luật lệ không chịu thay đổi, không hỏi xã hội chuyển biến như thế
nào, nhất
nhất cứ làm theo ý kiến của mình, cho nên Phật giáo của thời đại
này sẽ bị loại bỏ.
Phật giáo
từ thời Hán Minh Đế truyền vào Trung Quốc, đến thời đại Tam Quốc
phát dương quang đại, đến thời đại Tùy Đường là thời triều đại thịnh
vượng; từ đời Tống trở về sau, Phật giáo tuy nhiên lần lần suy,
nhưng có thể đứng vững không nghiêng ngả, nhân vì Phật giáo Trung
Quốc ngoại trừ Tam Võ Nhất Tông diệt Phật, (Theo Phật Học Tự Điển
của Đoàn Trung Còn ghi: Tam Võ (vũ) là ba vua bên Tàu:
1, Vua
Thái Tổ nhà Bắc Ngụy, thế kỷ thứ năm, thứ sáu,
2, Vua Võ
Đế nhà Châu, thế kỷ thứ sáu,
3, Vua Võ
Tông nhà Đường thế kỷ thứ chín.
4, Vua Thế
Tông đời Hậu Chu, tức Bắc Chu (955 ức chế Phật Giáo
Gọi chung
là Pháp Nạn Tam Võ, Nhất Tông chi ách)
Quân Vương
trải qua các triều đại, không ai không tôn sùng và bảo hộ, tu bổ
chùa am kính trọng chúng tăng cùng hoằng pháp lợi sanh, cũng đa số
đều do triều đình phụ trách, tất cả ăn mặc, nơi ở và sinh hoạt toàn
bộ không cần bận tâm.
Nhưng từ
tây nguyên năm 1911, quân phiệt tranh quyền, đều tự lập chánh quyền,
cố sức mở rộng thế lực, cốt yếu tiêu diệt đối phương, thế là dẫn
đến nội chiến. Do nội chiến không dứt, lực lượng quốc gia ngày càng
phân tán, mà Nhật Bản sớm có giả tâm, liền có thể thừa cơ, nhân
lúc ngày 07.07.1937, phát động phong trào chiến tranh chống Nhật, Nhật
Bản cử đại binh tấn công các nơi Bắc Kinh cùng Thiên Tân vân vân,
tình hình quốc gia thúc đẩy đi đến càng ngày càng nghiêm trọng, cho
nên trong thời này nội bộ mới hợp tác trở lại, chung nhau kháng
Nhật. Đến năm 1945, Nhật Bản đầu hàng, sau khi chiến tranh thắng lợi,
tình thế chia rẽ, Trung Quốc rốt cuộc chưa có thống nhất trở lại.
Từ năm
1911, đương lúc nhân vật chấp chánh, suốt ngày chinh đông phạt tây,
làm sao có thời gian nhìn lại Phật giáo? [Không vợ để có con
cháu] mỗi
nơi chỉ cần nương tựa nơi chính mình. Trở về trước [nương nhờ cha mẹ]
trở thành tập quán, hiện tại toàn bộ cần nương tựa nơi chính mình,
cho nên trở tay không kịp, còn nhân sĩ Phật giáo, lại phân chia đạo
tràng, mỗi người đi một nẻo, đường ai nấy đi, đều thật hành những
việc giống như một mâm cát rời, không có phương pháp thu xếp, trông
nó lại có rồng rắn hổn tạp, người rất xấu không thể xây dựng,
thối nát đầy ung nhọt, đây là Phật giáo hoàn toàn bị rơi xuống ngàn
trượng.
Phật Thích
Ca nếu như hiện tại sanh tại Trung Quốc, tác phong cùng chế độ, giới
luật cùng tư tưởng, lễ nghi cùng trang phục vân vân đều nhất định
không giống nhau. Như trong luật chế tỳ kheo nửa tháng chỉ tắm một
lần, nếu tắm quá thì phạm giới, và giới cấm không đặng đứng đại
tiểu tiện vân vân; tại Trung Quốc không có pháp nào thực hành
được, phương diện trang phục so cùng Ấn Độ có khác. Phật Thích Ca
ngày thường thuyết pháp đều là ứng cơ bố thí giáo pháp, nhân tùy
tình thế mà đưa vào có lợi cho mình, đều không phải cố chấp không
biết biến đổi để thông suốt. Ngài đã có thể thích ứng căn cơ của
người thế nào mà thuyết pháp, có thể thấy tất nhiên thường vào
làng tùy phong tục đem ánh sáng hòa đồng với trần thế, Ngài tuyệt
đối không tiếp những cái mới lạ lập vị, lại không tiếp những hạng
cố thủ thành kiến. Trong luật có nói: [Nhân thời chế nghi, nhân chỗ
chế nghi], tức là ý đây vậy.
Nho Phật
Đạo ba tông giáo ở Trung Quốc một mặt hướng về có quốc vương sùng
kính cùng ủng hộ, cho nên hơn hai ngàn năm trở lại, các đại gia công
nhận nước ta có ba đại tông giáo. Từ năm 1949 trở về sau, Đạo Giáo
cùng Nho Giáo tại quốc ngoại cũng tố cáo chứng tỏ hình thức, chỉ có
Phật giáo ở trên đời vẫn như xưa hào quang chiếu sáng vạn trượng, so
với Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, đều xưng là bốn đại
tông giáo trên thế giới. Phải biết Hồi Giáo có chánh phủ A Lạp Bá
bảo hộ; Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo có chánh phủ Anh, Mỹ cùng La
Mã công nhận cho phép; Phật Giáo Tiểu Thừa tại Tích Lan, Thái Quốc
cũng có chánh phủ hộ trì; Phật Giáo Đại Thừa tại Nhật Bản, tại
Hàn Quốc cũng có chánh phủ trợ giúp; Phật Giáo Trung
Quốc
chúng ta trải qua lịch sử số hơn mười năm rồi bị suy yếu bỏ quên,
Lúc bấy giờ quốc gia trực tiếp tình thế hổn loạn, chánh phủ đối
với Tông giáo cũng không chiếu cố, nghĩ đến kỹ càng, bốn chúng đệ
tử chúng ta, cần phải tĩnh ngộ, vì Phật giáo mà ra sức, cùng nhau
hợp tác, tự cường không dứt, nguyên vì Phật giáo hiện nay chỉ tìm
chỗ an thân lập mạng!
Tác giả
cho là, tại đây thời đại khoa học phát đạt cùng văn minh vật chất,
cần suy nghĩ phát dương Phật giáo, nối tiếp huệ mạng của Phật, trước
hết cần nhiều sáng kiến một số sự nghiệp có lợi ích cho xã hội,
các sự nghiệp như trường học cùng viện dưỡng lão, sở nhi đồng yếu
kém trí nhớ cùng viện y dược vân vân, và những bộ máy tổ chức từ
thiện: (1) Một là đối với xã hội có giúp ích, chánh phủ và dân gian
đối với Phật giáo ta tất nhiên có hảo cảm; (2) Hai là cung cấp trực
tiếp thu nhận rất nhiều Phật giáo đồ tại gia vào giáo dục công
tác, thời gian tiếp nhận người ngoài không phải Phật giáo đồ đối
với Phật giáo phát sanh hứng thú. Bằng không, không những không thể
hấp dẫn không phải tín đồ Phật giáo tiến vào Phật môn. Lại có cha
mẹ của gia đình Phật giáo, nghĩ chung con trai con gái và chính mình tín
ngưỡng Phật giáo giống nhau. Một bộ phận Phật giáo đồ của chúng ta
đối với nhiệm vụ sự việc từ thiện xã hội đây, không chỉ không có
ra sức thúc đẩy, ngược lại, khi thấy đến có người không nhận khổ
nhọc bỏ đi không làm, từ chối ra sức phản đối, Phật giáo làm sao
có thể phát huy quang đại?
Chúng ta
không những đối với trường học nhà thuốc vân vân cần yếu nổ lực
lại bỏ đi không làm, chính là xã hội bất kỳ tất cả đang lúc có
công việc sinh hoạt lợi ích, đều nên dốc hết sức lực để tham dự,
nhân vì cần độ làm sao một loại chúng sanh, đến tham gia làm sao một
loại chuyên môn Kinh nói: [Nên dùng thân nào để độ chúng sanh, liền
hiện thân đó để mà thuyết pháp.] Tỳ kheo Trung Quốc chúng ta ngoại
trừ thọ giới Tiểu Thừa, nhưng cần yếu thọ giới Bồ Tát Đại Thừa
(Giới Bồ Tát gồm có 10 giới trọng, 48 giới khinh), phát tâm bồ đề,
hành Bồ Tát đạo. Phương pháp hành Bồ Tát đạo không ra ngoài tu (Lục
Độ gồm có:
1.]- Bố
Thí trừ tham lam, keo lận,
2.]- Trì
Giới trừ tà ác,
3.]-Nhẫn
Nhục trừ sân khue,á
4.]- Tinh
Tấn trừ giải đãi,
5.]- Thiền
Định trừ tán loạn,
6]- Trí
Huệ trừ ngu si.)
hành Tứ
Nhiếp Pháp (Tứ Nhiếp Pháp gồm có:
1.]- Bố
Thí Nhiếp: hễ chúng sanh ưa tài vật thì mình cho tài vật; ưa pháp lý
thì
mình cho
pháp lý.
2.]- Ái
Ngữ Nhiếp: tùy căn tánh của chúng sanh mà nói cho khéo để ủy dụ
họ.
3.]- Lợi
Hạnh Nhiếp: làm việc lành bằng thân, khẩu, ý mà giúp ích cho chúng
sanh.
4.- Đồng
Sự Nhiếp: dùng pháp nhãn mà thấy căn tánh của chúng sanh, bèn tùy
sở thích của họ mà phân hình thị hiện ra, đặng làm chung công việc
với họ, giúp đỡ họ cho họ thân ái với mình mà độ họ).
Kỳ thực
Lục Độ Tứ Nhiếp Pháp mỗi từ mỗi câu có khác, nghĩa lý của nó
không có sai biệt nhiều. Như Lục Độ cùng Tứ Nhiếp Pháp có hai loại
Bố Thí giống nhau, Trì giới trong Lục Độ, Giới có Chỉ Trì cùng Tác Trì;
Chỉ Trì của người Tiểu Thừa, nghĩa của nó tức là không hứa làm, hứa
mà làm thì phạm giới; Tác Trì của Đại Thừa, nghĩa của nó là nhất
định cần làm, không làm chính là hoàn toàn phạm giới. Nhưng người
Đại Thừa, tác trì có ý nghĩa tích cực; vừa đúng chính là chỉ trì của
người Tiểu Thừa có tiến bộ một bậc, nhân đây không thể cho chỉ trì
của người Tiểu Thừa không phải ý kiến tác trì của người Đại Thừa,
nhân vì giới Đại Thừa cùng giới Tiểu Thừa, đều hướng về xưng [bất
cộng học giới] (Học giới không h
Pháp nhất
định cần trì giới cùng tực hành nhẫn nhục, dũng mãnh tinh tấn, đầy
đủ định lực và có trí huệ phương tiện thiện xảo, do đây có thể
biết, Tứ Nhiếp cùng Lục Độ là đồng thể nhưng khác tên.
Trong Tứ
Nhiếp Pháp đầu tiên cần hành Bố Thí Nhiếp, Bồ Tát muốn hóa độ
chúng sanh, tất nhiên Trước hết phải dùng Tài Pháp Bố Thí Nhiếp làm
lợi ích cho chúng sanh. Chỗ gọi: [Trước do muốn dẫn dắt, sau khiến
vào Phật trí.] Thứ đến là Ái Ngữ Nhiếp, Bồ Tát tùy thuận căn tánh
của chúng sanh trải qua thường dùng lời nói dịu dàng an ủi chúng
sanh. Ba là Lợi Hành Nhiếp, Bồ Tát phát khởi ba nghiệp thân miệng
ý, đều cần khiến chúng sanh đạt được lợi ích. Bốn là Đồng Sự
Nhiếp, Bồ Tát cần đem sự hiểu biết hòa đồng với thế gian, chúng
sanh làm công tác gì Bồ Tát cũng tùy thuận làm công tác đó, khiến
họ được lợi ích, tâm họ sanh hoan hỷ. Bồ Tát phát tâm bồ đề, tất
nhiên nhất định phải dùng bốn thứ này làm phương châm nhiếp hóa
chúng sanh.
Đại sư
Lục Tổ nói: [Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian để được
giác ngộ, lìa thế gian tìm bồ đề, đúng như cầu sừng thỏ.] Cho nên
Phật giáo đồ nhất định phải đầu tư vào xã hội, tích cực với nhân
sanh, nổ lực với sự nghiệp. Một phương diện làm tốt mẫu mực, còn
phương diện khác, rộng độ chúng sanh, tùy duyên độ chúng, ra khỏi ba
cõi, lìa khổ được an lạc.
3.- Luận
Sự Lợi Hại Của Dùng Nghi Thức Phật Giáo Kết Hôn.
Phật giáo
cử hành lễ nghi kết hôn, cũng là một hoạt động hợp lý của xã
hội, so cùng Tứ Nhiếp Pháp của Bồ Tát đều không trái ngược nhau.
Trừ xuất gia làm tăng ni, nam nữ thế tục không ai không nam hôn nữ
thú, sanh trai nuôi gái, đây là thường pháp của thế gian, đều công
nhận là hỷ sự.
Giả như
có Phật giáo đồ thỉnh tăng ni chủ trì lễ nghi kết hôn, ta nên cần
phải mãn nguyện cho họ. Chỗ gọi: [Chưa thành Phật đạo, trước kết
nhân duyên.] Huống hồ trong giới Tiểu Thừa đều không có văn
minh bạch
chỉ ra tỳ kheo không nên chủ trì lễ nghi kết hôn, tuy nhiên trong Luật
Tứ Phần có nói không cho làm mô giới, nhưng làm sao là chỉ tỳ kheo
không đặng [đem ý của nam nói với nữ, đem ý của nữ nói với nam,
khiến họ thành hôn sự, hoặc làm mỏ rộng thông sự.] Tăng ni chủ trì
một hôn sự, đều không phải làm môi giới cho người kia, khiến họ
được thành hôn, chỉ chẳng qua là thay thế làm Phật sự tại một nhà
mà thôi. Việc hôn phối đại đa số do hai người tự mình quyết định,
bất cứ nhân sĩ nào cũng không thể tham dự cùng góp ý kiến, ïngay
chính làm cha mẹ cũng không thể sắp đặt và bình phẩm, hà huống
người ngoài cuộc? Nhân đây, người chủ hôn cùng người môi giới
không thể đề xướng cùng thảo luận cho nhau.
Có thứ
luận thuyết nói: [Dâm là căn bản sanh tử, anh kia cùng cô ta kết
hợp chính là thứ nhân của sanh tử, tỳ kheo hoàn toàn vì giải thoát
sanh tử không nên tham dự sự việc này, để khỏi tì vết dơ bẩn thanh
tịnh.] Cho đến, tín đồ Phật giáo người làm lễ kết hôn chúc phước,
thỉnh người xuất gia tụng kinh lễ sám, cũng nên nhất quyết cự tuyệt.
Nhân vì kết hôn là [căn bản sanh tử] đúng vậy! Tỳ kheo thì không
nên tham dự. Đồng thời, tăng không nên thấy nữ nhân, ni cũng không
thể thấy nam nhân, nhân vì anh ta cùng cô ta đều là người đã đợi
kết hôn, nếu gặp ảnh hưởng tăng ni thanh tịnh! Do đây suy rộng ra, ăn
mặc ở, sinh hoạt, đều do bọn anh ta và cô ta bao biện, cần nên ẩn cư
thâm sơn hang hốc tuyệt giao, mặc võ cây,ăn gốc cỏ, tránh khỏi
người đời phát sanh quan hệ gắn bó! Nhưng mà theo khả năng tạo được
chỗ giai đoạn đây, tu đến địa vị tối cao, cũng chẳng qua là chứng đến
quả A La Hán của Tiểu Thừa. Chỗ gọi: [Xem ba cõi như chuồng ngục,
thấy sanh tử như oan gia.] Cần yếu nghĩ đến thành Phật, đó là không
có khả năng. Nhân vì thành Phật, nhu yếu hành Bồ Tát Đạo, thường
cùng chúng sanh ở gần nhau, cần yếu là [không chán sanh tử, không
vui niết bàn]. Suốt ngày độ sanh, cõi vô sanh có thể vượt qua, lý
đây nên tu pháp môn [Tam Muội Như Huyễn], mới có thể hy vọng thành
Phật.
Du Già Bồ
Tát Giới nói, Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh, tuy nhiên tạo ác nghiệp
của Thất Chi nơi thân, miêng, ý, cũng không gọi là phạm
giới,
ngược lại mà có thể sanh nhiều công đức. (Thất Chi gọi cho đủ là
Thất Giác Chi [Saptapodhyanga (scr.] Bảy phần giác ngộ gồm có: [1]
Niệm giác phần, [2]Trạch pháp giác phần, [3] Tinh tấn giác phần, [4]
Hỷ giác phần, [5] Trừ giác phần, [6] Định giác phần, [7]Xả giác
phần.]) Do đây có thể thấy, nếu là người độc thân hành thiện,
chuyên làm lợi ích tính toán, còn cần yếu cùng với đời thì thoát
khỏi mọi sự việc, suốt năm không hỏi thế sự. Người phát tâm bồ
đề thì cần hành Bồ Tát Đạo, làm lợi ích cho chúng sanh, thì không
thể cùng người cẩu thả giống nhau. Người kia dẫn Kinh hỏi rằng: [Tự
mình chưa độ, sao có thể độ người?] Tôi dẫn kinh đáp: [Tự mình chưa
độ có thể độ người, đó là Bồ Tát phát tâm] nói chung, người thủ
cựu chủ trương tự lợi, người canh tân chủ trương lợi tha. Tôi dùng
người tuổi đã cao, nên cần chú trọng phương diện tự lợi, người thanh
thiếu niên, nên cần chú trọng phương diện lợi tha, hai hạng người
đều không thể thiếu khuyết, hợp lại thì song hỷ, tách ra thì lưỡng
thương, kia đây nếu có thể cầm tay hỗ trợ lẫn nhau, thì tiền đồ Phật
giáo không thể hạn cuộc lường được.
Thật tại,
cử hành hôn lễ Phật giáo, đây là một việc, đối với độ sanh có sự
trợ giúp rất lớn. Đầu tiên nó cần quy y Tam Bảo, cả nhà tụng kinh,
sau đó vì họ mà thuyết pháp, ở nhà hiếu thuận cha mẹ, ra ngoài tôn
kính sư trưởng, tu lục độ, hành tứ nhiếp pháp, đề xướng việc gì
chồng vợ cùng nhau thảo luận, chỗ an lạc cùng nhau hòa hợp, điều
cần yếu cùng nhau phát thệ, hộ trì Tam Bảo, trong vô hình khiến chúng
nó tin nguyện lực thâm sâu, nơi Tứ Tất Đàn thuộc nơi Thế Giới Tất
Đàn, khiến sanh hoan hỷ. (Tứ Tất Đàn, theo Phật HọcTừ Điển của Đoàn
Trung Còn, Tất Đàn, tiếng Phạn là Siddharta, nghĩa là thành tựu,
thành tựu cho tất cả, thành tựu cho chúng sanh. Tứ Tất Đàn là bốn
thứ Tất Đàn, gồm có:
[1]- Thế
giới tất đàn, Phật tùy thuận chúng sanh giả lập danh xưng như nhân
ngã vân
vân, nói ra những pháp thế gian khiến họ nghe sanh tâm hoan hỷ.
[2]-Các vị
nhân tất đàn, nghĩa la tất đàn cho tất cả những kẻ làm người, Phật
tùy cơ
thuyết pháp khiến họ phát khởi tín tâm, nuôi lớn thiện căn.
[3]- Đối
trị tất đàn, Phật dùng vôsố Pháp dược để đối trị tâm bệnh cho
chúng sanh dứt mọi sự tà ác.
[4]-Đệ
nhất nghĩa tất đàn. Thấy cơ duyên thuần thục, Phật thuyết thật tướng
của các pháp khiến họ chứng chơn)
Đồng thời
tại hôn lễ có các giới nhân sĩ tụ tập một nhà lắng nghe kinh pháp,
có thể khiến đại chúng [một khi vào nhĩ căn, vĩnh viễn thành hạt
giống đạo]. “Kinh Pháp Hoa” nói: [Hoặc chỉ chấp tay, chính đưa hai tay
lên, hoặc cúi đầu thấp xuống một chút, đều có thể thành đạo
Phật.] Mà lại, người đến tham gia kết hôn khi điển lễ, đa phần không
phải tín đồ Phật giáo, hoặc theo Phật giáo nhưng chưa qua Phật môn,
mượn cơ duyên lễ kết hôn, có thể thấy Phật nghe pháp, đã đem đến
giống Phật, dùng nghi thức kết hôn của Phật giáo có gì không tốt?
Lại nói,
cử hành nghi thức kết hôn Phật giáo, chính là đề xướng phóng sanh
từ bi, người dùng nghi thức Phật giáo cử hành lễ kết hôn, đãi
khách tất nhiên dùng rau cải đại diện thịt cá, như thế thì có thể
tránh khỏi sát hại rất nhiều sanh mạng, không phải chỉ khiến chú rể
cùng cô dâu không tạo nghiệp ác, mà lại còn cứu ngàn vạn sanh
linh. Do đây thấy được, cử hành nghi thức kết hôn theo Phật giáo,
thực là việc có ích mà lại không có hại.
Thứ đến,
tại Trung Quốc, Phật Giáo Đồ Thư Quán sau khi long trọng cử hành lễ
kết hôn theo nghi lễ Phật giáo, các giới nhân sĩ trong xã hội cùng
toà báo, và điện tín không ai không hoan hỷ cùng xưng tụng, chỉ có
tôi Phật giáo thiểu số thuộc phái thủ cựu tất nhiên nghị luận xôn
xao, giả như nếu dùng quan điểm xuất phát thành việc của mỹ nhân, cũng
như dùng những sự việc đây được xem là mục đích để độ chúng sanh,
những người kia tự nhiên được tiêu trừ thành kiến. Không
nên chọn
tư tưởng của cổ nhân, đem so sánh tác phong của người nay để phê
bình.
Sau cùng
ta dạy tứ chúng đệ tử quăng thiên kiến cá nhân, đại gia hơp mưu hợp
sức, phát tâm bồ đề, cần có tinh thần dù khó khăn đến mấy cũng
không nản chí, không từ khó nhọc, rộng độ hữu tình. Có chỗ nói:
[Không vì thân mình mà cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sanh đặng lìa
khổ.] Nếu có tấm lòng như thế này, thì Phật giáo không hưng mà tự
hưng, không thạnh mà tự thạnh!
4.- Tông
Giáo Đối Với Xã Hội Đã Cống Hiến.
Chúng ta
như quả đã kỳ vọng lời nguyện, phong điều võ thuận, ngũ cốc phong
vinh, chiến họa tiêu trừ, an cư lạc nghiệp, trên hết cần nghĩa vụ,
tất nhiên phải đặt định quan niệm cơ bản đạo đức thực tiển của
người đời. Giả như chúng ta có thể nắm lấy chú trọng nhân cách,
thực tế hoàn toàn có phẩm tánh của quan niệm và tốt đẹp nơi đạo
đức cao thâm sùng kính, tự nhiên không gặp mà làm không phải làm
xấu bây, còn làm ra các thứ ác hạnh là có hại cho xã hội. Chỉ có
thứ quan niệm đạo đức thì mới đứng vững, có loại tông giáo tín
ngưỡng nơi thần thánh, đối với họ thì không dễ góp sức.
Nhân vì
Tông Giáo là lòng nhân ái cứu đời, bản chất của họ là đại công
vô tư, vì người quên mình, nó ưu lo trước hết là ưu lo của thiên hạ,
tinh thần vui sau cái vui của thiên hạ, dùng thời gian tịnh hóa xã
hội. Người đời nếu như chịu Tông Giáo giáo dục, tích lủy năm tháng,
lần lần chuyển hóa đen tối, cảm thọ pháp lợi ích, ở trong bất tri
bất giác, liền có thể chuyển ác hướng thiện. Có quan niệm đạo đức
Tông Giáo thì tâm của họ tự nhiên có thể trở nên chân chánh, tâm
chánh thì thân tu, thân tu thì gia tề, gia tề thì trị quốc, trị quốc thì
thiên hạ thái bình. Như quả, một quốc gia như thế, vạn nước thịnh
hành, người thì cùng người cùng nhau an lạc, nước cùng nước thân
nhau, thế thì lo làm sao quốc gia không thái bình, nhơn dân không an
lạc? Thế giới hòa bình, không cầu mà tự đến!
Có cho là
sanh mạng của con người, do vật chất tạo thành, hiện tượng tinh thần
không ngoài tác dụng của vật chất, nhân đây duy vật là cầu, nhận
cho đạo đức là có mặt giả, cùng ăn, mặc, ở, sinh hoạt, làm sao
giúp ích. Ảnh hưởng chỗ đến, nhân loại bỏ tâm chọn vật, biến thành
thế giới điên cuồng. Nhưng mà vật chất có hạn, dục vọng vô cùng,
cho nên sớm chiều lo được lo mất, càng mong cầu càng khổ. Nếu có
thể kịp thời giác ngộ đạo lý cầu nhiều thì khổ nhiều, hồi tâm
chuyển ý, dục vọng dừng lại, ngay lúc đó liền giác ngộ khinh an tự
tại. Nhan Hồi đệ tử của Khổng Tử, con người chỉ có một giỏ đựng
cơm, một bầu rượu, ở trong am nhỏ hẹp, ông không chịu ai lo, mà người
ta từ chối cái vui không thay đổi của ông, đây tức là thí dụ cái
tốt của ông. Cổ nhân có nói: [Người tri túc, tuy nằm trên đất,
cũng cho là an lạc, người không tri túc, tuy ở chỗ thiên đường, cũng
không vừa ý.] Đây cũng tức là ý nghĩ của tinh thần sinh hoạt trọng
nơi hưởng thụ vật chất.
Có người
chỉ thấy thân thể có hình tướng, không nhìn thấy tinh thần vô hình,
nhưng thân thể lại sẽ dùng gì? Thân thể có hình tướng chung cuộc
biến hoại, tri giác thì vô hình, từ xưa cho đếân nay không bao giờ bị
biến hoại. Có hoại tức có sanh diệt, không biến tức thường trụ.
Người không đạt chân đế trong đây, mỗi khi nhìn thấy bên trong tu
dưỡng thì lên án cho là tiêu cực, mà kẻ thù khi thấy tín ngưỡng
tông giáo, lại nói là mê tín. Thật thì người không tông giáo tín
ngưỡng cùng quan niệm đạo đức, do nơi trên không sợ thiên thần, dưới
không sợ thần đất, lại không sợ phụ mẫu sư trưởng, rất bướng bỉnh
dễ khiến phạm tội gian xảo tổn hại, nhưng không bao giờ quan tâm; cho
đến nếu sinh hoạt quần áo mục nát, xa xỉ dâm loạn, về sau ảnh hưỡng
lẫn nhau, đối với xã hội tức tạo thành tổn hại rất lớn.
Nhân sĩ
tông giáo, dùng tinh thần tìm cho mình và người các thứ công tác từ
thiện phước lợi, là có mắt cả thảy đều thấy. Bởi vì bất cứ nhân
sĩ tông giáo chân chánh, đều nuôi tâm nguyện [không vì thân mình mà
cầu an lạc, chỉ nguyện cho chúng sanh đặng lìa khổ], dùng giáo giới
[các điều ác chớ làm, các điều thiện nên làm], tự thi hành hóa độ
người khác, do một đến mười, từ trăm đến ngàn, cho đến
dẫn đạo
vô số chúng sanh, đều như thế tín thọ phụng hành. Nhân đây, do tinh
thần làm thiện rất vui, đã hoàn thành đề cử thiện.
Kỷ luật
nhân sĩ tông giáo rất thâm nghiêm, đôi khi cùng với giáo điều gặp
phải mâu thuẩn, tất nhiên cầu thành sám hối, nhân đây suốt ngày
tích cực nhận chân đối đãi sinh hoạt, ngăn ngừa lỗi lầm đề phòng
sai trái. Đối với người thì thường trung thực với lão thành, vì hoài
bảo từ bi. Chúng nó đa số hay khiêm nhường, nhân ái, nhẫn nại cùng
trung thành phục vụ xã hội. Chánh phủ có giám sát nơi đây, chỗ
thường cho vay mượn, khích lệ nhân sĩ tông giáo hiệp lực giải quyết
những khổ nạn của dân thành phố, mở rộng học hiệu và cơ cấu từ
thiện, để bày tỏ mục bảo trì.
Ngoài
đây, nhân sĩ tông giáo nơi cảm thọ cũng giống người đời đi đường
mòn vào nhà, thanh và trược dễ phân, không bị ngăn ngại, dù cho có
những sự việc như, khốn nạn, thống khổ, sầu não, quyết không bị
đánh đập lòng ngực giậm chân tại chổ, kêu trời trách đất, nguyên
nhân chúng nó đã không giải ngộ được nghèo túng đi qua của nhân
sanh, đây chính là nhân trước quả sau của nghèo giàu sang hèn, tất
cả đều do tự làm tự chịu, đều không phải tiền tài cùng thế lực
chỗ có thể tiêu diệt, hoặc do sảo kế cùng xảo trá có thể tránh
né. Cố nhiên ngàn quân thêm thân, vạn tiển khoét tâm, cũng không
gặp rồi trách đây quở kia, hờn trời oán người, chỉ có tùy duyên cam
tâm thừa nhận. Có chỗ nói: [Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, lại không
tạo tai ương mới.] Phải biết thân của ta bị hoạn nạn là do tâm ta
làm chủ, giả như thật có thể tâm bình khí hòa, khí ngương tĩnh lặng
dứt, thong dong không loạn, sanh lý cùng tâm lý, tự nhiên buông xả
không ngưng trệ, huyết điều khí vận, tất cả hoạn nạn trong ngoài,
nhất định dần dần trở thành không tồn tại.
Cho nên,
không bảo đảm các thứ lý luận của các tông giáo là phủ nhận
không hợp lý, cho đến đời vị lai nào, quỷ thần, nhân quả, thiên
đường, địa ngục, là phủ nhận không có, chỉ cần có người không sợ
khổ nạn, hoằng đạo mở rộng, khiến cho vô số người y giáo phụng
hành, dám nói đối với quốc gia xã hội, có trăm lợi mà không
hại chỉ
có một. Ngược lại, nếu người không tông giáo tín ngưỡng, như mất
đôi mắt, đọa vào hầm hố rớt vào thông hào, lầm vào mê đồ, thiên tai
nhân họa sẽ không biết thông đến đâu để ngừng!
5.- Quan
Niệm Đối Với Thanh Thiếu Niên Phạm Tội.-
Nho Gia có
nói: [Vật có gốc ngọn, sự có thỉ chung, biết chỗ trước sau, thì gần
đạo vậy.] Ý nghĩ đây là nói, người đối với các thứ sự vật, cần
nên biết đạo trước sau, phàm là có căn bản cần nên làm trước,
ngọn cây cần nên làm sau, đây là đạo lý chân chánh của người làm
việc. Gần đây nơi Hương Cảng các thứ hành động tội ác nào, trộm
cắp, ăn cướp, mưu tài, hại mạng vân vân, cơ hồ không ngày nào
không có, kỳ thực đây không lỗi ở nơi ngọn cây, là kết quả. Như
quả chúng ta không tìm hiểu căn nguyên của nó, để giải quyết tận
gốc, chỉ ở trên chi tiết, kêu gọi thỉnh cầu, xông vào hành động
diệt tội, tất cả ở nơi biện pháp không triệt để, mặc dù thu nhận
hiệu quả. Tôi cho là phương pháp căn bản trị nước trừ bạo an dân,
cần phải có bao nhiêu thứ để dàn xếp:
1]- Giáo
Dục Gia Đình.-
Gần đây
khoa học phát đạt, vật chất văn minh, đại gia sinh hoạt đề cao, hưởng
thọ nhu cầu phú quý, ăn mặc ở sinh hoạt tuy đã đầy đủ, nhưng ước
vọng quá cao lại tiến thêm một bước, lấy nó hết sức so bì, dùng nó
như bùn cát. Một sớm, khi thu không đủ chi, sợ khiến chồng vợ đồng
lòng tìm cầu chức nghiệp, xuất ngoại công tác. Do đó nam nữ trẻ nhỏ
sớm mất gia đình giáo dục, chúng nó trước đó còn có cơ hội tiếp
nhận học hiệu giáo dục, sau đó chúng nó bất hạnh biến làm lang
thang đầu phố, như đây chúng nó rất dễ bị cám dỗ làm ác, hoặc sa
vào vực sâu tội lỗi.
