PHẬT PHÁP CÙNG KHOA
HỌC
-----------------------------------------------------
Tác giả: Uông Trí
Biểu
Việt dịch: Thích
Thắng Hoan
MỤC LỤC
*-
Lời Tâm Niệm.
*- Lời Nói Đầu
A.- Quan Niệm Phật Giáo Và Khoa
Học
I.- Phật Giáo Là Tông Giáo
Thuần Lý Trí,
II.-
Phật Giáo Đích Thực Nghiên Cứu Tinh Thần,
III.-
Quán Bình Đẳng Của Phật Giáo,
IV.-
Quán Nhân Duyên Của Phật Giáo,
V.- Tinh Thần Tích Cực Của Phật
Giáo,
VI.-
Phật Giáo Nhập Thế Ứng Dụng,
B.- Kết Luận.
LỜI TÂM NIỆM
Kính thưa tác giả
Uông Trí Biểu, tôi tự xưng là một thầy tu tên là Thích Thắng Hoan,
xin chân thành gởi đến tác giả lời tâm niệm tha thiết theo đây, tôi
không biết mặt và trụ xứ của tác giả, chỉ biết danh hiệu qua tác
phẩm với nhan đề là “PHẬT GIÁO DỮ KHOA HỌC”, có chỗ gọi là “PHẬT
GIÁO KHOA HỌC QUAN” do Phổ Môn Văn Khố Ấn Tặng. Tôi
đọc xong tác phẩm này của Ngài vô cùng hoan hỷ ca ngợi, không ngờ
Ngài là một nhà bác học chẳng những thông bác khoa học mà còn
thông bác cả tư tưởng Phật Giáo. Chẳng những
thế Ngài còn thông bác cả kinh tế học, chánh trị học, văn học, xã
hội học vân vân được nằm gọn trong tác phẩm. Theo
tôi nhận thấy trong tác phẩm này Ngài dùng khoa học để biện minh cho
Phật giáo cũng là một tông giáo khoa học tâm linh. Cụ thể như
Ngài xử dụng Kỷ Hà Học của nhà Bác Học soi sáng vũ trụ học của
Phật Giáo, cũng như Ngài đem Luận Lý Học của La Tập giới thiệu tỷ
giảo qua Nhân Minh Luận của Phật Giáo không thua kém. Còn nhiều vấn đề độc đáo khác giữa khoa học và Phật
Giáo muốn được rõ biết xin đọc thẳng vào tác phẩm của tác giả.
Hôm
nay tôi viết lời tâm niệm đây gởi đến Ngài là để xin phép Ngài
dịch tác phẩm này ra Việt ngữ là tiếng nước ngoài để phổ biến đến
các học giả Việt Nam tham cứu. Rất tiếc tác phẩm này của Ngài
là viên ngọc quý mà lại nằm yên trong thư viện và nằm âm thầm
trong chữ Hán không ai biết thật là vô cùng hối tiếc. Theo nguyên tắc muốn dịch tác phẩm của Ngài phải xin phép
Ngài trước và được Ngài cho phép mới được dịch và phổ biến. Nhưng rất tiếc, tôi không biết chỗ ở và địa chỉ của Ngài.
Nhằm mục đích hoằng pháp và truyền bá tư tưởng Phật
giáo qua tác phẩm của Ngài, nhưng ở đây không có tánh cách thương
mãi làm ăn, xin Ngài hiểu và tha thứ cho. Hơn
nữa tôi thiết nghĩ Ngài cũng muốn phổ biến tác phẩm của mình được
hiểu biết sâu rộng khắp nơi mà ở đây tôi là một trong những người
thực hiện ý muốn của Ngài đem tư tưởng của Ngài phát huy ra nước
ngoài.
Tôi là một nhà tu
một nhà tư tưởng Phật giáo mà không phải là nhà khoa học, cho nên
danh từ chuyên môn của khoa học tôi không rành cho lắm, chỉ biết lờ
mờ khi còn cập sách đến nhà trường và hơn nữa tôi năm nay 2020 đã
hơn 92 tuổi đời, không còn nhớ rõ khi còn đi học mà đặc biệt hơn
nữa khoa học không phải là ngành chuyên môn của tôi. Xin tác giả và các học giả cao minh thấy chỗ nào dịch
không chính xác chỉ bảo để tôi tu chỉnh lại cho hoàn bị hơn.
Điều đáng chú ý,
tôi dịch theo lối thoát văn, chỉ lấy ý tưởng
của tác giả hơn là theo cú pháp của chữ Hán. Những
chỗ nào có những chữ nằm nghiêng trong dấu ngoặc đây (...) chính là
những chữ của dịch giả thêm vào để cho rõ nghĩa hơn.
Tóm lại, để làm tư
liệu phong phú cho nền văn học Phật giáo Việt Nam trên công trình
phát huy quang đại tư tưởng Phật giáo khắp mọi tầng lớp trí thức
muốn tìm cầu Phật giáo nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, tôi
cố gắng với tuổi già sức yếu dịch xong tác phẩm này để giới thiệu
đến các nhà trí thức Việt Nam yêu văn hoá dân tộc hãy cố gắng tìm
hiểu đúng ý nghĩa của Phật giáo và nhờ đó không phản bội lại tinh
thân văn hoá dân tộc hơn bốn ngàn năm văn hiến.
Trước
khi dứt lời, một lần nữa xin sám hối tác giả tha thứ việc làm của
tôi không xin phép trước và có chỗ nào sai sót thành tâm xin chỉ
bảo cho để tôi tu chỉnh cho được hoàn hảo hơn.
Thành tâm kính lễ,
Ngày
16. 04. 2020
Dịch giả: Thích Thắng
Hoan
Chùa Phật Quang
Trung Tâm Phiên Dịch
và Sáng Tác
A.- QUAN NIỆM PHẬT GIÁO VÀ KHOA
HỌC.
LỜI NÓI ĐẦU
Phật giáo là Tông
giáo theo quan niệm cổ xưa, trước đây bị người
đời ngộ nhận cho là mê tín. Xem từ trên phương diện
bề ngoài, nó xác thực là đã khoác lên trên nó sắc thái tông giáo
rất sâu nặng. Người ta xem thấy tượng Phật trang sức bằng
vàng, nghe đến tụng kinh bằng tiếng Phạn với tiếng chuông và tiếng
khánh, nếu có ai hỏi đến, họ đều khăng khăng trả lời là lễ bái
nhằm mục đích tỏ lòng tôn kính thần tượng; người ta lại xem thấy sự
sinh hoạt của tăng chúng trong tự viện liền khăng khăng vu khống cho
chúng nó là ký sanh trùng trong xã hội. Phải biết trong giáo lý của
đạo Phật, mỗi sự việc, mỗi sự vật đều có lý luận trên căn cứ,
chỉ là những thứ lý luận này hoàn toàn quá cao thâm, chẳng những
không phải dùng ba nói hai lời có thể giảng giải được minh bạch, mà
lại cần yếu phải có cơ sở học vấn tương đương thì mới có thể nghe
đến hiểu rõ được. Người ta nói Phật giáo là mê tín, kỳ thật ngược
lại họ đã hoàn toàn phạm phải bệnh mê tín, nguyên vì họ đều chưa
từng triệt để nghiên cứu qua giáo lý Phật giáo, thậm chí có thường
thức phổ thông gắn liền với Phật giáo cũng chẳng biết đến, người
kỳ thị đã nói cũng nói rồi, đây mới là mê tín chân thật ----- là
người nói bừa bãi chụp mũ cho người khác là mê tín.
Phật
giáo có thể cho là Tông giáo và cũng có thể cho là không phải
Tông giáo, đây cần yếu là xem họ đối với hai chữ Tông giáo định
nghĩa như thế nào. Nếu như căn cứ nơi nguồn gốc của nó mà nói chắc chắn là
Religion, là chỉ cho Tông giáo sùng bái nhất Thần hoặc đa Thần, riêng
Phật giáo trên căn bản chính là không phải Tông giáo, nguyên vì
Phật giáo thì không chủ trương thần quyền. Nếu giải thích nghĩa rộng
thì phàm chỗ có tông chỉ chỗ có giáo dục đều được xưng là Tông
giáo, như Khổng giáo, Đạo giáo, vân vân, thì Phật giáo cũng có thể
cho là Tông giáo.
Từ khi khoa học phát
đạt trở về sau, nơi có Tông giáo sùng bái nhất Thần hoặc đa Thần,
ý nghĩa từ từ bị thu hẹp lại, sớm đã chịu công kích không ngừng của
khoa học, chỉ có Phật giáo thì dĩ nhiên không như thế, khoa học càng
phát triển thì giáo nghĩa của Phật giáo càng phát huy sáng ngời rộng
lớn. Những năm gần đây, các chỗ Phật giáo trên thế
giới càng ngày càng hưng thịnh, thật là tiến bộ so cùng với khoa học
trở thành tỷ lệ thuận. Ngay như quốc gia của ta
những năm gần đây, trong Phật giáo đồ lại có không ít là khoa học
gia và công trình gia. Đây là nhân vì lý luận của Phật pháp
đều có thể khảo nghiệm khoa học quá rành mạch, cho nên phàm đối
với khoa học tạo trình độ càng thâm sâu, càng có khả năng giải
thích trong Kinh Phật mà xưa nay văn nghĩa không thể giải thích. Từ trước đến nay, hiểu biết tất cả sự tướng trong Phật
giáo, ở nơi người thường thấy cho là mê tín, nhưng nó lý luận đều
có cơ sở kiện toàn và kiên cường. Tác giả
nhân căn cứ nơi đây sáng tác “Quan Niệm Phật Giáo Khoa Học” xin trình
bày lý thuyết đó nơi sau.
I.- PHẬT GIÁO LÀ TÔNG GIÁO
THUẦN LÝ TRÍ.
Các
đại gia đều biết sản vật của đạo Khoa học là lý trí, nhưng không
biết sản vật của Phật giáo có phải cũng là lý trí hay chăng? Có thể nói sản vật của
Phật giáo so sánh cùng Khoa học cả hai cũng đều là lý trí, cho nên
theo lập trường của Khoa học để xem Phật giáo, cần yếu là so sánh
từ nơi các phương diện kinh tế, chánh trị, văn học, triết học để xem
và khi xem cần phải được rõ ràng và chính xác. Khoa học đã từng đả
phá hoàn toàn ngu ám của nhân loại trải qua
kể từ ngàn năm về trước, giải trừ hoàn toàn sự mê chấp của nhân
loại; còn Phật giáo đối với nhân loại cũng có quá trình cống hiến
giống nhau. Ở đây tường thuật tỉ mỉ như bên trái:
1/- Bài trừ mê ám,
nhân loại đều hướng về nơi có rất nhiều sai lầm, như không dùng lý
trí để suy tính trắc nghiệm cho tinh tế, chúng nó thường thường bị mê
hoặc ở chỗ lợi dụng sai lầm để theo mục đích riêng tư. Thí dụ rất
đơn giản, như trước kia các đại gia đều công
nhận mặt địa cầu là bằng phẳng, là hình vuông, là đứng yên bất
động; còn mặt trời thì chuyển động. Sau này các nhà
Khoa học thuyết minh địa cầu là hình tròn, là tự chuyển động và khác
hẳn là hướng về mặt trời đi vòng quanh. Lại nữa như vấn đề
nhựt thực và nguyệt thực, từ trước nhận định cho là rất thần bí,
hiện tại đều biết nhựt thực là mặt trời bị mặt trăng ngăn che, còn
nguyệt thực là mặt trăng bị ảnh địa cầu ngăn che; cho nên những sự
việc sai lầm trước kia đều là do thời điểm suy tính của họ. Tôi lại ghi nhận được là nhờ khóa căn bản mở đầu Kỷ Hà
Học mới có thể có bao nhiêu thí dụ. Trước hết để thuyết minh
con mắt có nhiều thứ hiểu biết sai lầm, như bên trong con mắt có một
thí dụ, là đem hai căn số bình hành (song song với nhau) mà dài đồng
đẳng (ngang nhau) để hai căn số trực tuyến (đường thẳng) và hai đầu,
mỗi đầu thêm <==> cùng với >==< hai thứ hoa văn (hai thứ
kiểu vẻ) lại gặp nhau khiến người hiểu được hai căn số trực tuyến
đây là một dài một ngắn. Do đó chứng minh đơn phương dựa vào con mắt
để phân biệt dài ngắn chính là dựa vào chỗ không ngừng lại. Hơn
nữa như vào đêm tối, chúng ta xem thiên văn thấy tinh tú trên không
trung liền cho
chúng nó là tồn tại,
nhưng các nhà Thiên Văn Học cho chúng ta biết có rất nhiều tinh tú
khoảng cách địa cầu chúng ta rất xa đã lìa khỏi; đặc biệt những tinh
tú nói trên khoảng cách địa cầu chúng ta không thể dùng đoạn đường
Dặm (555 mét) để tính toán, chính là phải dùng ánh sáng xa và niên
số để tính toán, ánh sáng niên số gọi là Quang Niên, khoảng cách
một Quang Niên dùng mỗi Sao là 30 vạn Công Ly (Một Công Ly là một
cây số: 1 kí lô mết) để tính toán, một Quang Niên (một năm ánh
sáng) là 30 vạn Công Ly (tức là 30 vạn năm ánh sáng), về khoảng
cách cũng tức là 30 vạn kilômét, cũng tức là 30 vạn cây số. Các hành tinh khoảng cách xa có số lượng là 10 Quang Niên.
(10 Quang Niên, nghĩa là 10X30 = 300 vạn cây số cũng
tức là 300 vạn năm ánh sáng). Cho nên chúng ta xem thời gian
của viên ngọc hành tinh đây đã phát hiện ánh sáng từ mấy mươi năm
trước, đã trải qua thời gian mãi cho đến ngày nay và hiện tại viên
ngọc hành tinh đó sớm đã bay đến chỗ nào không biết và bên trong
của nó đã ra đi bao giờ. Lại nữa như chúng tôi hiện thấy trong nhà
của mình, nào là bàn ăn, ghế dựa, bút nghiêng, mâm chén đều đứng
yên bất động và vững chắc, nhưng chỉ có nhà Vật Lý Học cho chúng
tôi biết, những thứ nguyên tử trong vật chất này (tức là trong bàn
ghế, ghế dựa..v..v... nói trên) cũng giống với
thái dương hệ, nhưng nó khác hẳn với điện tử vì điện tử hoàn toàn
đi vòng quanh hạt nhân nguyên tử, còn khoảng cách giữa nguyên tử
với nguyên tử chú ý xem thì có kẻ hở rất to lớn, thưa thớt và lỏng
lẻo, nhưng chúng hoà hợp lại rất lạ thường; nhưng chúng ta chỉ thấy
biểu hiện bên ngoài của bàn ăn, ghế dựa, bút ghiêng, mâm chén đều
vẫn đứng yên bất động, vững chắc và chúng ta thấy như thế thì hoàn
toàn không đúng, không giống nhau; mắt thịt của chúng ta thực tế
không thể thấy được chân tướng nơi vật thể của chúng; chúng ta muốn
thấy chân tướng của vật thể như bàn ăn vân vân, lẽ tất nhiên phải
dùng lý trí của Lan Tập (Lôgíc) để phối hợp thì mới có thể suy tính
đáp án được chính xác.
Phật giáo khác nhau,
nghĩa là không hiểu biết theo kiểu uốn nắn sai
lầm. Nước ta hướng về trước có cổ ngữ “Trời không hai mặt trời”,
nhưng trong Kinh Phật nói “ba ngàn đại thiên thế giới” chính là nói
có mười vạn vạn thái dương (mặt trời), may mắn thay những vua của
nước ta không có nắm lấy tội danh đại nghịch bất đạo đi tàn sát
những tư tưởng đối nghịch, lại thêm các Kinh Phật tiếp nhận tượng Ni
áo trắng giống anh của vua. Hiện tại trong Kính Thiên
Văn chứng minh có nhiều định tinh bí mật tập hợp, mỗi một định tinh
là một thái dương hệ. Tất cả không có đọc qua
sinh lý học đều cho thân thể của ta đây chỉ có “Ngã” độc chiếm cá
nhân một người. Nhưng đạo Phật cho biết phía
bên trong mỗi nhục thân có rất nhiều thứ sanh chiếm giữ, và mỗi
sinh trùng đều có “Ngã” của chúng để cùng nhau đồng hưởng thụ.