Sự thành
bại cùng thiện ác, đều không phải chủ định trời sanh, Nho Học cần
phải học tạâp tích lủy trải qua năm tháng mới có thành đạt. “Tam Tự
Kinh” nói: [Nhân chi sơ, tánh bổn thiện, tánh tương cận, tập tương
diễn.] (Con người mới sanh, bản tánh vốn hiền lành, khi lớn lên
bản tánh
thân cận với mọi ngương chung quanh, bị huâp tập ô nhiễm bản tánh
hiền lành kia sẽ bị lìa xa). Lại nói: [ Ngọc bất trác, bất thành khí,
nhân bất học, bất tri lý.] (Ngọc không mài giũa, không thành đồ
dùng, người không học không biết chân lý.) Mạnh Tử cũng nói: [ Ly
lâu chi minh, công du chi xảo, bất dĩ quy cự, bất năng thành phương
viên.] (Tạm dịch: lìa ánh sáng đời sẽ bị đen tối dần, khéo làm công
việc chung, nếu không dùng khuông phép, không thể nào thành hình
vuông tròn.) Một người không luận trời giao phó lương thiện thế nào,
như quả, chỗ nơi gặp một hoàn cảnh ác liệt, liền bị lôi cuốn biến
thành người xấu, hãy xem Mạnh Mẫu dời nhà ba lần, con của bà mới
đặng thành Hiền, do đây khiến nên biết, nam nữ trẻ nhỏ, làm phận
cha mẹ, phần lớn phải có trách nhiệm. Nguyên nhân nam nữ trẻ nhỏ
về sau, đến trước mười sáu tuổi, phần lớn thời gian là tiếp xúc
thẳng cha mẹ, không luận ăn cơm mặc áo, nói năng cử chỉ, ra vào đi
lại, đón khách khứa đãi bạn bè, chúng nó đều là hướng về cha mẹ
học tập, giả sử cha mẹ nhất cử nhất động, hơi có chút sai lầm, nam
nữ trẻ nhỏ chúng nó chịu xơ xác, người gần mực thì đen. Người làm
cha mẹ tức là giáo sư của gia đình, cần mỗi nơi cấp dưỡng làm gương
cho tốt lành, thân giáo khẩu giáo, đều hành động không trái lẽ.
Chính là thường cùng nam nữ trẻ nhỏ qua lại bạn bè hoặc tôi tớ, cũng
cần thận trọng chọn lựa, không nên giao du quan hệ những hạng này,
khi chưa có thể chớ khinh thường. Như quả nam nữ trẻ nhỏ ham thích
hoặc nhu cầu bất lương, làm cha mẹ cần nên chọn lựa cùng cự tuyệt,
không cần theo Tiểu Kiều (Tiểu Kiều là người yêu của Tào Tháo) sanh
nuôi dưỡng thói quen, khiến chúng nó dưỡng thành tu do phóng túng
làm liều, tôn sùng xa xỉ trở thành tập quán xấu ác. Thời kỳ nhi
đồng, lại chờ từ một cây nhỏ, nó trưởng thành cây lớn sai lầm là
đem tỉa nhánh lá của nó khiến nó bị tật khớp. Thì đây cũng thế,
chúng nó lúc thời đồng nhiên, nếu có thể trực tiếp uốn nắn thì
thích hợp hơn, sẽ trở thành tập quán lương thiện hoàn hảo, sau khi
thành người, tất nhiên có thể phụng sự việc công, nhờ đó phẩm giá
được tôn vinh.
2]- Học
Hiệu Đào Tạo.
[Vạn kiểu
đều xuống phẩm giá, chỉ có đọc sách là cao quí]. Đây là người Trung
Quốc quan niệm gần đây. Nhi đồng vào năm học, đại bộ phận học về
quốc gia, đều có pháp lệ quy định, phận làm cha mẹ tất nhiên phải
đưa nó vào học hiệu tựu học, khiến nó nơi phẩm đức, học thức, tài
năng và các phương diện khác, đều có thể đạt đến kiện toàn đều
phát triển. Thời kỳ nhi đồng, ngoại trừ cùng cha mẹ giao tiếp bên
ngoài tối đa, thế thì giáo sư học hiệu, giả sử giáo sư chớ xem
thường chỉ đạo đức dục học sanh, không thể đem thân giáo thị uy, hoặc
chuyên dùng chức nghiệp mưu sinh đây của mình để giáo dục, thì học
sanh không được học đến chỗ có phẩm đức lương thiện. Hàn Dũ nói:
[Thầy của đồng tử kia, trao truyền sách vỡ. Mà ông tập chúng nó
đọc câu, không phải tôi gọi là xe chở đạo cho chúng nó, giải thích
nghi hoặc cho chúng nó. Đọc câu mà không biết, nghi hoặc mà không
giải, nghi hoặc sư làm sao, nghi hoặc sư không làm sao, tiểu học mà
thiếu sót lớn, tôi chưa thấy ông ta sáng suốt.] Đây nói tình hình
đương thời là như thế, huống chi ngày nay phong cách ngày càng đi
xuống, lại khó dùng bút mực nào miêu tả thuật lại chân tướng của
nó. Là do học sanh phô trương phóng túng của thời kỳ hạ thấp, không
chịu kỷ luật, thậm chí liên kết băng đảng, tạo ra hành vi phạm luật,
đây là do giáo dục thất sách.
Cần suy
nghĩ học sanh tạo được lễ nghĩa liêm sỉ, tình trạng học hạnh có hạng
bao gồm ưu điểm, là người dạy tất nhiên phải có bổn phận ân cần
khéo léo dẫn dụ, người dạy dỗ tinh thần không chán, ra vào đi và
về, đều nên dùng thân làm gương. Khổng Tử nói: [Thân nó ngay thẳng,
không khiến mà nó vẫn làm, thân nó không ngay thẳng, dù khiến mà nó
không theo.] Cổ Đức nói: [Trên có người tốt, dưới có người tận lực
làm theo.] Lão sư nếu có thể thường xuyên dùng đức dục truyền bá
học sanh, dù cho học sanh có hành vi bất lương, cũng có thể cảm hóa
nó cải tà quy chánh, hà huống, học sanh phẩm hạnh tánh lương thiện,
càng có thể lập chí, cố gắng lội lên. Giả sử có học hiệu, đều
dùng đức dục làm đại tiền đề, vấn đề phạm tội của thanh thiếu
niên, cũng có thể dùng tiêu dứt nơi vô hình.
3]- Nếp
Sống Của Xã Hội.-
Chúng ta
cần nghĩ đạt đến thành quả thay đổi phong tục, đầu tiên nên hướng
về những tác phẩm như điện ảnh, truyền hình, báo chí, đặc san vân
vân. Nguyên nhân, trong điện ảnh cùng truyền hình thường xuyên chiếu
phát ra qua ống kính nào nạn cướp của chém giết, đấu đá, khiêu dâm,
tắm máu vân vân. Báo chí cùng tạp chí vân vân, cũng là tranh thủ
nhu cầu thị trường, gặp có người giết cha hại mẹ, anh trai em gái
loạn luân, cướp giựt ngân hàng, khiêu dâm đấu tranh vân vân, mới
nghe tội ác, liền đáng viết nhiều, đáng giới thiệu nhiều, đều nêu
lên cho mới lạ, để tranh thủ đọc giả xem chúng cập nhật. Thế này
về sau nghe nhiều lần quen tai quen mắt, đối với người có ảnh hưởng
bất lương rất sâu sắc nguy hiểm. Ngược lại, phàm có vui lành thêm
tốt, người dẫn đạo hướng thiện mới nghe điều tốt, lại khinh thường
miêu tả những điều vô nghĩa, tuyên truyền kết quả chưa rõ rệt, chắc
chắn là người ngày nay nắm cổ tay mà than thở.
Phải biết
thiên tánh của con người vốn không phải thuộc nơi thiện hoặc ác,
nhưng là theo tịnh duyên có thể biến làm người thiện, theo nhiễm duyên
liền có thể biến làm người ác. Có chỗ gọi: [Giao tiếp với người
tốt thành quân tử, giao tiếp với tiểu nhân rước lấy họa ương.] Điện
ảnh cùng báo chí vân vân, là ác duyên nịnh hót thô tục, luôn luôn
tạo cho người nghe quen tai nhìn quen mắt, lâu ngày, hạt giống ác tiềm
tàng nơi trong biển não, một ngày nào đó gặp thấy ác duyên, liền
chiếu hình dáng thật, đây chính là tiểu nhân giao tiếp nhau nào có
sai khác đâu!
Đề cử thí
dụ để chứng minh, Nhật Báo Tinh Đảo ghi rằng: nơi Hương Cảng có một
thanh niên nhân xem sách dâm về cám dỗ em gái thực tập, kết quả em
gái có thai. Lại nữa các báo của Mỹ Quốc có ghi rằng: Chiến sĩ Ba
Lan liền có sáu thanh niên ép buộc một thiếu phụ, đem dầu khí tưới
lên mình của thiếu phụ, sau đó dùng lửa thiêu đốt, đem thiếu phụ
đang sống thiêu chết. Lại có dùng hai chương trình côn đồ đánh người
đến chết, cho đến tạc bôm đạn cho nổ giết hết các thứ hành động
ác. Về sau trải qua cảnh sát điều tra kết quả, nguyên do các hành
động tội ác đây, là từ truyền hình trong trường học tạo nên,
cho nên
có thể biết, nếp sống xã hội ngày càng không chính đáng, thật có
loại do nơi truyền hình và nghề nghiệp báo chí gây ra. Hiện nay chỉ có
cách trừ tập nhiễm cũ, phải biết cây mới đứng còn sợ gió, chỉ có
một phép tắc chính là phòng ngừa thanh thiếu niên phạm pháp.
4]- Chế
Độ Chánh Trị.-
Nơi Hương
Cảng hành động bạo lực hằng ngày gia tăng, đương cuộc chấp pháp quá
khinh thường, đó cũng là một nhân tố. Mỗi khi có những kẻ làm bậy
nào cướp giựt mưu sát phạm thượng làm tội rất nghiêm trọng, nhưng
kết quả chỉ vào giáo đạo chỗ chịu trông nom dạy bảo, hoặc kết án
vào ngục ngắn hạn. Tốt nhất, chúng nó là thanh thiếu niên phạm
pháp tuổi ở mười sáu trở xuống, chỉ đưa đến viện cảm hóa để cảm
hóa vài tháng là xong việc. Như thế một lần nó cướp giựt cũng vẫn
vô tội, tôi giết người cũng vẫn vô tội, do đây cách giáo dục thanh
thiếu niên phóng túng không kỷ cương.
Hoặc có
người cho là phạm tội đã trải qua thành hình, lại dùng hình phạt nghiêm
khắc như thế, cũng không cứu giúp nơi hình sự, nếu nương nơi thuyết
pháp đây, đâu không là hình phạt nhẹ cũng thuộc về thừa thãi, pháp
luật cũng cần phải toàn bộ thủ tiêu luôn. Sự thật không phải như
thế, như có trẻ nhỏ vô tri gây rối loạn, nguy hiểm cho phẩm vật, nó
nhẹ thì cha mẹ trách nhiệm, còn có thể sửađổi vào đường chính. Hà
huống người thành niên hiểu biết giàu nghèo, nó cóthể không sợ
pháp luật hình phạt nghiêm trọng hay sao? Do đây đối với những kẻ
phạm pháp có bản án trọng tội cướp của giết người, không luận
thiếu niên cùng người thành niên, cần phải nhất luật dùng trọng
hình, trị loạn thế, dùng trọng hình, tốt nhất dùng răn bảo chỉ dạy.
Hiện nay họa loạn ngày càng rộng sâu, ngược lại nên yên lặng mà
chấp pháp, xã hội trật tự gần đây gần như tan vỡ, rất có thể lo
ngại.
5]- Ảnh
Hưởng Tư Tưởng.-
Có người
cho là hiện tại nhân loại chạy theo hướng thời đại văn minh cùng
tiến bộ, và thời kỳ đề xướng quan niệm [vật chất] , nhận cho là
bản chất của vũ trụ chính là thật có, không thừa nhận có sự tồn
tại ngoài vật chất đây, chính là sự tác dụng trên tinh thần, cũng
xem là do vật chất sanh ra. Do là nhất trí suy đoán thuyết pháp [Vô
Thần Luận], học thuyết nhận cho là linh hồn , đời sau, thiên đường,
địa ngục vân vân, đều là ma túy, rượu có chất động làm say mê con
người, làm trở ngại cho sự tiến bộ của loài người, nhân đây sự
thật xóa bỏ nhân quả báo ứng giống như bóng theo hình. Quan niệm
nhân quả báo ứng dĩ nhiên không có bút mực nào có thể xóa bỏ
tiêu mất, tức là không sợ trời không sơ đất, cũng không sợ cha mẹ
và pháp luật, như thế lại có thể làm xằng bậy. Còn lại chủ trương
nhân loại bình đẳng, thấy người hưởng thọ áo gấm ăn ngon, tự mình
cũng cần áo đẹp tơ lụa ăn cả trăm vị, do đó tự mình nổ lực mong cho
sánh kịp, chính không chọn thủ đoạn, mà lại dùng gian xảo phạm pháp,
liền đạt đến mục đích dục vọng, nhân đây dẫn đến tội ác tầy trời,
khiến người bó tay không còn kế sách.
Tông giáo
chính là nhân của cứu đời, đường lối duy nhất dẫn người chuyển ác
hướng thiện, thí dụ như Ngũ Luân Bát Đức của Nho Giáo, Ngũ Giới
Thập Thiện của Phật Giáo; Yên Tĩnh Đạm Bạc của Đạo Giáo, Mười Răn
Hối Cải của Cơ Đốc Giáo; đây đều là mục tiêu lớn nhất dạy người
các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm. Giả sử đại gia đi
tìm Tông Giáo nào phổ cập nơi xã hội, đem quan niệm đạo đức của
Tông Giáo, thường xuyên truyền bá nơi trung tâm của con người, khiến
chúng nó biến đổi thấm dần, lâu năm lâu ngày, chung cuộc gặp cơ
hội biến thành dân thành phố lương thiện, phẩm đức ưu điểm cùng
tuân theo pháp luật. Do nơi Tông Giáo có thể trị chúng nó bằng cách
phòng ngừa trước tai họa, bổ khuyết chánh trị không được đầy đủ, cho
nên Tông Giáo đối với xã hội là có ích mà không có hại. Nhân đây
không luận đời sau, linh hồn, thiên đường, địa ngục vân vân, phủ
nhận có chúng nó sự thật, đại gia nếu có thể nhất trí đi tìm Tông
Giáo tín ngưỡng, tưởng đến lẽ tất nhiên đức dầy có thể chở phước
đức cùng thuận hòa dẫn đến an tường.
6]- Cảm
Tưởng Bốn Phép Tắc.-
a,- Học
Viện Mới Mở Chúng Sanh Có Lợi Ích.-
Thư Viện
Phật Giáo ở Hương Cảng, chính là Tăng Già Liên Hiệp Hội Phật Giáo
Hương Cảng, do Hội Trưởng Pháp Sư Tẩy Trần cùng bạn đồng sự vân vân
xây dựng. Nhân Pháp Sư giám sát nơi đây lúc này bất ngờ thấy chỗ
trống, cho nên tập họp nhân sĩ đồng đạo hợp lại, theo thừa kế tông
chỉ của chánh phủ mở rộng văn hóa giáo dục, khoản trống đó dư sức
cho nên không để lại, trù tính sắp xếp, học giả Tỉ Thăng cống hiến
giúp đây có cơ hội bồi bổ. Hợp nhau lại dùng Ngã Phật từ bi trực
tiếp giáo đạo nhiều học tử (Học Trò), hiểu rõ tà chánh, phân biệt
thiện ác, một ngày tốt nghiệp phục vụ xã hội, không dẫn đến trôi
theo làn sóng, lầm vào đường sai lầm, các công bằng đều nêu lên
đây, thực khiến người nay dẫn đến kính phục và tán dương.
Cho nên,
Viện Trưởng Viện Giáo Dục, Tiên Sanh Bạch Chí Trung, vốn tự xuất sanh
từ nho gia, bác học nghe rôïng, tài đức kiêm toàn, đối với học viên
toàn trường, đều quý trọng hết sức, có thể làm trong sạch chung rất
tốt đáng hổ trợ, hiện nay thân Bồ Tát, thừa nguyện tái sanh trở
lại, để hành Bồ Tát đạo. Giả sử pháp sư các nơi có thuyết pháp
giảng kinh, hoặc viết kinh Phật kết duyên, không ai không bận rộn
phái đi để tuyên truyền, tận lực mà thực hiện, đã khiến các nhân
sĩ Phật giáo ta khâm phục vạn phần. Mục đích của Bạch Quân Từ Bi
cùng Phật giáo không trao đổi ý kiến mà hợp, mỗi lần vào trường
giảng sách, phần nhiều dùng nhân nghĩa đạo đức ân cần khẩn thiết
khéo dụ, dẩn dắt các học sinh đi con đường chánh, học sinh tiếp nhận
lợi ích không cạn vậy.
b,- Chí
Thành Khẩn Thiết. Một Mảnh Lòng Tốt.-
Giáo thọ
nọ giảng Tuân Tử Thiên Luận Thiên [Nhật nguyệt thực mà cầu nó,
hạn hán rồi có mây, dự đoán dấu hiệu rồi sau đó mới quyết định
đại sự, không phải cho là cầu cũng được, dùng văn cũng được. Vì
thế quân
tử dùng văn, mà trăm họ dùng thần, dùng văn thì tốt, dùng thần thì
xấu vậy.] Quan hệ nơi nghĩa [văn trang sức] họ dẫn một đoạn sự việc
gần đây nêu lên: [Tại Hương Cảng chỗ nọ có ma quỷ, thỉnh người làm
pháp siêu độ, thân sĩ Thái Bình kia là thủ trưởng láng giềng, cũng
đến trên Hương Cảng, nhưng chúng nó không bao giờ tin quỷ thần, dù
cho đốt hương đụng vỡ cả đầu cũng chẳng qua là “Văn trang sức” mà
thôi.] Vị giáo thọ đây chỗ thấy chưa khỏi có nghiêng một bên, lập
luận cũng thiếu chính xác, Chu Tử tuổi già, tự hối hận lời nói xưa
của ông đã không phải, còn thuyết an tâm của Tuân Tử có thể chứng
minh ông có hoàn toàn không? Đây là luận của [văn trang sức] chẳng
qua Tuân Tử là một người sáng lập, không thể nhân một người như
ông bảo đảm thấy đúng, lại người dù yếu dù mạnh cái thấy đều
hoàn toàn giống nhau. Mà Tuân Tử vốn là người nho gia chánh thống,
chịu học thuyết của Khổng Tử. Cho nên Hàn Vũ nói: [Tuân Tử bảo vệ
chánh nghĩa, biện luận thì to tát] Hư hại không biết, Khổng Tử nói:
[Cúng tế như hiện tại, cúng thần như thần tại, nhờ đức của quỷ
thần.] Cảnh kia nói: [đó cũng là dùng văn]. Đây là học thuyết của
Khổng Tử có khác nhau xa.
Thế như
Thủ Trưởng Thanh Sĩ, không thể nhân đây mà không có tín ngưỡng, bằng
không đặt điều [văn trang sức]. Như quả chúng nó trở thành trọng
nhân nghĩa giảng đạo đức, nhân dân ái mộ, cùng dân đồng nghiệp,
thấy người hoạn nạn, tất nhiên có thể hùng dũng qua thẳng trực
tiếp trước mắt, dùng tinh thần đại vô úy cứu vãn khổ nạn cho chúng
nó. Chính nhân nơi đây, dân thành phố bị hoạn nạn nơi quỷ, chúng nó
tựu đến đốt hương khẩn cầu cho đến đụng vỡ cả đầu, chí thành cầu
đảo, mà chúng nó chỉ cầu riêng một người trừ khử hoạn nạn, mà các
người khác chỉ đem một mảnh nhiệt tình, thật tại có giá trị khiến
người ta kính phục. Người tôi đâu có thể xác nhận dối trá của
chúng nó có biểu hiện không thực tế, giả nhân giả nghĩa, giả danh
thánh hiền, đây chỉ là [văn trang sức] mà thôi!
c,- Pháp
Môn Niệm Phật. Chỉ Ác Dẫn Thiện.-
Giảng đến
pháp môn niệm Phật của Phật giáo, có người đề cử một lão Thái bà
niệm Phật làm thí dụ, nói bà đó một bên chửi mắng người, một bên
niệm Phật, niệm kiểu đó dù có niệm đến đâu cũng vô dụng. Lời nói
đây không lầm, niệm Phật không nên chửi mắng người, có thể là
người xưa nay niệm Phật, khi gần mạng chung, tự biết giờ đã đến,
thần thông diệu dụng, tùy tâm chỗ muốn đến, vì biết không thể
thắng số; khi đã chết, vị giáo thọ đây cầm một cây bút lau chùi
thân người chết, lại đặc biệt đề xuất một hạng người ngu phu ngu
thê đến tiếp tay, như quả dẫn dụng thành ngử ẩn ác dương thiện, đến
quá nhiều không phù hợp. Người niệm Phật không nên chửi mắng người
là có lý, mà người chửi mắng người không nên niệm Phật chính là
không có đạo lý, nếu như không niệm Phật có thể chửi mắng người.
Phật pháp mục đích thâm sâu, tạm thời không luận theo thế gian để
xem lợi hại, một vị Lão Thái Bà ngu si, nơi trong khi chửi mắng người
thường mà còn biết niệm Phật, người đây cũng không dễ gì làm được,
tâm niệm Phật hằng ngày huân tập lâu ngày có thể chuyển ác thành
thiện, chuyển biến chỉ còn niệm Phật không còn chửi mắng người, dần
dần có thể với lấy vạn duyên buông xuống, tịnh niệm tương tục không
ngăn ngại, tâm trí tiêu diêu tự tại. Niệm Phật lại có thể mạnh
khỏe sống lâu, nhân vì một người già biết bao là tai điếc mắt mờ,
đi bộ già yếu lụ khụ, làm việc không còn sức, đứng yên khổ nạn
buồn bã, như quả không tin niệm Phật, tất nhiên chơi với chim sẻ, xem
điện ảnh, nhảy đầm, đánh bạc vân vân, cho là tiêu khiển, nhân vì
một số đây đối với người già có hại mà không có lợi, tiêu hao
tinh thần, lãng phí tiền bạc. Mà người niệm Phật, mặc dù không thể
hiểu rõ lý giải tông chỉ Phật giáo là vật gì, chỉ dùng thế đế mà
nói, cũng không có giúp ích lớn,
Người
viết cho là các vị giáo thọ, nên giúp đỡ tuyên dương Phật giáo nơi
đây, mặc dù không tạo được mục đích, nhưng cũng không cần bình luận
lung tung về pháp môn tu trì của Phật giáo, nhân vì người ngoài cửa
nghị luận những việc trong cửa, mỗi khi mở miệng đều sai lầm, động
niệm tức là thừa thải. Giáo thọ sử học gia là Trần Dần Khác nói
rằng, họ có ba sự kiện không giám bình luận, (1) Người thương mãi
tiền sử danh tiếng chấn động, sử liệu không hoàn toàn, không
phương
pháp nghiên cứu khảo sát chân tướng của thời đại đó, rất khó tìm
biết. (2) Sử cận đại ngàn đầu mối vạn khởi đầu, lộn xộn rối bời
như tơ vò, không dễ gì minh bạch hiểu rõ quan hệ chốt cửa của nó.
(3) Phật học rộng lớn như khói biển, bao la không bờ mé, không phải
khổ tâm một mình chỉ nghiên cứu được một phần nhỏ, tất nhiên phải
lưu lại cho học trò mầm non như tấm gương sáng tiếp nối trợ giúp.
d,- Đốt
Hương Lễ Phật. Chỉ Sanh Thiện Niệm.-
Hiện tại
nhường cho tôi, tôi lại đơn giản giới thiệu một số đại nghĩa của
đốt hương cùng lạy Phật. Nguyên liệu hương vốn là bột cây, nhân có
một số hương bằng điện, chúng ta chính dùng hương để kính Phật.Trước
kia tại Ấn Độ, khi Phật đà thuyết pháp, đa số dùng hương nguyên liệu
đốt cháy để đuổi sâu bọ, để giúp thanh tịnh đạo tràng. Mà ngã Phật
chính bốn đại vốn không, năm uẩn không có, không cố chấp kẻ năng
thọ người sở thọ, chúng ta phàm phu dùng cuộn cỏ cây và dùng hương
điện cúng Phật có lợi ích như thế nào? Mua hương cúng Phật, đây
không phải là nhiều, phải biết, tất cả vạn sự vạn vật trong thế
gian, nói chung không thể thoát ly nguyên lý [pháp không thể tự phát
khởi riêng một mình, phải dựa vào cảnh mớùi sanh] Người tôi mượn
một nhánh hương hoa kính Phật, chẳng qua là để dẫn phát trong tâm tôi
thể hiện thiện chân thật căn bản mà thôi. Lễ Phật cũng vậy, tượng
Phật nguyên là nặn đắp bằng đất chạm khắc bằng cây, người tôi lễ
Phật, đâu phải lạy nơi nguyên liệu đất bùn nặn đắp cây chạm khắc?
Giống như trong mười người có chín người có thể không đạt được lý
này. Phải biết, tâm cảnh không phải một không phải hai, pháp tùy
nơi tâm chuyển biến, tâm tùy nơi cảnh thay đổi, hai đây lẫn nhau làm
nhân quả, không vượt qua nhau, lìa tâm thiện ác, cảnh không thiện
ác, cảnh đã không thiện ác thì tâm cũng không thiện ác. Thí dụ như
đem đất cùng cây nặn đắp và chạm khắc thành chó và mèo, người
thấy có thể sanh khởi ý niệm thưởng thức ngắm nghía; tái tạo nữ nhi
diện mạo đẹp, người thấy có thể sanh khởi ý niệm hoan hỷ; tạo
thành ngưu đầu mã diện, tiểu quỷ phán quan, thập điện minh vương,
người thấy có thể sanh khởi hoảng sợ; tạo thành tượng Phật Bồ Tát
trang
nghiêm nơi từ đường, người thấy có thể sanh khởi niệm lành; đất và
cây tuy giống nhau đều là nguyên liệu, nhưng nặn đắp và chạm khắc
thành hình có khác nhau, cho nên tâm thiện ác cũng tùy theo đó sanh
khởi. Như quả nói một hạng ngu phu ngu phụ xem đến tượng đất hình cây
tưởng như có thần thực tại, mà không biết phần tử xem đến đều là
bùn cây, cho nên tại đây không có chỗ tâm thiện ác sanh khởi. Tôi
nói thật, đây không phải chấm dứt đâu, còn nữa, hoa xuân nở đều
nhau cùng với lá thu tàn tạ, hai cảnh sắc như thế hiện tại trước
mắt, chúng ta có thể không mừng, mà cũng không buồn. Do đây lại
biết, tâm thiện ác tất nhiên theo cảnh mà sanh, nếu lìa cảnh thiện
ác, tất nhiên tâm thiện ác không theo cảnh để sanh khởi. Sở dĩ
người tôi đem đất và cây nặn đắp chạp khắc thành thiện cảnh, không
phải khiến người mượn đây sanh khởi tâm thiện tâm ác, có thiện tâm
tất nhiên có thiện báo. Chỉ có người tôi một niệm tâm tánh mới là
nguồn nước của thiện ác, căn bản của khổ lạc. Dụng tâm chánh thì
tất cả sự vật đều biến thành thiện, dùng tâm bất chánh thì tất cả
sự vật đều biến thành ác. Vật ở ngoài tâm vốn không có thiện ác,
nhân vì tâm chuyển vật nên biến thành thiện ác. “Kinh Lăng Nghiêm”
nói: [Tâm tự nắm lấy tự tâm, không phải huyễn biến thành pháp
huyễn.] tức là đạo lý đây vậy.
Nói chung
lại, người tâm thiện, nước hạn hán chưa đến phải đói, trời lạnh
rét không thể khiến người bệnh tật, yêu quái không thể khiến người
hung dữ. Người tâm ác, nước hạn hán chưa đến mà đói, trời lạnh rét
chưa xấu mà bệnh, yêu quái chưa sanh mà hung dữ vậy.
V.- ĐÀM
LUẬN VỀ TĂNG GIÀ.-
1.- TĂNG
GIÀ ẢNH HƯỞNG CHẠY THEO KINH SÁM
ĐỐI VỚI
PHẬT GIÁO.-
Đối với
Phật giáo vấn đề cải tiến cùng thịnh suy, tôi sớm có tâm bệnh cảm
hoài! Tịnh tọa nghĩ sâu lo lắng tinh tế, tăng già là người có đôi
mắt thiên nhãn, đêm dài sáng như đèn, như con mới sanh của cha mẹ,
thuyền từ qua biển khổ, từ chối người thân dứt bỏ tình yêu, vì
người quên mình, công danh phú quý xem như phân đất, vinh nhục đặng
mất lạnh nhạt như nước chảy, suốt ngày sinh hoạt, trà thô cơm lạt,
áo cà sa ngăn lạnh, cử chỉ biểu tượng thân luật, thân tâm ít dục,
cho hoằng pháp là nghĩa vụ, lợi sanh là sự nghiệp. Dùng lý mà suy
tính đó, có thể gọi hạng người cao quý, người đời cung kính cùng xưng
tụng; nhưng sự thật lại trái ngược, dân thị trấn và hương thôn, xem
nhẹ khinh miệt, mĩa mai chê cười, mạ lỵ. Tìm tận gốc rễ, sự việc tất
nhiên có nguyên nhân.
Nơi Hương
đảo Phật giáo năm 1949 về trước, có thể gọi suy tàn cực độ. Tăng
chúng xuất gia giống như đuôi phụng sừng nai, tín đồ thế tục, thưa
thớt như sao buổi sáng cùng không khí buồn tẻ, nay người thấy nghe
đều đau tâm thương tiếc.
Phương
châm cứu cánh là gì có thể cứu vãn số phận xấu ác của chỗ này
lúc này? Tôi cho là đều không phải sức một người có thể vận động,
nhu cầu đại chúng đồng đạo hiệp lực, đồng thuyền chung giúp, đầu
tiên củng cố nội bộ làm căn bản. Củng cố nội bộ như thế nào, đây
là một vấn đề rất phức tạp. Nói chung lại, phàm là bị người khinh
miệt, mĩa mai chê cười, mạ lỵ, phải nên nhất luật khử trừ; phàm là
được người tán thán cùng kính ngưỡng, cần nên bắt đầu chấn hưng.
Phật đà đầu tiên chế luật, không phải tránh người mỉa mai hiềm
ghét. Nhân vì tỳ kheo ra vào qua lại cùng chúng bất đồng, vạn con
mắt nhìn theo, vạn bàn tay chỉ chỏ, một tăng mất hạnh kiểm, vạn tăng
bị nhục, một tăng cao đức, vạn tăng tăng quang, do đây xem lại, trách
nhiệm của tăng trọng yếu biết bao!
Có người
cho là phá trừ buông xuống, làm một vị tăng, vâu du bốn phương, tự
tại biết bao. Vẻ mặt không cần nghiêm chỉnh, cử chỉ không cần hạn
chế, mắng chửi mặc họ chửi, nói xấu mặc họ nói xấu. Kỳ thật
không phải vậy, Phật đà để lại lời dạy, ba ngàn oai nghi, tám vạn
hạnh vi tế, chính là cần yếu mô phạm tốt của tăng già chúng ta.
Cần nghĩ người tôn trọng ta, đầu tiên mình phải tôn trọng chính mình,
đây mới là phương châm tối trọng yếu củng cố nội bộ.
Lúc này
tôi có sơn môn đồng đạo, hoan hỷ mang theo mấy vị mắt không biết Lão
Thái Bà, tự cho là tiền hô hậu ủng, nhậnï người tôn trọng, kỳ
thật hoàn toàn ngược lại, giúp người chỉ là dùng vật để tụ họp
được tốt. Hoặc có Ni Sư hoan hỷ mang theo ấu nhi đồng nữ đi lêu lổng
trên đường phố, đắc
ý vui
mừng chứa chan, kỳ thật, bị người đời phê bình, thân tuy xuất gia,
tâm chưa thoát tục; người xuất gia chánh nhân là rất sợ ràng buộc
gia đình, nay lại bị lôi kéo. Tôi cho là thứ hành vi đây cần nên khai
trừ mới được.
Đến đây
lợi cùng hại có quan hệ chạy theo kinh sám. Kinh là Phật nói, sám
là Tổ sáng lập, đen trắng đều biết, kinh sám vốn trước kia là phương
tiện, người phàm tu đạo, tuyệt đối không thể ly khai kinh sám, nếu
lìa kinh sám, có thể tu mù luyện quáng, lạc vào đường lầm. Nhưng
người hôm nay nơi trên kinh sám lại thêm chữ [chạy theo], liền trở
thành kinh sám chạy theo; ngày nay gia đình bôn ba căng thẳng chạy
ngược chạy xuôi, ngày mai chạy theo nương vào nhà Lý, thậm chí một
ngày hai nhà, suốt ngày bận rộn quên ăn quên ngủ. Chạy theo kinh
sám cố nhiên đối với người chỗ lợi ích không nhỏ, có thể nói chỗ
hại cũng rất lớn. Đa số người xuất gia cho là, tỳ kheo ăn mặc áo
dài, không tạo sanh ý, không làm nghi lễ thành viên, không người
cúng dường, không tạo người cung kính, thế thì sinh hoạt như thế nào?
Đồng thời Phật tổ từng nói, lễ Phật một lạy, tội diệt hà sa, tụng
kinh một câu, trí huệ như biển, tôi người xuất gia, làm công tác
này, một mặt kiếm tiền để duy trì sinh hoạt, một mặt làm người âm
dương lưỡng lợi, đâu không là công việc nhất cử lưỡng lợi hay sao?
Không lầm, tụng kinh lễ sám có đại công đức, có thể là hôm nay mở
bày minh lý, được nhiều chóng mặt choáng váng, khí trên không tiếp
được khí dưới, thì làm sao có tinh thần cùng thời gian đi tu học để
giảng thuyết và viết sách? Luật chế: [Năm hạ trở về trước, chuyên
cần tinh thông giới luật, năm hạ về sau thì mới nghe giảng dạy và
tham thiền.] Người tôi đối với vấn đề đây thì không có đặt nền
móng, đã không tu, lại không học, thì làm sao có thể độ phần tử trí
thức xã hội. Không lầm, kinh sám Phật tinh thâm rộng lớn, không
phản đối người hàng phục hạng thấp trong xã hội! Người tôi vốn
không học vấn, lại không
tu trì,
suốt ngày tựu hội làm lễ quy y, làm theo kinh sám, thức nghĩ người ai
gặp xem cũng đặng phát khởi tâm tôn kính!
Oán giận
không được có người nói, lặng lẽ nguyện xin cơm, không nguyện làm
hòa thượng. Nhân đây không chỉ không nguyện xuất gia, thậm chí thanh
thiếu niên đã không xuất gia, cũng cần hoàn tục, thanh niên tăng
bốn tướng chưa không (Bốn tướng của kẻ chấp tướng trạng chưa rõ
chân giả gồm có: Ngữ Tướng [tướng mình], nhân tướng [tướng người],
chúngsanh tướng [tướng chúng sanh], thọ giả tướng [tướng thọ mạng
dài hoặc ngắn], thực tại không dễ nhận chịu các thứ đối xử hà
khắc. Mà giả lại cần người xuất gia, để làm rất nhiều công phu, như
quả, học sư chuyên làm nam mô, nhưng không như ở ngoài đời thường
thấy công tác phương tiện nuôi miệng được lợi rất nhiều, xin đưa một
thứ đây hà tất phải xuất gia làm chi cho nhiều?
Xin giải
thích trở lại, kinh sám là cây cầu để độ người, là phương tiện
thiện xảo để độ người, cũng cần yếu tụng kinh bái sám, nhưng cần
cải biến tác phong. Nếu có tín sĩ thỉnh tụng kinh, rất tốt cần tín sĩ
tự niệm, công đức giống nhau. Như quả không pháp tìm cầu giải thoát,
có thể cho phép nơi Phật đường vì người thỉnh cầu tổ chức lễ tụng,
để cầu nguyện cho họ, không hạn chế số người, có thể một vị sư hay
hai vị sư, không cần thỉnh xa, lao sư động chúng. Chỗ gọi: [Thà động
ngàn nước sông, không động tâm người có đạo.] Hà huống gặp gió
thổi làm lay động mưa rơi, vả lại cái khổ là có xe lại bắt buộc
xếp hàng. Tăng Bảo là người tiêu biểu thầy của trời người, là
pháp thân cha mẹ của chúng sanh, thọ nhận thuyền xe đây lao tâm chỉnh
đốn, đi làm xa xôi theo số 10 dặm (500 thước), người tôi nêu ra đây,
nơi tâm làm sao an được?
Tâm khinh
mạng, không những không công, ngược lại có lỗi lầm, cho nên tốt
nhất không cần người ngoài tụng. Không luận tụng kinh lễ sám, cư sĩ
tất nhiên phải tham gia, toàn Phật sự nơi Phật đường, chỉ phạm vi một
câu chuông, vật phẩm tùy phần cúng dường, quyết không nói số mục
của vật giá. Như quả thỉnh sư về nhà nên gạn hỏi chịu trách nhiệm,
có sanh chuyện hàng xóm, họp lại khước từ. Phàm Phật đường nhỏ
chật hẹp, trừ mỗi ngày ngoài công phu, không tổ chức đại pháp hội,
[1] một là chỗ chật hẹp không thể dung chứa nhiều người, [2] nhiều
người sẽ hỗn loạn, tâm không dễ định. Nếu là chùa viện quy mô tầm
cở to lớn hùng vĩ, trong một năm không làm trở ngại, nên tổ chức
một hoặc hai lần đại pháp hội, đàng tràng cần yếu phải chỉnh tề
trang nghiêm, nghi thức long trọng, pháp sư cần oai nghi thiện hộ, tâm
tất nhiên chí thành, pháp sự không cẩu thả, nghiêm túc yên tịnh
vắng lặng, khiến người một lần thấy sanh tâm cung kính, chủng tử
thiện căn vào trong phước điền tám Thức. Nhưng mà đại pháp hội cũng
không nên tổ chức nhiều lần, tổ chức nhiều lần dễ sanh chán nản,
tâm không chí thành, uổng phí vô công, hoang phí thời gian, không như
không làm.
Tăng tôi
thời gian bình thường, nên cần tu giới, định, huệ, diệt dứt tham sân
si. Lại nên dùng giới định huệ tam vô lậu học làm nguyên tắc, tự
lợi lợi tha làm căn bản. Tự lợi tức tu, lợi tha tức học. Tu trì
chính là tự được thọ dụng, cũng có thể dùng thân gương mẫu, khiến
người mộ đức, thọ đại cảm động, phát tâm xuất gia. Học vấn chính
là dùng nơi tùy cơ ứng biến, nếu bác học nghe rộng, thường có trước
tác để độ chúng sanh, người nay tín ngưỡng, hy vọng nghe tiếng quy
thuận. Đại sư Ấn Quang có [Gia Ngôn Lục], sau khi xem qua, có nhiều
ngườøi
phát tâm niệm Phật. Còn sau khi xem qua [Lai Quả Thiền Sư Thiền Thất
Khai Thị Lục], có nhiều người phát tâm tu tập tham thiền.
Thứ đến,
giáo viên Phật Giáo Học Hiệu rất thiếu, tôi từng đem tinh thần và
thời gian của tôi đuổi theo kinh sám, sử dụng tại trên phương diện
giáo dục. Giả sử người tôi đem đại sư Tải Tì Lô Mạo chuyển làm
giáo thọ đại học, đem Địch Mộc Ngư làm trợ thủ và chuyễn làm giáo
sư trung học, đem Đả Sanh Đang làm tùy thủ và làm giáo viên tiểu
học, trở lại xem thấy Phật giáo bộ mặt như thế nào? Lại có, toàn
bộ học hiệu Phật giáo đều có khóa trình, nên do tăng ni đảm nhiệm
phụ trách. Nhân vì người Phật giáo đều đồng nhau, mục đích sáng lập
học hiệu Phật giáo, chính là khiến người các điều ác chớ làm, các
điều thiện phụng hành. Danh xưng trên đã là học hiệu Phật giáo,
đương nhiên khóa trình học Phật là trọng điểm của các khoa, đây mới
là danh xưng phù hợp sự thực của nó, như học hiệu của Thiên Chủ
Giáo, Thánh Kinh khảo thí tất nhiên phải hợp cách, mới có thể lên
lớp. Nhưng Phật học cũng không thể độc lập hoằng truyền yếu chỉ của
mình, phải nhờ cậy lương sư chỉ đạo, mới có thể lưỡng toàn tốt đẹp.
Nếu như tùy tiện thỉnh một người tầm thường, tự họ đối với nghĩa
kinh còn không hiểu rõ, như thế làm sao đi dạy người; tự mình ăn
thịt, như thế làm sao có thể dạy người ăn rau cải. Thử nghĩ tôi dạy
người trung bình, tổn phí hết tâm lực, xây dựng rất nhiều học hiệu
Phật giáo, mà kết quả không thể đạt đến giáo sư lương hảo có thể
đi chỉ đạo, tuy thu hoạch hiệu quỷ định kỳ dự trù, rất đủ để người
nay quá an ủi. Tôi dạy nhân sĩ, tất nhiên phải nhận chân mời thỉnh
một số tăng ni phẩm học kiêm ưu làm giáo sư học Phật, mới không
mất mục
tiêu thành lập học hiệu Phật giáo. Một là dùng thân làm gương mẫu,
thực có thể tạo đến công phu tự hành hóa tha. Hai là từ trong biển
tánh lưu xuất nước pháp, trừ khử rửa sạch học tử trở thành trên
ngàn vạn người, khiến chúng nó ngày tháng nội kết, lần lần manh
nha, chung cuộc có một ngày gặp kết quả hoa khai.
Lại nữa,
một tăng gương mẫu ra vào học hiệu làm thầy, đại biểu cho tất cả
tỳ kheo đều là thầy. Hôm nay đề cử Học Hiệu Phổ Hiền Phật Giáo
làm thí dụ, ngay lúc đầu Học Hiệu Phổ Hiền đây do Trung Hoa Phật Học
Nghiên Cứu Hội đã sáng lập đã hai năm, tôi mới đến dạy, chúng học
tử rất nhiều, kinh ngạc lấy làm lạ không biết đây là người gì, hô
lên là hòa thượng sư cô, ngờ nghệch mà giáo viên làm thinh cũng
không lên tiếng, giống như trách nhiệm của hòa thượng đến tụng kinh
cho người chết, ngày nay học hiệu làm việc như thế nào? Trên sự
thật, họ quái gở không hiểu, nhân vì tăng tôi không đủ tháng vào
trường, thầy sanh tôi căn nguyên ghét bọn trẻ không biết học hiệu
là do người xuất gia sáng lập. Ngược lại, sau đó tôi đến học hiệu
Phật giáo học hai năm, trên dưới thấy tôi đều chào [Pháp sư buổi
sáng] cùng xưng hô [Chào pháp sư tạm biệt buổi tối]. Đối với tôi
là như thế, thấy đến người xuất gia khác cũng giống nhau. Do đây có
thể thấy, như quả tăng ni đảm trách khóa trình Phật giáo, nhất định
vượt hơn người thế tục trăm vạn lần. Nhân đây bút giả cực lực đề
xướng người chủ sự học hiệu, tất nhiên phải mời thỉnh tăng ni đảm
nhiệm giáo sư Phật học làm việc gấp. (1) Một là người xuất gia có
thể tự ăn theo sức của mình, thường ngày chỗ nhu cầu không nhất
thiết nhờ người khác phục vụ. Có người nói: [Người đến không cầu
phẩm vât sẽ
tự cao.]
Nổi bật nhất, tại đây là thời đại đều thay đổi, có giáo học làm
chức nghiệp có thể khỏi bị người chê bai nghi ngờ cho là không làm
mà ăn, không dệt mà mặc. (2) Dùng giáo dục bắt tay hoằng dương
chánh pháp, khiến hàng đàn học tử được đến tai mắt thắm nhuần hương
thơm vui mừng, thật có lợi ích lớn. (3) Người xuất gia ra vào qua lại,
hoàn toàn là để xây dựng cơ cấu văn hóa giáo dục, không luận gia
trưởng cùng học sanh, xã hội cùng thứ dân, ai dám chế nhạo? Như
thế, sao buồn Phật giáo không phát triển tiến bộ, tự viện không
người trụ trì! Sao buồn, xuất gia về sau không sinh hoạt nên không có
chi phí tiêu dùng! Tất cả quanh co, thuyền thuận theo dòng nước, không
động mà hóa, buông tay mà trị, không cần cải cách, Phật giáo tự
nhiên phát dương quang đại, ba nguyên nhân trên đây đều có thể phổ
độ chúng sanh vậy!
Trên đây
tuy nhiên, phí tổn rất nhiều thời gian, thành bài không rành mạch,
có thể tốn công sức nhưng không được khen, cũng có thể giúp đại gia
chỉ làm mà không hứng thú, thậm chí chấp ngã dù làm công đức cũng
có tội, Nhưng điểm phát xuất của ngã, thuần nhân trong tâm cảm đến
đáng tiếc cùng bi thương mà viết thành sách. Đương thời dân chợ đối
với người xuất gia Phật giáo cảm tưởng sai lầm, thực tại bút mực
khó hình dung. Tục Ngữ nói: [ Cây tất nhiên mục nát trước, mà sau
đó trùng sanh]. Quả như không chỉnh đốn nội bộ, mà lại tu chỉnh tận
cùng bên ngoài, là không thể đề cao danh dự Phật giáo được. Bút
mực tôi tuy cùn, mà nghĩa thì nặng thì chân thật, hy vọng có người
thâm ân, hiểu biết giúp tôi sửa sai, thì văn vụng về của tôi có
thể bổ túc cho không lỗi nhỏ.
2.- ĐỐI
VỚI TĂNG GIÀ ĐỔI MỚI LÀ
VẤN ĐỀ
CÓ CẢM NGHĨ.-
Hôm đó
Lão Pháp Sư Bạch Thánh tín nhiệm liên tiếp phát biểu công khai hai ba
lần, đối với vấn đề cải cách chế độ tăng bảo kéo dài thời gian,
trưng cầu Hoa Tăng trưởng lão đại đức nêu ra cung cấp ý kiến quý
báu, gom góp ý kiến sâu rộng lợi ích, cộng đồng trao đổi, đây là
một hiện tượng trưng cầu tốt nhất của việc chấn hưng Phật giáo.
Phật giáo
thạnh suy, tăng tôi có trách nhiệm rất lớn. Nếu dĩ nhiên Phật pháp
suy đồi, sau này không người kế thừa, sự việc không phải nhỏ, tăng
tôi không phải triệt để đi nghiên cứu tìm ra biện pháp không thể
giải quyết. Nó kết cuộc hỏng việc chịu bó tay, cứu cánh tại sao?
Đây là một vấn đề, tôi đề nghị tăng già nên mỗi tháng tụ hội một
lần tại một tăng đường, kiểm thảo chế độ Phật giáo hiện tại giai
đoạn ưu điểm cùng khuyết điểm, nếu có ưu điểm thì nên nổ lực tranh
lên thượng nguồn, nếu như khuyết điểm thì cố nhiên cần cải chánh.
Kỳ thực, nêu lên đây cùng Phật chế không mưu tính mà hợp, quá khứ
ở đại lục tòng lâm mỗi nửa tháng [bố tát] một lần, tức là kiểm
điểm ý nghĩ; hiện tại Phật pháp sở dĩ không thể hưng thạnh cùng
không thể dẫn đạo tuân thủ Phật chế cũng có quan hệ.
1]- Đại Sư
Thái Hư. Cách Mạng Canh Tân Đi Trước.
Vấn đề
Tăng Hoa có quan hệ, Pháp Sư Nguyên Huệ nói: [Đại Sư Thái Hư hiểu
sâu thời đại hủ bại, biết rõ kiện toàn tăng đoàn cùng không, thực
sự đủ biết vấn đề thịnh suy có
ảnh hưởng
đến chỉnh thể Phật giáo, vì thế Đại Sư riêng phấân khởi tinh thần
nên không sợ, suốt đời nổ lực ngoài giáo dục tăng già, lại hết
sức đề xướng cùng chỉnh lý chế độ tăng già. Có thể quý trọng Đại
Sư Thái Hư dù cho hết cuộc đời cũng không thể thực hiện kế hoạch
lý tưởng chỉnh lý tăng chế, đây thì không kia, nhân vì thiếu hệ
thống tổ chức tăng đoàn thúc đẩy, cho nên mặc dù có kế hoạch chỉnh
lý của tăng chế, nhưng cũng không thể thực thi.] Nguyên Công đánh
giá nói có lý. Nhưng tôi cho là phàm sự việc khởi đầu đều khó, do
nơi nước ta chế độ tăng già, khởi đầu từ sáu triều đại đến ngày
nay, ước tính có một ngàn tám trăm năm bảo thủ lưu truyền, một hôm
cần đem tập quán thời đại cũ thúc đẩy trở thành thời đại mới, nói
đâu có dễ. Thời Thái Hư ngài là một vị đại đức cao tăng danh tiếng
hiển hách; nhưng tất cả tăng già tư tưởng cổ xưa già nua bảo thủ đen
tối trở thành quy củ, nơi số trong mười vạn tăng, chỉ có Đại Sư Thái
Hư người dũng mảnh ra tay, muốn đem chế độ tăng già canh tân, thực
là một người đối diện cùng vạn người, sợ không thể chống đối vượt
qua được? Đương thời nam bắc phương có số vạn tăng bè bạn trách Đại
Sư Thái Hư là hòa thượng chánh trị! Ma vương xuống thế! May sao Phật
giáo lấy từ bi làm bản hoài, không thì, không nói một Thái Hư, chính
là mười Thái Hư cũng oán trách cho là người hoạt động chánh trị.
Chỗ người
cùng biết, thời đại Thanh mạt, Lương Nhậm Công cùng sư Khang đều cho
là chờ tới Hoàng Đế Thanh ĐứcTông mới [canh tân], cuối cùng biện
pháp thất bại, hai người chạy ra nước ngoài, nếu chậm một bước, thì
đầu tiên bị giết. Đồng thời phái canh tân dùng một số
ước ngoài
vì nước mình trang bị trên đường rầy xe lửa, kết quả trăm họ cho là
phá hoại phong thủy, xôn xao đem tháo dỡ, do đây lại biết, không chỉ
Phật giáo phái thủ cựu cũng bị như thế, nhân sĩ xã hội cũng không
ai không như thế. Đương thời triều đại Nhà Thanh không cầm quyền chỉ
trông cậy vào Lương Nhậm Công, nhưng Lương Nhậm Công bị phần tử Trung Quốc
phá hoại, sau khi Dân Quốc thành lập, Lương Nhậm Công được bầu chức
vụ Tổng Trưởng Tăng Nhậm Ty Pháp và còn chức vụ cần yếu khác nữa.
Như Khang Thị không vong mạng ở nước ngoài, tất nhiên cũng được bổ
nhiệm chức vụ vô nghi. Hai người Lương Nhậm Công và Khang Thị đã như
thế, Đại Sư Thái Hư làm sao không được như thế, có điều Đại Sư thị
tịch vào chiều năm hai mươi, tất nhiên [Canh tân chế độ tăng già] có
thể thực hiện, nhưng đương thời các miệng thì khác mà lại đồng âm
cho nên gọi Đại Sư Thái Hư là ma vương xuống trần thế, ngược lại
hiện tại ai cũng gọi Thái Hư là Bồ Tát, do đây có thể thấy, Đại Sư
Thái Hư nhãn quang của người rộng xa, không phải gống như người tầm
thường có thể minh bạch được. Phải biết nước tôi địa dư rộng lớn,
nhân khẩu cũng nhiều, chùa viện lớn nhỏ số vạn cơ sở, tăng lử số
mười vạn chúng, các nơi còn phong ba, lại nữa các nơi không đồng nhau,
thực là trăm công nghìn việc, Đại Sư Thái Hư ngoài tự tu, nhưng cần
giao tiếp bốn phương tám hướng, làm sao rảnh rang để thực hiện chuyên
môn chi tiết chỉnh lý chế độ tăng già, cho nên trong ba bài, có một
bài gọi là [Đại cương kiện toàn tăng già], mà lại cũng là đơn độc
một mình, thì sao có thể tận thiện tận mỹ được, Đại Sư Thái Hư chỗ
xây dựng [chế độ tăng già] mà tổ chức không tinh mật, cho nên sự
viêc tất nhiên thất bại khó tránh.
2]- Tăng
Bảo Tiếp Tục Kéo Dài.-
Pháp sư
Bảo Hiền cho là duy nhất trong Phật giáo dòng phái thạch trụ, có
đôi mắt sáng ngời, ăn nói như gió phát khởi, oai nghi đầy đủ trang
nghiêm, Phật Nho tinh thông, văn hay chữ tốt, khiến người thấy đến
không ai không phát khởi cung kính, giống như một Tôn Hoạt La Hán.
Công Thị nói: [Thiên Chủ Cơ Đốc Giáo, có hai giáo đồ thanh niên nam
nữ, chí khí bị treo trên thập tự giá rất là phổ biến, đều cảm đến đặc
biệt oai phong cùng quang vinh, chỉ có tượng Phật bằng giấy bị treo lên
tường hoặc tay cầm tràng hạt mà tuyệt đối không có treo người, thế
mà cũng khiến cho con người khởi tâm phân biệt.] Lại nói: [ Như quả,
chúng ta trực tiếp xây dựng Phật Giáo Thanh Niên Vận Động, được
thành tích xuất sắc, số mười năm sau thanh niên Phật giáo tất nhiên
có thể treo tượng Phật tay lần chuỗi niệm Phật.] Chúng ta là nhân sĩ
Phật giáo muốn nghĩ đến có người sau kế thừa, nên đặc biệt chú ý
một điểm nói trên. Bảo Công xuất khẩu thành chương, lời nói trên
đây có lý, vì mọi sự tại người, tôi nói thực ra có thể sức mạnh
lớn ủng hộ thanh niên Phật giáo hoạt động khương lạc, ngày sau tất
nhiên có thể đến kết thúc chuẩn bị kỳ hiệu quả.
Nói đến
sáng lập Phật Giáo Thanh Niên Vận Động, Bảo Công có thể gọi ông
là trước sông mở không khí, đương thời cần phải phát khởi lạc
quyên, các giới không ai không hết lòng tán trợ, có thể quý trọng
ở chỗ trước kia gặp trước sau mưu tính chưa từng thành hình. Lúc bấy
giờ, bút giả khuyến khích Bảo Công cần nên tiết kiệm, đương nhiên
dùng tích trử tiền của vàng bạc mưu tính tìm chỗ địa điểm là quan
trọng, sau khi gặp chỗ mưu tính thành công, mới có thể ăn mừng phóng
khoáng,
Bảo Công không cho là như vậy, chấp nhận tự thân xuống nhà bếp,
biếu quả sống tốt nhất, mới có thể hấp dẫn thanh thiếu niên, kỳ
thật đây chưa phải là hết mình; như Hiệp Hội Thanh Niên Phật Giáo,
phân ra mỗi tuần lễ tại Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán hoạt động
một lần, đều không chi tiêu ăn uống, nơi tuần lễ thứ năm, buổi chiều
tại Thư Quán cử hành Hội Niệm Phật, sự ăn uống chia đều khoản tiền
tụ họp và tự nấu ăn, thế mà thường thường cũng có bảy tám hay
mười người tham gia? Tôi cho là nên cống hiến công cụ giải trí, mục
đích hướng dẫn thanh thiếu niên học tập Phật pháp, nghiên cứu chân
lý của vũ trụ nhân sanh, không nên thiên trọng nơi trên giải trí,
như quả thiên trọng nơi giải trí, lại mất đi ý nghĩa học tập. Nơi mỗi
tháng hoặc mỗi tuần lễ, phát khởi việc cử hành một thứ học Phật
ngồi giảng, hoặc niệm Phật hoặc bái sám, hoặc tĩnh tọa hoặc tham
thiền, như thế mới có bầu không khí của hội Phật Giáo Thanh Niên.
3]- Hoa
Tăng Cách Mạng Đổi Mới. Buộc Phải Hành Động.-
Hương Cảng
Phật Giáo Hiệp Hội, Hội Trưởng là Pháp Sư Giác Quang, chuẩn bị sớm
liền biết sau này không người kế thừa, đây là một vấn đề lớn rất
nghiêm trọng, nhân vì Phật là lương y, pháp là diệu dược, tăng là
người xem hộ. Phật là người xem bệnh như thế nào, chỉ mở phương
thuốc, quan hệ nơi phương diện điều phục, nhu cầu tăng lử hoàn toàn
phụ trách. Nếu như chế độ không thích nghi căn cơ, Phật pháp tuy
nhiên đối với người có lợi ích, nếu không có tăng già điều trị, thì
ai có thể biết được Phật pháp? Phật pháp mà không biết thì làm sao
có thể nương nơi pháp mà tu hành. “Kinh Hoa Nghiêm” nói: [Dụ như trong
đêm có bảo châu, không đèn có
thể thấy,
Phật pháp không người nói, mặc dù có huệ mà không thể hiểu rõ.]
Cho nên Hội Trưởng Giác Công quả quyết nói rằng: [Hoa tăng canh tân
bắt buộc phải làm, đại hạnh không tín lợi hại, riêng Hương Cảng, nơi
tòa án chỗ nêu ra các tội hình, quả như không có thu hoạch thì toà
án cho thông qua, nơi Hương Cảng cũng cần đi tìm thực thi.] Do đây mấy
câu nói chứng minh, Giác Công dự thảo thi hành đại nguyện của Bồ
Tát Địa Tạng, đại nguyện của Thực Hành Bồ Tát Phổ Hiền, đã có
hạnh nguyện, tất nhiên sẽ làm nên nhiều việc to tát.
Nào ngờ
in ra chưa đến một tháng, tin tức rất tốt lại còn tùy theo tác phẩm
in ra, nghe Pháp Sư Quả Thông nói, nơi trong Đại Tự Sơn Đông Dũng La
Hán, dự định thiết lập một [ Tăng Học Viện] Số người không hạn chế
nhiều hay ít, số học tăng trình độ phải được ngang nhau và tùy tình
hình mời thỉnh giáo sư. Thứ hai là tin tức rất tốt và lại còn nữa,
hội Phật giáo phát khởi chuẩn bị xây dựng [Cơ Sở Phật Giáo Thanh
Thiếu Niên Khang Lạc.] Cơ Sở nầy đã được Thủ Phủ Hương Cảng phát
cấp bằng công nhận phần đất công hơn năm vạn thước, dùng làm địa
điểm kiến lập cơ sở, thực là một phần kêu gọi lên cao, hiệu quả
nhanh chóng, Đây hoạt động rầm rộ trực tiếp truyền đến nhân sĩ giáo
thọ của tôi để duyệt xét, từ nay về sau Phật giáo Hương Cảng tại
đây tất nhiên chỉ có một lần gầy dựng mà thôi, đối với vấn đề Hoa
Tăng canh tân, cũng có thể tha thiết mong chờ.
4]- Bồi
Dưỡng Hoa Tăng.-
Hội
Trưởng Tăng Già Hiệp Hội là Pháp Sư Tẩy Trần, đối với vấn đề bồi
dưỡng Hoa Tăng, cũng đề xuất ba biện pháp giải quyết: (1) Một là
vấn đề kinh phí. Ngài chủ trương nên tổ chức một ban chấp hành, ký
hợp đồng biện pháp trù bị và gom góp kinh phí, cơ quan đây tất nhiên
phải độc lập, tuyệt đối không thuộc nơi bất cứ chỗ có đạo tràng
nào, dùng phương thức hội nghị hành sử quyền lực, bảo đảm trách
nhiệm phần chi thu cùng đảm nhiệm phần khoản tiền chi thu. (2) Vấn đề
hoàn cảnh. Bồi dưỡng tăng thanh niên, tất nhiên cần yếu có sở
trường độc lập, xa lìa hoàn cảnh náo nhiệt. (3) Ba là vấn đề tuyển
lựa người. Phàm là một người sư thầy cần tuyển lựa gồm đủ phẩm
hạnh học lực, không được đảm nhiệm kiêm chức vụ sự việc khác, đã
là chuyên tâm phục vụ Phật giáo, thì hội mới giúp cho lương bổng thích
hợp, để giải quyết vấn đề ăn mặc ở, nhờ đó Phật giáo hoàn toàn
mới có nhân tài, hội và ông tất nhiên có thể giải quyết dễ dàng.
Chỗ nói : [Quân tử không nói, nói tất nhiên có trong tâm.] Người
tôi nếu có thể giải quyết sẽ công bố ba điều kiện thực hành, sẽ
đem lại tăng tài tất nhiên hưng thịnh.
5]- Trước
Có Hội Nghị. Sau Cần Quyết Định Thực Hành.-
Pháp Công
từ Đài Loan đến, tôi tuy không nghe ngài giảng, đọc sách của ngài
liền biết ngài là một vị cao tăng, biết lượng tính cao xa, tông chỉ
các học thuyết đều thông. Ngài nói: [Nghe hội đã có bốn thứ điều
kiện, một hôi, hai nghị, ba quyết, bốn hành. Nhưng ngài vân vân mỗi
sau khi cử hành đại hội Hoa Tăng, chỉ có hội nghị, mà không có quyết
hành.] Lại nói; [Cần nghĩ đại hội Hoa Tăng phát sanh tác dụng canh
tân, tất nhiên phải nổ lực hợp tác, trước hết tiêu trừ ngã
kiến......,
lại đến duy nhất lần lượt tự ngã kiểm thảo, có ưu điểm nên nổ lực
tiến lên, có khuyết điểm nên triệt để cải cách.] Lại nói: [Phật
giáo không là không tiền, mà là không khéo dùng nó, kim tiền như
nước, có thể chở ghe, cũng có thể lật úp ghe.] Pháp Công cách chức
lúc hư bại, có thể gọi là một mũi kim thấy máu, dũng cảm nói
không sợ. Nhiệt tình hộ giáo pháp, người ngày nay có cảm kích chỉ
biết ngưỡng cao lên núi.