Đức Phật ở hai ngàn năm trăm năm trước đã báo cho chúng ta biết
Ngài hoàn toàn mạnh dạn và nói thẳng trong thân người là một ổ vi
trùng, đặc biệt quan trọng là trong một chén nước có tám vạn bốn
ngàn loại vi trùng; vấn đề vi trùng đây đưọc thấy rõ trong các Kinh
như “Trị Thiền Bệnh Tất Yếu Kinh” và “Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh”. Kinh Phật không riêng nói ra tên chử các thứ trùng, mà
lại còn miêu tả hình dạng và động tác của chúng nó. Ở Khoa
học trở về trước không có mở mang, chỉ giống nhau là người không tin
tưởng và chấp nhận thuyết vi trùng này, thật
là không dễ dàng. Đức Phật tuy nói được vấn đề đây rất rõ ràng,
mà lại chỉ đức Phật tự nói, đức Như Lai là người chân ngữ (chân
ngữ là lời nói chân lý không sai trái), người thật ngữ (Thật ngữ
là lời nói đúng sự thật không giả dối), người như ngữ (Như ngữ
trước sau không biến đổi), người không cuồng ngữ, người không dị ngữ
(Không Dị ngữ là lời nói trước sau không khác nhau), nhưng những thứ
vi trùng này quá nhỏ bé, con mắt thịt đã không bao giờ thấy được,
lúc bấy giờ lại không có kiến hiển vi giúp người kiểm soát, thế
vậy làm cách nào đức Phật có thể dạy người triệt đễ hiểu rõ.
Hiện tại con người khá đầy đủ Sinh Lý Học Thường Thức, cho nên hoàn
toàn dễ tiếp nhận lời của đức Phật. Hơn nữa trên Kinh Phâït lại
nói đức Phật xem trong
một chung nước có tám vạn bốn
ngàn vi trùng, hiện tại lời nói này của đức Phật cũng hiểu được
hoàn toàn không có vấn đề.
Ở thời đại con Số
không có phát minh trở về trước, các đại gia chỉ thừa nhận con Số
Chính mà không thừa nhận con Số Phụ và con Số Lẽ, lại không hiểu
được cái gì rõ ràng liền thành lập Tố Huyễn Số (làm số giả
thuyết). Lúc bấy giờ trong đây biểu thị nhân loại
đối với Số Học nhận thức đều chưa được hoàn mỹ. Phật giáo đối với vấn đề Số Học bất kỳ lúc nào đều
rất hoàn mỹ và rất phổ biến. Thí dụ như nói Xúc Giác, theo
phổ thông chỉ nhận thức thân thể vật chất kết hợp với nhau gọi là
Xúc, nhưng không biết thời gian ly cách của Xúc cũng vẫn có Giác,
(nghĩa là cũng vẫn có hiểu biết). Nếu thời gian ly cách của Xúc mà
không có Giác (không biết) thì sự ly cách của Xúc, nghĩa là khi Xúc
kết hợp với nhau cũng sẽ không có Giác (không biết) về sự kết hợp
của Xúc, cho nên Kinh Phật đối với sự kết hợp của Xúc gọi là Hợp
Xúc và thời gian ly cách của xúc gọi là Ly Xúc, cũng giống như trong
Đại Số ngoài số Chánh ra cũng thừa nhận số Linh (số lẻ). Lại cũng
giống như nói lạc là Lạc Thọ, khổ là Khổ Thọ và không khổ không
lạc gọi là Xả Thọ, tương đương với vấn đề ba vị trí của Số Học là
Số Chánh, Số Phụ và Số Linh (số lẻ). Lại cũng giống như nói ngoài
Thiện và Ác, còn nắm luôn cả không phải thiện
không phải ác gọi là Vô Ký. Những dữ kiện trên đây đều là biểu hiện sự hoàn mỹ
giáo pháp của Phật nói so cùng tinh thần Khoa học thì giống nhau,
nhưng lại vượt quá tầm thường thức của địa phương.
Thêm
nữa có một sự kiện là Khoa học và Phật giáo không khác nhau ở chỗ
đều bài bác Linh Hồn. Con người phần đông đều giống nhau là tin có
linh hồn như: con người đích thực được điều khiển nơi cái vỏ bên
ngoài là nhục thể mà nhục thể chính là vật chất; nhưng vật chất thì
không có hiểu biết linh hoạt, cho nên con người nhất định phải có
linh hồn để hiểu biết linh hoạt, đồng thời làm chủ điều khiển nhục
thể. Thí dụ như một chiếc xe hơi, nhất định phải
có tài xế điều khiển chiếc xe. Linh hồn đây thì cũng
được chứa ở trong nhục thể, mà nhục thể đã có linh hồn thì con
người mới có sinh hoạt và linh hồn khi ly khai nhục thể thì con người
liền bị chết. Lời nói đây dường như trở thành lý thuyết, nhưng
chắc chắn La Tập (lôgíc) hoặc Nhân Minh Học lại trắc nghiệm bỗng
chốc lại phát hiện cho thuyết linh hồn đưa đến sự lỗi lầm. Chúng ta
hiện tại hỏi họ: Linh hồn đây là vật chất hay không phải là vật
chất? Nếu nói linh hồn đây là vật chất thì linh hồn đây tất nhiên
phải có kích thước dài hay ngắn, phải có trọng lượng nặng hay nhẹ;
hiện tại môn học mổ xẻ thân thể con người rất phát đạt, các bộ
phận cấu tạo trong thân thể con người được hiểu rõ rất rành mạch,
mặc dù các bộ phận đó quá
nhỏ bé cho đến tế bào vi trùng, mỗi mỗi cũng đều biết danh xưng và
sự tác dụng của chúng nó. Nhưng từ khi phát hiện một việc kỳ quái
mà không biết được danh xưng và sự tác dụng của nó như thế nào,
nếu bảo nó thuộc về vật chất thì khi ở nơi sự mổ xẻ trước kia hoặc
ở nơi khi con người bị chết, lúc đó chúng ta phải thấy nó đã bay ra
ngoài thân thể; hơn nữa linh hồn đây đã là vật chất thì không có
động lực nào thúc đẩy linh hồn và quyết định linh hồn không thể tự
bay ra khi con người bị mổ xẻ hay khi con người bị chết; còn nếu con
người dựa vào nhục thân thì khi nhiệt lực trong nhục thân chán bỏ
con người đi ra ngoài thân thể, chừng đó con người phải chết và khi
con người đã chết thì nhất định có thể tìm kiến được điện lực ở xung
quanh chu vi con người để đưa nó vào thân thể trở lại khiến cho con
người khỏi bị chết. Huống chi vật chất đã là vô tri
(không hiểu biết) và linh hồn thuộc về vật chất cũng thuộc loại vô
tri, thì tại sao nhục thể lại riêng chọn lấy vật chất một thứ vô
tri để làm chủ tể cho mình? Còn nếu nói vật
chất có hiểu biết thì nhục thể cũng có hiểu biết mà tại sao nhục
thể lại riêng chọn vật châát một thứ hiểu biết khác làm chủ tể
cho mình? Cho nên nói linh hồn là vật chất thì
quyếât định không thể lý luận để chứng minh cho chúng nó. Có
người nói linh hồn không phải là vật chất điển hình như ở trong thân
đồ đạc phải hiểu có linh hồn mới điều khiển tế bào này tiến
vào thì tế bào kia phải ra đi.
Tuy rằng tế bào này tiến vào thì tế bào kia
phải ra đi nhất định không thể cho nó là linh hồn được.
Phật
giáo đã bài bác linh hồn, như vậy ai làm chủ tể khi người ta chưa
sanh và ai chịu luân hồi khi người ta đã chết? Phật giáo giải đáp như sau:
Vấn đề đây nguyên nhân là bản thể của vạn vật có mặt ở khắp nơi
và bản thể đều không có hình tướng, không trụ ở trong và ở ngoài,
không đi ra và cũng không đi vào, Phật giáo cương quyết gọi nó là
Thần thức, là Phật tánh. Thần thức là chỉ cho bản thể bị vật dục che
đậy, còn Phật tánh là chỉ cho bản thể không có vật dục trói buộc,
đúng ra Thần thức và Phật tánh tuy là hai nhưng mà một, tuy là một
nhưng mà hai (Mê vọng nó là Thần thức, giác ngộ nó là Phật tánh). Còn Thần thức và Linh hồn có người cho là giống nhau,
nhưng căn cứ trên bản chất thì không giống nhau, người ta chấp nhận
cho Linh hồn là có hình tướng, là trụ ở trong thân và có thể ra
vào. Chẳng qua chúng ta có thể được nói trở lại là, Thần
thức và Phật tánh tuy nhiên không có hình không có tướng, không trụ
ở trong không trụ ở ngoài, không ra và cũng không vào, nhưng mà gặp
duyên thành thục (gặp duyên chín mùi) thì cũng có thể hiển bài vật
chất có hình có tướng ra vào trong và ngoài, cho nên nó đã không
phải vật chất mà lại không phải không vật chất. Hiện tại các nhà
Khoa học
đối với vấn đề
Thần thức và Phật tánh lại không có khả năng để giải đáp thêm,
chỉ là đoán mò nói rằng: “không có nó thì sự việc không trở lại”,
câu nói đây đúng là câu nói hoàn toàn có ý công kích đả phá;
ngược lại Phật giáo thì dùng hiện lượng (thực nghiệm) của đức Phật
thân chứng để thuyết minh câu nói đoán mò trên là không phải
(không đúng); nếu giải thích Thần thức và Phật tánh bằng cách mổ
xẻ phân tích thì lại càng sai lầm, đồng thời đức Phật chỉ thị cho
chúng ta sử dụng các thứ pháp môn tu hành để khiến họ chứng đặng
chân lý giống nhau.
Cho nên Khoa học và
Phật giáo là hai ngọn đèn sáng trên thế giới và hai ngọn này hoàn
toàn chiếu phá tất cả hắc ám của thế gian và giải trừ hoàn toàn
sự mê chấp của chúng ta, giúp trí tuệ của nhân loại để phát triển
cảnh giới không ngừng, mong đạt đến chánh giác vô thượng. Có thể
hối tiếc là Khoa học hiện đại chỉ giới hạn ở nơi hiểu rõ tướng mạo
của vật chất, còn về phần quan hệ bộ phận của Tâm thì Khoa học cho
dù có nhờ vả một ngọn đèn trí tuệ của Phật giáo, nhưng không đủ
khả năng để phá trừ mê ám. Thí dụ như quan hệ nơi các bộ phận cảm
giác khí quan (Khí Quan là giác quan cảm giác) của thân thể con người,
lại có liên quan đến vấn đề của Tâm, do đây các thứ cảm giác dẫn
đến rất nhiều Tâm lý tác dụng xuất hiện (Bách Pháp Minh Môn Luận
gọi là Tâm Sở
Hữu
Pháp), Phật giáo đối với các thứ cảm giác Tâm lý này nghiên cứu
rất được tinh tế và đi rất xa mà không phải Tâm Lý Học hiện tại
có thể mong đuổi kịp. Hôm nay giả định (giả thuyết) chúng ta nghe một thứ âm
nhạc do nhạc sĩ trình diễn một khúc nhạc nào đó, Nhĩ Thức chúng ra
liền phân biệt giai điệu của khúc nhạc đó, Ý Thức liền theo giai
điệu khúc nhạc nói trên, tức thì phân biệt được phong cách tư tưởng
tình cảm của khúc nhạc này, nhờ đây dẫn khởi rất nhiều Tâm sở
xuất hiện, giúp chúng ta cảm giác đến chỗ tươi đẹp nghe êm tai của
bản nhạc, tiếp theo phát sanh các thứ tưởng tượng giả huyễn đồng
thời nhân đó cũng liền phát sanh Tâm yêu chuộng và luyến ái mãi
không bỏ (Đó chính là danh từ của Pháp Tướng Tông nhân đến giảng
và giải thích các Tâm Sở nào là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, tham,
si, phóng dật). Trường hợp đây chỉ đối với âm nhạc mà đã có người
nói tương đương huấn luyện; nếu một người trên căn bản không hiểu
rõ âm nhạc thì sau khi nghe xong khúc nhạc này nó thực tế không hiểu
đạo lý giai điệu là gì, lại còn không hiểu rõ phong cách tư tưởng
tình cảm của khúc nhạc đó, đã vậy nó chỉ biết tiếng ngâm nga đầy
lỗ tai, mà không phải chỉ không phát sanh Tâm yêu chuộng và lại còn
lo sợ nó phản lại bằng cách tỏ thái độ chán ghét. Nếu căn cứ theo
sự phân tích của Vật Lý Học, một bộ phận đây gọi là Khúc Nhạc,
chẳng qua là một chuỗi không khí ba động liên kết với nhau, bao gồm
liên kết
các thứ âm ba dẫn dắt lan khắp
mọi nơi được gọi là Huyền Khúc Tuyến (cũng gọi là Hài Ba) (nghĩa là
ba động hài hoà; Huỳnh Khúc Tuyến, nghĩa là dòng chảy khúc nhạc mầu
nhiệm). Đúng ra đây là Màng Nhĩ khi tiếp nhận sự
chấn động của âm thanh khúc nhạc từ nơi không khí ba động, sự thật
đó là trạng thái. Cảnh giới hiện lượng của
Nhĩ Căn đúng là như đây, tức là trạng thái của khúc nhạc, là không
khí ba động của âm thanh.
2/-
Vứt bỏ tình cảm, Phật giáo có thể nói là chuyên môn tìm ra các thứ
thố giác (hiểu sai lầm), huyễn giác (hiểu giả tạo) của người ta,
nhưng người ta lại cho là uốn nắn hợp lý, khiến người ta chạy mãi
lên đại đạo giác ngộ mà vẫn chưa đến đâu. Cho nên
Phật giáo là thuần lý trí, không phải chỉ không lẫn lộn một điểm
tình cảm, nhưng chỉ dốc toàn lực vứt bỏ tình cảm, đây là cùng với
Khoa học hoàn toàn đồng nhau. Triết học mặc dù cũng chú trọng
lý trí, chỉ chủ trương lập thuyết, rốt cuộc không khỏi kiến lập bè
phái, thưởng đồng phạt dị (thưởng đồng phe đảng và phạt khác phe
đảng). Còn Khoa Học Xã Hội thì có khác, chủ yếu cũng
chưa có thể thoát khỏi tình trạng bè phái này. Cho đến Văn Học Nghệ Thuật thì lại thiên trọng về tình
cảm, nhưng tình cảm thạnh hành thì lý trí yếu kém; riêng đánh giá
Văn Nghệ xưa nay không định lý luận. Tình cảm cùng lý trí
thường thường lẫn nhau tăng giảm,
một cá nhân khi
nông nổi tiếp nhận tình cảm thì lý trí thường nhân đây tiêu giảm,
cũng có thể nói bị tình cảm che lấp trở nên lờ mờ; ngược lại lý
trí đương lúc phát triển lên cao thì tình cảm (thí dụ như tâm lý tham
ái vân vân bị khủng bố) cũng bị tiêu giảm, lúc đó lý trí như ánh
sáng mặt trời, còn tình cảm như mây trôi. Tức là như tình của con
yêu, mặc dù tình thuộc về nhân luân thường thường cũng khiến cha mẹ
có những hành vi đối với con gái phán đoán sai
lầm. Lại nữa như nhiệt tình ái quốc, mặc dù không
phải là tình riêng tư, nhưng cũng dễ bị mất đi sự khống chế của lý
trí, mà gây nên thảm họa. Đến như nam nữ luyến ái nhiệt tình
thì thường thường làm ra những hành vi không lý
trí, thậm chí quá ngu si làm những việc chết vì tình. Xem
nơi lập trường của Phật giáo, những thứ tình cảm đây tuy có phân ra
công tư nặng nhẹ, đều là một thứ si ái, cũng liệt vào chỗ vứt bỏ.
Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói, chúng sanh bị thăng trầm trong sáu
đườøng là do phần xảy ra tình tưởng, tưởng nhiều thì đi lên, tình
nhiều thì chìm đắm, thuần tưởng thì lên trời, thuần tình thì vào ngục
A Tỳ, còn tình và tưởng đều bình đẳng thì sanh
vào nhân gian.
Thái độ nghiên cứu
của các nhà Khoa học, hướng đến là không xen lẫn một mảy may tình
cảm, mà đối với năng lực tưởng tượng thì xem trọng cực đoan. Chỗ có
sự cấu tạo của nguyên tử, có sự vận hành của thiên
thể, giăng bủa truyền đạt
những làn sóng từ trường của điện tử đến các thứ máy móc cơ giới
kết cấu phức tạp, có loại ở nơi sức tưởng tượng không đủ để phổ
cập đến nhục nhãn. Thí dụ như chiếu ảnh của Kỷ Hà
Học chính là nhu cầu công dụng sức tưởng tượng tối đa của Khoa học.
Học sinh khi học khoa này, tất nhiên trước hết phải tưởng tượng trong
không gian có ba miếng mặt bằng ánh sáng xuyên qua lẫn nhau giao tiếp
thẳng góc, do đây phân chia chúng ra tám góc phần tư (toán). Lại kế
đến tưởng tượng có một thứ đường cong gì đó, hoặc thứ mặt bằng gì
đó, hoặc thứ lập thể gì đó, an trí nó ở trong
một góc phần tư đó. Kế đến tưởng tượng có ba thứ quang tuyến, theo ba phương hướng, thảy đều phân biệt thẳng góc
chiếu soi bắn đến trên mặt bằng của ba cơ bản nói trên. Do đây
tưởng ra ở mỗi một trên mặt bằng, chỗ đạt đến chiếu ảnh của quang
tuyến gì đó hoăc của mặt phẳng gì đó hoặc của lập thể gì đó. Ba thứ chiếu ảnh đây, hiện tại có mặt ở nơi bức họa đồ
cơ giới, hoặc họa đồ chánh diện, hoặc họa đồ trắc diện, hoặc họa đồ
bình diện. Như tưởng tượng tái diễn sử dụng một thứ hoạ đồ
bình diện, căn cứ nơi một thứ khía cạnh gì đó của họa đồ, nương nơi
thứ góc độ nào đó liền cắt đứt một lập thể gì đó (hoặc một thứ
cơ giới gì vân vân), liền đem trên mặt cắt đứt của một lạâp thể
đây đến chỗ tiếp xúc họa đồ điều tuyến của lập thể nào đó đi đến
xuất hiện kết thành họa
đồ phẫu diện. Những thứ sức
tưởng tượng đây đối với một sự học tập thuần túy Khoa học, hoặc
người ứng dụng Khoa học, cực đoan trọng yếu ở chỗ, chỉ tuyệt đối
không đòi hỏi gia thêm mấy căn khúc tuyến tốt đẹp. Một khi trình
bày giá trị họa đồ cơ giới, ở nơi chính xác mà không phải ở nơi
sáng đẹp, những chữ liên hệ trên họa đồ cũng chỉ cần diễn tả thể
chất công trình của nó đơn giản và chỉnh tề, mà không cần diễn tả
thể chất hoa mỹ của nó, hoặc thể chất mỹ thuật của nó.
Trong Phật giáo,
người dạy lợi dụng sức tưởng tượng mang đến rất nhiều phương pháp tu
hành, gọi chung là thiền quán. Thí dụ như năm
thứ pháp quán của Ngũ Đình Tâm: 1)- Bất tịnh quán, 2)- Sổ tức quán,
3)- Từ bi quán, 4)- Nhân duyên quán, 5)- Giới phân biệt quán. Ngoài đây lại có Pháp không quán, Duy thức quán, Pháp
giới quán, và Kinh Quán Vô Lượng Thọ có đề cử 16 thứ pháp quán.
Trong các nghĩa lý quán tưởng của Phật giáo đây cũng
có quán tưởng hình thái vật chất. Như Bất tịnh
quán đích thực đối tượng chính là sự cấu tạo của thân thể con
người; Cửu tưởng quán đối tượng đích thực là quá trình bại hoại của
thân thể con người sau khi chết. Mười sáu pháp quán gồm có:
1>- Lạc Nhựt Quán
(quán mặt trời lặn), người dạy pháp quán này là quán một bánh xe mặt trời đỏ lặn
dần phía sau núi ở hướng tây,
cần yếu xem thấy cho đạt được là khi mắt đóng mắt mở mà vẫn thấy
rõ ràng phân minh thì mới tính thành công.
2>- Dĩ Hạ Quán
(quán lấy ra), người dạy pháp quán tưởng các thứ cảnh tượng và
nhân vật của thế giới Cực Lạc. Thứ pháp quán tưởng đây rõ ràng
và chiếu ảnh bao nhiêu theo đó xuất hiện mỗi
cách. Để thảo luận kinh nghiệm cho sáng tỏ, nhân vì
tôi sớm đã thọ giáo qua sự huấn luyện bao nhiêu chiếu ảnh, cho nên
khi quán mặt trời sắp lặn đều không có nhiều khốn nạn lớn.
Rất gần vào tĩnh lặng, tiểu đồ cư sĩ họ Vương cũng hoan hỷ đi vào
pháp quán thứ nhất và thứ nhì của 16 pháp quán, đại khái cũng nhân
vì đã có trải qua huấn luyện giống nhau, dễ dàng ở nơi quan hệ thực
hiện phép quán. Chỉ là mặc tình ở lúc thiền quán các thứ, chính là
nhờ năng lực tưởng tượng đã được huấn luyện cao độ, vạn sự vạn
vật xuất hiện lẫn lộn, nhưng trong lúc đó không cho một số tình cảm
như, tâm tham ái, tâm chán ghét, tâm sợ hãi, tâm bi thương, vân vân
chen lấn vào, nếu không thì liền nguy hiểm có ma nhập vào.
3/-
Phát khởi chánh tín. Như Tiên sinh Lương Khai Siêu nói: “Phật giáo là trí tín, mà
không là mê tín.” Có thể là lý luận chính xác.
Chỗ gọi tín ngưỡng của Phật giáo là chỉ cho tín ngưỡng trên lý trí
chỗ suy đoán trắc
nghiệm có thể đạt được, mà ở
trên sự thật lễ bái theo Phật giáo mặc dù vẫn chưa có thể chứng
nghiệm nhưng so nó cùng với Tông giáo khác đối tượng chỗ tín ngưỡng
hoàn toàn không giống nhau. Chỗ tín ngưỡng của Phật giáo đồ là: tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật; trong Phật
tánh đầy đủ tất cả pháp, xưa nay vẫn thanh tịnh, vốn không sanh diệt,
vốn không giao động; vạn sự vạn vật đều từ nhân duyên hoà hợp sanh
ra, không có tự tánh, duy tâm chỗ hiện, duy thức chỗ biến. Tín ngưỡng của Phật giáo đích thực tự chính mình chứng được
vô thượng chánh đẳng chánh giác, đây chính là trí tuệ phát triển
đến địa vị tối cao siêu, cũng chính là nhân sanh tiến hoá đến cảnh
giới tối hoàn toàn viên mãn. Nếu so sánh với Tông giáo khác,
họ dạy người tín ngưỡng một vị vạn năng làm chủ sáng tạo vạn vật,
khiến tín đồ của họ cam chịu làm con cái của họ, hoàn toàn chìm mất cá
tánh của mình, hoàn toàn buông bỏ chủ quyền của tự mình, hoàn toàn
tự che mất lý trí của mình; nếu so sánh với tín ngưỡng của Phật giáo
thật là hoàn toàn cách biệt nhau một trời một vực. Đức Phật đối
với chúng ta nói rằng: “Các ông đều có trí tuệ đức tướng của Phật,
nhân vì các ông bị năm dục tạp niệm che đậy không thể chứng đắc,
cho nên phải chịu các khổ lâu dài”. Chúng ta nghe xong, biết đạo lý
chúng ta xưa nay cùng với Phật đều bình đẳng không hai, chính liền ngay
tức khắc phát khởi tâm tự hãnh diện và
phát xuất tâm dõng mãnh tinh
tấn, cần tu các thiện, gắng sức cầu chứng vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Ngược lại, chúng ta nếu hoàn toàn nghe theo
Tông giáo họ nói: chúng ta là do Thần tạo dựng, quyền uy thưởng
phạt đều do nơi Thần, chúng ta chỉ có thể tưởng tượng như mình là kẻ
nô lệ chờ đợi phụng sự chủ nhân. Nếu như phụng mạng chỉ kính trọng,
sau khi chết được lên trời, lại nữa chúng ta chỉ kết duyên làm con
cái của họ, nhưng tuyệt đối không thể cùng họ hưởng thụ quyền lợi
giống nhau. Thử hỏi có người nào là bậc trượng phu
khí khái có hổ thẹn hối hận như đây không?
Người
học Khoa học dường như chỉ chú trọng lý trí mà không giảng về tín
ngưỡng, nhưng tử tế nói đến Khoa học cũng có tín ngưỡng. Thí dụ như
lúc chúng ta học Vật lý Hoá học, chúng ta đối với toàn bộ học lý
chỉ thực nghiệm được một phần của ngàn trăm phần. Chúng ta mỗi mỗi thí nghiệm xong, đã tiếp nhận được bao
nhiêu học thuyết? Cuối cùng đã thí nghiệm hoàn
toàn nhưng vẫn thấy không bình đẳng mà sao lại tín nhiệm nó? Trên sự thật, chúng ta đều đã kiên quyết nhất định tiếp
nhận tín ngưỡng này sau khi có biện pháp. Nhân vì chúng ta đã
trải qua sử dụng lý trí hoàn toàn giải thích rất nhiều lý luận, đều
không tìm đến một Khoa học gia nào có thí dụ lừa dối, vì thế cho nên
chúng ta cũng có thể tin tưởng đến chỗ giống nhau
của hình chất, nhưng khác nơi lý
luận, mặc dù hình chất đó chúng ta chưa đích thân tự trải qua chứng
nghiệm. Lý do người khoa học cũng có tín điều của họ, hình chất tin
tưởng của họ là căn cứ nơi con người mà chỗ con người công nhận
chính là công lý và nơi công lý đó phải lý luận trình bày cho ra
đầu mối phiền phức, cũng tức là chân lý của mọi người đều công
nhận. Hình chất của họ tin tưởng phải có đề ra giả định hoặc lý
luận của quy nạp, ở nơi vấn đề mới, có ngoại lệ không đem hình chất
đặt để hàng đầu trước khi đề ra giả định hoặc lý luận, cho đến ít
nhất có thể công nhận cho là sử dụng thích hợp nơi tình hình chân lý
hiện tại. Hình chất tin tưởng của họ tất cả vật chất đều biến hoá,
đều chịu chi phối của luật nhân quả, quyết định không phải là không
có nguyên nhân sanh ra, lại quyết định không phải là do chủ tạo vật
sanh ra, cũng quyết định không phải do thần quyền đến làm chủ tể.
Tín
ngưỡng của Phật giáo đồ chính là cùng với tín ngưỡng của Khoa học
gia bao quát thái độ giống nhau. Chúng nó nhân vì đã trải qua quá trình sử dụng
lý trí để giải rõ, nếu sử dụng ngàn lý luận của Phật giáo đều
cũng không có tìm được chỗ không thích hợp của La Tập, cũng không
tìm ra lý do lừa dối, do đó cũng chính kiên quyết nhất định để tín
ngưỡng của họ vào chỗ chưa trải qua lý luận chứng nghiệm. Thí dụ như
Phật Tánh, đại đa số tín đồ Phật giáo đều hoàn toàn không
có thân chứng đến, nó chỉ là
có tín ngưỡng nơi lời nói của đức Phật không hư dối, rồi sau đó lại
nương nơi lời dạy mà tu hành để cầu chứng thật. Một
sớm chúng ta bỗng nhiên thân chứng, lúc ấy đã thành sự thật, lại
bàn bạc không tin được, hoàn toàn không tin. Thí
dụ như tôi nói, khi bụng đói ăn cơm có thể no, sự việc đây ai ai
cũng đều biết, sử dụng đến không cần người tín ngưỡng. Khi bụng đói ăn thứ gì đó để duy trì mạng sống của họ
hoàn toàn cũng không thể cho là no, đây chính là không phải sử dụng
luận cứ trên học lý, không thể dạy người sanh tín ngưỡng, bằng
không chỉ có xin người thí nghiệm. Giả sử tất cả không có thể
kiểm nghiệm, hoặc cảnh không người bằng lòng kiểm nghiệm, đây cũng
không làm trở ngại, chỉ cần yếu là ta đưa ra lý do đầy đủ, lại cũng
có người tin tưởng hình chất. Ta nếu nói khi bụng đói chỉ cần yếu là
cho ta ăn cơm, ta mới được no. Khi ta nói lời nói đây không cần phải
kiểm nghiệm hay không kiểm nghiệm, chính là ta đưa ra bất cứ lý do gì,
người nhà cũng không cần tín ngưỡng hình chất đó. Cho
nên Tông giáo giống như người nhà nói, một người chết khó, có thể
thay thế chuộc tội cho vạn người, lời nói đây làm sao có thể khiến
người tin nhận? Nếu có tin thì chỉ mê tín mà
thôi.
II.-
PHẬT GIÁO ĐÍCH THỰC
NGHIÊN CỨU TINH
THẦN.
Phật
giáo dạy người tin và cũng dạy người nghi, chỗ gọi là “Nghi lớn thì
ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ, không nghi thì không ngộ”. Chỗ gọi Tin
đây, là tin tưởng lời nói chữ nghĩa có thể đủ để giải thích rõ
ràng về lý; chỗ gọi là Nghi đây, là nghi ngờ lời nói chữ nghĩa có
chỗ không thễ diễn đạt biểu hiện về sự. Thiền
tông của Trung Quốc chính là dạy người đề xướng một sự nghi tình,
nghiên cứu tâm khi chết, tất cả đạt đến công phu thành thục, tự
nhiên nó lại tiêu mất. Phạm vi chỗ
nghiên cứu của Phật giáo rất rộng, nghiên cứu giả tâm rất lớn. Phật giáo nơi nơi ở chỗ tìm kiếm cá nhân, ở nơi nơi nghi
vấn “Là cái gì”. Vấn đề nhân sanh và vũ trụ
đều không phải là đơn thuần từ nơi phương diện vật chất tìm đến giải
đáp, tất nhiên phải ở tinh thần và vật chất cả hai phương diện đi
đến nghiên cứu. Cho nên Phật giáo nghiên cứu
tinh thần so sánh với khoa học thật là vĩ đại.
1/-
(giáp) Phương Pháp Nghiên Cứu. Phương pháp nghiên cứu của Khoa
học không ngoài hai phương pháp diễn dịch và quy nạp trong La Tập.
Quy Nạp nghĩa là từ công dụng biến hóa của mỗi mỗi vật, tìm đặng
quy luật tuân theo cộng đồng. Diễn Dịch nghĩa là
theo bao nhiêu điều khoản công lý nào đó đã
biết, hoặc quy luật đã trải qua chứng thật, trở lại truy tầm những
lý luận chưa biết. Các nhà khoa học lúc nào cũng sử
dụng hai thứ phương pháp này,
thái độ không phải là thường nghiêm khắc cẩn thận. Nhưng
có khi đạt được kết luận quy nạp, chưa chắc có thể nương tựa.