6]- Giới
Luật Không Nên Đơn Giản Hóa.-
Canh tân
tăng chế, có Pháp Sư Mổ chủ trương đơn giản hóa các điều khoảng của
giới luật. Ngài nói: [Mỗi tỳ kheo tăng, tất nhiên phải cần giữ 250
điều khoản giới luật của Phật chế, mới là tỳ kheo thanh tịnh, không
thì phạm giới, có mất tư cách của tỳ kheo, thì cần giải bỏ cà sa
hoàn tục, đây là khi Phật còn tại thế chế độ nghiêm khắc đối với
các tỳ kheo. Mà ngày nay khoa học ngày càng tiến bộ, tư tưởng nhân
loại ngày mới tháng khác diễn biến không ngừng, giờ này chỗ này
hãy hợp lại để thực hành, giống như không thích hợp, cần yếu nên
đơn giản hóa.] Nhưng tôi không dám cẩu thả đồng ý, nhân vì Phật có
giáo huấn rõ ràng: [Khi Phật còn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật
sau khi diệt độ, lấy giới luật làm thầy.] Có giới thì xưng là tỳ
kheo, không giới cùng người thế tục đâu có khác? Giới tiếng Phạn
gọi là [Thi La], Trung Hoa gọi là [thanh lương], nghĩa là trong sạch và
tươi mát; do ba nghiệp thân miệng ý của người tôi, dụ như lò lửa,
suốt ngày bị thiêu đốt, không được tự tại, nhờ có giới thì có thể
ngăn tội ác phòng sai lầm, có thể khiến tam độc nghiệp hỏa đình chỉ
ngay lập
tức, mà đặng thanh lương. Tiểu Từa thì có bảy thứ giới Biệt Giải
Thoát, có thể thọ trì một phẩm giới, tứùc là đặng một thứ giải
thoát, nếu thọ trì toàn bộ tức là đặng đại giải thoát, như thọ trì
phần nhỏ, tức đặng giải thoát phần nhỏ, nếu một phần cũng không
thể thọ trì thì như con tằm làm tổ kén, tự buộc tự trói, tội nó tự
mang, cùng người không dứt. Cho đến nói có tỳ keo mất tư cách, thì
cần giải y cà sa hoàn tục, hiện tại hội Phật giáo các nơi đều
không có quyền lực, dù có tỳ kheo phạm giới cũng không người can
dự, không giống như tòng lâm đại lục, có phạm thanh quy, thì bị trục
xuất ra khỏi sơn môn. Như nói có giới điều không thích dùng nơi hiện
tại, như [giới không cho tích trử vàng bạc châu báu], [giới chỗ lạ
không lìa ba y], [giới quá giờ ngọ không được ăn], [giới nửa tháng
bố tát một lần] vân vân, cố nhiên có rất nhiều người làm mà
không đến, cũng có rất nhiều người kiên trì giữ gìn, như quả chúng
ta đem cắt bỏ, không cần, vô hình chung tự không thể giữ gìn, cũng
không hứa biệt nhân giữ, nghiã là không gởi dục, như thế không chỉ
không công, mà ngược lại có lỗi. Kỳ thật, giới luâït tỳ kheo tuy
có 250 điều, đại bộ phận là hộ trì [năm điều đại giới]. Năm điều
đại giới của Phật giáo, cùng với năm thường của Nho gia có chỗ tợ
hồ gần rất nhiều, năm giới đây cùng năm thường, không luận xưa nay
trong ngoài, thời nào chỗ nào, không thể thích dùng sao? Tôi nghĩ
quyết không có lý này, có thể nói xưa nay không thể biến đổi, chỗ
khu vực không thể dời, do đây có thể biết đạo, tất cả chế độ đều
có thể cải biến, chỉ giới luật của Phật không nên khinh dễ đổi
thay. Phải biết một sự việc chế giới luật chỉ có Phật là một người
chế giới luật, A La Hán, Bồ Tát còn chưa dám nhúng tay vào, huống
chi phàm phu nơi biết nhiều của chúng ta, đâu dám tùy ý thay
đổi, như
quả ông cải đổi tôi cũng cải đổi, sẽ sau này không biết theo chỗ
nào và bỏ chỗ nào, giới của Phật sao không biến, nếu có biến gọi
là thật? Hiện giờ giống như tín đồ chỗ gọi cung kính người xuất gia
cho là tăng bảo, cũng xem hiện tại người xuất gia có giới, có đức
hạnh cao quý, thấy tướng liền sanh tín tâm, như quả không giới cùng
người thế tục nào khác, đã mất tăng cách, người sao có thể kính
tăng được, đã không kính tăng thì không người để quy y Tam Bảo, đã
không người để quy y Tam Bảo, thì không tín đồ Phật giáo, đã không
tín đồ Phật giáo, thì cũng không người xuất gia, đã không người xuất
gia, thì Phật pháp cũng không thể tồn tại. Tam Bảo làm sao không
diệt vong? Cổ Đức nói: [Giới là cội gốc vô thượng bồ đề, nên phải
nhất tâm trì tịnh giới.] Cho nên đối với giới luật của Phật, tôi
nhìn nhận cho nên cần phải bảo trì không biến đổi làm trọng.
7]- Y Phục
Của Tăng Đổi Đi.
Không Trở
Lại Trang Nghiêm Cùng Phân Biệt.-
Đến vấn
đề y phục của tăng, Pháp Sư Mổ nói: [Hình tròn cổ vuông áo dài
không là Phật chế, không nhất định phải ghi vào.] Tương phản là Phật
chế, chúng ta nhất định cần mặc; Phật chế ba y không lìa thân, chúng
ta có tuân mệnh không? Nhân vì chính Trung Quốc tình hình không giống
nhau, cho nên cổ đức sắp sếp hình thức chuyển biến, không phải làm
pháp sự thì có thể dùng áo lót, áo dài, thay thế Phật y, đến nay
vấn đề đây tương truyền hơn ngàn năm nay cũng không sai trái. Chúng
ta dạy có bốn thứ khuyên răn thanh tịnh minh bạch, bốn thứ đó như:
[Người tu đạo nếu không đoạn bốn thứ sát đạo dâm vọng, dù được
diệu ngộ, cũng như nấu cát
thành cơm,
cho dù tải qua trần lao, cũng không được chín, sanh tử luân hồi, vĩnh
viễn không ra khỏi.] Do đó có thể biết chúng ta quyết định không đề
xướng kết hôn, bốn thứ luật nghi chúng ta không thể không bảo trì.
Nếu không so với thế tục không khác, rất dễ nhiễm ô ác tập.
Đến nơi
người xuất gia ở hải ngoại không có mang áo dài, do nơi chỗ kia khí
trời rất nóng, đại gia nhằm phương tiện, quyết không thể cho đây là
hợp lý. Phải biết mỗi một hành động đều có đồng phục của mỗi một
hành động, như quả, không mang quần áo cảnh sát làm sao người ta
biết là cảnh sát? Không mang y phục học sinh làm sao người ta biết
là học sinh? Giả sử không mang y phục hòa thượng làm sao người ta
biết là hòa thượng? Ai nấy đều biết, Tần Quốc đến chỗ hòa thượng,
lại không ông ấy thân mang áo cà sa đến? Nhân đây chúng ta cho là
nhan sắc cùng thứ hình thức có thể canh tân, quyết không nên đem
tăng phục cải làm trang phục đời Đường hoặc trang phục theo kiểu tây
phương.
Vấn đề
nhan sắc quan hệ nơi trang phục của tăng lữ, cũng không phải thường
trọng yếu, thời xưa sinh hoạt đơn giản, trang phục cũng đơn giản, tăng
tôi mang áo hoại sắc, người không cho là lạ. Nhưng ngày nay hoàn
cảnh có khác, nhưng nếu mang y bá nạp, một miếng xám, một miếng đen,
không phải thường nên khó xem, có phần khó hạp với phong tục. Bồ
Tát dự thảo dùng tứ nhiếp pháp để hóa độ chúng sanh, mà nay cách
nhau rất xa, tế nào có thể dùng thế gian thành tựu khiến sanh hoan
hỷ hay sao? Tôi cho là nhan sắc cần phải nhất luật, thí dụ như tỳ
kheo mang màu cổ đồng thiếc, nhưng hai vị hội trưởng có thể mang màu
vàng, khiến người một khi thấy, liền biết
là lãnh
tụ. Tỳ kheo ni nhất luật mang màu xám nhạt. Như thế ra vào đều
thường trang nghiêm, khiến người một khi thấy liền biết tăng ni mới
là có biệt. Chỗ gọi là: [Phật pháp không phá tướng thế gian.] Trong
luật Phật chế tăng phục sức cùng người thế tục có khác, chính vì
tăng phục sức có khác, tự nhiên không buông lung. Giả sử bỏ phục
sức của tăng, có thể bệnh tật xuất hiện cả trăm lần, nhân đây áo
dài tất nhiên không nên cải bỏ. Năm gần đây Phật Giáo Thanh Niên
Hiệp Hội, nơi mỗi tuần, năm giờ chiều, mượn Đồ Thư Quán cử hành lễ
niệm Phật hội, rất nhiều thanh niên chưa từng mang áo dài, có thể
cảm giác bất an, tôi đặc biệt gởi những thanh niên đó đến người
bạn ở Đài Loan, gởi đến một tốp cung ứng giá rẻ, về sau bọn chúng
đều mang áo tràng niệm Phật, rất cảm giác, xem chỉnh tề rất đẹp,
tâm sanh hoan hỷ, do đây có thể thấy, áo dài cùng áo tràng đều là
tốt đẹp không biến.
8]- Thiết
Lập Học Viện Tăng Già. Tích Cực Huấn Luyện.-
Như chỗ
biết khắp cả, hiện thời người xuất gia, không luận nam nữ, chỉ có
thể tìm sư phụ riêng biệt nhờ sư phụ thâu làm đồ đệ. Cô không luận
dưới mắt có nhiều ít tăng ni, hiện nay đều có người kính ngưỡng học
vấn cùng đạo đức, nhưng người xuất gia chỉ có thể y chỉ một người sư
phụ, nhân đây, rất nhiều vấn đề lại tùy theo đó phát sanh, sư phụ
không thể chỉ dạy kinh giáo? Sư phụ không thể cấp dưỡng cho đệ tử
hoàn cảnhtu hành? Sư phụ không thể đem thân giáo chỉ bày pham hạnh?
Sư phụ không thể dùng chánh tri kiến truyền đạo cho nó? Thế là,
phải chăng giống như sự việc đầu tiên cần cho nó, nên lý do Hương
Cảng Phật G
oặc hai
Hội hợp nhau xây dựng một Phật Học Viện, tại Hương Cảng đã thu nhận
đồ chúng chín đồ chúng tăng ni, cho nên xem nó thế họcđã vượt qua,
đủ điều kiện vào [Phật Học Viện], kế tiếp trải qua kiểm tra tiêu
chuẩn thì cho chọn vào chương trình dạy cho cơ bản tri thức cùng oai
nghi của Phật giáo, thời gian một năm; sau đó giảng kinh tập luật,
thời gian hai năm. Người mới xuất gia, trải qua giáo dục ba năm, chỉ
định nó đối với giáo nghĩa cùng lễ nghi khuôn phép đều có nhận thức
rành mạch, dù rằng tất nhiên chưa đủ khả năng làm biểu tượng giáo
sư, nhưng cũng không mất làm một đệ tử Như Lai. Giáo dục kỳ hạn đã
viên mãn, các người có thể trở về các chùa của mình, tùy sư phụ
định đặt. Như có chí hoằng pháp, có thể do sư phụ của ông, hoặc do
đoàn thể hai hội tin tưỏng tài trợ tiền bạc, thâu tín đồ như thế,
không phải sư phụ hao tổn tinh thần giáo thọ, người mới xuất gia
cũng có thể dùng học tập cùng tu hành để an tâm, sắp xếp như thế,
tin tưởng đương nhiên có thể cổ động kích lệ không ít thanh thiếu
niên nam nữ, bỏ tục xuất gia, tự lợi lợi tha.
9]- Xuất
Gia Đoản Kỳ. Đào Tạo Cương Cường Mới.-
Vấn đề
Hoa Tăng tiếp toán tác giả Dương cư sĩ nói rằng: [Đến vấn đề xuất
gia Đoản Kỳ, có thể không giải quyết vấn đề người tiếp theo sau?
Đương nhiên không thể hoàn toàn dựa vào xuất gia Đoản Kỳ cho là có
thể giải quyết vấn đề, nhưng tôi cho là xuất gia đoản kỳ cũng là
phương pháp duy nhất giải quyết không người kế thừa về sau. Người
xuất gia đoản kỳ, nơi trong bảy ngày không thể ăn thịt uống rượu,
dâm dục cờ bạc, cần nên lúc nào miệng cũng thường niệm Phật A Di
Đà, tai nghe Phật pháp, mắt xem tăng lữ, thân lê Tam Bảo, tâm tư
duy trì
giới định huệ, đã trải qua đến đặng ngăn ác hành thiện có hiệu
nghiệm. Hà huống tiến lên thừa tiếp thọ 10 giới Sa Di và 6 giới
trọng cùng 28 giới khinh của Bồ Tát? Sau bảy ngày mặc dù chưa xả
giới hoàn tục, chỉ chủng tử bồ đề của giới đã vào trong tám thức
phước điền, lúc nào cũng ràng buộc thân tâm, chính đây là pháp
luật vô hình, để dùng sau này như gặp việc người phóng hỏa giết tất
nhiên có thể nghĩ phát khởi tự thân đã từng trải qua ra khỏi nhà
để thọ giới, cùng người chưa ra khỏi nhà mà thọ giới, ở trên tư
tưởng, tuyệt đối có chỗ không giống nhau. Phật gọi: [Thí dụ như một
vị cõi trời Tứ Thiên mãn kiếp xuống trần gian vào trong bậc A La
Hán, nếu như có một người mãn trăm tuổi, phát tâm cung kính cúng
dường trở thành La Hán; các La Hán đây, nào y phục, ăn uống, thuốc
thang, ngọa cụ, cho đến trước khi vào Niết Bàn, lại khởi tâm xây
tháp tu sửa đền miếu, chổ đặng công đức không bằng người xuất gia
thọ giới trong một ngày một đêm.] Chỉ một ngày một đêm còn thâu
hoạch công đức được như thế, hà huống bảy ngày bảy đêm chỗ đặng
công đức, đâu có lường được? Lại nữa, hà huống do nơi hội Tăng Già
Không Tiền Sáng đề cử vạân động xuất gia đoản kỳ, các báo đăng
tải cùng điện đài phát biểu bằng phát thanh, bằng điện ảnh trải
khắp ngàn chợ, dân cảm niệm phát khởi xuất gia, tuy nhiên hiện thời
còn chưa khả năng đạt đến nguyện vọng xuất gia luôn, nhưng hạt giống
xuất gia trở thành chủng tử, ngày sau như nghiên cứu kinh giáo thâm
sâu, không luận đời nay hoặc đời sau, chỉ cần gặp được nhân duyên
xuất gia, thân tâm buông xả, bỏ tục xuất gia. Hà huống đã có 45
lần xuất gia đoản kỳ, kết quả biến thành xuất gia trường kỳ, có
thể nói đề cử đây không là vấn đề gợi ý? Nhân đây ta cho là hội
Tăng Già phát khởi một năm
một lần
vận động độ người xuất gia đoản kỳ, nhất định có lợi ích thù thắng,
chỗ được công đức không thể nghĩ bàn.
3.-TĂNG
GIÀ LÀ KHÔNG TIÊU CỰC.-
Thường
nghe người nói: [Nhân sĩ Phật giáo không luận giảng kinh thuyết pháp,
hoặc khi cùng người nói chuyện, không đàm luận về không, chính là
giảng về khổ, thực tại tôi ngày nay không cố ý nghe! Như thế người
đời nay theo hướng con đường bi quan tiêu cực, làm sao đối với thế sự
nhân tâm lại có bổ ích gì?] Chưa từng nghiên cứu qua người lý luận
Phật giáo, ngộ nhận và trách cứ những lời không thể tưởng tượng
đến được.
Trên sự
thật, Phật giáo đã không tiêu cực, lại không bi quan, ngã Phật còn
không lạc quan, sao lại bi quan? Tất cả sự việc trong thế gian, đều
tương đối. Ngã Phật không có lạc quan cùng bi quan, có thể nêu một
thí dụ làm bằng chứng: Phật sau khi thành đạo, độ vô lượng người, Lục
Sư Ngoại Đạo, ganh ghét thâm sâu, do đó họ dạy tín đồ nữ của họ
dùng cỏ che thân, mỗi ngày lần lần kiến bụng lớn, sau đó lấy ống
cây che thân tình trạng lâm sản, mọi người đều thấy, hỏi nó duyên
cớ gì, nó đáp: [Tôi trước kia cùng sa môn qua lại nói ra vẻ sợ hãi,
cho nên mới có chửa như thế này.] Sau khi ngoại đạo nghe, giả vờ
giận dữ la lớn, thế là mang theo đồ đệ nữ, họp lại trước giảng
đường của Phật. Lúc bấy giờ Phật cùng đại chúng chính nơi giảng
đường thuyết pháp, ngoại đạo đối trước Phật cao tiếng nói rằng: [Sa
môn Cù Đàm yêu nữ đây của tôi, phạm giới dâm dục, cho nên nay có
mang.] Nhưng Phật
ngồi uy
nghi không động, nếu không có việc gì, quyết không bi quan. Do nơi tạo
tặc tâm hư vọng, tinh thần của nữ đây khẩn trương, hơn nữa bố trí
còn thiếu chưa tinh tế, bỗng mhiên ống cây che thân rơi xuống đất,
tại hội trường đại chúng thấy là ngụy tạo, liền phát lên cười
lớn. Lúc ấy đại chúng dị khẩu đồngm thinh tán thán Phật kệ rằng:
[Thân Phật sáng rực rỡ như núi vàng, thanh tịnh không cùng loại ngang
nhau, công đức viên mãn mầu nhiệm cũng như núi cao, cho nên ta cúi
đầu đảnh lễ đấng Vua Núi.] Đại chúng tuy nhiên ca tụng Phật như thế,
Phật cũng không cảm giác hoan hỷ, nhân vì Phật Đà đã trải qua đạt
đến đại giải thoát, cho nên các cảnh giới khổ lạc, sớm đã đặt
thân ngoài sự việc, sao lại bi quan cùng lạc quan?
Kinh Phật
có nói: [ Thiền duyệt nhi thực, pháp hỷ sung mãn.] ( Thiền vui thích
làm món ăn. Pháp vui mừng được tràn đầy), Người tu đạo tâm không
ham thích, thường dùng thiền duyệt pháp hỷ làm món ăn, xuất thế gian
ăn có năm thứ:
(1)- Niệm
Thực. Người tu Thánh đạo, thường bảo trì chánh niệm, tâm chánh sanh
lạc.
(2)- Pháp
Hỷ Thực. Thọ pháp lạc của Phật, trợ giúp chủng tử đạo
tăng
trưởng, tâm sanh hoan hỷ.
(3)- Thiền
Duyệt Thực. Nhân đặng định lực, nuôi lớn huệ mạng, đạo phẩm viên
minh, tâm thường hỷ lạc.
(4)-
Nguyện Thực. Không xả phạm hạnh nuôi lớn thiện căn, tùy
nguyện
được thành tựu, lời nguyện được viên mãn, tâm sanh an
lạc.
(5)- Giải
Thoát Thực. Lìa khỏi các nghiệp trói buộc, nơi các pháp
Được tự
tại, nên sanh khoái lạc.
Biểu hiện
trên mặt xem thấy, Phật giáo đồ tợ hồ có thể nói không khoái lạc,
nhân vì chúng nó chủ trương thanh tâm ít dục, thà đạm bạc mà thanh
tịnh, cũng chính nhân vì người đời thấy đến nhân sĩ Phật giáo không
cầu danh, không mưu lợi, sẽ được cùng mất, đặt các phép tắc ra
ngoài, lại vì chúng nó dùng quán từ bi. Như quả nói Phật giáo là
tiêu cực, Bồ tát Địa Tạng lại không gặp nói: [Độ tận chúng sanh,
mới chứng quả Bồ Đề, địa ngục chưa hết, thề không thành Phật.] Thật
tại giảng, không luận tông giáo nào, hoặc đoàn thể nào, thậm chí
cá nhân nào, giả sử người đó đơn độc một mặt có tiêu cực, mà một
mặt riêng có tích cực, cá nhân đây, hoặc đoàn thể đây, quyết định
không có biện pháp ở thế gian này.
Đề cử thí
dụ có người ở đền thờ của một tòa nhà lớn, trang nghiêm phi thường,
cảnh chung quanh thanh tịnh, cảnh sắc tỉnh mịch xinh đẹp, tại đây một
tăng lữ xuất gia ẩn cư, có lúc hoặc giảng kinh có lúc hoặc ngồi
thiền. Chỗ gọi là: [Không vui cũng không lo, tùy duyên vượt qua xuân
thu.] Thứ sinh hoạt tự tại thanh tịnh nhàn rỗi đây, ngày nay chúng nó
sanh khởi hứng thú ngưỡng mộ không thể so sánh. Sau chúng nó kết
quả đạt được thời gian chu đáo, liền chuyển đến Phật đường mổ để
ở. Ở ban đầu trước hai ngày vẫn còn thừa nhận vui
thích, đến
ngày thứ ba liền giác ngộ có một số kiên nhẫn cẩn thận, vừa mới
qua một tuần lễ, tất cả khiếu nại không ở, quyết định thúc dục lớn
tiếng cần về nhà. Người hỏi cớ sao, họ đáp: [Chúng tôi ở nhà bên
trong thường xem truyền hình, nghe âm nhạc, có lúc cùng bạn bè nói
chuyện trên trời dưới đất sinh hoạt đã thành thói quen, ai dự tính
đến đây, có mắt như không thấy, có tai từ chối không nghe, mặt đối
với hư không và núi non, một vùng yên tĩnh, tình cảnh như thế, cảm
nhận được sâu sắc tình trạng vắng vẻ tịch mịch đáng sợ.] Có thể
thấy sinh hoạt thanh tịnh, đều không phải dễ vượt qua.
Người
xuất gia ở lâu vùng quê ngoài thành, họ rất không biết phiền muộn
là gì? Nhân vì các vị ấy riêng có một mặt tích cực. Không giống như
người ở hoàn cảnh tại trong thành phố đây, không biết tìm kiếm một
số công tác như thế nào, suốt ngày tìm không có bất cứ sự việc gì
để làm, chỉ có một số Phật giáo đồ bận rộn công việc nên từ chối
không có thời gian cắt tóc cùng cắt móng tay. Họ vào buổi chiều
lúc mười giờ nghỉ dưỡng, giửa đêm thức giấc, chính cần yếu đứng dậy
chịu khó, lúc buồn ngủ thì ngủ trở lại, gần sáng bốn giờ ra khỏi
giường, tụng thời khóa sáng, sau đó ăn cháo sáng hoặc lễ bái Phật,
hoặc tụng kinh, hoặc niệm Phật, hoặc tham thiền, nói chung, mục tiêu
ở nơi giải thoát sanh tử, vượt khỏi ba cõi. Tất nhiên phải dũng
mãnh tinh tấn, nhưng mà suốt ngày không có dư thời gian. Chỗ gọi:
[Thân này không hướng về để vượt qua, thân này lại chờ đời nào để
vượt qua.] Do nơi tinh thần có chỗ ký thác, cho nên lìa nhà vào ở
thâm sơn mười năm, cũng không giác ngộ yên lặng. Phật giáo đồ ở
núi, còn không thể nói các vị ấy là tiêu cực; còn những vị sống ở
khu chợ, bận rộn công việc, nào phát động xây
dựng giáo
dục, văn hóa, viện thuốc, viện an lão, viện nuôi trẻ nhỏ, giảng
kinh thuyết pháp, độ người hành thập thiện, dùng lợi sanh làm sự
nghiệp, người hoằng pháp là nhiệm vụ, có thể nói các vị ấy có
phải là tiêu cực không?
Tuy nhiên
có thiểu số người, nên thực hiện Phật sự siêu độ, cũng nhân nhu
cầu của Phật giáo đồ, họ nghĩ rằng cống hiến công đức tụng kinh,
khiến người thân quyến thuộc, tiêu tai ách nạn, tăng phước tăng
thọ. Khiến không phải Phật giáo đồ, do ở nhà tai họa thay phiên lần
lượt phát sanh, hoặc quỷ tác oai tác quái, khiến người sùng bái. Như
quả năm nọ chánh phủ vận chuyển các con ngựa trường đua vì cho chỗ
đó có ma, cũng lúc đó có thỉnh các cao tăng đến trước tụng kinh, vì
họ giải oan cởi bỏ trói buộc, mặc dù chưa có thể chuyển hóa hết
tính ngang ngược làm cho phước lành an hòa, do đây xem đến, nên thực
hiện tăng đoàn, dù rằng đối với người đời cũng có không ai không
đại bổ ích.
Người thế
tục tuyệt đại đa số cần nam hôn nữ thú, sanh nam dục nữ, sợ không
được lợi mình mà đi phá thai, mưu cầu sinh kế, mà không cần tích đức,
ăn mặc ở sinh hoạt lại thành vấn đề. Nhưng đối với ăn chay niệm
Phật, tĩnh tọa tham thiền, giải thoát sanh tử, đó chính là không cảm
hứng xuất hiện hoàn toàn, tợ hồ không có rảnh việc, vì bận rộn xem
điện ảnh cùng đánh giây gay cho chim sẻ để tiêu khiển. Nói chung lại,
tích cực của bọn họ là ở phương diện vật chất, còn ở phương diện tu
tâm dưỡng tánh, nhất định là tiêu cực.
Người
xuất gia đã không cần nam hôn nữ thú, đương nhiên chính không sanh
trai dưỡng gái, hoàn toàn không gia đình
không lên
lụy ở rể, cho nên gọi: [ Một bát cơm của ngàn nhà, thân cộ độc đi
vạn dậm.] Lại nói: [ Thấy đến sơn môn chính là nhà.] Ăn ở không
thành vấn đề, áo mặc bá nạp, đi thì chỉ đi bộ, ăn mặc ở đều tự
giải quyết, thử hỏi lại cần ai giúp đỡ? Là ai là người ưu sầu?
Nhân đây không cần đi tìm cầu tích đức bằng vật chất, nên mới bị
ngộ nhận cho là tiêu cực.
Người
xuất gia chỉ cần ra khỏi nhà ba cõi, cần yếu dứt sanh thoát tử, bắt
đầu thực hành thực tế không phải dễ, do nơi chấp ngã nhân từ vô
thỉ đến nay, thất tình lục dục. Trước hết Thất Tình:
(Thất tình
là bảy tình cảm: [1] Hỷ, nghĩa là vui mừng; [2] Nộ, nghĩa là tức
giận; [3] Ai, nghĩa là đau đớn; [4] cụ, nghĩa là sợ sệt; [5] Ái, nghĩa
là yêu đương; [6] Ố, nghĩa là ganh ghét; [7] Dục, nghĩa là ham muốn.)
Lục dục,
(Lục dục, nghĩa là sáu sự ham muốn của con người, gồm có: [1] Sắc
Dục: Thấy sắc đẹp của kẻ nam người nữ sanh tâm ham muốn; [2] Hình
Mạo Dục: Thấy hình tướng tao nhã lịch thiệp của nam hay nữ liền sanh
tâm ham muốn; [3] Oai Nghi Tư Thái Dục: thấy dáng điệu phong thái lịch
thiệp của nam nữ liên sanh tâm ham muốn; [4] Ngôn Ngữ Âm Thanh Dục:
thấy nghe người ta nói khéo léo ngọt ngào êm dịu hoặc nghe ca hát
tiếng thanh nhã đem lòng ham muốn say đắm; [5] Tế Họat Dục: Thấy da
thịt mịn màng trơn tru của nam nữ sanh lòng ham muốn say đắm; [6] Nhân
Tướng Dục: thấy tướng trạng đẹp đẽ đáng yêu của nam nữ sanh lòng
ham muốn say đắm).
Thất Tình
Lục dục trở thành tâp khí đã ăn sâu, đều không phải một sớm một
chiều có thể đoạn trừ, tuy khó đoạn trừ cũng cần đoạn trừ, giống
như kẻ thù của một người cùng vạn người. Chỗ gọi: [Khó thực hành,
nhưng phải thực hành, khó nhẫn nhục nhưng phải nhẫn nhục.] Nói dứt
sanh tử, nói đâu dễ dàng, đạo tâm hơi có không kiên nhẫn, liền đọa
vào hầm ngũ dục. Người xuất gia ngoại trừ nghiêm túc giữ gìn 250
giới của Tiểu Thừa, ngoài ra giữ 10 giới trọng 48 giới khinh của Đại
Thừa, lại còn có ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, như quả không
tích cực thọ trì, thì dứt sanh thoát tử thì nhà ngươi không có dự
phần. Cổ Đức nói: [Xuất gia chính là công việc của đại trượng phu,
không phải đem việc tương đối chỗ có thể làm.] tức là nghĩa đây
vậy.
Người đời
thường hoan hỷ nói người xuất gia thường có bệnh tật, trên sự thật,
tăng lữ chính là người phàm phu học rộng, thực tại học tập trực
tiếp thánh hiền, học nhiều ít thì tính toán nhiều ít, đều ở tiểu nhi
mới vào con đường học hành, trạm phát khởi bước đến, nhất định gặp
nghiêng về từ đông đến tây, có ai đảm bảo chứng minh chúng nó
không bị bện tật, giả sử đích thực học đến khi không bệnh tật, đó
chính là thành người thánh. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng nói: [Nếu người
tu đạo chân chánh, không thấy lỗi thế gian, nếu thấy người khác
không lỗi, tự mình không lỗi là sai lầm.] Ý nghĩ là nói, thấy lỗi
người khác, tức là mình lỗi, nếu cần làm người học thức chân
chánh, nên lúc ấy thường kiểm thảo chính mình mới đúng.
Người
xuất gia cũng phân hai bộ phận, một phận người ở tại thâm sơn cổ
miếu, miệt mài khổ tu hoặc ngồi nhập định
tham
thiền, hoặc tụng kinh niệm Phật, như thế không thể nói chúng nó là
yếm thế tiêu cực. Tỷ như một số người chuyên đọc sách, đầu tiên
cần bồi đắp và tăng cường học vấn cho chính mình, sẽ đến một ngày
sau khi học thành tài, mới có thể phục vụ cho xã hội. Người xuất
gia cũng là như thế, trụ ở thâm sơn khổ tu, một ngày khi có chỗ
thành tựu chính cần xuống núi hoằng pháp lợi sanh. Đề cử thí dụ
chính có một Pháp Sư Thánh ở Hương Cảng, Pháp sư Diệu Liên, ở Đoài
Loan có Pháp sư Ấn Thuận, Pháp sư Thánh Nghiêm, hồi còn trẻ đều ở
thâm sơn bế quan khổ tu nhiều năm, hiện nay đã xuống núi, thâm nhập
vào xã hội, giảng kinh thuyết pháp, chính thật tiển [Lợi sanh làm sự
nghiệp, hoằng pháp làm nghĩa vụ] Đích thực là sự nghiệp của Bồ Tát.