Thí dụ như ống kính viễn vọng có công thức của dẫn lực, nhưng trong
công thức đó không có nắm bắt được vật thể đang vận động phát
nhanh và đi xa hơn, lại nữa như vật chất không giảm năng lực, không
giảm sự sai lầm của hai định luật quy nạp và diễn dịch. Nhưng căn cứ
nơi pháp diễn dịch mà kiến lập các thứ toán học thì còn không xấu
đối với đây, nhân vì chúng nó căn cứ nơi lý luận cơ bản, măïc dù
không giống như chỗ chứng hiện lượng của tịnh trí trong Phật giáo,
nhưng cũng đều không trái ngược với hiện lượng của thế giới, cho
nên xem ra ở nơi nhãn quang của tín đồ Phật giáo có thể nhận là
chân thật.
Trong
Phật giáo, chỗ sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh với các Khoa
học thì rất nghiêm chỉnh. Căn cứ nơi Nội Minh của Phật giáo, chỗ gọi là
chân tướng của sự vật, tất nhiên phải sử dụng tịnh trí chân hiện
lượng để xa lìa hai chướng phiền não và sở tri thì mới có thể hiển
hiện. Nay tính toán theo thông tục, không được
thối lui một bước mà chọn lấy sử dụng hiện lượng và tỷ lượng của
Nhân Minh Học, thứ hiện lượng và tỷ lượng đây so cùng lý trí thì
tương phù (lý trí phù hợp với nhau), cũng là chỗ cộng đồng thừa nhận
của nhân gian. Nguyên vì ba chi thức của Nhân Minh Học
cùng với pháp Ba Đoạn Luận của
La Tập giống nhau, chỉ có thứ tự là hoàn toàn ngược lại. Nhân Minh trước hết đưa ra “Tông”, kế đến đưa ra “Nhân”, sau
cùng đưa ra “Dụ”. La Tập thì trước hết thành lập “Đại Tiền
Đề”, thứ đến thành lập “Tiểu Tiền Đề”, sau cùng thành lập “Đoán
Án”. Đoán Án tức Nhân Minh là Tông, Tiểu Tiền Đề tức Nhân Minh là
Nhân, Đại Tiền Đề tức Nhân Minh là Dụ. Riêng đề cử đồ biểu rõ
ràng bên trái:
A.- Pháp Ba Đoạn Luận của La
Tập:
1)- Đại Tiền Đề: Phàm vật
thuộc loại Kim đều có thể
truyền điện.
2)- Tiểu Tiền Đề: Nhôm là vật
thuộc loại kim
3)- Đoán Án: Cho nên Nhôm có
thể truyền điện.
B.- Pháp Ba Chi Thức của Nhân
Minh Học:
1)- Tông: Nhôm có thể truyền
điện.
2)- Nhân: Nguyên nhân nhôm là
vật thuộc loại
kim
3)- Dụ: Có hai loại Dụ: Đồng
Dụ và Dị Dụ;
a/- Đồng Dụ: Hiện thấy chỗ
có vật thuộc loại kim
đều có thể truyền điện,
b/- Dị Dụ: Hiện thấy vật
thuộc loại không phải
kim đều không có thể truyền
điện.
Hai
thứ luận pháp đây trừ Đại Tiền Đề cùng Dụ hơi có ngoài vấn đề
không giống nhau, còn lại đều giống nhau. Dụ chi của Nhân Minh được
chia làm hai: Đồng Dụ và Dị Dụ, so sánh với Đại Tiền Đề thì chu đáo
hơn, mà lại trong Dụ tránh ra chữ “Phàm”, đặc biệt dùng hai chữ
“Hiện Thấy”, cùng so sánh với Đại Tiền Đề thì linh hoạt hơn mà không
lỗi lầm. Dụ chi so với Pháp Quy Nạp thì rất vững chắc, nhưng chữ
“Phàm” của Đại Tiền Đề thì hơi dễ rơi vào độc đoán, bởi vì nhôm có
thể không truyền điện, còn đợi suy đoán, tại sao đặt trước chỗ chưa ấn
định, nếu nói Phàm là vật thuộc loại kim đều có thể truyền điện,
đâu không phải là mạo hiểm. Cho nên như khi biện luận để chống đối
kẻ địch thì mới sử dụng pháp ba đoạn luận của La Tập, còn nếu sử
dụng năng lực của Nhân Minh để chống đối kẻ địch thì không thể
không lỗi lầm. Ở đây có thể thấy chỗ sử dụng
phương pháp nghiên cứu của Phật giáo thì rất nghiêm mật, còn các
phương pháp khoa học thì có chỗ hơi thiếu sót.
2/-
(Ất) Công Cụ Nghiên Cứu. Các nhà khoa học đối với chỗ nghiên cứu rất
chú trọ
họ rõ ràng biết ba
căn là nhãn, nhĩ và thân đối diện nơi ánh sáng, âm thanh và nhiệt
lượng, phân biệt so lường cứng rắn nhưng không đủ tinh tế; hơn nữa
năng lực các người phân biệt không đồng đẳng với nhau và lan rộng ra
không có tiêu chuẩn, cho nên họ sớm cần đến rất nhiều máy móc
giúp đỡ, như máy đo trắc nghiệm ánh sáng (như sử dụng máy chụp ảnh,
biểu đồ cảm quang cũng là một thứ), nghi thức đo ba động âm thanh,
máy đo độ cứng, hàn thử biểu, nhiệt lượng biểu vân vân và họ còn
vay mượn sức cảm thọ của các thứ vật thể, làm biểu thị cho số
lượng, để tránh khỏi nhận lầm của chủ quan. Người khác muốn trắc
nghiệm và đo lường thiên thể thì phải có kiến thiên văn, muốn xét
thấy sinh vật cực vi thì phải có kiếng hiển vi.
Thêm nữa như điện lực, điện làn sóng, tuyến lực nam châm, vân vân
trên căn bản chỉ là khí quan (cơ quan) mà không phải là chỗ có cảm
giác, đồng thời có các thứ như đồ biểu dòng điện chạy và máy đo
cường độ từ trường nam châm cũng không phải là chỗ có cảm giác.
Đã vậy họ lại còn có máy móc trắc lượng khía cạnh khoảng cách kinh
tuyến, vĩ tuyến vân vân để buộc thắt chúng lại; trắc lượng đây
nghĩa là trắc nghiệm qua tính toán đo lường độ dầy của dịch thể; nói
cách khác, họ nhờ có máy móc tin mật để trắc lượng về trọng
lượng, độ dầy, độ dài, thời gian vân vân của dịch thể; chủng loại
của dịch thể qua sự trắc lượng đây đều có danh xưng, nhiều đến nỗi
không
thể tính số được. Các nhà khoa học lợi dụng rất nhiều máy móc tinh mật nói
trên, nhờ đó đạt được rất nhiều các thứ số lượng của đơn vị thật
quí báu. Sau đó họ còn áp dụng pháp diễn dịch
của toán học suy tìm các thứ đơn vị số lượng quan hệ của không gian,
đồng thời căn cứ những đều nói trên buộc lại thành các thứ đồ
biểu khúc tuyến (đường cong), để thuyết minh các thứ biến hóa của
vật thể. Thế thì nhiều máy móc này có thể
chính xác một trăm phần trăm. Nếu không, một
số máy móc đây đều là dụng cụ sai lầm. Các
nhà khoa học biết rõ nó có sai lầm, cho nên lại tưởng tượng ra
phương pháp chỉnh lý chỗ ngộ ngận sai lầm đó. Các
nhà khoa học dùng các thứ máy móc đi bổ túc những chỗ thiếu sót
của khí quan (cơ quan). Họ lại dùng lý trí đi kết hợp điều chỉnh
những chỗ sai lầm của máy móc, nhưng ai là người vận dụng lý trí
đây, việc ấy chỉ một phần rất nhỏ của đồ đạc có sự sai lầm, lại
nữa thế nào cũng cần phải đi kết họp lại để chỉnh lý nó; các nhà
khoa học trước sau không có hoài nghi đến nó một điểm nào, họ không
bằng lòng nhưng cũng không dám đưa ra vấn đề đó trở lại, chỉ được
bỏ đi những đoạn nghi vấn, đừng để nhà triết học đi phỏng đoán lung
tung và đừng để nhà Tông giáo đi hỏi thần hỏi quỷ.
Phật giáo lùi bước
có thể nắm vững chỗ thắt chặt vấn đề, nhận biết đây là chủ yếu
công cụ của
tất cả công cụ, là
tiêu chuẩn máy móc của tất cả máy móc, là có thể biết rõ gương
sáng của hiện tượng vật chất, chủ yếu đây công dụng của công cụ
một phần rất nhỏ hoàn toàn đã mất hiệu quả, tiêu chuẩn của máy
móc đã mất tánh chính xác, trên gương sáng đã che đậy một lớp trần
cấu thì tất cả của tất cả đều không phải chân tướng. Phật giáo chỉ
thị cho chúng ta chỗ có tâm thể của chúng sanh đều là gương sáng, so
cùng với Phật không hai, chỉ vì trên gương sáng của chúng sanh đã bị
che đậy trần cấu, nên biết rõ đã mất công dụng, tất nhiên phải
tăng thêm công phu để mài dũa, thì mới có thể khôi phục lại bản
thể của nó trở nên trong sáng. Ba tạng mười hai bộ kinh rộng lớn như
sương mù mênh mông, không thể không thuyết minh các thứ phương pháp
mài dũa của các thứ trần cấu, để tự chúng sanh cần yếu không thể
không khôi phục lại công dụng của gương sáng trong sáng chiếu soi,
khiến chân lý của vũ trụ nhân sanh có thể sáng lạng triệt đễ. Có thể nói công phu mài dũa thật không đơn giản, để mài
dũa cũng cần sử dụng công cụ của mài dũa, phương pháp của mài
dũa. Hiện tại trong chùa viện, chỗ cúng gồm có tượng kim thân Phật, chuông trống linh khánh, hương hoa
tràng phang, tại nhóm người ngộ nhận cho là mê tín, phía bên trong
người biết đạo đây chính là dụng cụ mài dũa. Tại trong chùa viện
Mật tông bố trí được thấy đều ánh sáng màu sắc loè lẹt kỳ quái,
khiến người cảm giác đến
thần bí, kỳ thật
trong Phật giáo, căn bản không có dụng cụ thần bí, sự sự vật vật
đều có căn cứ của lý trí, chẳng qua nhân vì luận lý che đậy thâm
sâu, một số người không dễ gì biết được thì thôi. Lại nữa như xem
đến chuyên cần niệm Phật của Tịnh Độ Tông, ngồi đốt đầu đốt hương
của Thiền Tông, khai đàn truyền giới của Luật Tông, ngoài ra cho đến
xem kinh thiền quán của Giáo Tông, không có một điều nào là không
nằm trong công phu mài dũa. Cho nên chúng ta ở nơi đây thành khẩn chuyên
cần thỉnh đọc, cấp thiết chớ chờ sự việc đến thượng hạng rồi sau
đó mới tưởng đến mê tín, mới tưởng đến chỗ khinh thường, mới tưởng
đến thần bí, cần nên biết trong Phật môn nhất cử nhất động, nhất
sự nhất vật đều từ trong tịnh trí của Đại giác xuất hiện, chính chỗ
gọi là Phật pháp như nước cam lồ, mỗi giọt mỗi giọt đều ngọt, như
hạt ngọc ma ni, mỗi mặt mỗi mặt đều hoàn mỹ, xin các Ngài thưởng
thức, liền biết lời nói này không hư dối.
3/-
(Bính), Đối Tượng Nghiên Cứu. Chỗ đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học
chính là sự cấu tạo của vật chất, sự vận động biến hóa của vật
chất, sự giao hợp biến hóa của vật cùng vật, và trong chỗ biến hóa
phát sanh các thứ quan hệ của số lượng. Với trong Phật giáo danh từ
để giảng chính là nghiên cứu đến chỗ giảng như là, sắc pháp, thời,
phương, thế tốc, thứ đệ, vân vân và bao nhiêu thứ pháp Bất Tương
Hành
của của Bách Pháp Minh Môn
Luận, nhưng mà đều chưa nghiên cứu đến các thứ tâm pháp như tâm
vương và tâm sở vân vân. Để so sánh sắc pháp cùng
tâm pháp, sắc pháp so sánh sâu xa cùng tâm pháp làm bị ngưng trệ
không linh hoạt; tâm pháp thì sinh hoạt biến hoá, linh hoạt dị thường,
không như sắc pháp dễ dàng nắm được.
Tuy
nhiên chỉ có sắc pháp là đơn giản, khi các nhà khoa học nghiên cứu,
nhưng không thể kết hợp toàn bộ nghiên cứu. Giả như có thứ hiện tượng
biến động của Giáp, khi chịu ảnh hưởng đến những thứ hiện tượng
biến động khác trở lên như của Ất, của Bính, của Đinh vân vân, trong
lúc đó chỉ có cách đình chỉ hai hiện tượng tác động của Bính và Đinh
thì riêng còn thừa lại một hiện tượng động tác của Ất mà thôi,
rồi sau đó mới có thể suy đoán biết được sự quan hệ nhân quả hai
thứ hiện tượng biến động của Giáp và Ất. Thí dụ như dòng điện mạnh
hay yếu là chịu ảnh hưởng hai thứ dòng điện là điện kiềm chế và
điện ngăn trở, ở đây cần yếu phải rõ chỗ hở của dòng điện cùng
quan hệ với điện kiềm chế, tất nhiên nên khiến điện ngăn trở phải
ở chỗ cố định không cho biến, hoặc cần rõ chỗ hở của dòng điện
cùng quan hệ với điện ngăn trở, thì tâm liền điều khiển điện kiềm
chế phải ổn định không được biến. Cho nên các nhà khoa học nghiên
cứu đối tượng, thường thường đem sự vật phiền phức thiết lập pháp biến
hóa trở thành đơn thuần, quyết định
không cho toàn bộ biến hoá đem ra
nghiên cứu một khi chúng phát khởi.
Như thế đem phương
pháp đơn thuần hóa đối tượng để nghiên cứu, Phật pháp cũng áp dụng
phương pháp này, chỗ đối tương nghiên cứu của Phật giáo không chỉ là
sắc pháp, mà là thể của sắc tâm phối hợp, chúng nó biến hóa rất
rắc rối và phiền phức, ở xa trên sắc pháp cố nhiên khi nghiên cứu
tất nhiên cũng phải khiến đối tượng đây hoá làm đơn thuần. Hiện
tại trong Phật giáo pháp môn niệm Phậât rất thạnh hành, tức là
khiến sức chú ý tập trung nơi trên phương diện sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, không cho tán loạn. Lại
nữa như bên tham thiền tham cứu một câu thoại đầu, dạy người quán
sát “Bản lai diện mục của ta trước khi cha mẹ chưa sanh” và ngoài ra
các thứ pháp môn thiền quán khác cũng không phải là ý muốn ở đây
vậy. Chờ đến khi tâm tác dụng theo đơn
thuần vào chánh định, dụ như gió lặn sóng yên, mặt nước như gương,
lại dùng gương đây chiếu soi tất cả hiện tượng vật chất, tự nhiên
đạt đến chân diện mục của nó so cùng chúng ta sử dụng tâm phân
loạn xem đến hoàn toàn không giống nhau. Chúng ta
dùng tâm phân loạn giống như mặt nước bị gió thổi sóng ba đào liền
phát khởi, ánh sáng tạp loạn, lúc đó đương nhiên chân tướng của sự
vật đều không xuất hiện.
III.-
QUÁN BÌNH ĐẲNG CỦA PHẬT GIÁO.-
Thế gian chỗ gọi ý
nghĩa bình đẳng là nhỏ hẹp, là nhánh lá, chỉ mới nói đến bình đẳng
của địa vị chánh trị, bình đẳng của địa vị kinh tế, bình đẳng của cơ
hội giáo dục, bình đẳng của quyền lợi nam nữ, mà không thể giảng rốt
ráo triệt đễ của bình đẳng. Nhơn sanh lại có rất nhiều sai biệt, nào
là luận về gia thế, luận về tướng mạo, luận về phẩm tánh, luận về
trí huệ, luận về thể cách, cho đến có quý tiện, đẹp xấu, mạnh yếu,
trí ngu; riêng phân biệt mạnh yếu, trên căn bản chính là có thể bình
đẳng. Nhưng nơi giáo nghĩa của Phật giáo cho đây là
sai biệt giả tưởng, còn luận về nguyên lý bản thể của nó thật là
triệt để bình đẳng. Cho nên kinh Phật có nói: “Tâm, Phật và
chúng sanh, ba thứ không sai biệt, đều bình đẳng bình đẳng”. Phật giáo chỗ nói về bình đẳng, không phải là bộ phận
nhỏ, chính là bình đẳng toàn diện. Nói không đơn giản bình đẳng
giữa người cùng người, bình đẳng giữa Phật cùng Phật, giữa người
cùng Phật, giữa người cùng động vật, giữa người cùng thiên thần
quỷ ngục đều là bình đẳng. Nói không đơn giản bình
đẳng hữu tình, tất cả tâm pháp, tất cả sắc pháp, tâm pháp cùng
sắc pháp, nhân pháp cùng quả pháp, thảy đều bình đẳng. Chỗ
nói: “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ.” (Là pháp
bình đẳng, không có cao thấp). Sở dĩ chúng sanh có tướng sai
biệt, nhân vì mê mất bản tánh, phát
khởi tà kiến điên đảo, chạy
theo vọng thấy các thứ sai biệt, thật ra thì mỗi mỗi đều nương nơi
bản tánh chiếu hiện bình đẳng, chưa thường cải biến. Đây
là Phật giáo lý luận cơ bản, toàn bộ giáo nghĩa đều từ đây lưu
xuất.
1/-
Giả tưởng của nhơn và ngã, Phật giáo nói thể chất của con người là
năm uẩn tập hợp, năm uẩn gồm có năm thứ nhân tố là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Sắc chính là vật chất, còn thọ, tưởng,
hành, thức là bốn thứ tác dụng của tâm. Thọ chính là năng
lực cảm thọ của khổ, lạc, ưu, hỷ; tưởng chính là năng lực của tư
tưởng hoặc của tưởng tượng; hành đây chính là hành vi tâm lý của
tạo tác thiện ác; thức chính là năng lực biện biệt hoặc năng lực
phán đoán. Hiện tại ở nơi phương diện vật chất để xem, thân thể của
các người không ngoài là da lông xương thịt máu huyết, nếu như đưa
đến nhà hóa học thí nghiệm để hóa học phân tích, thì kết quả đều
là một đám lớn nguyên tử như than củi, khí dưỡng (Oxyhydro), chất đạm
(Nitrogen), Lân (Phocphorium), giáp (Kalium), thiết vân vân. Thân thể của các ông là như thế, thân thể của tôi cũng
là như thế, cho đến thân thể của các động vật trên thế giới thảy
đều như thế cả. Tôi luôn luôn không thể nói trên thân tôi
chắc chắn toàn là nguyên tử và trên thân của các ông có cái gì
là không giống, cho nên phân tích từ phương diện vật chất, tôi và
mọi
người và tất cả động vật thật
tại tìm kiếm không ra chỗ nào là không giống. Trở lại nói từ phương
diện tinh thần, Mạnh Tử sớm đã nói qua: “Tâm trắc ẩn, mọi người
đều có; tâm xấu hổ mọi người đều có; tâm thị phi, mọi người đều
có; tâm nói lời nhún nhường, mọi người đều có”. Đây
chính là nói người người đều có đầy đủ bốn thứ tinh thần tác dụng
của thọ, tưởng, hành, thức, đều không phân biệt. Trở lại suy cứu đến động vật, mặc dù sự tác dụng của
tưởng, hành, thức, không mạnh như loài người, nhưng cảm tình của thọ
khổ và lạc thì hiển bày dễ thấy. Từ các động vật cao đẳng
cho đến các động vật hạ đẳng, đều biểu thị tham sống sợ chết, tâm
tình tránh khổ theo vui. Cho nên
Kinh Phật nói tất cả hữu tình đều đầy đủ Phật tánh, bình đẳng không
hai. Nhưng mà chúng ta thiên lệch chỉ chạy theo năm uẩn tập hợp
trên thân thể đây, vọng khởi chấp trước các ngã si, ngã kiến, ngã mạn,
ngã sân vân vân, đem người cùng ta đối đãi với nhau, xem ta và người
tuyệt nhiên không đồng nhau, đối với giả ngã này thì kiệt sức cung
phụng, chỉ e không đủ khả năng, vì mỗi chỗ mỗi mưu cầu danh dự lợi
ích dồn tất cả về nơi ta, thậm chí sát hại chúng sanh không thương
tiếc cũng vì ta, lấy máu thịt của chúng nó cung phụng phục vụ cho
miệng của ta. Nếu như người cùng một nhà làm tổn hại đến danh dự
và lợi ích của giả ngã (của ta) này, thì lúc đó họ lại gặp tâm
của ta phát xuất sân hận phẫn nộ, tâm không khéo léo, không có cơ
hội để toàn lực
cùng người đấu tranh, nếu như
lực lượng không đủ, thì lại gian trá sử dụng các thứ máy móc tinh
xảo mong đợi thủ thắng. Trong người của ta nếu biết đạo thì vốn giả
ngã của ta là kẻ thù không phải kẻ thù, một sớm ngộ được đạo lý
này, đâu chẳng im lặng mất cười!
Kinh Phật nói: “Nhân
duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không, thị danh vi giả danh,
diệt danh trung đạo nghĩa” (Các pháp do nhân duyên sanh, ta nói nó tức
là không, tên nó là giả danh, tên diệt là nghĩa trung đạo). Hiện
tại ngã mà người đời chấp, chính là pháp của ngũ uẩn do nhân duyên
sanh, ở nơi tâm pháp của thọ, tưởng, hành, thức, đã tìm không ra ngã
(Hiện tại Tông giáo mê tín cho ngã là linh hồn, trên văn tự tôi đã
bác bỏ). Ở trên vật chất, không phải chỉ trên da,
lông, xương, thịt, máu huyết không tìm ra ngã, chẳng những thế chính ở
trên mỗi đầu nguyên tử lại không tìm thấy ngã. Cho nên triệt đễ nói ngã tướng đây chính là không, nhưng
thế tục nói, thiết lập giả danh thì không trở ngại. Chúng ta
chỉ cần yếu là không sanh chấp trước, không khởi ngã si, ngã kiến,
ngã mạn, ngã ái, xem người và ta đều một thể bình đẳng; nhưng rất
tiếc, tất cả chúng sanh vì mưu cầu lợi ích riêng tư, như thế sao gọi
là hành trung đạo và sao cho là thật hành đúng giáo nghĩa của Phật
giáo. Trở lại nói tiến lên một bước, Phật gia
con người không có ngã tướng,
cho đến tất cả pháp cũng đều không có ngã tướng. Chỗ
gọi pháp vô ngã đây, tức là chỉ cho tất cả pháp không có tự tánh,
nguyên do vì tất cả pháp đều là nhân duyên hoà hợp sanh ra; tất cả
pháp nếu có tự tánh hoặc thật thể, thì chưa chắc chờ đợi nhân
duyên sanh. Không phải chỉ vật chất là như thế,
chỗ có tất cả danh từ, tất cả học thuyết, tất cả chủ nghĩa, cũng
đều như thế. Thí dụ như quốc gia, chính là do đất đai, nhân dân,
chủ quyền, ba nhân tố đây hoà hợp tạo thành, bất kỳ quốc gia nào
hoàn toàn mất đi một nhân tố trong ba nhân tố đây thì không thành
quốc gia đó, chỉ có mỗi một nhân tố thì không thể gọi là quốc gia,
nhưng nếu lìa ba nhân tố đây, quốc gia đều không có tự thể. Nhân nó
không có tự thể, cho nên nói quốc gia là giả tướng do từ ba thứ
đây sanh ra, lại nữa như quân trận cũng không có tự tánh, phê bình
thật đấy, chẳng qua là một đám bá tánh già nua, hoàn toàn chịu huấn
luyện quân sự, hoàn toàn mang lên một số quân trang. Chúng ta nếu quán sát như thế, mới có thể hiểu rõ chân
tướng của sự vật, mà không bị giả tướng mê hoặc, để vọng khởi các
thứ tà kiến. Từ nhận thức đây cho thấy, chính
tất cả học thuyết, tất cả chủ nghĩa, tất cả một đám gọi tiếng là
đoàn thể cũng đều là giả tướng đấy thôi, bên trong của chúng không
có thật thể chân thường bất biến. Hiện tại có một số người
mê tín chủ nghĩa, mê tín vũ lực, nhận
cho là chân thật có
thể dựa vào, lại đi ủng hộ lẫn lộn giả tướng ngã nhơn và ngã
pháp, cho nên nơi trong Phật giáo gọi họ là “Ngu si”, nghĩa là “Có
thể thương xót!”.
“Thế
thì”, có người nghe xong lại hỏi vặn với tôi “Ông nói Phật pháp
cũng không có tự tánh, cũng là không, là hoàn toàn giả”. Tôi đáp: “Một điểm không
lầm, ông thế này là mới hiểu được Phật pháp.” Trên kinh Kim Cang
sớm đã nói qua: “Sở vị Phật pháp giả, tức phi Phật pháp” (Chỗ gọi
là Phật pháp đó, tức là không phải Phật pháp). Lại nữa nói:
“Nhược nhơn ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật, bất
năng giải ngã sở thuyết cố. Tu Bồ Đề, thuyết pháp
giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp” (Nếu như người nói Như
Lai có chỗ thuyết pháp, tức là hủy báng Phật, không thể giải thích
là vì ta có nói pháp. Này Tu Bồ Đề, thuyết pháp đây, nghĩa là
không có pháp để thuyết, đó mới gọi là thuyết pháp”. Phật vì chúng
sanh mà thuyết pháp, là nhân vì chúng sanh ngu
si, chúng sanh có các thứ phiền não tà kiến, Phật liền nói các
pháp dùng để đối trị chúng nó. Cho nên Phật pháp thì kiến lập trên
phương diện ngu si của chúng sanh, ngu si nếu
không còn thì Phật pháp cũng không.
2/-
Chân nghĩa của khách quan. Thế tục cho rằng khách quan đều không rõ nghĩa,
ý nghĩa theo thế tục
nói, chỗ gọi là khách quan,
không ngoài ba điểm: (1) Thành phần tình cảm không xen lẫn, (2) Căn
cứ sự thật công nhận, (3) Căn cứ phán đoán của lý trí. Ở trên thế tục chỉ có thể thực hiện được điểm thứ ba
đây và cũng thừa nhận khách quan phải như thế mới được hoàn toàn.
Vấn đề khách quan chỉ có Phật giáo nói đến nghĩa mới
đích thực chính xác. Còn quan niệm khách quan
của thế tục thì không đủ triệt đễ. Như Phật giáo nói tất cả
pháp xưa nay đều thanh tịnh, xưa nay đều bình đẳng; chỉ vì chúng sanh ngu si, ở nơi trong tướng thanh tịnh bình đẳng đây lại
vọng thấy ngã tướng, rồi chấp cho là thật tướng. Do đó đối với chung quanh cái ngã, họ chấp cái không phải ngã
chọn lấy làm ngã trung tâm. Phàm không phải ngã mà thuận theo ngã thì trở thành ngã tham ái, nghịch lại ngã
thì trở thành ngã căm ghét. Chúng sanh đây là như thế, còn những
chúng sanh kia đều cũng như thế cả. Cho đến tất cả pháp xưa nay vẫn thanh tịnh, xưa nay vẫn bình
đẳng, nhưng ngày nay vì hổn trược biến động trở thành không bình
đẳng. Thí dụ như ao nước mùa xuân, thanh bình như gương, bỗng
nhiên lấy đá ném loạn xạ vào trong ao, trên mặt nước ao liền sanh ra
vô số hình tròn đồng tâm, mỗi một tâm hình tròn dụ như một ngã
tướng của một chúng sanh, từ trung tâm đây khởi lên vô số hình làn
sóng vòng tròn hướng ngoại tán rộng ra, do nơi vô số hình làn sóng
vòng tròn tấn công lẫn nhau, liền khiến mặt nước thanh tịnh bình
đẳng, giả huyễn phát khởi
giả tướng loạn động không bình
đẳng. Ở trên mặt nước không bình đẳng đây, tuyệt
đối không có một phần tử nước nào không chịu ảnh hưởng đến ba động
của các trung tâm khác. Do thí dụ này có thể dùng suy đoán mà
biết tất cả sự vật khách quan trên thế giới, đã bị chủ quan của
chúng sanh tham gia xen lẫn ở bên trong, cho nên bất cứ chỗ nào gọi
là sự lý của khách quan, cũng đều bị nhiều sự lý chủ quan hiểu
biết sắp xếp tạo thành, hơn nữa chủ quan cũng nhờ sự giúp đỡ của
máy móc trắc nghiệm được số lượng ngoài ra còn nhờ toán học để
tạo ra công thức; thế là bao nhiêu sự lý của khách quan đều không
thoát khỏi chủ quan kiềm chế. Từ đấy suy nghiệm ra ngã tướng khi bị
tiêu diệt thì năng và sở cả hai cũng đều tiêu vong theo,
rồi sau đó thuần chân lý khách quan mới có xuất hiện. Không có ngã tướng thì không có năng và sở, cũng dụ như
mặt nước không ba động thì bình tịnh như gương và hiện tượng sự vật
lại được gương chiếu ảnh vào một cách tự nhiên, được như thế mới
cho là chân khách quan.
3/-
Từ bi cùng Bác ái. Các nhà Tông giáo đề xướng nói Bác ái, nhưng các Học
giả không giám thảo luận để cho hoà hợp, nguyên vì vấn đề đây là
vấn đề thiên kinh địa nghĩa, chân thật không bàn luận để tước bỏ,
biết vậy Phật giáo từ chối không phải chỉ không nói bác ái, mà
ngược lại do chữ ái là nguyên
nhân của các khổ, là nguồn gốc
của sanh tử, nhưng bỏ chữ ái chỉ sợ không lợp lệ. Thế
thì cuối cùng Phật giáo nói từ bi cùng bác ái có thứ gì để phân
biệt?
Đáp
rằng, hai thứ đây bao hàm nghĩa tuyệt nhiên không giống nhau. Nguyên vì đã gọi là ái
(yêu), tất nhiên phải có năng ái (là chủ hay yêu) và sở ái (là
nơi để yêu), đã có năng và sở thì tất nhiên cũng phải có ngã (ta)
và nhơn (người), cho ngã là năng ái (người thì hay yêu) và cho người
kia là sở ái (còn kẻ kia là người để yêu). Đã thấy
rõ tướng của nhơn và ngã thì đã có sai biệt. Tôi yêu (ái)
quá nặng nơi người tôi yêu (ái), phần lớn người đời đều như thế,
quả nhiên đây là lối thấy của kẻ thế tục; nhưng nếu nói người yêu
(nhơn ái) rất cần nơi ta yêu (ngã ái), cũng không phải là thấy
không thiên lệch, huống chi đã nói ái thì tất nhiên phải có điều
kiện để ái, thí dụ như nói, nhân vì tướng mạo của người kia rất
đẹp, học vấn cao, phẩm tánh tốt; nhưng tướng mạo, học vấn, phẩm
tánh không phải là cố định, không phải là tuyệt đối, một khi biến
đổi không tốt, hoặc trước mặt mọi người so sánh dở dở ương ương, khi
riêng một người so sánh dở dở ương ương, nó chính là bị người ta
không yêu (không ái). Trở lại tiến thêm một bước nữa nói, chỗ tôi
yêu, người nhà cũng yêu, tôi khi yêu liền chiếm lấy làm vật sở
hữu của tôi, thì lúc đó người khác tất nhiên bị mất đi chỗ yêu của
mình, nguyên nhân ta được thì
người mất, người
được thì ta mất, vì thế liền phát khởi tâm ganh ghét, phát khởi hành
vi là sát hại, trộm cướp, dâm dục; luận về quả của nó thì có khổ
về oán tắng hội (thù ghét nhau mà cứ gặp nhau mãi là khổ), khổ về
cầu bất đắc (hy vọng không thành là khổ), khổ về ái biệt ly (yêu
nhau mà bị xa lìa là khổ), ở nơi thế gian thanh tịnh liền trở thành
ngũ trược ác thế. Cho nên Phật nói ái là nguồn gốc
của sanh tử luân hồi, là nhân của ưu, bi, khổ, não. Ái đã là nguyên nhân nhiễm trước, mà bỗng nhiên lại
được mở rộng phong phú (bác ái), mở rộng cho đến vô hạn, cũng
không có pháp nào biến đổi nhiễm ô để trở thành thanh tịnh.