Riêng có
một bộ phận người xuất gia tinh thông Phật pháp, không trụ thâm sơn
khổ tu, trước hết phát nguyện hóa độ chúng sanh. Kinh Phật có nói:
[Tự mình chưa độ, làm sao có thể độ người, đây là phát tâm Bồ
Tát.] Nhân đây sáng lập cơ sở giáo dục, phát huy y viện, phát dương
văn hóa, kiến lập viện dưõng lão, diễn giảng Phật pháp, độ người
thọ trì ngũ giới, tu thập thiện, tịnh hóa xã hội, thay đổi phong tục
tập quán, đề xướng tịnh độ nhân gian, suốt ngày bận rộn không thể
giao lưu. Cụ thể như Pháp sư Tẩy Trần sáng lập rất nhiều học hiệu
Phật giáo, chùa Diệu Pháp trong 20 năm gần đây tổ chức thọ Bát Quan
Trai Giới, đây đều là do năng lực của Pháp sư Tẩy Trần, nhân vì
chùa Diệu Pháp chính là một tay của Pháp sư sáng lập, các vị thấy
đến chùa Diệu Pháp kiểu rất rộng lớn, có thể tưởng tượng đến khí
phách của Pháp sư Tẩy Trần vĩ đại như thế nào; còn Pháp sư Khả Tích
đã trải qua cay đắng khổ sở liên lụy đến, nếu
rần ở
đây trong mười năm có thể sáng tạo rất nhiều sự nghiệp, sự phát
triển của Phật giáo Hương Cảng, đương nhiên không chỉ ở đây mà thôi,
khả năng hưng thịnh vượt xa hơn hiện tại.
Cần yếu
hoằng dương Phật pháp đúng là bọn thất phu chúng ta có trách nhiệm,
từ thành công của Pháp sư Tẩy Trần, ta có thể tin chắc, chỉ cần có
sức đại nguyện, đại tài trí, nhất định có thể đem Phật giáo Hương
Cảng phát khởi chấn hưng trở lại, đệ tử Tam Bảo, có thể không phát
nguyện, có thể không phấn đấu, chỉ nổ lực cầu tiến lên được không?
HỌC PHẬT
VĂN TẬP VI
I.- PHẬT
BỒ TÁT CÙNG CHÚNH SANH.
I).-
PHẬT THÍCH CA MÂU NI CÙNG MẤU CHỐT TẮM PHẬT.-
Thái Tử
Tất Đạt Đa khi đản sanh cùng quần chúng không giống nhau, ngài giáng
thế từ sườn bên hữu của mẫu thân Ma Da Phu Nhân, thân thể sanh ra
đặng nhan sắc tợ vàng kim, thân có đầy 32 thứ hảo tướng, phóng ra
ánh sáng to lớn, hùnh vĩ như bảo sơn. Đều không giống như các con
cháu dân thường, Thái Tử Tất Đạt Đa, không phải chỉ không khóc, khi
sanh ra tự đi bảy bước, tai mặt chỉ lên trời, tai trái chỉ xuống đất,
lón tiếng nói: [Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.] Mười phương
ba đời cũng không thể so sánh, đương nhiên là người bậc thầy vô
thượng của trời người.
Khi thái
tử sanh, người đời có các thứ cát tường hy hữu, thí dụ như, bầu
trời quang đãng vạn dậm, đại địa chấn động, trăm hoa đua nở, thiên
thần bảo vệ, đại địa khí tượng sung mãn nào là hòa bình, từ bi cát
tường, mừng vui vân vân, lúc đấy có Tứ Thiên Vương, Đao Lợi các
Thiên, đều đem 12 thứ nước hương thơm và các thứ danh hoa, từ hư không
rải xuống, tắm rửa tẩy trần Thái Tử, gồm có cung nữ vẻ đẹp bưng
bồn vàng tắm thái tử, cho đến dùng hương hoa danh quý thoa lên mình
thái tử; theo sau đó có các thứ ca hát thanh nhã theo nhịp điệu đàn
sáo, ngay lúc đó, vô lượng nhân thiên ủng hộ hai bên, hân hoan
khuyến khích, thiên thần địa chấn, ở cõi
trên
dưới, đều nhiệt liệt chúc thọ Thái Tử Tất Đạt Đa giáng sanh ngày
lành cảnh đẹp. Do đây các thứ triệu chứng, có thể thấy Thái Tử
Tất Đạt Đa đều không phải là thân của một vị phàm nhân, mà chính
là một vị Đại Thánh giáng thế đầu đội trời chân đạp đất, mục đích
là cần thiết lập khắp thuyền từ lục độ, cứu thoát khổ não của vô
lượng chúng sanh.
Sau khi
Phật diệt độ, nhân vì tín đồ Phật giáo cần kỷ niệm ngày Đản Sanh
của Đức Phật, dùng biểu tượng ngưỡng vọng cùng tôn kính đối với
Phật đà, nguyện mây từ của ngài biến khắp ba ngàn thế giới, nước
bi rộng lợi tất cả hữu tình, cho nên mỗi năm đến ngày đầu 8 tháng 4
âm lịch, hoặc ngày 15 tháng 4 dương lịch, tín đồ toàn thế giới, tất
nhiên có lần lượt long trọng tổ chức nghi lễ tắm Phật.
Tín đồ
nước tôi mỗi năm cử hành nghi thức tắm Phật, hoàn toàn dùng bồn
trong sạch và thanh khiết, trước hết để trên bàn cúng. Cũng có chỗ
dùng các bó hoa tươi cắm thành cung điện theo kiểu nhà nhỏ, đem tượng
Phật để tắm an trí chính giữa trong bồn đặt giữa cung điện. Kế đến
rải hoa thơm trong bồn để tắm Phật. Người ăn chay thanh tịnh y phục
chỉnh tề tập trung tụng kinh trì chú, niệm đến câu [Ngã kim quán dục
chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, ngũ trược chúng sanh
linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân], đại chúng sắp xếp
theo thứ tự ra khỏi vị trí, đến trước tượng Thái Tử lại xuống một
lễ, quỳ xuống, kiền thành phụng đàn hương một biện, cấm vào trong lư
hương nhỏ, sau đó cầm lấy muỗng canh tắm hai lần hai cánh tay của
Thái Tử, tiếp theo lạy Phật một lễ rồi trở về vị trí. Đương nhiên
các vị sau khi hành lễ xong, đại chúng nhất tề quỳ xuống hiến cúng,
liền đem cơm cúng Phật mỗi mỗi bưng chén cơm cúng Phật đưa lên
ngang
tráng trên đầu, mặc niệm quán tưởng, cúng dường thập phương thường
trụ Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Tức là đem Tam Đức (Tam Đức gồm có:
a)- Pháp
Thân Đức, tức là Pháp Thân, làn bản thể của Phật, trong
người
của mình có pháp tánh thường trụ chẳng diệt;
b)- Bát
Nhã Đức, tức là trí huệ, nghĩa là cái Pháp Tướng chân thật
giác
ngộ trọn vẹn;
c)- Giải
Thoát Đức, nghĩa là công đức xa lìa mọi sự trói buộc, rất được tự
tại.
Trong ba
đức trên gồm có bốt đức Niết Bàn: Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh).
Lục Vị
(Lục Vị nghĩa sáu mùi vị, gồm có: [1] khổ: đắng, [2] toan:
chua, [3]
cam: ngọt, [4] tân: cay, [5] hàm: mặn, [6] đạm:
lạt.)
mỗi mỗi
truyền đến trên mâm cúng Phật, đại chúng lại cao tiếng xưng niệm
danh hiệu các đức Phật và các Bồ Tát, mỗi một tiếng Phật đánh một
tiếng chuông, pháp sự hoàn mãn, đại chúng lễ bái từ biệt Phật trở
về nhà chính.
Đến nơi
vấn đề Phật Đản, nên dùng thống nhất nơi thế giới làm nguyên tắc,
đo vì nơi khi Phật còn tại thế, Ấ Độ có khoảng mười quốc gia, chỗ
sửa chữa năm tháng đều không giống nhau, lịch sử hổn độn phi thường,
như thế kết cuộc ở ngày nào tháng nào, không pháp khảo chứng, vĩ
nhiên đã
như thế,
không luận sửa chữa nhất định ngày nào tháng nào, đều không quan hệ
lớn lao.
Mặc dù
Phật gíáo đồ Nam Bắc Truyền không có truyền thừa thống nhất, nhưng
thời gian ngày Phật Đản của Nam Truyền Bắc Truyền khoảng cách khác
nhau không xa, Phật Đản của Nam Truyền là ngàỵ 15 tháng 4 , Phật Đản
của Bắc Truyền là ngày 8 tháng 4, mọi người đều công nhận không xa
nhau bảy ngày mà thôi. Tuy nhiên ngày Phật Đản của Nam Bắc Truyền
theo trên tập quán không thể thống nhất, chỉ là tín đồ của Tiểu
Thừa của Đại Thừa, đối nơi đây là ngày tháng của một vị thánh nhân
vĩ đại ra đời, điều kiện thời hạn định trưóc, chuẩn bị đến giờ khánh
chúc, long trọng cử hành nghi thức tắm Phật, để biểu hiện cảm niệm
Phật Đà hoằng thâm bi nguyện tế thế độ nhân.
2)- Quan
Thế Âm Bồ Tát Thành Đạo.-
Nước ta
phụ nữ và nhi đồng đều biết, ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày kỷ
niệm thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Âm. Kỳ thật, Bồ Tát Quán Thế
Âm nơi vô lượng kiếp về trước sớm đã thành Phật, tên của Phật là
[Chánh Pháp Minh Như Lai]. Đương thời đức Thích Ca còn tại thế, đệ tử
còn tu khổ hạnh. Đến khi đức Thích Ca thị hiện thành Phật, Quán Âm
lại là đệ tử Phật Thích Ca, chỗ này gọi là: [Phật xuất thế có
ngàn Phật phò trì.] Chư Phật xuất thế, thị hiện thành Phật, giống như
trên vũ đài diễn kịch nào là hóa trang thân nam, hóa trang thân nữ,
biểu diễn cha hiền, biểu diễn con hiếu, kỳ thật, đều là phương tiện
thiện xảo, dẫn đạo chúng sanh đồng lên bỉ ngạn mà thôi.
Do nơi
Quá Thế Âm Bồ Tát, bi nguyện hoằng thâm, tế độ những tâm khẩn
thiết, cho nên [Ngàn chỗ khẩn cầu ngàn chỗ ứng, biển khổ thường
tạo thuyền từ tế độ người.] Đối với người chỗ cần đến thân nam
hoặc thân nữ để độ, liền hiện thân nam hoặc thân nữ vì chúng nó
hoặc các cô mà thuyết pháp, nên dùng thân trưởng giả, tân cư sĩ
vân vân để độ, cũng hiện thân trưởng giả, thân cư sĩ vân vân, vì
chúng nó mà thuyết pháp, mục đích chỉ cầu đạt đến để độ tha hoặc các
cô. Quán Âm Bồ Tát người đời đa phần đắp thành tượng nữ, có tên
gọi là [Tống Tử Quán Âm] (Quán Âm tặng con cho), lại cũng gọi là
[Quán Âm Nương Nương] (Hoàng Hậu Quán Âm), mọi người đều nhận cho
Quán Âm là một vị Thần Nữ. Kỳ thật, Quán Âm thành Phật đã lâu,
chính là do hóa thân mà thị hiện, cũng không giống như tượng ngài
Văn Thù cùng Di Lặc là từ cha mẹ mà giáng sanh, đều không phải là
nữ thần, mà lại Bồ Tát đã lâu chiếu thấy ngũ uẩn đều không, là
không thấy có tướng nam nữ.
Có như
trong “Kinh Duy Ma”, Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ rằng: [Nhà ngươi do vì
không chuyển thân nữ?] Thiên Nữ đáp: [Tôi từ mười hai năm trở lại,
cầu tướng nữ nhân, hoàn toàn không thể được, nên làm sao chuyển?
Thí dụ như huyễn sư hóa làm huyễn nữ, nếu có người hỏi, do vì không
chuyễn thân nữ, là người vì hỏi không đúng lúc?] Xá Lợi Phất nói:
[Không vậy, huyễn không định tướng, đương nhiên chuyên làm gì.] Tức
thời Thiên Nữ dùng sức thần thông, biến Xá Lợi Phất khiến thành
Thiên Nữ, thân Xá Lợi Phất đã bị biến hóa như thế, mà lại hỏi:
[Lý do gì không chuyển thân nữ?]. Xá Lợi Phất dùng tướng Thiên Nữ
mà đáp: [Tôi nay không biết vì sao chuyển biến thành thân nữ?] Nghĩa
đây tức là thuyết minh, kia đây tuy hiện có tướng nam nữ, không nên
chấp nói là có
nam có
nữ, Quán Thế Âm Bồ Tát, tùy nam hiện nam, tùy nữ hiện nữ, lại
cũng như thế, không có định tướng.
Cứu
cánh Quán Thế Âm là tu phương pháp gì mà được ngộ đạo? Phật Thích Ca
chưa từng đề cập đến ngày tháng năm sanh của Bồ Tát, căn cứ nơi Bồ
Tát tự mình tường thuật là từ nơi vô lượng kiếp về trước, tại cổ
Phật Quán Thế Âm giáng trần, tu theo tiếng tư duy mà đặng thành đạo.
Đầu tiên do cửa lổ tai hạ thủ khởi tu, hồi quang phản chiếu, tâm
quang tập trung vào trong, có thể xem nghe người cứu cánh là ai? Chỗ
nghe đã có động tịnh sanh diệt, tánh nghe tự không có lay động, do
đây đủ chứng minh, có lay động tức có sanh diệt, không lay động tức
không sanh diệt. Người đời không rỏ tánh có thể nghe, vốn không sanh
diệt, chỉ biết thinh trần của chỗ nghe, là có là không, che mất chân
tâm, nhận vật cho là mình, vật sanh ngã cũng theo đó mà sanh, vật
diệt ngã cũng theo đó mà diệt, cho nên không thể trốn ra khỏi sanh
tử luân hồi.
Quán
Thế Âm Bồ Tát đều không thấy biết của phàm phu, vì bụi trần phóng
nhanh theo động tịnh sanh diệt vân vân, Mà đây chính là tánh nghe nội
quán, từ cạn đến sâu, từng bước đạt được vào dòng ra ngoài chỗ
quay lưng lại bụi trần, hòa hợp nơi giác ngộ, khiến hai tướng động
tịnh bổng nhiên không sanh, đến đây bụi trần sở nghe dĩ nhiên đã tịch
tịnh, căn nguyên năng nghe cũng tùy theo đó tiêu diệt, căn trần đã
diệt, năng sở đều tiêu. Do đây gắng công thực hành, đem trí năng
giác cùng cảnh sở giác, cả hai đều hoàn toàn không có. Chẳng qua,
có lý của năng không cùng sở không, đều thuộc pháp ái, không đặng
tự tại, do vì lại đem năng không cùng sở không cũng cần cả hai đều
không. Tổng kết, do trên
động
diệt tịnh sanh, tịnh diệt căn sanh, căn diệt giác sanh, giác diệt
không sanh, không diệt diệt sanh, đều có sanh diệt tồn tại, đây
thuộc vi tế, cho nên nơi sau cùng đem sanh diệt cũng cần giải trừ,
mới có thể đạt đến cứu cánh tịch diệt hiện tiền, đặng đại thọ
dụng. Tịch diệt chính là từ vô thỉ đến nay, vốn tự không sanh, cũng
chưa từng diệt. Quán Âm đến đây đích thân thấy bản lai diện mục,
đạt đến chân tâm thường trụ. Cho nên gọi là [Thành Đạo].
Quán
Thế Âm sau khi thành đạo, tức là chỗ năng chứng ở trên cùng chư
Phật trong mười phương không có hai và không khác nhau, ở dưới cùng
bi ngưỡng của tất cả chúng sanh chỗ đạt được đều đồng thể. Chính vì
nhân duyên đây, phàm người đời có thân thì bị khổ nạn, ngưỡng cầu
thương xót san bằng khổ nạn, Bồ Tát Quán Thế Âm, liền bố thí thần
lực vô úy, vì chúng nó san bằng tất cả khổ nạn. Cho nên Bồ Tát
Quán Thế Âm, tại Trung Quốc sự tích Quán Thế Âm thường thị hiện cứu
khổ tế độ người đời, từ xưa đến nay, đều thấy các sử ghi lại, hoặc
do miệng lưu truyền, khắp nơi đều thế, không sao kể xiết. Mọi người
biết đạo đều nghe danh hiệu cao thượng chính là [Nam Mô Đại Từ Đại Bi
Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát].
Bồ Tát dĩ nhiên đã có cầu đều có ứng nghiệm, không cảm thì không
thông, chúng ta tức thời nên thường xưng niệm, lễ bái, cung kính,
cúng dường, nhất định gặp trong vô hình được linh cảm đến Bồ Tát
bằng cách cảm ứng hiển bày hoặc cảm ứng sâu xa, đều được lợi ích,
tùy theo chỗ nguyện mà được thành tựu.
3)- Phật
Dược Sư Cùng Chúng Sanh.-
Ngày 30
- tháng 9 - âm lịch là ngày lành Thánh Đản của Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, mọi người đối với Thánh Đản Phật Thích Ca Mâu Ni và Quán Âm
đều nghe tường tận quen tai, nhưng đối với ngày lành Thánh Đản của
Phật Dược Sư, tợ hồ so sánh xa lạ. Kỳ thật, nguyện lực từ bi của
Phật Dược Sư, đối với chúng ta có ai không được lợi ích lớn, nếu
chúng ta mù quáng không biết đến, đâu không là phụ lòng bi nguyện
hoằng thâm của Như Lai?
Phật
Dược Sư lại gọi là Phật Đại Y Vương, nhân vì Phật có thể trị liệu
tất cả thân tâm tật bệnh của tất cả chúng sanh, Phật cũng do đây được
danh hiệu này. Chúng ta đã biết đạo, đều biết thế giới ta bà có
Phật Thích Ca, thế giới cực lạc phương tây có Phật A Di Đà, mà thế
giới tịnh lưu ly phương đông có Phật Dược Sư. Bên trái bên phải của
Phật Thích Ca có hai thị giả là Ca Diếp và A Nan; Phật A Di Đà thì có
Quán Âm cùng Đại Thế Chí phu ïtá; bên trái bên phải của Phật Dược
Sư thì có hai Bồ Tát Nhật Quang cùng Nguyệt Quang phụ tá.
Nguồn
gốc của đức Phật Dược Sư, chính do Văn Thù Sư Lợi hướng về đức Phật
Dược Sư thỉnh hỏi, đức Phật ở dưới gốc cây Dược Âm, vì đại chúng
nói ra nhân địa cùng quả chứng của đức Phật Dược Sư, trải qua về sau
người bắt đầu kết tập thành một bộ “Kinh Dược Sư”. Nội dung kinh
Dược Sư, đại ý là nói, do từ đây hướng về phương đông trải qua mười
hằng hà sa số cỏi Phật, có thế gới gọi là Tịnh Lưu Ly, nước này có
Phật hiệu là [Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai]. Phật khi đầu tiên hành
đạo Bồ Tát, phát 12 lời đại nguyện lược thuật như dưới đây:
1)-
Nghuyện khi thành Phật, tự độ và độ tha đều hiện đủ 32 tướng
cùng 80
vẻ đẹp.
2)-
Nguyện tự độ và độ tha hiện thân thể như lưu ly, ánh sáng nội
ngoại
thấu triệt như mặt trời mặt trăng.
3)-
Nguyện tự mình chỗ có trí huệ đạt được khéo dùng phương tiện xảo
giáo hóa chúng sanh, khiến người người thâu hoạch tất cả
lương
thực tràn đầy nhà kho.
4)-
Nguyện người tu tà đạo, khiến họ đều quây về chánh đạọ, nếu kẻ tu
tập tiểu thừa, cũng khiến họ quây về đại thừa.
5)-
Nguyện người tu phạm hạnh, đều khiến họ không bị phá giới, nếu họ
đã bị phạm, được nghe danh tôi, lại được thanh tịnh, không đọa vào ác
đạo.
6)-
Nguyện người đời thân bị xấu xí hoặc các căn không đầy đủ, nghe đến
tên tôi các căn đầy đủ trở lại, hình tướng đoan chánh.
7)-
Nguyện người đời nếu sanh các thứ ác bệnh hoặc bần cùng khốn
khổ, tai
nghe một lần tên tôi, các bệnh liền đặng tiêu trừ, thân
tâm an
lạc.
8)-
Nguyêïn có người nữ muốn xả bỏ thân nữ, nghe đến tên tôi liền
có thể
chuyển nữ thành nam, đầy đủ tướng trượng phu.
9)-
Nguyện chúng sanh muốn lìa khỏi ma chướng, nên tu tập lần
lần các
hạnh Bồ Tát.
10)-
Nguyện người nếu gặp nạn tai ương, nghe đến tên tôi liền có
thể bị
hung ác hóa thành kát tường, gặp tai nạn liền được bình
an.
11)-
Nguyện người nếu bị đói khát bức bách, thân tâm chịu khổ, nghe
đến tên
tôi liền có thể đạt được lương thực mầu nhiệm, lìa khỏi
các khổ
não.
12)-
Nguyện người bần cùng không có áo để mặc, lạnh nóng bức
não,
nghe đến tên tôi, có thể đạt được y phục nhung gấm ấm
đẹp.
Phật
Dược Sư tại nhân địa của Ngài đã phát đại nguyện như thế, một ngày
được thành Chánh Đẳng Giác, liền tất cả như nguyện, thế giới của
ngài không có các khổ và ba đường ác, đại địa toàn là bảy báu tạo
thành, người phàm sanh đến nước của ngài, liền có thể thấy Phật
nghe pháp, một đời đạt đến thành Phật, trung gian vĩnh viễn không
thối chuyển, cũng như thế giới cực lạc phương tây, công đức trang
nghiêm, không có sai khác
Trong Kinh
lại nói, nếu người tự giúp đỡ người khác giết hại, tạo các ác
nghiệp, bị đọa vào ba đường ác, chịu đựng các thứ thống khổ. Nhưng
nhơn khi còn sanh tiền, từng nghe danh tự Phật Dược Sư, do nơi công đức
nghe tên Phật, liền có thể thoát khỏi các khổ, đặng đại giải
thoát.
Bi tâm
đại nguyện của Phật Dược Sư, nơi nơi vì lợi sanh dựa vào sự mong
muốn, đang ở trong định phóng quang nói thần chú. Nếu người lo nghĩ
nhiều đầu đau nhức chân đau nhức, thân bệnh tâm bệnh, hoặc bệnh tật
nào xấu xí ngu đần cùng mắt mù tai điếc câm ngộng vân vân, nên tắm
rửa súc miệng cho sạch, đem đồ ăn hoặc thuốc thang, hoặc nước trong
sạch cúng nơi trước Phật Dược Sư, dùng đến tâm chí thành niệm chú
Dược Sư 108 biến, hoặc tự ăn lấy hoặc giúp người khác uống, chỗ có
bệnh khổ, tất nhiên có thể tiêu trừ. Trì chú Dược Sư cùng niệm danh
hiệu Phật Dược Sư, có thể thâu hoạch công đức bất khả tư nghì, nếu
có thể mỗi ngày tụng “Kinh Dược Sư” một biến, công đức lại không
thể lường được.
Chúng ta
đã biết công đức của Phật Dược Sư, tốt nhất là thời gian khánh đản
của Phật Dược Sư, lại nên gia công thật hành niệm danh hiệu Phật,
hoặc trì chú Dược Sư, hoặc tụng “Kinh Dược Sư”, một là phương diện tự
mình tiêu tai sống lâu; hai là phương diện cảm tạ Phật Dược Sư, vì
chúng ta phát ra 12 thứ hoằng nguyện, chúng ta nên khánh chúc thánh
đản Phật Dược Sư, các giới thiện tín ỏ chùa Trạm Sơn nơi Hương Cảng,
thường lễ bái “Dược Sư Bảo Sám” và tụng “Kinh Dược Sư” suốt bảy
ngày, dùng công đức này cầu nguyện thế giới hòa bình, nhân dân an
cư lạc nghiệp.
4)- Phật
A Di Đà Cùng Thế Giới Cực Lạc.-
Có
người hỏi: [Người chứng đặng sáu căn thanh tịnh cùng tứ đại đều
không, đã không còn hỷ nộ ái ố dục, tại sao lại cầu sanh thế giới
tây phương cực lạc?] Phải biết ngã Phật thị hiện dạy bảo, tuy có
ngàn sai vạn biệt, không luận niệm Phật, tham thiền, tụng kinh, lễ
sám, đều là khác đường mà cùng về một chỗ, chỉ đạt đến quả Phật
làm mục đích. Măc dù người đây theo lý đã chứng đặng lục căn thanh
tịnh cùng tứ đại đều không, nhưng cách chỗ Phật vẫn còn có 42 giai
đoạn, nhu cầu thời khắc ra sức tự cường không dứt tranh thủ bơi lên.
Có như
nhi đồng đi học, đọc sách từ trẻ thơ, nhưng chưa tiến tu đến tiểu
học, trung học, đại học, trình độ trưóc vẫn còn xa, ngày sau mới lớn
lên. Kẻ tu đạo cũng vậy, từ có tu niệm cho đến vô niệm, từ vô
niệm tu đến không niệm mà niệm, do không niệm mà niệm, tiến lên mà
chuyển thành đại dụng phồn thịnh hưng khởi, tiến thêm nữa từ đẳng
giác cho đến diệu giác, tiếp theo cho đến cứu cánh quả Phật viên
mãn. Kẻ tu đạo thời gian chưa đến cõi Phật cứu cánh viên mãn, liền
chuyển sang cần cầu đến thế giới cực lạc phương tây, chỉ tu trì một
pháp xưng danh niệm Phật, niệm mãi đến khi nào thành Phật mới thôi.
Do đây
lại biết, tuy đặng sáu căn thanh tịnh cùng tứ đại giai không, nhưng
cần xưng niệm A Di Đà Phật, cầu sanh thế giới cực lạc phương tây.
Nhân vì cõi kia không có vướng mắc sanh già bệnh chết, thanh sắc
tiền tài lợi danh không bị lôi cuốn mê hoặc, các bậc thượng thiện
tụ hội một chỗ, tu đạo trợ
duyên
thù thắng dị thường. Người nếu sanh đến cõi kia, không phải chỉ vĩnh
cữu không đọa tam đồ, mà lại một đời có thể đạt đến vị Phật bổ
xứ. Nhưng không phải trôi theo làn sóng, tùy ý niệm bao nhiêu tiếng
Phật hiệu, kết cuộc không phải lao lực nhưng vẫn thu hoạch. Nhất định
phải khó khăn đến mấy cũng không nản chí, miệt mài khổ tu chuyên
chở một năm lẽ tám, do xưng danh niệm Phật mà được nhất tâm bất
loạn, trời đất đều không, đến cảnh giới nhân ngã đều không, mới
có thể có chỗ thành tựu.
Nguyên nhân
con người đây nhân thiện nghiệp quả đồng nhau, cho nên sanh chung một
chỗ, sao có ngăn ngại? Có như nhân loại trong thế gian, người nghèo
cùng người nghèo vui mừng được ở chung một chỗ, người giàu cùng
người giàu nguyện trụ một nơi, quân tử cùng mưu phước lợi, tiểu
nhân đồng lợi làm bạn hữu, mỗi mỗi không lẫn lộn nhau. Người tôi
đã dùng xưng niệm công phu, chứng đặng lục căn thanh tịnh cùng tứ
đại đều không, đương nhiên người có thể chứng đặng sáu căn thanh
tịnh cùng tứ đại đều không, chung ở thế giới tây phương cực lạc,
đồng hưởng pháp lạc, lục thông tự tại, diệu dụng vô cùng, đặng
đại giải thoát.
Phật
nói thế giới có vô lượng vô biên, nhân loại nếu tạo ác nghiệp,
tức sanh thế giới khổ não, nếu tạo thiện nghiệp, tức sanh thế giới
cực lạc, nếu tạo không phải thiện không phải ác, tức sanh thế giới
không khổ không vui, thiện ác đã có ngàn sai vạn biệt, thế giới
cũng có vạn sai ngàn biệt, nhân tâm không đồng, giống như mặt
người, thế giới không đồng, giống như tâm người. Thế giới tuy có
ngàn sai vạn biệt không giống nhau, chung quy không ra ngoài một niệm
tâm của tôi,
nghĩa là
dùng một niệm thiện tức thiên đường, một niệm ác tức địa ngục, một
niệm tịnh tức thánh nhân, môt niệm nhiễm tức phàm phu. Thế giới cực
lạc phương tây, mặc dù cách xa mười vạn ức lộ trình, nếu người có
thể dùng công phu xưng niệm, chứng đặng lục căn thanh tịnh cùng tứ
đại giai không, chúng ta trong cõi dơ bẩn năm trược ác thế, ngay lúc
đó biến thành cõi an lạc thanh tịnh, cõi kia cõi đây không cách đầu
sợi lông, sao phải bỏ gần cầu xa? Cổ Đức nói: [Sanh thì quyết định
sanh, đi thì thật không đi.] Quyết định sanh đây tức là chuyển phàm
thành thánh, thật không đi đây tức là lập địa thành Phật, hai ý sanh
đi kỳ thật chính là không phân biệt mà phân biệt, phân biệt mà
không phân biệt. Do đây có thể thấy, kỳ thật cầu sanh thế giới cực
lạc phương tây, cũng là đạt đến cảnh giới lục căn thanh tịnh cùng
tứ đại giai không, người đạt đến lục căn thanh tịnh cùng tứ đại giai
không, cũng tự có thể đạt đến cảnh giới mầu nhiệm của thế giới
cực lạc phương tây. Hiện tại nhân vì chưa có đạt đến quả Phật tuyệt
đối viên mãn, cho nên cần xưng niệm Phật A Di Đà nơi thế giới cực
lạc phương tây, khiến đoạn trừ nghiệp lực của vô minh phiền não,
vào biển tánh của bình đẳng cứu cánh, mới là mục đích sau cùng của
kẻ tu đạo.
5)-
Nguyên Do Tiết Mục Vu Lan Bồn.-
Ngày 15
tháng 7 âm lịch là ngày Phật hoan hỷ, tục xưng tiết mục Vu Lan Bồn
hoặc Vu Lan Thắng Hội. Ở Hương Cảng chín nơi cử hành lễ Vu Lan Thắng
Hội, nhất là tập đoàn kiều bào Triều Châu cùng hàng xóm, đều có
một lần tổ chức nghi thức trọng thể, tạo đại pháp hội, đốt áo thí
thực, cúng dường cô hồn, ảnh hưởng vô cùng, liền khiến một nhóm
dân chợ,
không ai
không cho Vu Lan Bồn là tiết mục của quỷ. Kỳ thật, đại chúng đối
với tiết mục Vu Lan Bồn đích thực chân chánh hợp nghĩa, đã vậy ngày
càng chểnh mảng. Do nơi không biết nguyên do của nó, tự nhiên khó
dùng chiếu soi nguyên ý của nó để thật hành, đại chúng chỉ là căn
cứ kiểu tranh vẽ hồ lô, không hỏi xanh vàng đỏ trắng.
Vu Lan
Bồn nguyên là tiếng Ấn Độ, dịch thành tiếng Trung Hoa, ý nghĩa là
[giải đảo huyền]. Là nói chúng sanh thọ khổ cực trọng, giống như
đảo ngược, hiện tại có người thiết lập pháp cứu khổ. Nước tôi cử
hành lễ trai đàn Vu Lan Bồn, là mở đầu nơi Lương Vũ Đế Đại Đồng năm
thứ tư, sau lần lần thạnh hành, một mực lưu truyền đến nay.
Cốt
truyện tiết mục Vu Lan Bồn, nguyên xuất ra từ tôn giả Đại Mục Kiền
Liên của Phật giáo. Mục Liên là một trong mười đại đệ tử lớn của
đức Phật Thích Ca, ngài sau khi xuất gia tinh tấn tu đạo, không bao lâu
liền chứng quả A La Hán, đạt được sáu pháp thần thông. Chỗ gọi
thần thông là:
1)- Thần
Túc Thông, biến hiện tự tại, qua lại không trở ngại,
2)-
Thiên Nhãn Thông, thiên đường địa ngục đều thấy không trở
ngại,
3)-
Thiên Nhĩ Thông, xa gần nghe tiếng không trở ngại,
4)- Tha
Tâm Thông: tâm niệm người khác, tất nhiên biết không trở
ngại,
5)- Túc
Mạng Thông, biết mình và người, tiền thân không trở ngại,
6)- Lậu
Tận Thông, phiền não lậu tận, sanh tử không trở ngại.