Đây chính là Phật giáo không đề xướng lý do của bác ái. Lại có
một câu Khẩu Đầu Thiền, gọi là “Ái trở thành địch nhân”, cũng là
một nhóm nhà Tông giáo thường thường đề cập đến, kỳ thật đã xưng
là địch nhân thì trong tâm của họ hoàn toàn có tướng địch, đối với
tâm chỗ phát khởi tướng địch đây, chỉ có oán hận, ganh ghét, hiềm
thù; chính là quyết định không được tâm sanh khởi hoan hỷ, không được
tâm sanh khởi thân thương; mặc dù nó miễn cưỡng thân tương kẻ địch
của nó, cũng không ngoài là tâm hư ngụy, tâm giả dối. Phật giáo
lại quyết định không nói như thế, chỉ dạy chúng ta đối đãi người sau
lưng não hại chúng ta, cần yếu trước hết quán bình đẳng, không làm
cho bạn tưởng mình thù địch, chúng ta không dùng đến ái tha (yêu
người khác), chỉ có thể
phát khởi tâm đại bi của đồng
thể, thiết lập pháp loại trừ tâm não hại của họ khiến họ chuyển
sanh tâm hoan hỷ. Như thế mới là Phật pháp. Cho nên tôi lại đem chân ý của từ bi xin giới thiệu phổ
biến đến mọi người cùng đọc.
Phật
giáo đối với hai chữ từ bi giải thích, từ là cùng vui, bi là trừ
khổ. Từ bi không phải là dùng cái ngã làm trung tâm mà phát
khởi, chính là kiến lập nơi phương diện tướng bình đẳng của tất cả
chúng sanh. Đây là từ bi cùng bác ái tuyệt
đối chỗ không giống nhau. Trên văn Kinh đã nói qua, từ trên
phương diện vật chất để nói, tất cả chúng sanh đều đồng một thể,
tuyệt đối không sai biệt; từ trên tinh thần mà nói, tất cả chúng
sanh đồng đủ tâm thức, mà vã lại tinh thần không giới hạn có thể
phân biệt được, càng đủ biểu tượng rõ một thể bình đẳng của nó,
cho nên trong Phật giáo lại xưng từ là từ bình đẳng, như vô duyên từ
và bi là bi đồng thể. Chúng ta như khi luyện tập quán từ bi, trước
hết nên quán tất cả chúng sanh (liên kết với ngã cùng ở trong)
đồng một thể bình đẳng, như thấy chúng sanh nhu cầu cái gì thì ta liền
tùy theo phần (phần quà) tùy theo sức (khả năng) cung cấp cái đó cho
họ, khiến họ đạt được đầy đủ và khoái lạc. Đây lúc ta thí xả nơi
chúng sanh, nhất định không thể còn cái ngã để làm năng thí (làm
người bố thí) tưởng người kia là sở thí (người
kia là kẻ nhận sự bố thí.),
khoảng cách của hai (của năng và
sở) cũng không còn tưởng đến tài vật nhiều ít để thí xả, như đây
thì không phát khởi ngã mạn, không cầu danh dự, không mong báo đáp,
không duyên tất cả tướng, đó mới là chỗ gọi vô duyên từ, bình
đẳng từ. Như thấy chúng sanh có khổ gì liền thực
hiện tư tưởng đồng thể, nghĩa là chỗ họ thọ khổ thì chỗ ta cũng thọ
khổ, không có họ thì ta không phân biệt, liền khi đó ta hưng khởi
tâm đại từ, tùy phần tùy sức diệt trừ thống khổ của họ. Ngay lúc ta cứu khổ chúng sanh, ta cũng không thể còn ngã
tướng nhơn tướng, không cầu danh dự báo đáp, không trụ tất cả
tướng, đây mới là chỗ gọi đồng thể đại bi.
Sau khi lý luận đại
từ bi đây rõ ràng, tự nhiên ta không đồng ý sát hại chúng sanh để
cung phụng miệng và bụng của ta, tự nhiên ta không đồng ý lấy phần
tài vật phi pháp để ta tiêu pha lãng phí, tự nhiên ta không đồng ý
tham ái mỹ sắc để khởi tâm tà dâm. Nhân vì chúng ta đã giác ngộ
gà, vịt, heo, cá, cùng với chúng ta đều không phải là hai thể, tiền,
tài, mỹ, sắc cũng không phải ngoài tâm riêng có, năng tham và sở
tham, cả hai không thể đạt đến được, mà chúng sanh sở dĩ phạm sát
đạo dâm đây, nói chung là do “ngu si” mà thôi. Lại nữa chúng ta như
sau khi lý luận từ bi đây rõ ràng đối với Bồ Tát Quan Thế Âm rất
nhiều sự tích cảm ứng, cũng không nhận đó làm mê tín, cũng
không công kích cho
là mê vọng viễn vông, nhân vì chúng ta đã biết đạo lý bản tánh
của pháp thân Bồ Tát cùng chúng ta đều là một thể bình đẳng; chỉ
là một thể, cho nên ta có chỗ cảm thì kia có chỗ ứng, nhưng tất nhiên
phải có tâm đầy đủ chí thành khẩn thiết mới được, nếu không thì bị
tham dục phiền não làm chướng ngại, khiến cùng bản thể không dễ
tương ưng. Nếu Bồ Tát cùng các chúng sanh bản tánh không phải là
một thể, đều chiếm lấy không gian nhất định, thì Bồ Tát liền không
thể tùy duyên ứng hiện, mà lại còn phiền không vãng lai cứu ứng
thù thắng, lúc đó một tiếng hiệu Phật, ngay lập tức cùng nhau ném
vào khoảng không.
4/-
Phân biệt thiện ác. “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”
(các điều ác chớ làm, các điều lành nên làm), hai câu nói đây đứa
trẻ ba tuổi cũng đều đắc đạo. Có thể hai câu nói đây đúng
là tiêu chuẩn của Phật giáo chuyên dùng, các Tông giáo khác cũng
đều nói như thế, nhân đó một nhóm người không cầu giải thích sâu,
liền căn cứ nơi tám chữ đây nói, tất cả Tông giáo đều là tốt cả,
đều là cần người làm thiện. Ở nơi đầu não khoa học
có hoan hỷ phân tích tinh tế, có người xem đến không hoan hỷ tuỳ ý
ấu trỉ cho là không đơn giản như thế. Chúng ta đầu tiên cần
hỏi: các Tông giáo đối với định nghĩa thiện ác như thế nào, tiêu
chuẩn thiện ác như thế
nào, muc đích khuyên người hành
thiện, đình chỉ việc ác là gì?
a,- Quan hệ nơi định
nghĩa thiện ác, các Tông giáo đều không có một định nghĩa nào, có
chỗ cho lễ bái tổ tiên là ác, mà Phật giáo và Nho giáo thì cho là
thiện. Có chỗ cho các động vật là do ông chủ tạo vật đặc biệt tạo
ra để cung cấp cho nhơn loại ăn, giết chúng nó, ăn chúng nó đều
không tính là ác. Có người chủ trương chỉ ăn riêng
các thứ động vật mà nên ăn, ngoài ra không nên các thứ động vật
khác không cần thiết và ăn như thế là tính không có tội. Ở nơi Phật giáo thì cho sát sanh bất cứ động vật nào đều
cũng là ác.
b,-
Quan hệ nơi tiêu chuẩn thiện ác, các lời dạy cũng không đồng nhất,
phần lớn căn cứ nơi lời dạy của các giáo chủ lập ra các giới
điều, nếu phạm là ác; nhưng ở nơi Phật giáo thì phân chia rất vi tế,
nơi tại gia thì có tiêu chuẩn của tại gia, nơi xuất gia thì có tiêu
chuẩn của xuất gia, riêng Bồ Tát Giới cùng Tỳ Kheo Giới tiêu chuẩn
lại có chỗ không giống nhau. Ở tại gia người phạm hoàn toàn không
tính là ác, còn người xuất gia nếu phạm thì lại hoàn toàn cho là
ác; còn có chỗ giữa tỳ kheo giới nếu như ph
tính là ác, còn giữa Bồ Tát
giới nếu như phạm hoàn toàn cũng không tính là ác.
c,- Quan hệ nơi mục đích hành
thiện ngăn ác. Các lời dạy cũng đều không giống nhau, có chỗ là
cầu sanh Thiên đường, có chỗ là hy vọng thành Thánh thành Hiền, mà
Phật giáo thì chỉ cầu giác ngộ chánh chân bình đẳng vô thượng, mà
không cầu được phước báo nhân gian thiên thượng. Do đây xem lại,
luận hai chữ thiện ác, chính như một nhóm người hoàn toàn tưởng
tượng đơn giản như thế.
Phật
giáo luận đạo lý thiện ác, nói rất được tinh tế. Nói đến
thiện thì có phân chia hành thiện và chỉ thiện, có phân biệt hữu
lậu và vô lậu. Hành thiện là chỉ cho thiện
thuộc tích cực, Chỉ thiện là chỉ cho thiện thuộc tiêu cực; hữu lậu
thiện là chỉ cho phiền não xen lẫn không triệt đễ mà trong đó có
thiện hữu lậu, còn vô lậu thiện là chỉ cho thiện được hoàn mỹ
triệt đễ không có chút phiền não. Người đời đối với thiện
ác phần lớn đều phân biệt không thanh tịnh, cho nên một nhóm người
thường nói: “Tôi chỉ bằng lương tâm hành sự, tự hỏi nơi tâm không
xấu hổ, xưa nay không làm việc ác”. Kỳ thật lời nói đây không
triệt đễ, căn cứ theo giáo nghĩa (liễu nghĩa
giáo) triệt đễ của Phật giáo nói, họ và mình tuy đã nói không làm
việc ác, đúng ra sáng sớm cho
đến chiều tối, thời khắc nào cũng không lìa khỏi ngã si, ngã kiến,
ngã mạn, ngã ái, tất cả mọi việc đều mưu tính làm cho riêng mình
được lợi ích. Còn các thứ chủng tử phiền não thống khổ đối với
họ, gọi là lương tâm, chính là hư vọng phân biệt của sáu Thức, cũng
chính là theo Phật giáo gắn cho tên Lục Tặc, sáu thứ giặc này
chuyên môn cướp đoạt gia bảo của họ, họ sớm đã trầm luân nơi trong
thâm sâu mê muội, nhận giặc làm con, hằng ngày tạo ác, hằng giờ
tạo ác mà không tự biết. Cho nên mỗi cá nhân con người cần yếu
ngăn điều ác và làm điều lành, tất nhiên trước hết phải minh bạch
chân nghĩa của thiện ác, rồi sau đó mới biết chỗ thủ (chọn lấy) và
xả (buông bỏ). Cần minh bạch chân nghĩa của thiện
ác, tất nhiên trước hết phải quán bình đẳng của Phật giáo cho được
rõ ràng. Đã biết rõ quán bình đẳng của Phật
giáo, chúng sanh là bình đẳng, không có năng và sở, không có nhơn
và ngã. Chúng sanh nhân vì ngu si, ở trong không có năng và sở
vọng thấy năng và sở, ở trong không có nhơn và ngã vọng phân biệt
nhơn và ngã; do thấy ngã đây liền sanh tâm ngã mạn, cho ngã là
trọng yếu đi so sánh với mọi người, cho ngã là đáng yêu đi so sánh
với mọi người, liền tận lực chiếm lấy các thứ vật chất có thể
hưởng thụ, cung phụng nơi “Ngã”, đây chính là đầu mối phát khởi tạo
ác, chỗ gọi là mười ác nghiệp, gồm có: tham, sân, si, sát, đạo,
dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng
ngôn, ỷ ngữ, cùng với các thứ
phiền não tà kiến đều từ đây sanh ra. Cho nên triệt đễ nói, mỗi khi
chỉ cần thấy còn ngã, không luận đối với người đối với ta lợi hại
như thế nào, cùng đây thấy tương ưng với tất cả tâm lý và hành vi đều là ác nghiệp; ngược lại nếu không thấy như
đây thì tất cả hành vi đều là thiện nghiệp. Mới đây trong Phật giáo
đối với định nghĩa thiện ác triệt đễ chỉ bày lý do, nguyên nhân
chúng sanh từ vô thỉ đến nay chứa nhóm thâm trọng thiện ác, đức
Phật vì thương chúng sanh cho nên mới phương tiện nói pháp, liền dựng
lên các thứ tiêu chuẩn giúp cho các chúng sanh theo thứ tự lần lượt
tu tập. Cho đến giáo dục nơi các người khác đức Phật cũng không cho làm
ác sát hại động vật, nhưng vì có số người của họ chủ trương cho
rằng, các động vật có sanh mạng nhưng không có linh tri, hoặc họ nói
đấng tạo vật sanh ra động vật cung cấp cho con người ăn dùng. Họ sở
dĩ chủ trương như thế vì không rõ chân lý, cho nên họ trở thành tà
kiến, nguyện xin cho họ chớ bị mê hoặc. Lại nữa họ
giáo dục tín ngưỡng nhất thần hoặc đa thần cho là thiện, họ tin họ
sẽ được phước sanh lên trời, còn kẻ không tin sẽ bị tội vào địa
ngục. Riêng Phật giáo xem lại cho tín ngưỡng thần quyền là
trái với tánh bình đẳng, là ác chớ không phải thiện, so cùng với
tín ngưỡng Phật tánh bình đẳng của Phật giáo dĩ nhiên tuyệt đối
không giống nhau. Lại nữa Phật giáo bình luận thiện ác đều từ nơi
tâm địa phát xuất, không
trọng sự tướng, so cùng thế gian
chỉ trú trọng sự tướng cho nên không giống nhau. Thí
dụ như riêng xem người nhà đánh đập người, chưởi mắng người, không
đủ để định thiện ác, tất nhiên phải xem trở lại tâm của họ còn như
thế nào, rồi sau đó mới quyết định. Nếu cho họ
lợi ích thì sự đánh đập chưởi mắng thuộc về hành thiện, nếu cho mình
có mưu đồ lợi ích thì mặc dù kính lễ người trên nhưng vẫn là ác, hơn
nữa còn đánh đập chưởi mắng. Căn cứ nơi Bồ Tát Giới Bổn,
người đã giữ giới Bồ Tát, như đã phá trừ ngã kiến, nhưng vì lợi ích
cho chúng sanh, mặc dù hành động các việc như sát sanh, trộm cắp,
dâm dục cũng không tính là ác, mà ngược lại chính là thiện. Thí dụ
như Trung Quốc có một lần mộ quân, kẻ tham tài háo chiến, khiến vô
số nhơn dân mất của tan mạng; còn người giữ giới Bồ Tát, lại không
thể khoanh tay ngồi nhìn, nên ra sức đem trí tuệ của nó tham gia mộ
quân này, mặc dù nó sẽ sát hại nhưng luận đến cũng không phạm
giới sát, lại còn được công đức lớn. Do đây chứng minh Phật giáo
thế này là tích cực, là Tông giáo hợp lý.