Mục
Liên sau khi tự xuất gia, chưa có thể biết vong mẫu sanh nơi xứ nào,
nay đã đặng thần thông, liền dùng thiên nhãn quán trên 28 tầng
trời, xem dưới 18 tầng địa ngục, tìm kiếm đến chỗ, kết quả đều không
có chỗ nào gặp được, kế tiếp quán trở lại trong đường ngạ quỷ,
thấy có vô số ngạ quỷ hình trạng quái lạ ở trong đó chịu khổ, nơi
đây thời gian chỉ một sát na, Mục Liên bổng nhiên phát hiện vong mẫu
cũng ở trong đó, bụng bà như trống lớn, cổ họng nhỏ như lổ kim, năm
này qua năm khác, đói khát liên tiếp thúc ép. Mục Liên thấy mẹ
mình tình trạng thê thảm, vạn phần đau thương. Nơi đó lập tức dùng
bình bát đựng đầy cơm, dùng thần túc thông, đến dâng cúng cho mẹ,
sau khi mẹ đặng bát cơm, liền dùng tay trái che đậy bát cơm, sợ các
quỷ khác giành ăn, tay mặt bóc ăn, do vì có thể quá đói. Không dự
tính trước, mẹ ngài nguyên do sanh tiền san tham, liền đọa vào đường
quỷ, tất phải thọ báo, cơm đến bên miệng, bổng nhiên hóa thành than
lửa. Mục Liên tuy thần thông lớn, cũng không thể làm sao, Mục Liên
bi thảm khóc than, bàn hoàn hồi lâu, chung cuộc không có phương pháp
nào khác, liền chạy về chỗ Phật, đem sự tình đối trước Phật tường
trình, thỉnh Phật thiết lập phương tiện, cứu vãng mẹ ngài.
Phật
nói, mẹ ông tội căn rất nặn, sanh tiền không tin tam bảo, thường
sát hại sanh mạng, không tin nhân quả, rộng tạo các tội, cho nên nay
thọ báo, chỉ sức của một nhà ông, làm sao có thể cứu khỏi? Chỉ có
một pháp, mượn sức oai thần của chúng tăng trong mười phương, mới có
thể khiến bà
thoát ly
thống khổ. Ý nói Phật đà tuy nhiên pháp lực không thể nghĩ bàn,
cũng không thể trực tiếp cứu vãng mẹ ông, nhân vì Phật cũng không
thể chuyển được định nghiệp. Tất nhiên phải đợi ngày 15 tháng 7,
chúng tăng kết hạ an cư kết thúc, dùng món ăn quý trăm vị, hoặc
giường nệm tọa cụ, cúng dường đại đức tăng trong mười phương. Nương
nhờ tăng chúng đồng tâm hiệp lực, vì mẫu thân của ông phát nguyện
hồi hướng, mới có thể đem mẫu thân của ông từ trong đường ngạ quỷ
cứu ra khỏi liền được sanh thiên.
Kết hạ
an cư là một pháp môn của Phật chế, tăng lữ xuất gia, nơi từ ngày
15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7, kết hạ an cư, không nhất định tùy chỗ
thay đổi. Có vị nhập định ở trong núi, hoặc ngồi tỉnh tọa ở dưới gốc
cây, có người tự lợi, chứng đặng quả A La Hán; có vị lợi tha, chúng
sanh cũng có thể chuyển phàm thành thánh, đến ngày 15 tháng 7 này,
đại chúng vân tập một chỗ, cộng đồng thật hành pháp tự tứ. Ở
trong ba tháng đây, người nếu có phạm lỗi, theo người đề cử chỗ
phạm, đối trước chúng phát lồ sám hối. Ngày đây phàm thánh đồng
tụ hội, bậc thánh đã chứng quả thánh, kẻ phàm đã sau khi tự tứ,
cũng đặng thanh tịnh, cho nên gọi là [ngày Phật hoan hỷ]. Nhân đây,
nếu có người nơi ngày này thiết trai cúng dường tăng, có thể thu
hoạch vô lượng công đức thù thắng. Kinh nói: [Nếu có người cúng
dường những thứ tự tứ tăng đây, cha mẹ hiện thế lục thân quyến
thuộc, đặng ra khỏi khổ ba đường, nên khi giải thoát, y thực tự
nhiên. Cha mẹ của họ hiện tại phước lạc trăm năm. Nếu cha mẹ bảy
đời của họ, đều có thể sanh thiên, tự tại hóa sanh].
Mục
Liên nương nơi Phật đề nghị, xin được thực hiện sở nguyện. Người đời
sau có thể nương theo tấm gương đây, cũng chọn nơi đây là ngày trai
tăng; có người cho là tăng lữ xuất gia, tha phương cầu thực, đi xa
tầm sư hỏi đạo, đây mới là không thuận hiếu đạo. Kỳ thật người
đời chỉ chú ý trước mắc, cha mẹ còn tại thế chọn phụng sự cho là
hiếu, cha mẹ quá vãng chọn lễ nghi an tán, đúng ra đây chỉ là tiểu
hiếu mà thôi. Thật không biết cha mẹ hiện tại và cha mẹ quá khứ,
nếu tạo ác nghiệp, tất nhiên bị đọa ác đạo, nên dùng phương pháp gì
để cứu cha mẹ ra khỏi khổ nạn? Nếu thật có thể dứt bỏ tình yêu,
sớm vào Phật môn, tinh tấn tu đạo, trải qua một ngày ngàn thời,
chứng đặng quả thánh, lúc đó không phải chỉ tự mình hoàn toàn giải
thoát sanh tử, mà lại còn cha mẹ nhiều đời và trải qua nhiều kiếp
oán thân, đều có thể cứu ra khỏi bể khổ được sanh lên cõi trời.
Có như cốt truyện Mục Liên cứu mẹ, mới là đạt đến tông chỉ đạo
hiếu chân chánh. [Còn sống phụng sự ái kính, đã chết phụng sự bi
thương.] đây là tiểu hiếu của thế gian; [ Một đứa con xuất gia, ông
bà được lên trời.] đây mới là đại hiếu. Lại nói, chúng sanh sống
chết tương tục, đều do tham ái làm căn bản, tham ái không dứt, ái
không thể ly khai, thì thế gian, các cha mẹ con cháu nối tiếp nhau
không dứt, không có kỳ hạn. Nếu chỉ có phụng sự cúng bái quỷ thần
mà không biết hiếu đạo, thì lại không đủ tư cách nói đến Vu Lan
Thắng Hội
II.- NÓI
KHÁI QUÁT TÁM TÔNG PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC.-
1.-
Duyên Khởi Tám Tông.-
Thời
gian Phật Đà còn tại thế thuyết pháp 49 năm, đàm luận kinh pháp hơn
300 hội. Sau khi Phật nhập diệt, do A Nan thuộc lòng nói ra pháp của
Phật chỗ thuyết, Ưu Bà Ly thuộc lòng nói ra luật tạng, Phú Lâu Na
thuộc lòng nói ra luận tạng, Tôn Giả Ca Diếp nhiệm vụ chủ trì sự
việc kết tập, gọi đó là Thượng Tọa Bộ. Ngoài đây, đại chúng phàm
thánh tụ tập, thực hành riêng cũng thuộc lòng nói ra kinh tạng,
luật tạng, luận tạng, tạp tạng, chú tạng, gọi là Đại Chúng Bộ.
Thời gian nầy tuy phân hai bộ Thượng Tọa cùng Đại Chúng, nhưng đối
với tông chỉ của Phật, đều thấy không khác, thời gian một trăm năm,
các sư truyền thừa, hòa hợp như nước với sữa, thuần là một vị.
Từ Phật
Đà diệt độ sau một trăm năm, các sư tranh chấp liên tục xuất hiện,
thẳng đến thời gian bốn trăm năm, Đại Chúng Bộ thì phân thành chín
phái, còn Thượng Tọa Bộ cũng phân thành 11 bộ phái.
Thời
gian sau Thế Tôn diệt độ khoảng 5600 năm, có Mã Minh, Long Thọ, Long
Trí, Đề Bà vân vân, các đại sư nói trên liên tục xuất thế, phát
dương Đại Thừa Phật Giáo; ảnh hưởng Tiểu Thừa Phật Giáo lần lần suy
vi; Đại Thừa liền hưng thịnh, đến sau Phật nhập diệt 1300 năm, Bà La
Môn giáo hưng khởi, lại thêm tín đồ Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ, liên tục
xâm nhập Ấn Độ sát hại Phật giáo, hủy diệt Phật giáo, nơi Ấn Độ
Phật giáo hoàn toàn tiêu diệt.
Nơi Trung
Quốc, thời Minh Đế Đông Hán, Phật giáo đã truyền vào. Từ sáu triều
đại đến năm mạt Đường, phiên dịch kinh Phật phân làm ba thời kỳ,
thời kỳ đầu do Phạm Tăng
dịch,
thời kỳ giữa do Trung Hoa và Phạm Tăng phối hợp dịch, thời kỳ cuối
do tăng Trung Quốc dịch. Trong ba thời kỳ này tại Trung Quốc Phật giáo
Đại Thừa phát triển thành 13 tông phái; Phật giáo Tiểu Thừa có hai
tông phái, tức là Câu Xá Tông cùng Thành Thật Tông; tại Trung Quốc
Phật giáo Đại Thừa do Hỷ Ái phát dương, cho nên tông phái Tiểu
Thừa, lần hồi ẩn dật, lúc đó tông phái Đại Thừa chính là căn bản
của Phật giáo Tung Quốc. Về sau nhân Pháp Sư Huyền Trang dịch kinh ảnh
hưởng, đến triều đại nhà Đường Phật giáo cộng phân thành tám tông
phái lớn.
Đầu
tiên Phật giáo Đại Thừa tại Ấn Độ cũng phân làm Không Tông cùng
Hữu Tông, về sau KhôngTông truyền vào Trung Thổ, do Pháp sư La Thập
đời Diêu Tần thành lập Tam Luận Tông. Hỷ Ái đọc Trung Luận, Bách
Luận, Thập Nhị Môn Luận có thể học tông này. Có tông truyền vào
Trung Thổ, do Pháp Sư Huyền Trang thành lập Pháp Tướng Tông; Hỷ Ái
đọc “Kinh Giải Thâm Mật”, “Du Già Sư Địa Luận”, có thể học tông nầy.
Đời Đông Tấn Đại Sư Huệ Viễn thành lập Tịnh Độ Tông, Hỷ Ái đọc
“Kinh A Di Đà”,”Kinh Vô Lượng Thọ”, có thể học tông này. Đời nhà
Lương Đại Sư Đạt Ma thành lập Thiền Tông, Hỷ Ái đọc “Kinh Lăng Già”,
“Kinh Kim Cang”, có thể học tông này. Đời nhà Tùy Đại Sư Trí Giả
thành lập Thiên Đài Tông, Hỷ Ái đọc “Kinh Pháp Hoa”, “Luận Đai Trí
Độ”, có thể học tông này. Đời nhà Đường Luâït Sư Đạo Tuyên thành
lập Luật Tông, Hỷ Ái đọc “Kinh Phạm Võng”, “Du Già Bồ Tát Giới”,
có thể học tông này. Cũng đời nhà Đường Quốc Sư Hiền Thủ thành
lập Hoa Nghiêm Tông, Hỷ Ái đọc “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm”, có thể học tông này. Cũng đời Đường Thiện Vô Quý, Kim Cang
Trí, Tam Tạng Ba
Hỷ Ái
đọc “Kinh Đại Nhật”, “Kinh Kim Cang Đỉnh”, có thể học tông này. Riêng
có Nhiếp Luận Tông, dung hợp vào Pháp Tướng Tông; Niết Bàn Tông
dung hợp vào Thiên Thai Tông; Địa Luận Tông dung hợp vào Hoa Nghiêm
Tông. Cho nên Đại Thừa Tông Phái Trung Thổ, chỉ có tám đại tông là
Pháp Tướng, Tam Luận, Hoa Nghiêm, Thiên Đài, Luật, Tịnh, Luật, Mật.
Chỗ gọi: [Phương tiện có nhiều cửa, chung quy không hai đường.]
Trong
tám đại tông phái không giống nhau, có tông phái chú trọng hành
trì, có tông phái chú trọng lý luận, có tông phái nương tự lực, có
tông phái nương tha lực. Thiền Tịnh Luật Mật là chú trọng hành trì;
Tam Luận, Duy Thức là chú trọng lý luận; Thiên Đài, Hiền Thủ chú
trọng cả hành trì và lý luận. Lại nữa, Tịnh Độ, Mật Tông, là nương
nhờ tha lực; Tam Luận, Duy Thức, Thiền, Luật, bốn tông này là nương
nhờ tự lực; còn Thiên Đài, Hiền Thủ thì nương nhờ hai lực tự và
tha.
2.- Đại
Ý Thiên Đài Tông.-
Thiên
Thai Tông y cứ nơi núi mà đặt tên, thời nhà Tùy, Đại Sư Trí Giả, cư
ngụ tại tỉnh chiết giang núi thiên đài, đề xướng giáo quán thiết
lập một tông phái, đời sau gọi là Thiên Đài Tông, cũng gọi là
Pháp Hoa Tông, do nơi tông này chọn “Kinh Pháp Hoa” làm tông chỉ.
Cao Tổ
Đại Sĩ Long Thọ, sanh nơi Ấn Độ, xưa gọi là Nam Thiên Trúc, là thuộc
giồng Bà La Môn, thiên tư thông minh, đến thời 20 tuổi thông đạt
thiên văn, địa lý, và các đạo thuật. Đại Sĩ xuất gia, chín tuần liền
đọc thông ba tạng, liền đi chu du các nước, chinh phuc phá vỡ các đại
luận sư nội ngoại đạo, đích
thân
trước tác rất nhiều sách vỡ, được xưng là Thiên Bộ Luận Sư.
Nhị Tổ
Bắc Tề Thiền Sư Huệ Văn, từng đọc “Đại Trí Độ Luận” văn của [chứng
đắc ba trí thật tại trong nhất tâm], lại đọc “Trung Quán Luận”, Phẩm
Tứ Đế: bài kệ nói rằng, [Nhân duyên chỗ sanh ra pháp, ta nói tức
là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo], bổng nhiên
ngộ nhập diệu lý tức không, tức giả, tức trung đạo, mà lập ra pháp
môn Nhất Tâm Tam Quán.
Tam Tổ
Hồ Nam, Hoành Dương Nam Nhạc Đại Sư Huệ Tư, năm 15 tuổi xuất gia thọ
giới cụ túc, khi năm 20 tuổi tham bái Thiền sư Huệ Văn, trực tiếp
thọ yếu chỉ tâm quán, trải qua 17 ngày, liền động tám súc ( tức
động, ngứa, nhẹ, nặng, lạnh, ấm, rít, trơn, vân vân tám thứ cảm
súc), lại ngộ Pháp Hoa Tam Muội, sau từ đầu, nghĩa kinh chưa mở, cũng
đều thông đạt.
Tổ thứ
tư, Đại sư Trí Giả Thiên Đài, chỗ gọi là [Trí Giả], chính Tùy Dương
Đế sắc phong. Đại sư lúc 18 tuổi, đến Đại sư Pháp Tự xuất gia, năm
12 tuổi thọ giới cụ túc. Năm 22 tuổi, Đại sư thân cận Đại sư Huệ
Tư, Sư HuệTư một khi thấy Sư Trí Giả liền nói: [Ngày trước nơi Linh
Sơn, đồng nghe Pháp Hoa, túc duyên chỗ tìm lại, ngày nay đến gặp
vậy.] Do đây có thể biết, đủ có nguyên nhân phi phàm. Một ngày sư
Trí Giả trì tụng “Kinh Pháp Hoa”, đến phẩm Dưọc Vương: [Chư Phật đồng
tán dương nói câu , lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, là chân tinh
tấn, là tên chân pháp, cúng dường Như Lai.] Bỗng nhiên nhập định,
thấy chung quanh Sư Huệ Tư, nơi Linh Sơn nghe pháp, sư Huệ Tư tán trợ
trở lại nói: [Không phải ông không chứng, không
phải
tôi không ai không biết, chỗ nhập đinh đây chính là Pháp Hoa Tam Muội
Tiền Phương Tiện vậy, mặc dù sư Trí Giả khiến dùng văn tự, ngàn
quần vạn chúng, cũng không thể tranh cãi cùng sư Huệ Tư, trong lúc sư
Huệ Tư đang thuyết pháp, sau cùng là đệ nhất nghĩa.]
Giáo
quán của Tông này, đại ý có năm:
1/- Tam
Đế Viên Dung. Tông này quán tất cả pháp, tức không, tức giả, tức
trung. Tức trung, là lý chân đế, tất cả pháp đều tiêu tan; tức giả,
là lý tục đế, thiết lập tất pháp; tức trung, là trung đế, nói chung
tất cả pháp, tất cả pháp vốn không, chúng sanh mê lầm, chấp cho là
thật, vọng sanh tri kiến, do đây không quán diệt sạch, đế hoàn toàn
là lý chân không, cho nên gọi là không đế. Lại do các pháp tuy là
không, đều không thể được, do đây giả quán chiếu, thì năng đế hoàn
toàn là tánh chân thật của các pháp, thứ đến giống như giả, nên
gọi là giả đế. Các pháp xưa nay không lìa hai bên, không tức hai
bên, do trong đây mà quán, thì các pháp hoàn toàn năng đế, không
phải chân không phải tục, cũng tức chân tức tục, viên dung vô
ngại, không thể nghĩ bàn, nên gọi là trung quán, đây chính là qnán
thứ ba. Lại nữa, một không tất cả đều không, trong giả đều không,
một giả tất cả đều giả, trong không đều giả, một trung tất cả đều
trung, không giả đều trung, đây chính là thông tướng tam quán. Lại
nữa nơi trong một tâm niệm, ba quá đầy đủ, viên dung lẫn nhau đầy
đủ, dung thông không ngăn ngại, đây chính là nhất tâm tam quán.
2/- Trăm
Giới Ngàn Như. Tông này quán tất cả pháp, tức không, tức giả, tức
trung, không phải chân không phải tục, không phải một không phải
khác, đều là thật tướng, hoặc gọi là như, hoặc xưng là như thị, các
pháp có mười như thị. Chỗ gọi là: như thị tướng, như thị tánh, như thị
thể, như thị lực, như thị tác dụng, như thị nhân, như thị duyên, như thị
quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh vân vân. Chỗ gọi là mười
pháp giới: (1) giới địa ngục, (2) giới ngạ quỷ, (3) giới súc sanh, (4)
giới tu la, (5) giới nhân sanh, (6) giới thiên đường, (7) giới Thinh
văn, (8) giới Duyên giác, (9) giới Bồ tát, (10) giới Phật đà. Nơi
trong mười pháp giới, có 11 giới, trong 11 giới lại có đủ 10 giới, 10
giới đây lẫn nhau đầy đủ thành 100 giới. (chúý: mười giới lẫn nhau
đầy đủ nghĩa là:10 x 10 =100.)
Lại 100
giới đây, trong đó có 11 giới đầy đủ10 như thị, 100 giới đầy đủ lẫn
nhau chính thành 1000 như thị. (chú ý: 100 x 100= 1, 000)
3/- Một
Niệm Ba Ngàn. Nơi trước trong một trăm pháp, đều có đầy đủ 3 thứ
thế gian, tức là chúng sanh thế gian, quốc độ thế gian, ngũ ấm thế
gian. Trong 3 thứ thế gian đây, lại có đầy đủ 1000 như thị, như thị
nương nhau, mới thành 3000 thế gian, lại gọi là 3000 các pháp, gọi
chung là tất cả pháp. 3000 các pháp đây, đầy đủ một tâm niệm, chính
là đầy đủ pháp tánh, thể của nó viên dung mầu nhiệm, gọi là
lýđầy đủ 3000. Pháp tánh đây vốn đầy đủ 3000 các pháp, gặp duyên
hiện khởi, các tướng giống như, gọi là Sự tạo ra 3000, Sự đây cùng
Lý, viên dung tức tướng, nghĩa là không phải một không phải hai, mầu
nhiệm không thể nghĩ bàn.
4/- Mười
Thừa Quán Pháp. (1) Quán cảnh không nghĩ bàn. Là quán người tôi
hiện tiền một tâm niệm, đầy đủ 3000 các pháp. (2) Phát tâm bồ đề
chân chánh. Trước khi chưa chứng ngộ, dễ khởi tâm giãi đãi, là dùng
phát tâm trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. (3) Khéo léo an
tâm, khéo léo phương tiện, an trụ nơi trong pháp tánh. (4) Phá tình
chấp. Tức nương nơi nhất tâm tam quán, mà phá tam hoặc tình chấp, dung
chiếu trung đạo, khiến đạt đến không và giả. (5) Biết đặng mất.
Trước khi chưa ngộ nhập vô sanh, ông phải kiểm thảo đặng mất. (6)
Phân phối thích hợp đạo phẩm. Nơi 37 phẩm trợ đạo, điều đình thích
đáng. (7) Đối trị giúp đỡ mở bày. Tu quán không pháp mở bày và
phát triển lý viên dung, tất nhiên phải mượn lục độ trợ giúp hành
sự. (8) Biết thứ lớp phẩm vị. Như không biết thứ lớp phẩm vị, dễ suy
tính chưa chứng đắc lại cho là đã chứng đắc. (9) Năng an nhẫn. Khi
chưa vào năm phẩm vị, thuận nghịch cần dung thông kiên nhẫn. (10 Lìa
pháp ái. Như chấp ngôi vị tương tợ thập tính, hoặc được lục căn công
dụng lẫn nhau, nếu lỗi ái chấp, liền bị rơi xuống tột đỉnh ái chấp.
5/- Sáu
Tức Phật. (1) Lý Tức Phật. Là chỉ cho tất cả chúng sanh, tất nhiên
đầy đủ Phật tánh, tánh và tướng thường trụ, một sắc một hương,
không phải trung đạo, lý tánh tuy đủ, nhân thiếu giải thích hành trì,
nên không pháp để chứng đắc. (2) Danh Tự Tức Phật. Hoặc theo tri
thức, hoặc theo quyển kinh, nghe trên chỗ nói, một đạo của sự thật,
giải thích thông đạt hoàn toàn, tất cả đều có thể thành Phật. (3)
Quán Hành Tức Phật. Không chỉ hiểu biết trên danh tự, lại tiến theo
y giáo phụng hành, chỗ thật hành như chỗ nói, chỗ nói như chỗ thật
hành. (4) Tương Tợ Tức Phật. Đặng ngôi vị sáu căn thanh
tịnh,
đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, bao gồm hàng phục hoặc
vô minh, con mắt có thể thấy thấu suốt các cảnh 3000 thế giới, tai
có thể nghe thấu suốt âm thanh 3000 thế giới, tuy chưa chứng thật,
tức tương tợ nơi chứng chân thật, đây cũng là ngôi vị thập tín. (5)
Phần Chứng Tức Phật. Huệ quán tăng gấp bội, phá một phần vô minh,
chứng một phần pháp thân, từ sơ trụ đến đẳng giác, mỗi phần phá 41
bực vô minh, mỗi phần thấy Phật tánh. (6) Cứu Cánh Tức Phật. Đoạn
trừ bậc thứ 42 phát hiện trí giác cứu cánh viên mãn, trí và đoạn
hai đức viên mãn, nghĩa là không còn hoặc có thể đoạn, không còn
lý có thể chứng, tức ngôi vị diệu giác thuộc quả cuối cùng của
viên mãn cứu cánh.
[Tức]
là chỉ cho nghĩa không hai, mà ở trên tu chứng có [sáu]. Như chỉ biết
[tức] mà không biết [tất], có [sáu tất] (Sáu Tất là sáu hiểu biết
tát cả), là thuộc chấp kiên cố về lý, chúng sanh và Phật nhất như,
mê và ngộ không hai, thì dễ sanh tăng thượng mạn. Nếu chỉ biết [sáu]
mà không biết tất [tức], thì dễ sanh tự ty mặc cảm, cho nên càng
lập sáu tức dùng hiển bày thỉ chung của phàm thánh, mà đầu tiên và
sau cùng của lý thể, đều không hai làm mục đích vậy.
3.- Đại
Ý Hoa Nghiêm Tông.-
Tông
này nương nơi “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” để kiến lập nghĩa
lý của tông, nên gọi là Hoa Nghiêm Tông. Đến Đại Sư Hiền Thủ, học
thuyết tông này mới hoàn bị, nên cũng gọi Hiền Thủ Tông. Dùng sáng
tỏ pháp môn Pháp Giới Tự Tại Vô Ngại, nên cũng gọi là Pháp Giới
Tông. Phật thành đạo 37 ngày, vì hai Đại Bồ Tát Văn Thù và
Phổ
Hiền, nói pháp môn Nhất Thừa Tối Cao Thâm Sâu Viên Mãn, Nhị Thừa
khả năng kém, không ai có thể lãnh hội để giải thích. Sau Phật diệt
độ thời gian năm 5600 năm, có Bồ Tát Long Thọ người nước Nam Thiên
Trúc, đến trong Long Cung thấy “Kinh Hoa Nghiêm” đây có ba bản, hai bản
Hoa Nghiêm thượng và trung, không phải sức của phàm phu có thể hành
trì, chính truyền tụng xuống bản kinh Hoa Nghiêm 10 vạn kệ tụng, trong
đó có 48 phẩm, lưu truyền khắp thế giới.
Trong
năm Nghĩa Hi đời Đông Tấn, có Phật Đà Bạt Đà La, bắt đầu dịch “Kinh
Hoa Nghiêm”, thành 60 quyển, 34 phẩm, sưng là cựu kinh. Thứ đến, khi
Đường Võ Hậu, có Thật Xoa Nan Đà, dịch lại kinh này, thành 80 quyển,
42 phẩm, lại xưng là tân kinh. Kế đến trong năm Trinh Nguyên Đường
Đức Tông, Tam Tạng Bát Nhã dịch riêng một phẩm Nhập Pháp Giới,
thành 40 quyển.
Kinh này
từ Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch mang đến, kinh sớm được trình bày,
nhưng còn chưa thành tông. Thời gian mãi đến đời Trần đời Tùy, Thiền
sư Đỗ Thuận ở Chung Nam Sơn, giải thích tổng quát mục đích sâu xa khó
hiểu của Hoa Nghiêm, sáng tác thành Pháp Giới Quán một quyển, lại
sáng tác Chỉ Quán Ngũ Giáo một quyển, mới xác định được cơ sở của
một tông, từ đó Thiền sư Đỗ Thuận trở thành Sơ Tổ của Tông Hoa
Nghiêm Đông Thổ. Đỗ Thuận là đệ tử của Pháp sư Trí Nghiễm, Pháp sư
Trí Nghiễm truyền thừa giáo nghĩa của Tông Hoa Nghiêm, tinh cần nghiên
Giáo Tướng, sáng tác năm quyển “Hoa Nghiêm Kinh Lược Sớ”, đồng thời
sáng tác “Thập Huyền Môn”, “Lục Tướng Chương”, “Khổng Mục Chương” vân
vân, và đem trình bày ý nghĩa của chúng, và ngài cũng là
Tổ Thứ
Hai. Đến Tổ Thứ Ba là Đại sư Hiền Thủ, ngài sáng tác “Hoa Nghiêm
Kinh Thám Huyền Ký” 20 quyển, lại sáng tác “Hoa Nghiêm Khoa Giản”,
“Hoa Nghiêm Thập Chủng Chỉ Quán” vân vân, chú thích chương mục hơn 20
bộ, thành tựu giáo nghĩa của một tông, đệ tử tông môn số vạn
người, độ lớn của bổn tông, đến đây hiển bày mới hoàn bị.
Tông
này chọn Nhất Tâm Pháp Giới, Duyên Khởi Vô Tận, làm một học phái
Huyền Tông của giáo quán. Chỗ gọi cộng lại bao gồm vạn hữu, tức
là nhất tâm, nơi đây qua lại trên nhất tâm pháp giới không ngăn
ngại, vô lượng sắc tâm sai biệt bỗng nhiên hiển hiện sáng tỏ, một
và nhiều liền nương nhau, lớn và nhỏ dung thông lẫn nhau, lớp lớp vô
tận, cũng như lưới châu của Trời Đế Thích biến khắp viên mãn, dung
thông lẫn nhau, mà không ngăn ngại, đây gọi là pháp giới duyên
khởi, cũng gọi là duyên khởi vô tận, tức là pháp giới vạn sự vạn
pháp, hữu vi vô vi, sắc và tâm nương nơi chân chánh, quá khứ hiện
tại vị lai, lẫn nhau làm năng lực duyên khởi, và chỗ duyên khởi. Do
đây một pháp, duyên tất cả pháp, do tất cả pháp, duyên một pháp
đây, dựa vào nhau giúp đỡ lẫn nhau, bảo dưỡng lẫn nhau dung hợp lẫn
nhau, làm thành Nhất Đại Duyên Khởi.
Cộng
lại bao gồm vạn hữu, tức là nhất tâm, tâm dung thông vạn hữu, liền
thành 4 thứ pháp giới:
1/- Sự
Pháp Giới, tất cả sai biệt, vô lượng sự tướng, đều có chia đều
nhau, thí dụ như công cụ tù vàng sanh ra, thành các thứ hình, không
hỗn tạp nhau.
2/- Lý
Pháp Giới, thể lý bình đẳng, không tăng không giảm, là chỗ nương
tựa củ sự tướng, gọi là pháp tánh, cũng gọi là chân như, thí dụ
như các thứ vàng, tướng của nó tuy khác, thể của chúng nó thì một
loại.
3/- Lý
Sự Vô Ngại Pháp Giới, sự do nắm lý mà thành, tức lý là sự; lý do
sự mà hiển, tức sự là lý; tức dung thông lẫn nhau, chân như tức
vạn pháp, vạn pháp tức chân như, chân như vạn pháp dung thông không
ngăn ngại, thí dụ như vàng tức dụng cụ, dụng cụ tức vàng.
4/- Sự
Sự Vô Ngại Pháp Giới, các pháp nhiều như vi trần, bảo dưỡng lẫn
nhau vô ngại, bảo dưỡng hình chất ngay lập tức, vào trong hình chất
ngay lập tức, trùng trùng vô ngạy, một vi trần một mảy lông, đầy
đủ tất cả pháp, nêu lên một là thu nhận đầy đủ, đầy đủ tương ứng,
thí dụ công cụ đồng nhất, dung thông ngay lập tức, đây chính là giáo
nghĩa của Viên Giáo Sở Hiển.
Tông
này thuyết minh tướng trạng pháp giới duyên khởi sự sự vô ngại, mà
lập giáo nghĩa của sáu tướng viên dung. (1) Một là Tổng Tướng, trong
một vi trần, hàm chứa vạn pháp, thí dụ như lầu phòng, dùng cốt sắt
nước và bùn tổng hợp xây thành. (2) Hai là Biệt Tướng, tất cả vạn
pháp, có sắc và tâm, lý và sự vân v6n sai biệt, thí dụ như cốt sắt
nước và bùn của lầu phòng đều khác nhau không đồng. (3) Ba là Đồng
Tướng, vạn pháp tuy có sai biệt, có thể dung thông liền thành một
thể, thí dụ như cốt sắt nước bùn hòa hợp lẫn nhau, xây thành lầu
và phòng. (4) Bốn là Dị Tướng, các pháp tuy có thể dung thông liền
thành một pháp, nhưng chưa mất tướng sai biệt của các pháp, thí dụ như
cốt sắt, nước bùn, hình tướng,
công
dụng mỗi mỗi không giống nhau. (5) Năm là Thành Tướng, các pháp sai
biệt, do dung thông là nguyên nhân trở thành một thể, thí dụ như cốt
sắt, nước, bùn, nội kết với nhau xây thành lầu phòng. (6) Sáu là
Hoại Tướng, các pháp sai biệt, mặc dù có thể dung thông liền để
thành một thể, bản chất các pháp chưa thường cải biến, thí dụ như
lầu phòng tuy là một, nhưng cốt sắt, nước và bùn mỗi mỗi đều trụ nơi
pháp của mình. Tất cả các pháp đều đầy đủ sáu tướng, tướng lẫn
nhau đều sai biệt, lẫn nhau liền dung thông, sáu tướng đây không ra
ngoài hai môn, tổng tướng, đồng tướng, thành tướng, là viên dung
môn; biệt tướng, dị tướng, hoại tướng, là hành bố môn (Bố là phơi
bày ra); viên dung và hành bố, tức là tướng, vào trong tướng, dung
thông không ngăn ngại.