IV.-
QUÁN NHÂN DUYÊN CỦA PHẬT GIÁO.-
Quán bình đẳng của
Phật giáo là chỉ quán bản thể Phật tánh chân như bình đẳng (Chân
thật không hư vọng; như là như thật không biến đổi), quán duyên sanh
là chỉ quán các thứ hiện tượng tâm vật đều nương nơi
bản thể mà vọng hiện. Hai thứ quán niệm đây hiệp lại làm một. Nó chỉ nói tất cả pháp đều duyên sanh, cho nên nói tự
tánh vốn không; nguyên vì tự tánh vốn không cho nên nói tất cả
pháp đều bình đẳng. Nếu nói các pháp thật có thì các pháp
đều sai biệt, cho nên pháp đây và pháp kia
không thể biến hoá dung thông lẫn nhau, thì làm sao có thể bình đẳng
được? Cho nên quán nhân duyên của Phật giáo là giải thích vạn hữu
vũ trụ có một cơ bản lý luận là mỗi thứ đều biến hoá, còn các
thứ lý luận khác so với đây không cùng chung
hài hoà. Hiện đại khoa học dần dần phát triển, có
thể chứng minh duyên sanh luận không sai lầm. Nơi khoa học chưa
phát đạt trở về trước đối với sự sanh khởi biến hóa của vũ trụ
nhơn sanh, có các thứ thuyết pháp, nếu đem chỗ phê phán công nhận
luật nhân quả của Khoa học và Phật giáo thì tất cả đều thuộc về
hoang đường, đều thuộc về tà thuyết không hợp lý, nay chọn vấn đề
đây làm thông hành cần thiết trên hết được kể nó như ở bên trái:
A.- Ngược lại sâu xa trở về
trước, vấn đề luật nhân quả đã được khảo sát nhận thấy đều thuộc
về loại tà thuyết. Thứ tà thuyết đây có thể phân làm bốn loại
như: Vô Nhân Luận, Bất Bình Đẳng Nhân Luận, Định Mệnh Luận, Cơ Giới
Luận:
1,-
Vô Nhân Luận: Vô Nhân Luận là một thứ lý thuyết tầm thường ngu si
vô tri, ở trên lý luận thì không thể thành lập. Giả sử tất cả sự
vật đều sanh ra không có nguyên nhân thì làm thế nào trong cái không
kia chưa có đầu mối gì mà sao lại sanh ra nhiều
thứ nào là vàng bạc tài vật quý báu? Nếu được như
thế chúng ta cần gì phải nổ lực đi kinh doanh các thứ sự nghiệp?
Có một số người cứ việc ngồi không ăn rồi để chờ đợi thành công,
kết quả nuôi dưỡng thành những hạng người tật xấu chỉ biết lười
biếng trộm cắp và mặc kệ phó thác cho vận mệnh chi phối, thí dụ như
loại người chuyên môn sống nghề cờ bạc, nghề bán vé số, ngồi
hưởng phiếu thưởng trợ cấp, vân vân, họ đều từ nơi tâm lý sanh ra.
Sở dĩ họ chủ trương như thế là vì có nguyên nhân, họ cho các thứ sự
vật trong thế gian trở thành lý do là chỗ họ có thể kiếm ra tiền
mà họ không phải là người sống cẩu thả, nổi trôi, kìa xem họ biểu
hiện ở mặt ngoài cũng hảo tướng và họ có rất nhiều việc ngẫu
nhiên phát sanh giúp họ, ngoài sự tưởng tượng. Kỳ thật mỗi một sự
vật sở dĩ sanh diệt tương tục đều nương tựa nơi phép tắc nhân quả.
Chẳng qua nhân quả vật chất so sánh đơn thuần, dễ dàng phân biệt;
chỉ riêng không giống nhau ở chỗ nhơn sự đều là sắc tâm hỗn hợp, vì
thế mỗi lần họ chịu đựng việc gì thì đã thêm vào cho họ nhân tố
tâm lý, lúc đó nhân quả của họ lại biến chuyển phức tạp phi
thường, đã kéo quá dài thời gian. Có
nhiều thứ nhân đi xuống để trả
quả về sau, thường thường không thể một đời có thể sanh được quả,
thậm chí hoàn toàn phải cách mấy mươi đời về sau, mới gặp duyên để
phát sanh ra quả. Ví như một loại sự việc, ở nơi người chưa được túc
mạng thông xem đến, lẽ đương nhiên không tìm ra nhân của nó xuất
hiện, vì không tìm ra nhân của nó cho nên họ mới tuyên bố sự kiện
đây là không có nguyên nhân (vô nhân). Chúng ta đã theo vật chất
để biến hoá, tuy biết nhân quả quan hệ thì cũng biết sắc tâm hỗn
hợp sự vật tất nhiên nhất định có phép tắc của nhân quả và quyết
định không thể có ngoại lệ không hợp lý mà cũng quyết định không thể
một nhân khi tìm không ra nhân của nó rồi tùy tiện đoán định cho là
không có nguyên nhân (vô nhân), nếu không thì tất nhiên sa vào thứ
luận đoán các thứ sai lầm.
2.- Bất Bình Đẳng Nhân Luận.
Bất bình đẳng nhân luận nghĩa là luận bàn chỗ nguyên nhân không bình
đẳng, chính là nói đến nguyên nhân có khả năng sanh ra vạn pháp, chỉ
có nguyên nhân đây ngoài ra không có nguyên nhân nào khác có thể
sanh ra vạn pháp và nguyên ngân đây không cùng bình đẳng với vạn
pháp, cho nên gọi là bất bình đẳng (không bình đẳng). Trong luận nhân không bình đẳng đây, có chủ trương một
nhân sanh ra thì phạm phải một nhân đó không thể dung thông với nhau.
Như hiện tại có nhà Tông giáo
nói có một chủ tạo
vật vạn năng có thể tạo ra con người, vạn vật chim, thú, mặt trời,
mặt trăng, hành tinh, núi sông, cỏ cây, vân vân, như thế chủ tạo
vật đây chính là một nhân nằm trong nhân không bình đẳng. Nếu chủ tạo vật đây không cần người khác tạo dựng thì
vạn vật người khác làm sao có thể sử dụng? Lại
nữa chủ tạo vật đã tạo ra những thứ gì? Nếu
nói tạo ra đầy đủ dục lạc cho chính mình thì cớ sao lại tạo ra ma quỷ,
địa ngục, các thứ xấu ác có thể khiến cho khắp nơi đều chán ghét?
Nếu nói chủ tạo vật hoan hỷ việc làm này, như thế
chủ tạo vật đây lại trở thành chủ của tội ác. Lại nữa chủ
tạo vật nếu quả chân thật đúng như lời nói là vạn năng thì đáng
lẽ phải tạo những nhơn vật xứng đáng đẹp đẽ, đoan trang, phước đức,
trí tuệ và không nên tạo thế giới hoàn toàn muôn ác, rồi sau đó
lại đi cầu cứu người khác chuộc tội thay cho mình. Trên thực tế, chủ
tạo vật tạo ra những thứ không ra gì thì không thể cho là vạn năng;
nếu chủ tạo vật cố ý tạo ác thì đối với những tội ác kia không thể nổi giận. Cho nên kẻ
luận đạo nói một nhân có khả năng sanh ra vạn pháp, xét trên lý
trí là không đúng chỗ.
Nơi Khoa học từ lâu
đã từng ngộ nhận cho nguyên tử quá nhỏ mà không thể phân chia ra
đơn vị, nhưng trên thực tế, thực chất của nguyên tử có thể phân chia
ra nhiều đơn vị như, chung quanh một nguyên tử có
thể chia ra gồm có chín mươi hai
loại (92 loại), đây là nguyên nhân của tất cả vật chất và đây
cũng tức là Đa Nhân Luận nằm ở trong nguyên nhân không bình đẳng. Không bao lâu học thuyết Đa Nhân Luận liền bị thủ tiêu.
Rồi từ Đa Nhân Luận lại trải qua biến đổi thành
Nhất Nhân Luận, nghĩa là từ nguyên tử tiến dần lên trở thành điện
tử, ở đây họ chấp trước cho điện tử là đơn vị quá nhỏ, là thể của
chân thường không biến đổi. Không dừng bước
họ tiến lên từ điện tử tìm ra năng tử, tức là năng lực và cho
năng lực là nguồn thể của vật chất thường trụ không bị hoại diệt,
rồi cũng có thể cho vật chất biến đổi thành không phải vật chất.
Chẳng những thế cũng từ trước họ cho năng lực cùng vật chất là hai
gia tộc, nhưng hiện tại mới biết đạo lý nguồn gốc là người một
nhà, nghĩa là năng lực vật chất chuyển hoá thành năng lực tâm linh,
nguyên vì tâm linh cũng là năng lực. Từ đây các nhà
Khoa học tự động thủ tiêu Nguyên Nhân Luận bất bình đẳng và hoàn
toàn quy về nơi Luật Nhân Quả Bình Đẳng của Phật giáo.
3.- Định Mệnh Luận:
Luận đây cho là tất cả sự vật đều do tiền định, hoặc do thiên định
(do Trời định), sức người không thể cưỡng lại được, kết quả khiến
người chạy theo tiêu cực không có trách nhiệm, như phái Thiên Lạc
của nước ta thuộc loại này. Mệnh lý thông hành của nước ta, nếu
quả thuộc về định lý, tức là
trở thành Định Mệnh Luận (Luận
thuyết về Trời định), nếu không phải là Thiên mệnh thì suy đoán để
làm gì? Cần yếu phải biết thứ nguyên nhân mặc dù nguyên nhân ở
đời trước (tiền sanh), nhưng duyên đã hợp thì quả kết sanh ra ở đời
nay (hiện sanh), tiền sanh mặc dù thứ nhân ác, nay sanh nếu có thể
chuyên cần làm các việc thiện thì không có duyên cũng không thể
sanh ra quả ác, như sanh tâm sám hối tạo ra Nghịch Tăng Thượng Duyên
(tạo Duyên đối nghịch tăng trưởng) thì đối với nhân ác trước kia
cũng có thể tiêu diệt ác quả. Rõ ràng đối với vấn đề định mệnh
đây đã từng đích thân nghiên cứu, lúc đầu tất cả sự vật xác thực
như nhà Mệnh Lý (Nhà xem số mệnh) dự đoán, nhưng tự mình đến Thiền
sư Vân Cốc thì mới hiểu rõ về nguyên lý này, rồi sau đó liền lập
chí cải biến Túc Mệnh (số mệnh đời trước), chuyên cần thực hành
các điều thiện, kết quả đều tốt đẹp rõ ràng như dự định, có thể
tham khảo “Liễu Phàm Tứ Huấn”. Thế nên chỗ gọi Định Mệnh Luận, nghĩa
là trong định thật có không định, như có thể thông suốt Duyên Sanh
Luận của Phật giáo, tự nhiên không còn bị lôi cuốn vào mê tín về
mệnh lý và không bị rơi vào tiêu cực. Huống hồ họa phước vốn do tự
mình tạo ra, nên theo đạo lý hướng về điều tốt
và tránh xa điều xấu, không cần phải cầu khẩn nơi ngoài. Chính như
hiểu rõ tội phước vốn không, mặc dù cần tu phước đức, nhưng k
phước đức thì tất nhiên thay đổi
được bước lên một tầng lầu.
4.- Cơ Giới Luận. Cơ Giới Luận gọi cho đủ là Cơ Giới Duy Vật Luận.
Các nhà triết học của phái này cho là tất cả con người và sự vật
đều biến hoá, đều chịu duy truyền và ảnh hưởng hoàn cảnh của các
thời đại. Họ nhận thức cho tâm là hiện tượng biểu
hiện của vật chất, cho nên tất cả nhân tố biến hoá chỉ là vật
chất cùng thời gian mà thôi. Căn cứ nơi đây mà luận, nếu có
người ở cùng một thời đại, sanh trưởng cùng trong gia đình giống nhau
của La Tư Phước, cùng lớn lên từ thời thơ ấu, cùng La Tư Phước hưởng
thọ sinh hoạt vật chất giống nhau, người khi đến Mỹ Quốc rồi cũng
sẽ thành dân nước Mỹ, làm Đại Tổng Thống, và còn làm ra sự nghiệp
vĩ đại giống nhau. Lời nói đây có liên cang giống nhau từ nơi xe hơi,
nào phụ tùng tài liệu lắp ráp đều thành công giống nhau, lại nữa
nhãn hiệu được thành công và có công dụng giống nhau, đồng thời
cũng có ý nghĩa giống nhau, nhờ đó cho nên gọi là Cơ Giới Luận. Đây
là trực tiếp đem con người và sự vật trong vũ trụ tha hồ biến hoá theo phương pháp khoa học được áp dụng vào cơ giới
phát triển giống nhau.
Nơi
Phật giáo xem đến, vật chất quả nhiên là nhân tố, nhưng tâm cũng
là nhân tố rất quan trọng. Vật chất cố nhiên có khả năng dẫn khởi tâm
tác dụng,
nhưng tâm cũng có khả năng dẫn
khởi vật chất biến hoá. Lý luận của Cơ Giới Luận là căn cứ nơi
định luật vật chất thường trụ của cựu Vật Lý Học, Bang hội nhà Vật
Lý Học đây nếu có thể đọc đếnVật Lý Học hiện đại, họ tất nhiên
kính sợ, khi xem tác phẩm trước tác của Hội Lập Khắc Bả Tha đã tặng
vào trong Bích Lô, trở lại xem qua Đầu Yếu Nã Bẩn Phật Kinh thì sẽ
rỏ. Nhân vì hội Khoa Học Gia hiện đại báo cho họ biết, vật chất có
thể dùng năng lực biến thành không phải vật chất, mà năng lực lại
dùng thời gian và không gian làm nhân tố trọng yếu, nhưng thời gian
lại không hoàn toàn khước từ thoát ly nhân tố của tâm, nơi đây suy ra
liền biết không phải chỉ có năng lực vật chất là một nhà, mà vật
chất cùng với tâm thử xem lại làm sao không phải là người của mình?
Cơ sở của Cơ Giới Luận đã bị lật đổ, tự họ cũng
không chắc tạo chi tiết trở lại để bác bẻ.
Bốn thứ tà thuyết
trên theo kinh Phật đều được gọi là Biến kế
sở chấp, dụ như lông rùa sừng thỏ, hoàn toàn không thể đươc. Nếu
tin nhận những thuyết này liền bị các thứ tệ hại: (a)-
Khiến người đối với sự nghiệp chỗ làm của người khác không tự
chuyên tâm, không cảm nhận trách nhiệm, đem đến lỗi lầm thất bại,
rồi quy về các nơi như, vận mệnh, thiên thần,và hoàn cảnh xã hội;
một sớm thành công thì lại cho đây
là công của mình, rồi cho đây
một nhân sanh ra mà người khác không được tranh công.
(b)- Khiến người chỉ
biết tích cực mở rộng tham dục, mà không tích cực phục vụ xã hội.
(c)- Khiến người đối với người thiếu tâm từ bi, nuôi dưỡng thành
ngã mạn tự cao, tranh đoạt tâm lý háo chiến. Muốn
khỏi tệ hại đây thì chỉ có tin nhận có muôn vạn luật nhân quả của
Phật giáo.
B.- Vạn Hữu Nhân Quả Luật. Luật nhân quả của Phật giáo sử dụng thích hợp nơi tất cả
sự biến hoá của vật chất, tâm biến hoá thì tâm và vật hỗn hợp
nhau biến hoá. Từ chúng sanh cho đến thành
Phật, từ thế gian cho đến xuất thế gian, đều chịu chi phối của định
luật đây, cho nên nỗi tiếng là Vạn Hữu Nhân Quả Luật. Gọi tắt là Nhân Quả, gọi cho đủ là Nhân Duyên Quả Báo.