Tông
này dùng Pháp Giới Quán làm then chốt cần yếu môn quán của một
Tông. Pháp quán này sơ lược có ba lớp: (1) Một là Chân Không Tuyệt
Tướng Quán, quán bản tánh của các pháp tức là không, không đây
không phải đoạn diệt, cũng không phải không của lìa khỏi sắc, tức
có không cụ thể, không của cái không đây tức là không có tướng,
nên gọi là chân không, nương nơi lý pháp giới mà thành lập pháp
quán này. (2) Hai là lý sự vô ngại quán, trước chỉ quán chân không,
đây thì quán sự tướng của các pháp, cùng lý chân như dung thông nhau
rõ ràng, viên dung vô ngại, nên gọi là lý sự vô ngại quán, mà
thành lập pháp quán này. (3) Ba là châu biến hàm dung quán, do quán
thứ hai biết được lý sự tức dung thông, lại quán mỗi một pháp trần
đồng đủ thể tánh chân như, vừa tiếp nhận nhau, vừa dung thông nhau,
một và nhiều không ngăn ngại nh
trùng
trùng không dứt, dung thông tự tại, lý hàm chứa vạn đức, như hư
không kia, hàm chứa viên dung biến khắp, nên gọi là châu biến hàm
dung quán, nương sự sự vô ngại pháp giới mà thành lập pháp quán
này
4/- Đại Ý
Thiền Tông.-
Tương
truyền tông này là sau khi Phật Thích Ca thành đạo, thời gian 49 năm,
nơi trên hội Niết Bàn, Phật liền cầm cành hoa thị chúng, đại chúng
đều im lặng, chỉ có Đại Ca Diếp mở nét mặt mỉm cười. Phật liền tán
thán Đại Ca Diếp nói: [ Tôi có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu
tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phó chúc cho ông,
ông khéo hộ trì.] Từ đây về sau, trải qua các triều đại, dùng tâm
truyền tâm, khai thị ngộ nhập, tri kiến của Phật, không lập văn tự,
truyền riêng ngoài giáo lý. Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành
Phật. Tuy nói không lập văn tự, mà nơi văn tự Bát Nhã, cũng là
chỗ không dùng, như tâm ấn Đạt Ma, trao pháp có “Kinh Lăng Nghiêm”
bốn quyển, còn Hoằng Nhẫn thì đều hoằng truyền các như kinh Kim Cang,
Duy Ma, Viên Giác vân vân. Nhưng đặc trọng tâm nơi tông thông, mà
không ở nơi thuyết thông, chú trọng nơi chứng đạo, mà không ở nơi
giáo đạo.
Tông
này chỉ truyền pháp môn tâm ấn, từ Ma Ha Ca Diếp, truyền đến Tôn
Giả A Nan, kéo dài truyền đến Đại Sư Đạt Ma, là Tổ thứ đời 28 nơi
Ấn Độ. Đại Sư Bồ Đề Đạt Ma, sang đến đời nhà Lương ở Trung Thổ phổ
phông là bảy năm, Đại Sư đến phía đông truyền pháp, là Sơ Tổ của
Thiền Tông Trung Thổ. Lương Võ Đế nghe sư đến, nghinh đón đến Kim
Lăng, hỏi vấn đề đạo, nhận thấy cơ duyên không thích hợp, sư liền
từ
độ giang
đến lạc dương, chỉ ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, xây mặt vào vách tường
chín năm, sau truyền tâm pháp cho Huệ Khả là Tổ thứ hai. Huệ Khả
truyền tâm pháp cho Tăng Xán là Tổ thứ ba. Tăng Xán truyền pháp cho
Đạo Tín là Tổ thứ tư. Đạo Tín truyền tâm pháp cho Hoằng Nhẫn là Tổ
thứ năm. Hoằng Nhẫn truyền tâm pháp cho Huệ Năng là Tổ thứ sáu.
Đại sư Huệ Năng truyền thừa y bát, du hành hóa đạo nơi phương nam,
người đời gọi là Nam Thiền Tông. Đại sư Thần Tú cũng được truyền
thừa giáo pháp nơi Tổ thứ năm, đi giáo hóa nơi phương bắc, người đời
gọi là Bắc Thiền Tông. Nam Thiền Tông chủ trương đốn ngộ, Bắc Thiền
Tông chủ trương tiệm tu, cho nên mới có danh xưng là Nam Đốn Bắc
Tiệm.
Môn hạ
của Đại sư Lục Tổ, kẻ đắc pháp gồm có 43 người, vì thế năm Tô thì
truyền y bát, và sau đó, đối với Huệ Năng ngài nói: [Y bát là tranh
chấp, ta ngưng lại chớ truyền, nếu truyền y bát đây, mạng ta như treo
tơ tằm.] Sau đó, Tổ Huệ Năng thứ sáu chỉ truyền pháp mà không
truyền y bát. Nơi trong các Tổ, tiếp hóa học nhân, đều có Gia Phong độc
lập riêng biệt, nhân đây chính có năm nhà Thiền Phong:
1/-
Thiền Phong Lâm Tế, điểm cốt yếu hàng đầu của Thiền Phong này to
lớn và vững mạnh, như sét đánh gió to; phàm tăng có hỏi, liền đánh
đòn cảnh cáo, hoặc bắt giữ vững chắc, làm cho mở ra vân vân.
2/-
Thiền Phong Tào Động, phái này tiếp nhận hóa độ học nhân, bí ẩn kín
đáo thuận lợi vững vàng liên tục, ân cần khẩn thiết không mệt
mỏi, khiến đạo quân thần hòa hợp, nghiêng về chân chánh, trợ giúp
lẫn nhau.
3/-
Thiền Phong Ngụy Ngưỡng, trợ giúp thầy xướng họa, sự lý đều thật
hành, cha con một nhà, thể dụng song ảnh.
4/-
Thiền Phong Vân Môn, cô đơn nguy hiểm tột đỉnh, gọn gàng minh bạch vui
thích, không dùng nhiều ngôn ngữ, nửa lời hai câu, chứa chỉ thú vô
hạn, rộng lớn vô tận.
5/-
Thiền Phong Pháp Nhãn, chỗ đơn giản mà rõ ràng tợ hồ như cửa mây,
chỗ bí ẩn kín đáo như Tào Động, ngôn ngữ tợ hồ bình thường, mà mỗi
câu tự chứa đựng điểm then chốt sắc bén.
Thiền
Tông đây không nương tựa các thứ phương pháp như niệm Phật, xem kinh,
tu sám, lễ bái, trì chú, đốt hương vân vân, chỉ dùng hồi quang phản
chiếu, đơn đao vào thẳng, tham cứu thoại đầu, thoại đầu tuy có nhiều
thứ không giống nhau, đều dùng nhất tắc không ý vị lời nói, khiến
người không dùng tư tưởng của ý thức, tĩnh lặng tham cứu một thứ
khác lạ, hoặc tham cứu niệm Phật là ai? Kẻ kéo dài tử thi là ai?
Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? Khi chết đi thiêu lại còn có [ngã]
không? Trước khi cha mẹ chưa sanh bộ mặt nguyên là ai? Vạn pháp quy
nhất, nhất quy chỗ nào? Bất tư nghì thiện, bất tư nghì ác cái nào là
ngã? Hoàng Đế Thuận Trị nhà Thanh nói: [ Chưa từng sanh ta ai là ngã,
khi sanh ta ngã là ai, lớn lên thành người mới là ngã, hợp nhãn lờ
mờ không rõ là ai? Thâm nhập nghi tình, đại nghi đại ngộ, tiểu nghi
tiểu ngộ, không nghi không ngộ. Như nhà chỉ ở một người, mỗi ngày ra
ngoài bán rau, khi trở về nghe trong nhà có người nói chuyện, tất
nhiên họ tìm chỗ ở mình, lâu ngày không được gặp, một khi
tham cứu
phá rách, xem thấy vạn hữu đều không, hợp lại lý không đây, hiểu
sâu mà nói, hoàn toàn không đạt được. Ngày trước Thiền sư Khô Một,
ban đêm ngồi thấy vị tăng cầm đèn bỗng nhiên khai ngộ, nói bài kệ
rằng: [Cầm đèn lên lại là hỏa, trải kiếp vô minh chiếu phá, về
trai đường thấy thánh tăng, cơ hồ đang đối diện lỗi lầm.] Sau khi ngộ
lại biết: [Đêm đêm ôm mắt Phật, mỗi buổi lại cùng thức dậy, đứng
ngồi xiềng xích theo nhau, nói năng im lặng chỉ ở chung.] Mười phương hư
không, ở trong tâm ta, dụ như đám mây, điểm nhỏ ở trong bầu trời
xanh, chiếu phá các pháp tướng ngũ uẩn, hư không phá tan thành đại
địa hòa bình.
Ngộ thì
có đốn ngộ và tiệm ngộ, có chỗ gọi là lý tức đốn ngộ, nương nơi
ngộ hợp lại tiêu diệt chung, sự vật không phải trừ lập tức, nhân
vì phải dứt theo thứ lớp, ngộ có phân làm ba loại: (1) Một là trước
ngộ sau tu, tức là người phổ thông, đều phải sau khi ngộ liền khởi
tâm tu hành, trì giới và nghiên cứu giáo lý, tức gọi là đốn ngộ
tiệm tu. (2) Hai là trước tu sau ngộ, đây là thuận theo căn trí thấp
kém, khiến họ trước trì giới tu định, trải qua năm tháng tích lủy nội
kết, cũng có phần khai ngộ, nhưng không phải tông chỉ đây là của
bản ý. (3) Ngộ tu đồng thời, đây là do căn đã có từ xưa nay mới
thành thục, chỉ đợi đây phát sanh mới chứng quả, khi chưa ngộ, bị
nghiệp hiện tại ngăn che, nên chưa có thể hiển lộ, và một khi xúc
cảm liền ngộ, tức tất cả đầy đủ như Lục Tổ vân vân. Thứ người
đây nhất định phải lợi căn thượng trí; còn thiền đời sau tất nhiên
phải là hậu đốn ngộ, nhờ tiệm tu làm nguyên tắc. Lại nữa nhân ngộ
mà tu, gọi là giải ngộ, nhân tu mà ngộ, gọi là chứng ngộ.
Tông
này khai ngộ phân làm ba đoạn:
(1) Thứ
nhất là Bản Tham, lại gọi là Sơ Quan, do tham cứu thoại đầu, dẫn
xuất huệ vô lậu, do huệ vô lậu, sáng tỏ bản tâm của mình, thấy
bản tánh của mình, gọi là sơ quan.
(2) Thứ
hai là Trùng Quan, đã thấy tánh liền dùng huệ vô lậu, đối trị phiền
não. Đến khi ẩn nấp xóa đi phiền não bên trong nội tâm, để phát
khởi hiện hành, mới gọi là Trùng Quan.
(3) Thứ
ba là Mạt Hậu Quan, dùng ẩn nấp xóa đi phiền não ở trên, còn dựïa
vào công dụng đối trị, nhầm để diệt tận phiền não cho được thanh
tịnh, mặc cho khi vận chuyển vô công dụng, mới thấu triệt Mạt Hậu
Nhất Quan. Chỗ gọi: [Đoạn trừ đạo ngôn ngữ, tâm đi đến chỗ diệt
tận, ngay lập tức vượt qua Phật địa, tức Phật tức tâm, tức tâm tức
Phật.]
Lại có
9 thứ đại thiền: (1) Tự Tánh Thiền, không hướng ngoại để cầu, quán
thật tướng các pháp. (2) Nhất Thiết Thiền, tất cả công đức của tự
hành trì và hóa độ chúng sanh. (3) Nan Thiền, vì thiền đây thâm diệu
khó tu. (4) Nhất Thiết Môn Thiền, tất cả thiền định đều do đây xuất
hiện. (5) Thiện Nhân Thiền, chỗ cộng tu của chúng sanh đại thiện
căn. (6) Nhất Thiết Hành Thiền, Đại Thừa hành pháp đều hàm nhiếp.
(7) Trừ Não Thiền, công năng trừ diệt khổ não của chúng sanh. (8)
Thử Thế Tha Thế Lạc Thiền, công năng khiến chúng sanh tất đắc an
lạc cả hai đời (hiện tại và vị lai). (9) Thanh Tịnh Thiền, hoặc và
nghiệp đoạn trừ dứt hẳn, đắc tịnh báo đại bồ đề.
5/- Đại
Ý Tịnh Độ Tông.-
Tông
này chọn tín nguyện và hạnh ba thứ tư lương, cầu sanh thế giới cực
lạc của Phật A Di Đà làm tông chỉ, nên xưng là Tịnh Độ Tông. Phật ở
trong núi Kỳ Xà Quật, nói “Kinh Vô Lượng Thọ”. Tại Vương Xá Thành,
nói “Kinh Quán Vô Lượng Thọ”. Phật tại trong núi Kỳ Xà Quật nói
“Kinh Vô Lượng Thọ”. Tại thành Vương Xá, Phật nói “Kinh Quán Vô
Lượng Thọ”. Tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, Phật thuyết “Kinh A Di Đà”.
Bồ Tát Thế Thân tạo “Vãng Sanh Luận”. Tông này chỗ nương tựa tạo ra
ba kinh một luận. (1) “Kinh Vô Lượng Thọ” thuyết minh Phật A Di Đà,
nhân vị hạnh nguyện và công đức quả thượng. (2) “Kinh Quán Vô Lượng
Thọ” thuyết minh hạnh nghiệp của vãng sanh tịnh độ. (3) “Kinh A Di Đà”,
chỉ bày trang nghiêm của cõi tịnh độ cùng lợi ích của chấp trì danh
hiệu và chư Phật hộ niệm. “Vãng Sanh Luận”, thâu tiếp tổng hợp ba
bộ kinh trên, chứng minh nghĩa vãng sanh tịnh độ. Lại nữa, “Kinh Lăng
Nghiêm”, ở chương [Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông]: thuyết
minh [Nếu tâm chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hoặc kiếp
sau, nhất định thấy Phật, đến Phật không xa, không nhờ phương tiện,
tự đạt được tâm khai.] Lại có “Kinh Hoa Nghiêm”, Bồ Tát Phổ Hiền
dùng mười Đại Nguyện Vương, khuyến tấn Thiện Tài, và các Đại Bồ
Tát trong Hoa Nghiêm Hải Hội, 41 vị Đại Sĩ Pháp Thân, đồng hướng về
Thế Giới Vãng Sanh Cực Lạc Phương Tây, dùng thời gian Phật Quả viên
mãn. Nhân đem [Chương Niệm Phật Viên Thông] và [phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện] gia nhập trong ba kinh, trong đó có năm kinh một luận. Sau khi
Phật diệt độ, Bồ Tát Mã Minh nơi trong “Khởi Tín Luận” Đại Lực đề
xướng Pháp Môn Tịnh Độ, Bồ Tát Long Thọ trước tác [Thập Nhị Lễ],
[Dịch Hạnh Phẩm] vân vân; Bồ Tác Thế Thân sáng tác “Tịnh Độ Vãng
Sanh Luận”, vân
vân.
Ngoài đây còn có [Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa], lược thích [Kinh
Vô LượngThọ], [Vãng Sanh Luận Chú] của Đàm Loan; [An Lạc tập] của
Đạo Xước, [Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ] của Thiện Đạo; [Tịnh Độ Thập
Yếu] vân vân của Đại Sư Trí Hút. Những bài sớ trước thuật của lịch
đại tổ sư trước tác không dưới hơn số ngàn quyển. Đại Sư Huệ Viễn
đời Đông Tấn nơi Lư Sơn Đông Lâm Tự, cùng các đại đức và cư sĩ 123
người, chung nhau kết hợp thành Hội Liên Trì, chuyên niệm Phật sáu
thời, cho nên Đại Sư Huệ Viễn trở thành Sơ Tổ của tông này.
Duyên
khởi của pháp môn Tịnh Độ, căn cứ nơi “Kinh Vô Lượng Thọ” nói rằng,
quá khứ lâu xa không thể nghĩ bàn, vô lượng số kiếp, có Phật xuất
thế, gọi là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Thời đó có Quốc Vương gọi là
Nhiêu Vương, nghe Phật thuyết Pháp, tâm hoài niệm vui thích, tìm đến
phát đạo tâm vô thượng, bỏ nước bỏ ngôi vua, đi làm tỳ kheo, hiệu
là Pháp Tạng. Đến chỗ Thế Tự Tại Vương Như Lai, thỉnh vấn hạnh
nguyện của các Phật Tịnh Độ. Thế Tự Tại Vương Như Lai, liền vì ông
rộng nói 211 ức cõi Phật, thiện ác của nhân thiên, quốc độ to lớn
tốt đẹp, thích ứng tâm nguyện của Pháp Tạng, tất cả đều hiện lên
cùng thấy. Tỳ Kheo Pháp Tạng, liền nơi trước Phật suy nghĩ ghi nhớ tu
tập chứng đắc Phật quốc trang nghiêm, đã thâu nhiếp tiếp nhận, liền
phát 48 lời đại nguyện. Tỳ Keo Pháp Tạng thành Phật cho đến nay đã
mười kiếp, hiện tại ở Tây Phương, đi đến đây trải qua mười vạn ức
cõi Phật, thế giới cõi Phật đó, gọi là An Lạc, Phật hiệu là A Di
Đà, nhờ nơi hào quang vô lượng của Phật đây được thọ mạng vô
lượng, nên gọi là A Di Đà Phật, là Vô Lượng Quang Phật, hoặc Vô
Lượng Thọ Phật.
Cần yếu
muốn sanh Tây Phương, phải phát ba tâm: (1) Một là tâm chí thành,
nghiệp thân miệng ý, chỗ tu hành cho giải thoát, tất nhiên phải
trong ngoài tương ưng, chân thật vì cầu sanh tịnh độ, bên trong không
đặng nghe danh lợi sanh tâm ham thích nuôi dưỡng, bên ngoài hiện tướng
tinh tấn hiền lành. (2) Hai là thâm tâm, quyết định thâm tín A Di Đà
Phật, thành tựu 48 lời nguyện, chuyên niệm danh hiệu Phật kia, quyết
định được vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. (3) Ba là Tâm phát nguyện hồi
hướng, nay chỗ làm sanh tất cả thiện căn, thảy đều hồi hướng,
nguyện sanh quốc độ kia.
Vãng
sanh thế giới Cực Lạc, căn cứ nơi chỗ “Vãng Sanh Luận”, thuyết minh
có năm thứ pháp môn niệm Phật: (1) Một là Lễ Bái Môn. Lễ tức là
chuyên lạy Phật kia, lạy mãi cho đến khi nào chết, không lễ những
chỗ tạp nhạp. Thân nghiệp chuyên chú đến nhất tâm, cung kính hiệp
chưởng, hương hoa cúng dường, lễ bái Phật A Di Đà. (2) Tán Tán Môn.
Khẩu nghiệp chấp trì danh hiệu, cộng thêm tán thán thân tướng quang
minh và quốc độ trang nghiêm của Phật kia. (3) Tác Nguyện Môn. Dùng
thanh tịnh ý nghiệp, ý niệm quốc độ Phật kia, nương nơi trang nghiêm
chân chánh, và tất cả thân tướng quang minh của thánh chúng. (4)
Quán Sát Môn. Quán sát quốc độ công đức trang nghiêm của Phật kia,
công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà và các Bồ Tát. (5) Hồi Hướng
Môn. Tâm thường phát nguyện, dùng công đức của mình bố thí lợi ích
cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, đồng sanh về nước Cực Lạc,
chứng ngôi vị bất thối, trở lại Ta Bà hóa độ các hữu tình.
Phương
pháp niệm Phật có bốn thứ: (1) Một là Thật Tướng Niệm Phật, ngộ
biết tâm bên trong không năng niệm, Phật ngoài không chỗ niệm, Phật
tức là tâm, tâm tức là Phật, thông đạt do nơi tham thiền, đây là
niệm Pháp Thân Phật. (2) Hai là Quán Tướng Niệm Phật. Như quán tướng
mặt trời, quán tướng mặt trăng, quán tướng địa cầu, quán bảo thọ
vân vân, mười sáu quán môn. (3) Ba là Quán Tượng Niệm Phật. Quán
từ ao báu xuất hiện liên hoa, Phật A Di Đà buông tay xuống tiếp dẫn,
bên tả là Bồ Tát Quán Thế Âm, trên đỉnh đầu có Phật; bên hữu là
Bồ Tát Đại Thế Chí, trên đỉnh đầu có tịnh bình. (4) Bốn là Trì Danh
Niệm Phật. Nhất tâm chuyên trì danh hiệu, trong 48 lời nguyện, nguyện
thứ 18 nói: [Nói rằng tôi khi được thành Phật, chúng sanh trong mười
phương, chí tâm tin vui, muốn sanh nước tôi, cho đến mười niệm, nếu
không được sanh, thề không chánh giác.] Do đây có thể biết, được
sanh cùng không, hoàn toàn bằng tín nguyện, phẩm vị cao thấp, hoàn
toàn nhờ trì danh hiệu Phật, cho đến mười tiếng một trăm tiếng, đều
được vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc.
Cầu sanh
thế giới cực lạc, có chánh và tạp ba hạnh trợ giúp, chuyên căn cứ
nơi chỗ tu hành của “Tịnh Độ Kinh” gọi là Chánh Hạnh; ngoài ra tất
cả vạn hạnh điều thiện, đều gọi là Tạp Hạnh. Trong Đại Kinh Tam Bối
nói, một hướng về chuyên niệm “Vô Lượng Thọ Kinh” để niệm Phật,
gọi là Chánh Hạnh, ngoài ra phát tâm xuất gia, tạo tượng xây tháp
vân vân các điều thiện, cũng điều là Tạp Hạnh. Nay phân Chánh Hạnh
làm năm, Tạp Hạnh cũng làm năm. (1) Một là Chuyên Tâm Niệm Ý, đọc
tụng “Quán Kinh”, “A Di Đà Kinh”, “Vô Lượng Thọ Kinh”, gọi là Chánh
Hạnh. Ngoài ra đọc tụng “Bát Nhã”, “Hoa
Nghiêm”,
“Pháp Hoa” “Niết Bàn” các kinh, gọi là Tạp Hạnh. (2) Hai là chuyên
chú tư tưởng, quán sát những điều nhớ nghĩ Tịnh Độ Cực Lạc Y Báo và
Chánh Báo, công đức trang nghiêm, gọi là Chánh Hạnh. Ngoài ra nếu
quán sát tịnh độ trong mười phương, hoặc quán sát chân như pháp tánh
vân vân, gọi là Tạp Hạnh. (3) Ba là nhất tâm chuyên lễ Cực Lạc
Thế Giới A Di Đà Phật, gọi là Chánh Hạnh. Lễ bái các Phật Bồ Tát
khác, hoặc các thiên thần quỷ vật vân vân, gọi là Tap Hạnh. (4)
Bốn là nhất tâm chuyên xưng danh hiệu A Di Đà Phật, gọi là Chánh
Hạnh. Nếu xưng niệm các Phật và Bồ Tát khác, gọi là Tạp Hạnh. (5)
Năm là nhất tâm tán thán cúng dường A Di Đà Phật, gọi là Chánh
Hạnh. Nếu tán thán các đức Phật và Bồ Tát khác, gọi là Tạp Hạnh.
Trong đây thứ 4 gọi là Chánh Hạnh, là chánh nghiệp của thuận theo
bổn nguyện, ngoài bốn thứ Chánh Hạnh là trợ nghiệp. Như “Tứ Thiếp
Sớ” nói, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di Đà, đi đứng ngồi nằm,
không hỏi thời tiết, niệm niệm không nghỉ, gọi là nghiệp của Chánh
Định. Nếu nương tựa nơi lễ tụng vân vân, gọi là Trợ Nghiệp. Nên xả
tạp hạnh, quay về chánh hạnh, nơi trong chánh hạnh, liền tu trợ
nghiệp, chuyên tu chánh nghiệp, liền xưng danh hiệu Phật, mong được
vãng sanh, tức là pháp môn niệm Phật vãng sanh vậy
6/- Đại Ý
Tam Luận Tông.
Tông
này y cứ nơi Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận mà lập tông,
giáo nghĩa của nó đại bộ phận y cứ nơi “Kinh Bát Nhã”, nên cũng gọi
là Bát Nhã Tông, lại nữa chỗ hiển bày cứu cánh nghĩa không, nên
cũng gọi là Đại Thừa Không Tông. Sa
Bồ Tát
Long Thọ y cứ nơi Ma Ha Bát Nhã thiết lập luận cứ, hiển bày Trung
Đạo của tất cả không chỗ chứng đắc, tạo thành Trung Luận. Nơi trong
luận này, tuyển chọn tinh tế mầu nhiệm của nó, lược thành 12 Quán
Môn, mở bày Bát Nhã Chánh Quán, tạo thành 12 môn luận. Đệ tử của
Long Thọ là Luận Sư Đề Bà lại diễn giải một trăm bài kệ trong đó
có 20 phẩm, mục đích chánh là đả phá ngoại đạo, bao gồm phá chấp
trong đạo, tạo thành Bách Luận.
Nơi Đông
Tấn Diêu Tần Hoằng Thỷ năm thứ ba, Pháp sư Tam Tạng Cưu Ma La Thập
đến Trường An Trung Quốc, tận lực dịch Tam Luận, đây là Tổ đầu tiên
của Tam Luận. Đệ tử của La Thập gồm ba ngàn người, trong đó có đệ
tử đáng kể trên hết là mười người, được hiệu là Thập Môn Thập
Triết. Trải qua năm đời truyền thừa, đến Đại sư Tùy Gia Tường, mới
đem Tam Luận phát dương quang đại, cùng đồng thời với ông có Đại sư
Minh Thắng nơi Bắc Địa hoằng truyền Tứ Luận. Ngoại trừ Tam Luận, thêm
riêng “Đại Trí Độ Luận”.
Trung
Luận, là đả phá tất cả hư vọng biên kiến tà kiến, mà hiển bày
thật tướng trung đạo. Kỳ thật, thật tướng trung đạo, không phải trong
không phải không trong, không có tên pháp tướng, vì chúng sanh cưỡng
lại nói tên tướng, muốn khiến nhân đây mà ngộ vô danh, cho nên nói
trung để hiển bày không trung. Trung Luận, cũng gọi là Trung Quán
Luận, Trung gọi là đạo của mười phương ba đời các đức Phật Bồ Tát
chỗ hành trì, cho nên trước hiểu rõ trung, sau đó mới nói trung đạo,
nhầm phát sanh chánh quán của các đức Phật các BồTát, nên cũng
gọi là Trung Quán Luận.
Tông
này dùng không không chỗ đắc làm giáo nghĩa, dùng hữu sở đắc làm
vọng kiến. Trung Luận chính là đả phá Tiểu Thừa, bên phá ngoại đạo,
để hiển bày nghĩa không của Đại Thừa. Bách Luận chính là đả phá
ngoại đạo, bên đả phá tất cả, để hiển bày nghĩa không của Đại
Thừa. Thập Nhị Môn Luận, là bao gồm đả phá Tiểu Thừa và ngoại đạo,
để hiển bày nghĩa không sâu xa của Đại Thừa. [Tam Luận Huyền Nghĩa]
nói: [Luận tuy có ba, nghĩa chỉ có hai biện pháp: một là phá tà, hai
là hiển chánh.] Có thể thấy tông này, chỉ ở hai môn phá tà hiển
chánh.
Phá tà
nói lược có bốn: (1) Phá chấp của ngoại đạo cho là có thật ngã.
(2) Phá chấp cho ngã là không, mà pháp là có của Tì Đàm Tông chủ
trương. (3) Phá chấp không kiến cho là chánh lý của Thành Thật Tông.
(4) Đả phá Đại Thừa ngã vào nơi thấy có chỗ chứng đắc. Như là
không luận trong đạo, ngoài đạo, đại thừa, tiểu thừa, đều cho có
chỗ chứng đắc, nói chung đều phá bỏ. Nói hiển chánh là, tất cả
đều đả phá, không có chỗ chứng đắc, chỗ chứng đắc đã không, đạo ngôn
ngữ cũng đều chấm dứt, chỗ hành động của tâm cũng đều chấm dứt,
ngoài phá tà, đều không hiển chánh, chỗ phá tà, tức là hiển
chánh.
Các
Tông Đại Thừa và Tiểu Thừa phần nhiều thuyết minh Nhị Đế. [Trung
Luận] nói rằng: [Các đức Phật thường nương nơi Nhị Đế, vì chúng sanh
mà thuyết pháp.] “Đại Phẩm Bát Nhã Kinh” nói: [Bồ Tát trụ trong Nhị
Đế, vì chúng sanh mà thuyết pháp.] Cho nên các kinh đều nói, Phật
tuỳ thuận chúng sanh nên nói nơi Nhị Đế, tùy Phàm phu nói có Tục
Đế, tùy Thánh chúng nói có Chân Đế. “Trung Luận Sớ” nói, có bốn
lớp Nhị Đế. (1) Đầu tiên dùng Hữu làm Tục Đế, dùng Không làm
Chân
Đế, đậy là làm một lớp Nhị Đế. (2) Kế đến dùng Hữu và Không làm
Tục Đế, dùng không phải Hữu và không phải Không làm Chân Đế, đây
là hai Lớp hai Đế. (3) Ba dùng hai Lớp trước hai Đế sau làm Tục Đế,
dùng không phải hai không phải không hai làm Chân Đế, đây là ba Lớp
hai Đế. (4) Dùng ba Lớp trước làm Tục Đế, dứt nói năng tuyệt suy
nghĩ làm Chân Đế, đây là bốn Lớp hai Đế.
Tông
nầy, thành lập có Trung Đạo Bát Bất. Nhị Đế thâu nhiếp chung tất cả
Phật pháp, nhưng Nhị Đế do Bát Bất làm chánh, không ngộ Bát Bất,
tức là không biết Nhị Đế. Nên [Trung Luận] quyển đầu lại nói:
[Không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một
cũng không khác, không đến cũng không đi]. Sanh nếu có thật thì
không nên dựa vào nhân duyên. Trước đã không sanh, sao lại có bị
diệt, cho nên nói không sanh cũng không diệt. Đã dựa vào nhân
duyên, cho nên không thường, đã không phải trước có, sao lại có bị
đoạn, cho nên nói không thường cũng không đoạn. Một thân có tướng
sai khác nên không đồng nhất, tuy có tướng sai khác, thân người chỉ
có một thứ, nên nói không khác. Khi pháp không đến do đó không
đến, động tác không đi do đó không đi, cho nên nói không đến cũng
không đi.
Tông
nầy, thành lập có bốn thứ Trung Đạo. Dùng Nhị Đế Bát Bất trên, là
hiển bày Thật Tướng Trung Đạo. Từ phẩm nhân duyên, tìm cầu các
pháp, có cũng không, không cũng không, có và không cũng không,
không phải có và không phải không cũng không, đây gọi là thật
tướng của các pháp.
Bốn thứ
Trung Đạo: (1) Một là đối với Thiên Trung (Trong một bên), chỉ là đối
trị học nhân của đại học và tiểu học, có bệnh thiên chấp không
đoạn không thường, nên gọi là
Trung
Đạo. (2) Hai là Tận Thiên Trung, do trên chỗ nói, bệnh thiên chấp
nếu trừ, tức gọi là Trung Đạo. (3) Tuyệt Đãi Trung, căn bản đối trị
bệnh thiên chấp, nói có Trung Đạo, bệnh thiên chấp đã trừ, Trung
Đạo cũng không lập, không phải trung không phải thiên, nên gọi là
Tuyệt Đãi Trung. (4) Thành Giả Trung, chánh đạo chưa từng có và
không, vì hóa độ chúng sanh, giả nói có và không, nên dùng có và
không làm giả, không phải có không phải không làm trung, như trung
đây, làm thành nơi giả, nên gọi là Thành Giả Trung. Có thể thấy,
Tông này chỗ gọi Trung Đạo, không phải có không phải không, pháp
vô tướng của không Trung Đạo không phải không Trung Đạo, để dẫn đạo
cho chúng sanh, dùng lời truyền đạt Trung Đạo.
7/- Đại Ý
Duy Thức Tông.-
Tông
này có năm tên, (1) Một là Pháp Tướng Tông, là phân biệt thể tánh
cùng tướng trạng của các pháp. (2) Hai là Duy Thức Tông, là truyết
minh diệu lý của vạn pháp duy thức. (3) Ba là Phổ Vị Thừa Giáo Tông,
giáo nghĩa Tông này xu hướng tất cả Thừa. (4) Bốn là Ứng Lý Viên
Thật Tông, đây là lý chân thật viên mãn. (5) Năm là Từ Ân Tông,
Sư Huyền Trang, Sư Khuy Cơ nơi chùa Từ Ân thành lập Tông này. Tông
này căn cứ nơi 6 kinh 11 luận thành lập. Luận vũ trụ vạn hữu, tuy
có vô lượng vô biên các pháp, quy nạp không ngoài năm ngôi vị một
trăm pháp. Ngôi vị thứ nhất là Tâm, co tám Tâm Pháp, Ngôi vị thứ
hai là Tâm Sở Hữu, tâm sở hữu có 51 pháp. Ngôi vị thứ ba là Sắc
Pháp. Sắc Pháp có 11 pháp.
Ngôi vị
thứ tư là Tâm Bất Tương Ưng Hành, Tâm này có 24 pháp. Ngôi vị thứ
năm là Vô Vi, ngôi vị này có 6 pháp.
Hơn nữa,
sẽ buộc nó lại, không ra ngoài mười chữ [Năm pháp ba tự tánh, tám
thức hai vô ngã]. Năm pháp là: (1) Thứ nhất là Tướng, có hữu vi vô
vi, hữu tình vô tình, các pháp trong ba cõi, đều có hình tướng sai
biệt. (2) Thứ hai là Danh, nương nơi các tướng kia, thiết lập các thứ
Danh, Tướng thì khả năng giải thích, Danh thì chỗ để giải thích. (3)
Thứ ba là Phân Biệt, nơi danh và tướng ở trước, thức suy nghĩ đắn đo
phân biệt, danh và tướng là chỗ biết pháp, phân biệt là công năng
biết tâm. (4) Thứ tư là Chánh Trí, quán sát danh và tướng, lẫn nhau
làm khách, lìa hư vọng phân biệt, như lý mà biết. (5) Thứ năm là Như
Như, chánh trí hợp lý, thể của các pháp đều giống nhau, thể biến
khắp pháp giới, kia và đây đều là Như.
Tam Tự
Tánh là (1) Thứ nhất là tánh mưu kế chấp trước biến khắp, chính là
dùng vọng tình mưu tính danh tướng biến khắp, là có là không, hoặc
sắc hoặc tâm, như thấy giây thừng lầm cho là con rắn, thật tình có
mà lý thì không. (2) Thứ hai là Y Tha Khởi Tánh, các pháp theo các
duyên để sanh, vốn không thể tánh, tuy không phải mê tình vọng
tưởng, chỉ là pháp giả, như giây thằng do giây gai kết thành, thật
tướng thì có mà thể tánh thì không. (3) Thứ ba là Viên Thành Thật
Tánh, xa lìa tất cả phân biệt nói năng, thật tánh các pháp thành
tựu viên mãn, như giây thằng thật tánh là giây gai, chính tướng là
không mà tánh là có, tình là không mà lý là có.
Tám
Thức, tức là Thức A Lại Da thứ tám, Thức Mạt Na thứ bảy, Ý Thức
thứ sáu cùng năm Thức trước. A Lại Da là tiếng
phạn,
đây dịch là Tạng, có ba nghĩa là Năng Tạng, Sở Tạng, Chấp Tạng.
Năng Tạng đây là Thức thứ tám, có khả năng hàm chứa bảy Thức
trước và tất cả chủng tử, như kho chứa có thể chứa bảo vật. Sở
Tạng đây, bảy Thức trước có thể huân tập thành chủng tử, dùng
Thức thứ tám làm chổ dung chứa, như kho chứa dùng dung chứa bảo vật.
Chấp Tạng đây, Thức thứ bảy chấp chủng tử đây làm ngã, như vàng
bạc vân vân, khiến người bảo trì kiên cố. Thức thứ bảy còn gọi là
Truyềt Tống Thức, bên trong chấp Thưc thứ tám làm ngã. Bên ngoài
dùng Thức thứ sáu làm ngã dụng, dùng thông cả bên trong và bên
ngoài, nên gọi là Truyền Tống Thức. Thức thứ bảy này có bốn hoặc:
(1) Ngã Si, si mê lý vô ngã, luôn luôn chấp làm ngã. (2) Ngã Kiến,
kiến đây tức là chấp, không phải ngã chấp cho là ngã. (3) Ngã Ái,
do đấm trước tham ái cái ngã, không chịu lìa bỏ. (4) Ngã Mạn, ngạo
mạn với người khác, tâm tự đề cao. Do bốn thứ phiền não đây, vì
thế không thể ra khỏi nạn sanh tử. Thức thứ sáu thông đồng ba tánh
thiện ác và vô ký, tất cả thiện ác, Ý Thức là dẫn đầu, Ý Thức
thiện thì thân và miệng đều thiện, Ý Thức ác thì thân và miệng đều
tà, công thì nó đứng đầu, tội thì nó đầu sỏ. Năm Thức trước, tức
là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, năm Thức
này cùng Thức thứ tám đồng là tánh vô ký, chỉ phân biệt rõ hiện
tại, mặc cho vận dụng chứng cảnh, không mang theo danh ngôn, nương nơi
căn mà hiển bày, Nhãn căn biến khác, Nhãn Thức cũng biến theo, cho
nên năm Thức theo năm căn mà đặt tên.
Hai vô
ngã, một là Nhân Vô Ngã, hai là Pháp Vô Ngã. Nhân Vô Ngã đây,
Ngã có nghĩa là chủ tể cùng tự tại, như thế nào hữu tình qua lại
trong các cõi mà không có chủ tể thì không đặng tự tại hay sao? Cho
nên phàm phu nơi tự thân và
tha
thân, chấp cho là nhân có ngã và pháp có ngã; chỉ là các chúng
sanh hữu tình đều do năm uẩn tạo thành, nơi đây tìm ngã hoàn toàn
không thể được, nên gọi là Nhân Vô Ngã. Pháp Vô Ngã đây, các
pháp thể của chúng tuy sử dụng và duy trì tự tánh, có thể phát sanh
giải bày vật chất, mà không có tánh thù thắng, chân thật tự tại
để sử dụng, vã lại các pháp ngũ uẩn, chấp cho là có thật tự thể,
có thể tự duy trì thật pháp, mà các pháp đều do các duyên giả
hiện, nơi đây tìm cầu thật pháp để có thể duy trì tự thể, hoàn toàn
không thể được, nên gọi là Pháp Vô Ngã. Tuy nhiên, Ngã và pháp đã
không phải có thật, vì sao Phật nói các thánh giáo, cũng có các
thứ ngã của các đức Phật và các Bồ Tát vân vân, các thứ pháp như
ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới vân vân, chúng tùy theo tình
cảm giả lập, đều không có nghĩa chân thật.
8/- Đại
Ý Mật Tông.-
Tông
đây dùng trong ba mật, Khẩu Mật Chân Ngôn lập Tông, nên gọi là Mật
Tông, cũng gọi là Chân Ngôn Tông. Chân Ngôn đây, chân ngữ, như
ngữ, bất vọng, tiếng không khác, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Phật, Mật Tông
xưng là Đại Nhật Như Lai, nơi Cung Pháp Giới tự thọ pháp lạc, hằng
thường diễn thuyết, đây là Giáo Mật Chân Ngôn. Thượng thủ là Bồ
Tát Kim Cang Tát Đỏa, liền kết tập thành “Đại Nhật Kinh”, “Kim Cang
Đảnh Kinh” gồm mười vạn bài tụng, đưa vào nơi tháp bằng sắt ở Nam
Thiên Trúc. Đến sau Phật nhập diệt thời gian sáu trăm năm, Bồ Tát
Long Thọ mở tháp sắt, đích thân đảnh lễ Kim Cang Tát Đỏa, kế thừa
tiếp nhận đại pháp, lại truyền cùng
đệ tử
là Long Trí, Long Trí gồm truyền hai bộ Đại Pháp cho Thiện Vô Quý và
Kim Cang Trí.
Thiện
Vô Quý nơi Đường Huyền Tông khai nguyên năm thứ tư, nơi Trường An dịch
Kim Cang Đảnh Hư Không Tạng Cầu Văn Trì Pháp. Năm 13 dịch thành “Đại
Nhật Kinh” bảy quyển, liền mở Quán Đảnh Mạn Trà La, mà thọ pháp nơi
Nhất Hạnh A Xà Lê, đây là Mật Giáo đầu tiên truyền đến Trung Hoa.
Thiền sư Nhất Hạnh bút thọ Đại Nhật Kinh”, ghi lại bí nghĩa của kinh,
làm thành “Đại Nhật Kinh Sớ” 20 quyển. Lại tạo Nghĩa Thích 14 quyển,
tạo Yếu Điển của Mật Gíáo.
Tam Tạng
Kim Cang Trí, nơi năm khai nguyên thứ tám, đều cùng đệ tử của Kim Cang
Trí là Tam Tạng Bất Không đồng đến Trường An khai đàn Quán Đảnh,
hoằng truyền rất hưng thạnh. Về sau Kim Cang Trí nhập diệt, Tam Tạng
Bất Không lại trở về Ấn Độ, hơn nữa ông ta mang theo kinh sách vân
vân hơn 500 bộ, đến năm Thiên Bảo năm thứ năm Bất Không trở lại
nhà Đường, hoằng truyền Mật Giáo rộng lớn, Bất Không cùng Thiện VÔ
Quý, Kim Cang Trí, đều xưng là Khai Nuyên Tam Đại Sĩ.
Đệ tử
đắc pháp của Tam Tạng Bất Không gồm có năm vị như: Hàm Quang, Huệ
Lãng, Đàm Trinh, Giác Siêu, Huệ Quả vân vân. Mà Đại Sư Huệ Quả là
nhà bác học thâm huệ, lại truyền pháp nơi Nghĩa Tháo, Không Hải vân
vân gồm 16 người. Không Hải là người Nhật Bổn, học pháp xong trở
về nước, hoằng thâm nghĩa rộng lớn, đến nay Bác Trì, Bất Tuyệt xưng
là Đông Mật.
Tông
này lấy đương thể của pháp giới vạn hữu, tức là Đại Nhật Như Lai,
Đại Nhật Như Lai đây, đầy đủ hai đức lý và trí,
mà do
vàng và thai tạng hai bộ Mạn Trà La để biểu hiện nó. Thai Tạng Giới
Mạn Trà La, biểu hiện đầy đủ lý của tánh, chúng sanh vốn có đức
tánh, thâu nhiếp quảng lý hàm chứa tất cả công đức của Như Lai, mà
chưa từng hiển hiện, như bào thai của người mẹ thâu nhiếp và tàng
trử hài nhi, nên gọi là Thai Tạng Giới. Kim Cang Giới Mạn Trà La,
biểu hiện trí của sự tu hành hiển lộ, trí huệ của Như Lai, có thể,
vì có thể phá trừ các hoặc chướng, mà chứng lý của thật tướng,
kiên cố sắc bén, có như kim cang, nên gọi là Kim Cang Giới. Lý tiêu
biểu bình đẳng, trí tiêu biểu sai biệt, Lý là vốn có thật, nên phối
hợp với Bản Giác. Trí là do tu mà phát sanh, nên phối hợp với Thỉ
Giác. Thai Tạng Giới là nhân, nơi trong Lục Đại Lục Đại gồm có:
Đất, Nước, Gió, Lửa, Nước, Thức) dùng Ngũ Đại trước. Kim Cang Giới
là quả, nơi trong Lục Đại, thì dùng Thức Đại. Lại nữa hai bộ Mạn
Trà La đây, mặc dù có hai, thực tế thì không có hai, pháp môn có
sai biệt, mà thể thì không phân biệt.
Mật
Tông còn dùng lục đại làm Thể Đại, Lục Đai gồm có sáu đại duyên
khởi là, địa,thủy, hỏa, phong, không, thức, mỗi mỗi đều biến khắp
pháp giới, làm bản thể của tất cả pháp, gọi Lục Đại Thể Đại.
Không luận Thế Xuất Thế Gian, vạn sự vạn vật, Không, không phải
duyên khởi lục đại. Tất cả chúng sanh, từ đầu đến chân, do trong và
ngoài cũng đều là do lục đại đây tạo thành. Cho nên tất cả pháp,
không lìa khỏi lục đại. Pháp tánh của lục đại, biến khắp pháp
giới, tất cả pháp tánh, đều là Đại Nhật Như Lại, Đại Nhật Như biến
khắp pháp giới. Sáu đại của Thân Phật, cùng sáu đại của chúng
sanh, cho đến sáu đại của tất cả pháp, không ngăn cách không sai
biệt.
Tông
này chỗ lập Tướng Đại trong ba đại, tức là bốn thứ Mạn Trà La của
ba đại, Tam, Pháp, Yết, chính là trên bản thể của sáu đại, chỗ hiện
tướng trạng của sai biệt. Các thứ tướng hảo của các đức Phật và
Bồ Tát, làm Đại Mạn Trà La. Chỗ hành trì gồm có đồ vật, dao, kiếm,
linh, chày vồ vân vân, dùng tiêu biểu cho kẻ thệ nguyện đối với
các bậc tôn kính, làm Tam Muội Da Mạn Trà La. Như chủng tử chân
ngôn, dùng đại biểu phù hiệu của các bậc tôn kính, làm Pháp Mạn
Trà La. Động tác oai nghi vân vân của các bậc tôn kính, làm Yết Ma
Mạn Trà La. Hơn hết, từ chúng sanh cho đến nơi Phật, tất nhiên đều
hiện tướng đầy đủ của bốn Mạn Ttrà La này, mỗi mỗi hàm chứa công
đức của bảo tướng. Như Lai cũng đầy đủ bốn Mạn Trà La của chúng
sanh, chúng sanh cũng đầy đủ bốn Mạn Trà La của Như Lai, chúng sanh
và Phật giống nhau như một, liên quan lẫn nhau với người.
Tam Mật
tác dụng, biến khắp pháp giới, thuộc nơi Dụng Đại. Tam Mật đây, một
là Thân Mật, hai là Ngữ Mật, ba là Ý Mật. Pháp Phật ba mật, sâu xa
vi tế, Đẳng Giác Thập Địa, không thể thấy nghe, nên gọi l2 Mật, Như
Lai nhân vì ba Mật, mà có thể thành tựu công đức thanh tịnh, thể
tướng pháp giới, làm cho nó thành Thân Mật, tất cả âm thanh, làm
cho nó thành Ngữ Mật, công dụng biến khấp Thức Đại, làm cho nó
thành Ý Mật.
Người
thực hành Tông này, dụa vào năng lực công đức quán tưởng bổn Tôn,
đem ý nghiệp của tự mình, chuyển thành Ý Mật của Như Lai, dựa vào
năng lực công đức của kết thủ ấn, đem thân nghiệp của tự mình,
chuyển thành Thân Mật của Như Lai, vựa vào năng lực công đức của
trì chú, đem Khẩu Nghiệp củ
Vựa vào
sự tác dụng gia trì của Tam Mật, tất cả chúng sanh, đều đặng thành
Phật, tất cả quốc độ, có thể thành Tịnh Độ.
Tông
này chủ trương thân liền thành Phật, tất cả chúng sanh trực tiếp
thể nghiệm Thể của sáu đại, thể nghiệm Tướng của tứ mạn, thể
nghiệm Dụng của tam mật. Mỗi mỗi vốn có đầy đủ đức tánh của Như
Lai, thân sẽ là giác ngộ ngôi vị của Đại Nhật Như Lai, nhưng vì vô
minh phiền não chỗ ngăn che, không tự giác ngộ. Nếu người tàng trử
chân ngôn mật, tay bắt ấn tương hợp, miệng đọc chân ngôn, tâm trụ
tam ma địa, tam mật gia trì tương ưng, không động cha mẹ chỗ sanh phàm
thân, đốn chứng thể nghiệm ngôi vị Đại Nhật Phật, là vì giáo nghĩa
của Tông này thân liền thành Phật.
Nghĩa
thân liền thành Phật, có ba thứ lý đủ, gia trì, hiển đắc. (1) Một
là Lý Đủ Thành Phật đây, tức là sáu đại thân tâm của chúng sanh,
vốn đầy đủ tánh đức của lý trí Như Lai, chúng sanh cùng Phật đồng
một tánh lý, đây tức là lý đầy đủ thành Phật. (2) Hai là Gia Trì
Thành Phật, tức là do gia trì tam mật, thành tựu diệu hạnh của thân
liền thành Phật, khai mở hiển bày quả đức bản giác của chúng sanh,
đây tức là gia trì thành Phật. (3) Ba là hiển bày được thành Phật
đây, tức là do diệu hạnh thành tựu của tam mật, chứng vào diệu quả
vô thượng, vốn đầy đủ vạn đức lý trí, đến đây hoàn toàn khai mở
hiển bày, đây tức là hiển bày được thành
Chân
ngôn hành đây, nên quán các pháp từ nhân duyên sanh không có tự
tánh, do nơi tập luyện quán lâu năm, đặng các thứ pháp chứng nghiệm
hiện tiền, cho đến chư Phật hải hội vô lượng trang nghiêm. Nếu sanh
tâm dựa vào ngã mạn, lúc đó ma được tiện lợi, hoặc thối thất tam
muội, hoặc đọa
vào
cảnh ma, đương lúc thâm tu một câu mười duyên sanh làm trợ giúp hành
trì, các pháp như huyễn, xa lìa ma chướng. Câu mười duyên sanh đây, (1)
Huyễn, huyễn sư chỗ tạo ra các thứ sắc tượng. (2) Lửa Mặt Trời, đầu
xuân đồng bằng bát ngát, không gian bụi trần hòa hợp, hiện tại tợ
như tướng nước. (4) Ảnh, dụ như ảnh tượng trong gương. (5) Hải Thị Hận
Lâu, do không khí phản xạ, cổ nhân cho là không khí của thủy tộc pun
ra, (Ảnh giả ảo tưởng do ánh sáng soi vào biển cả rọi lên không,
tạo ra muôn hình vạn trạng rực rỡ giống như nhà cửa cung điện). Nên
gọi là Hận Lâu. (6) Hưởng, trong thâm sơn cùng cốc, do tiếng chuyển động.
(7) Thủy Nguyệt, trong nước chỗ hiện bóng mặt trăng. (8) Phù Bào, là
bọt nước nổi trên mặt nước. (9) Không Hoa, do mắt bị bệnh thấy trong
hư không có hoa. (10) Toàn Hỏa Luân, cầm ngọn lửa xoay tròn trong
không, phát sanh hiện tượng vòng lửa. Vạn hạnh phương tiện, đều mượn
câu mười duyên sanh đây, tịnh trừ tâm cấu, phá tất cả tình chấp,
đạt đến diệu quán bất sanh bất diệt vậy.
9/- Đại
Ý Luật Tông.-
Phật Đà
thành đạo ở thời kỳ đầu, đều không chế giới, chỉ có huấn thị [Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật
giáo] (Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm, tự tịnh ý
của mình, là lời giáo huấn của các đức Phật). Thẳng đến khi năm
thứ năm, có một tỳ kheo bị mẹ bắt buộc hoàn tục cưới vợ, nhân đó,
Phật giáo giới luật liên tục được chế định.
Căn cứ
nơi sự truyền thừa chỗ nói, thời gian Phật nhập diệt một trăm năm,
do Ca Diếp truyền cho A Nan, lại truyền Mạt
Điền
Địa, Thương Na Hòa Tu, Ưu Bà Quật Đa, năm sư kế thừa nhau, như bình nước
chảy nhanh, đều không chi nhánh. Nơi Ưu Bà Quật Đa trở xuống, có năm
vị đệ tử, đối với nội dung luật tạng, đều tự giữ lại và bỏ đi
không giống nhau, liền phân thành 5 bộ luật, cho đến 20 bộ. Năm bộ
luật đây, (1) Đàm Vô Đức Bộ. Đây gọi là Pháp Mật, tức Luật Tứ
Phần, nơi trong luật tạng của Thượng Tọa Bộ, tụ tập thành văn, theo
truyền thuyết ngăn cấm, tức là một phần, như là Tứ Độ, một bộ
Phương Tựu. Phần thư ba 20 quyển, tức Tỳ Kheo Giới. (2) Một trăm năm
mươi điều. Phần thứ hai 15 quyển, tức là Tỳ Kheo Ni Giới, 348 điều.
Phần thứ ba 14 quyển,tức là quy tắc an cư tự tứ vân vân. Phần thứ
tư 11 quyển, tức là phòng xá, thọ y, các thứ tạp pháp của diệt
tránh. Hai là Tát Bà Đa Bộ. Đây gọi là Nhất Thế Hũu Bộ, tức là
Thập Tụng Luật. (3) Di Sa Tắc Bộ. Đây gọi là Bất Trước Hữu Vô
Quán, tức là Ngũ Phần Luật. (4) Ca Diếp Di Bộ. Đây gọi là Trùng
Không Quán, tức đặng giải thoát. (5) Bà Thô Phú La Bộ. Đây gọi là
Trước Hữu Hạnh, chưa truyền vào Trung Thổ, dùng trên đều thuộc Tiểu
Thừa.
Trung
Quốc có giới luật, đầu tiên nơi thời Tam Quốc, Tào Ngụy Gia Bình năm
thứ hai, do Đàm Ma Ca La Tôn Giả người Trung Thiên Trúc, nơi Bạch Mã
Tự ở Lạc Dương, dịch Tứ Phần Luật Yết Ma Pháp, liền thỉnh phạm tăng
lập Yết Ma Pháp, truyền thọ giới tỳ kheo, Trung Quốc có tỳ kheo đầu
tiên. Trải qua 550 năm, từ Phật Đà Da Xá, Trúc Phật Niệm Tôn Giả,
sau khi dịch Tứ Phần Luật, cổ đức trước thuật có 20 nhà. Tứ Phần
Luật hoằng dương khởi đầu nơi Ngụy năm thứ nhất Luật Sư Pháp Thông,
truyền xuống trải qua hơn mười năm, đến Luật Sư Đạo Tuyên, gồm thông
ba tạng, chuyên nghiên cứu Tỳ Ni, sáng tác “Giới Bổn Sớ”, “Yết Ma
Sớ”, “Hành Sự Sao”, ba đại
bộ và
“Xả Tỳ Ni Nghĩa Sao”, “Tỳ Kheo Ni Sao”, gồm xưng là Ngũ Đại Bộ. Ngài
Đạo Tuyên dùng Duy Thức Học, dung thông Đại Tiểu Thừa, thành lập
Diệu Giới Nhất Thừa Viên Đốn, cho nên Tông này dùng Luật Sư Đạo
Tuyên làm Cao Tổ. Nhân Tông này trụ nơi núi Chung Nam, người đời sau
xưng là Nam Sơn Tông. Lại dùng Tứ Phần Luật làm Tông, nên cũng xưng
là Tứ Phần Luật Tông.
Luật có
ba tên: (1) Tỳ Ni, đây dịch là luật, tội có nhẹ có nặng, căn cứ nơi
pháp mà phán định, phạm cùng không phạm, không phải luật không phân
định, cho nên xưng là Tỳ Ni. (2) Thi La, đây dịch là giới, cũng gọi là
thanh lương, ba nghiệp như lửa, thiêu đốt đức hạnh của con người, nếu thọ
tịnh giới, giới cóthể phòng ngừa phi pháp, nên gọi là thanh lương.
(3) Ba La Đề Mộc Xoa, đây dịch là Biệt Giải Thoát, nếu thọ trì sao
gọi là chủng giới, tức đặng hạt giống giải thoát, cũng gọi là xứ
xứ giải thoát, nên gọi là Biệt Giải Thoát.
Giới có
giới tại gia cùng giới xuất gia, giới tại gia có bốn thứ: (1) Tam Quy
Giới, (2) Ngũ Giới, (3) Bát Quan Trai Giới, (4) Bồ Tát Giới. Giới
Xuất Gia có năm thứ: (1) Giới Sa Di và Sa Di Ni, (2) Giới Thức Xoa Ma
Na. (3) Giới Tỳ Kheo. (4) Gới Tỳ Kheo Ni. (5) Giới Bồ Tát. Cộng có
bảy chúng đệ tử Phật, tính có tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni,
thức xoa ma na ni, ưu bà tắc và ưu bà di vân vân.
Lại
nữa, giới Tiểu Thừa cùng giới Đại Thừa. Giới Tiểu Thừa đây, tức
là năm giới, tám giới, mười giới, cụ túc giới. Tất cả giới, đều
có bốn khoa: một là giới pháp, hai là giới thể, ba là giới hành,
bốn là giới tướng. Giới Pháp đây, Như Lai chỗ chế giới pháp. Giới
Thể đây, theo sư thọ giới, lãnh nạp giới thể, phòng lỗi ngăn ác,
không phải sắc không phải
tâm.
Giới Hành đây, đã phát giới thể, tùy khả năng giữ gìn, vận dụng
thân miệng ý, tu tạo thiện nghiệp. Giới Tướng đây, trì giới được
đức hạnh duyên dáng ngoại hình rực rỡ, tướng của nó là người mẫu
mực khuôn phép, Cổ Đức nói: [Thánh nhân chế tên giáo pháp, tiếp
nhận pháp thành nghiệp gọi là thể, nương nơi thể hộ trì gọi là
hành, là hành thì có nghi thức gọi là tướng.]
Lại
nữa, thế gian giới cùng xuất thế giới. Thế gian giới tức năm giới,
tám giới. Xuất thê gian giới, thập giới, cụ túc giới. Giới có hai
thứ: Một là Chỉ Trì Giới. Hai là Tác Trì Giới. Chỉ Trì Giới đây, chỉ
là ngăn cấm, không làm các điều ác, giới thể trước kia trong sạch,
thuận theo chỗ thọ căn bản gọi là chỉ trì. Tác trì đây, tác là tạo
tác, sách tấn khích lệ ba nghiệp, tạo tác các điều lành, tu tập
giới hạnh, có điều lành phát khởi hộ trì, nên gọi là tác trì. Tiểu
Thừa Giới đây, phần nhiều là chỉ trì, nên chưa thọ giới đây, không
được thấy nghe, dễ sanh khinh mạn, vì sợ sẽ thành chướng ngại. Đại
Thừa giới có Tam Tụ Tịnh Giới, 1/- Nhiếp Luật Nghi Giới, 2/- Nhiếp
Thiện Pháp Giới, 3/- Nhiếp Chúng Sanh Giới. Đại Thừa Giới đây, phần
nhiều làTác Trì, không luận nam nữ, thọ cùng chưa thọ, đều có thể
hoan hỷ nghe, vì là hạt giống thiện căn.
Lại
nữa, sát đạo dâm vọng đều thuộc về tánh giới, tội của chúng rất
nặng. Còn uống rượu giới, tránh đời bàn luận dèm pha, gọi là già
giới, tội của nó còn nhẹ.
Lại
nữa, thân đoạn thất cả điều ác, gọi là luật nghi giới, tâm đoạn
tất cả ác, giọi là định cộng giới, tu đến tứ thiền, trong thân tự
sanh, phòng tội ngăn ác. Không còn để đoạn, gọi là đạo cộng giới,
Thánh giả ba thừa, thấy đạo tu đạo, trí huệ vô lậu phát sanh, trong
tâm tự tại, phòng lỗi ngăn ác.
Đại
Thừa Bồ Tát Giới Bổn, cộng chung có sáu thứ: 1/- Bồ Tát Anh Lạc
Giới Bổn, có mười giới trọng, không có giới khinh. 2/- Phạm Võng
Kinh Bồ Tát Giới Bổn, có mười giới trọng, 48 giới khinh. 3/- Du Già
Bồ Tát Giới Bổn, có 4 giới trọng, 43 giới khinh. Ba thứ giới đây,
xuất gia tại gia đều có thể đồng thọ. 4/-Bồ Tát Địa Trì Kinh Giới
Bổn, có 4 giới trọng, 43 giới khinh. 5/- Bồ Tát Thiện Giới Kinh Bổn,
có 8 giới trọng, 46 giới khinh, hai thứ giới đây, chỉ người xuất gia
mới thọ. 6/- Bồ Tát Ưu Bà Tắc Kinh Giới Bổn, có 6 giới trọng, 28
giới khinh, giới đây chỉ người tại gia mới thọ.
Thọ Bồ
Tát Giới có hai thứ tánh chất: 1/- Đốn Thọ, tuy chư từng thọ bảy
chúng giới, cũng có thể đơn độc thọ Bồ Tát Giới. 2/- Tiệm Thọ,
trước phải thọ tam quy ngũ giới, sau đó mới thọ Bồ Tát Giới.
Giới có
khinh và trọng, mỗi tên căn bản gọi không giống nhau, “Anh Lạc Kinh”
gọi 10 giới trọng, gọi là 10 điều không không thể sám hối. “Kinh
Phạm Vỏng” gọi là 10 Ba La Di, Du Già Giới Bổn gọi là 4 Tha Thắng
Xứ. “Kinh Ưu Bà Tắc” gọi là 6 Trọng Pháp. Dùng Khinh Giới lại nói
“Kinh Phạm Võng” gọi là Khinh Cấu Tội. “Kinh Ưu Bà Tắc” gọi là Thất
Ý Tội.
Chúng
sanh vô lượng, hư không vô biên, giới thiện giống nhau như thế, cũng
không chia đều nhau, Giới Đại Thừa dùng 3 Tụ Tịnh Giới, thâu nhiếp
không cùng tận, tụ nghĩa là tổng nhiếp. (1) Nhiếp Chúng Sanh Giới,
rộng độ tất cả chúng sanh, không chúng sanh nào không độ, tức là
[Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.] (2) Nhiếp Luật Nghi Giới, mà tất
nhiên đoạn trừ tất cả đều ác, không điều ác nào mà không đoạn
trừ, tức là [Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn]. (3) Nhiếp Thiện
Pháp Giới, mà khắp tu tất điều thiện, không điều thiện nào
không
tu, tức là [Pháp môn vô lượng thệ nguyện học]. (4) Phật Đạo Vô
Thượng Thệ Nguyện Thành.] Trên đây Bồ Tát chỗ cần phát nguyện [Tứ
Hoằng Thệ Nguyện.]
Hết
Dịch xong
ngày 20. 9. 2021
Chùa
Bảo Phước
Trung
tâm phiên dịch và trước tác
Thích
Thắng Hoan