Nhân là chủ nhân, duyên là trợ nhân, do nhân và duyên hòa hợp mà
sản sanh ra vật, gọi là quả, quả đây đối với
kẻ tạo nhân gọi là báo. Trong kinh Phật có một bài kệ nói rõ hoàn
toàn có ba điểm: (1)- Chúng ta tạo nghiệp là nhân, nhân đây tuy trải
qua thời gian rất dài mà tự mình cũng không bị tiêu diệt, giống như
định luật của động lực ngưu đốn (Ngưu là trâu bò, đốn là nhọc nhằn,
nghĩa là nhọc nhằn như trâu bò), như nói vật thể thanh tịnh thì luôn
luôn thanh tịnh, vật thể biến động thì luôân luôn biến động, nếu như
không có sức bên ngoài thúc đẩy,
cũng như không bị tự mình bên
trong cải biến, ý tứ đây giống nhau. (2)- Nhân đây không luận lâu
hay không lâu hễ gặp duyên thì sanh ra quả, thí dụ như vật tĩnh lặng
gặp sức bên ngoài thúc đẩy thì trở nên biến động, hoặc vật biến
động gặp sức bên ngoài chuyển hướng hoặc đình chỉ hoặc thêm tốc độ.
(3)- Tự tạo nhân thì tự thọ quả, tất cả họa phước đều do tự gây
mà không phải do thiên thần thưởng phạt, cũng quyết định không phải
tự mình tạo nhân rồi người khác thọ quả, người khác tạo nhân rồi
mình lại thọ quả, như nhà người khác đi dạy bảo nhà người này. Luật
nhân quả của khoa học cũng giống như định luật nhân duyên quả báo
đây của Phật giáo: “Giả sử trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp không
mất, nhân duyên khi gặp nhau, quả báo liền tự nhận”. Một bài kệ
đây thuyết minh bao quát ở trong luật vạn hữu nhân quả nhưng không
qua khoa học và khoa học chỉ giảng phép tắc nhân quả của vật chất
cùng vật chất; tiến thêm một bước nữa đến vấn đề nhơn sự hoặc
nhân tố của tâm, tức là không trở lại nghiên cứu về trước, cho
nên vấn đề nhân quả của khoa học thì quan hệ rất đơn giản. Thí dụ như đem một đoạn đồng tuyến (một đoạn dây điện) ở
trong từ trường di động, cắt bỏ lực tuyến nam châm thì trong đồng
tuyến đây liền sanh ra điện thế. Chính đây giảng về sự biến
hoá của vật chất, đồng tuyến là chủ nhân, động lực cùng lực tuyến
nam châm là trợ duyên, điện thế là quả, nhân đồng tuyến là vật vô
tình, nên
không gọi là báo. Nếu không
đồng tuyến thì điện thế chung cuộc không thể được, cho nên đồng
tuyến là chủ nhân, chỉ có hoàn toàn đồng tuyến không có động lực
thúc đẩy nó chuyển động, không có lực tuyến nam châm nhường nó để
cắt đứt thì điện thế không thể phát sanh, cho nên động lực và từ
trường là duyên. Có nhân đây, có duyên đây, thì tất
nhiên sanh ra quả, trăm phần không mất một, cho nên gọi nó là luật
nhân quả. Nó chỉ có một quy luật nhất định, cho nên chúng ta
mới có thể dự bị thiết kế trước, chế tạo ra các máy phát điện,
nếu không thì không thể tạo thành, rồi tất nhiên sẽ nghe theo các thứ vận mệnh, hoặc cầu nơi thiên thần. Nguyên vì có luật nhân quả đây cho nên thực nghiệp của
các thứ công nông có thể thành lập. Thứ hộc gạo nông phu
được gạo, thứ đậu được đậu, xưởng kéo chỉ sợi để kéo bông vãi làm
nguyên liệu, cộng thêm dùng công nhân cơ khí chế tạo thành chỉ sợi
bông vãi, xưởng bột mì để làm mì nguyên chất, cộng thêm dùng công
nhân cơ khí chế tạo thành bột mì, tất cả đều là nhân quả phân minh
rõ ràng. Vật cùng vật quan hệ nhau như thế, tâm cùng
vật và tâm cùng tâm không phải là không quan hệ như thế, huống hồ
tâm và vật là cùng một thể, suy ra để khai triển nó thì lý của nó
không sai lầm.
Chỉ có Phật giáo
mới giảng sắc và tâm quan hệ nhân quả, so sánh tiền lệ xa hơn nữa
cho là phiền
phức, thế nên đối với ba thứ
nhân, duyên và quả phân tích rất là tinh tế sâu xa, nay chỉ nói đại
lược, muốn biết tinh tường về nó xin nghiên cứu kinh luận Tướng
Tông. Kinh Phật nói nhân có hai thuyết, sáu nhân và mười nhân, sáu
nhân là của Câu Xá Luận, mười nhân là của Du Già Luận, cả hai đều
là đem phạm vi của nhân mở rộng bao quát gồm có duyên ở trong. Phân
loại quan hệ nơi duyên, Kinh Trường A Hàm phân làm bốn loại: (1) Nhân
Duyên, (2) Đẳng Vô Gián Duyên, (3) Sở Duyên Duyên, (4) Tăng Thượng
Duyên, đây là phân loại nhân duyên của Đại Thừa và Tiểu Thừa đều
công nhận. Kinh Phật văn Pali thì phân loại rộng hơn gồm có hai mươi
bốn duyên, chính là đem hai duyên trong 24 duyên là Đẳng Vô Gián
Duyên và Tăng Thượng Duyên khai triển thành. Dùng 24 duyên đây nói
rõ tên sâu xa cùng tâm quan hệ, tâm cùng tâm quan hệ, tâm cùng tâm
sắc quan hệ, tâm cùng thân quan hệ, thân cùng tâm quan hệ, thể tâm
sắc hổn hợp cùng tâm sắc hổn hợp quan hệ, rất là tinh tế. Nay chính
đem bốn duyên phổ thông để nói:
(1) Chỗ gọi Nhân
Duyên tức là chỉ cho nhân chủ. Đây chính là nói vật
chất, bông vải là nhân chủ của sợi tơ vải, vì bông vải làm nên
sợi tơ vải; bột mì là chủ nhân của mì nguyên chất, đồng tuyến là
nhân chủ của điện trở. Giờ đây đem tâm để giảng, hoặc đem
tâm sắc hổn hợp thể để giảng, thì phàm thân, miệng,
ý chỗ tạo ra hành vi, kinh
Phật gọi là nghiệp, đều có thể gọi là nhân.
(2) Chỗ gọi Đẳng Vô
Gián Duyên là nói Tám Thức Tâm Vương và Tâm Sở đều là sát na sanh
diệt, niệm trước khi diệt, mở bày tránh xa đường đạo, dẫn đến niệm
sau, như thế sanh diệt không gián đoạn, điều đây tác dụng chính gọi
là Đẳng Vô Gián Duyên. Duyên đây là pháp duy tâm ban đầu có biến
hoá nhưng trong vật chất không có nói đến duyên này.
(3) Chỗ gọi là Sở
Duyên Duyên đây, chính là chỉ cho tâm năng phân biệt cùng đối với
tướng sở phân biệt cả hai đều là tương đối, trước đó và sau đó
cũng là sở duyên, tướng của sở duyên đây tức là đối tượng trợ
duyên của tâm sanh hoạt, nên gọi là sở duyên duyên.
(4) Chỗ gọi là Tăng
Thượng Duyên đây, chính là chỉ cho tất cả tâm pháp hoặc sắc pháp đối
với nhân chủ phát khởi các tác dụng thuận và nghịch, ảnh hưởng đến
hoặc tăng trưởng của nhân, đều gọi là Tăng Thượng Duyên. Nơi trong
luật nhân quả của thuần vật chất, chỉ cần yếu có nhân và hai duyên
tăng thượng, liền có thể sanh quả, chỉ tâm pháp và sắc pháp hổn
hợp trong pháp, thì tất nhiên phải cụ bị bốn thứ duyên vừa nói
trên. Do đây các thứ nhân và duyên hòa hợp
nhau liền sanh ra quả, cộng chia
năm thứ: Dị Thục Quả, Đẳng Lưu Quả, Ly Hệ Quả, Sĩ Dụng Quả, Tăng
Thượng Quả. Điều này thấy rõ trong Câu Xá Luận và
Thành Duy Thức Luận.
Chiếu theo lời giảng
trên kinh Phật, hiện tại sơn hà đại địa nhật nguyệt tinh tú cỏ cây
chim thú, cho đến tất cả hoàn cảnh, toàn thế giới nhơn loại, cộng
đồng, nghiệp lực đều là chỗ tạo ra quả, ở đây không phải chủ tạo
vật tạo ra, mà đây là thứ nghiệp nhân có ở đời trước và có ở
đời nay. Thí dụ như thành phố buôn bán với nước ngoài, tại đầu tiên
nhà Thanh thì không có, đến khi năm cửa Khẩu hoàn toàn thông thương,
mới do các nhơn sĩ của các quốc gia và Trung Quốc hiệp lực kiến
thiết cho đến nay. Các thứ vật chất kiến thiết không đơn giản là
các thị trường hoàn toàn trên Thượng Hải đều là do dân trực tiếp
và gián tiếp chi phí tâm lực quá sức, chính là nhơn dân toàn thế
giới cũng đều có gián tiếp cống hiến. Thứ nhân quả
đây hoàn toàn thuộc đời nay, chỉ thành quả của địa cầu phải qua ngày
tháng, thì hoàn toàn thuộc về đời trước. Luật nhân quả không
chịu hạn chế của thời gian, có các thứ nhân của đời trước đến đời
nay gặp duyên mới thành quả, có các thứ nhân của đời trước đến
đời sau mới có thể thành quả, có các thứ nhân của đời nay lập tức
đời nay có thể thành quả, có các thứ nhân của đời nay phải đến
đời sau mới có thể thành
quả, tất cả duyên thấy đây đã
cụ bị cùng chưa cụ bị để chấm dứt. Người đời thường thường ngộ nhận
đời trước đã tạo nhân theo lẽ đời nay phải thọ quả báo, nhưng ngày
nay họ tưởng rằng quả báo mà họ cảm thọ của đời trước lại cho là
nguyên nhân mới gây tạo của đời nay, thế nên họ hy vọng ngày nay
cố gắng làm việc thiện để chóng lại quả báo ác; còn người nào đó
ngày nay tạo ác ngược lại mong cầu đặng phước báo, họ không biết
ác báo và phước báo đã tạo nhân đời trước, đời nay nhân đó vẫn
còn chưa thành quả.
Luật
nhân quả đây đã nói rõ quả báo là tự làm tự thọ, mặc dù cha con
cũng không thay thế được. Người đời thường nói tổ tông nhà kia tích đức,
cho nên con cháu đặng phước báo, thật thì hoàn toàn không phải nghĩa
đây, cần nên biết con cháu thọ phước báo chính là con cháu tự tạo,
không phải quan hệ tổ đức; tuy tổ tông tích đức có thể cảm đến
đồng nghiệp quan hệ lẫn nhau, cho nên người có phước đến làm thân
thuộc, đây là giải thích nghĩa hoàn toàn tuyệt đối. Hơn nữa nhân quả
đây là tánh bình đẳng, nhân của năng sanh tất nhiên cũng là quả
của sở sanh, quả của sở sanh cũng tất nhiên là nhân của năng sanh,
nhân quả không phải cố định, đều là đối đãi để thành tựu. Như lấy
nhân quả vật chất để thí dụ, sợi chỉ bông là quả của bông vải,
cũng là nhân của vải bông, vải bông là quả của sợi chỉ bông và
sợi chỉ bông cũng là nhân của
y phục. Lại nữa dùng nhơn sự để thí dụ, cha là con
của tổ và cũng là cha của con nó, tổ thì cũng như thế, có thể suy
đến vô cùng. Nên biết nhân không bình đẳng
không phải chỉ không hạp với tỷ lượng mà cũng trái với hiện lượng.
Từ luật nhân quả đây có thể dùng suy ra biết, nhơn
sanh tất nhiên có ba đời, tức là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị
lai. Nhân là nhân quả tương tục không gián đoạn, trong luật
nhân quả, không có nhân đầu tiên và cũng không có nhân cuối cùng,
trước nhân lại có nhân, suy ra như thế dẫn đến vô thỉ; sau quả lại
có quả, suy ra như thế dẫn đến vô chung. Phật nói
lục đạo luân hồi, lý của nó tức căn cứ nơi đây. Chúng ta tuy
rằng không có thần thông cũng có thể chứng thấy, nhưng chỗ lý bị
che nên nó nói không tin.
Hoặc nói rằng: nhân
quả vật cùng vật quan hệ nhau, tính toán phân minh, người người đều
biết, nhân quả vật cùng tâm quan hệ nhau, cũng còn dễ biết rõ, như
tất cả vật chất đều có thể khiến người cảm thọ khổ vui lo mừng,
tâm nếu không tác dụng thì có ai khiến vật chất phát sanh biến hoá?
Đáp rằng: tất nhiên
có, dùng tâm làm nhân để sanh ra quả vật chất, gọi là Dị Thục Quả,
tất nhiên phải có thời khắc để thành thục (để kết quả), không
phải một đời mới có thể thành
chứng biết, nhưng nếu dùng tâm
làm nhân mà khiến vật chất phát sanh biến hoá, thì hiện tại phát
sanh không thiếu thói quen. Thí dụ như, chúng ta nghe
người nói quả mai chua, trong miệng liền phát sanh nước miếng.
Lại nữa như, chúng ta leo lên núi, khi đến vách
núi dựng đứng liền sợ rơi xuống, trong tâm lúc đó khởi lên một
niệm nguy hiểm, chân cẳng triệt đễ cảm giác mỏi rời. Lại nữa, như nằm mộng gặp người nữ trong mộng liền chảy
tinh ra, thử hỏi người nữ trong mộng có thật hay không? Tích
xưa, Lý Quảng vào núi thấy cọp liền rút tên ra bắn, khi đến gần để
xem đúng ra là cục đá không phải cọp, nhưng mủi tên vào sâu trong
đá, đã biết là đá chồng chất lên nhau, mủi tên không thể bắn vào.
Ngài Cưu Ma La Thập khi còn thơ ấu theo mẹ vào
chùa, thấy một bát liền đùa giởn lấy đội úp lên đầu và rồi sau
đó lấy để xuống đất, khi xét kỹ cái bát to làm bằng sắt, ngài
liền không đủ sức đưa lên lần thứ hai. Do đây các thứ sự việc thói
quen, có thể chứng biết tâm tác dụng, cũng có thể cải biến vật
chất. Nhân vì trọng lượng độ cứng của vật chất, vốn không phải chỗ
thật có của vật chất, tất nhiên phải đợi Tăng Thượng Duyên của
thân căn, mới có thể khiến Thân Thức phát khởi cảm giác độ cứng
của trọng lượng. Tăng Thượng Duyên đây khi phát khởi biến hoá thì
độ cứng của trọng lượng, tự cũng biến khác theo,
nguyên vì đá có thể biến thành mềm như thịt, thiết có thể biến
thành nhẹ như ngói. Sự việc đây
tuy hơi hiếm có và kỳ lạ,
nhưng ở nơi Duy Thức Học nói, thật rất bình thường và thật rất hợp
lý. Cho nên biết chỗ bao quát của luật nhân quả, sắc tâm và tâm
sắc đều biến hoá ở trong nó, tức là không có một pháp nào biến
hoá mà không chịu chi phối của luật đây, vì thế gọi là Luật Vạn
Hữu Nhân Quả, có ai nói là không nên chăng?
C.- Vọng chấp sanh diệt đoạn
thường. Người đời nguyên vì không thông suốt được tất cả pháp đều
do nhân duyên sanh ra, liền cho tất cả pháp là chân thường (Thường)
thật có, chấp kiên cố không bỏ, nguyên vì mọi người đây đối với
thân mạng tài vật của họ lại luyến ái giữ gìn bảo vật riêng biệt
và một sớm nọ thấy người ta chết, hoặc thấy tài vật bị tiêu diệt
thì lại cho là theo đây đoạn diệt (Đoạn), không thể sanh trở lại,
khiến người xem đến bi thương tiêu cực. Nếu biết tất cả pháp đều do
nhân duyên sanh, tức là biết tất cả pháp không có tự tánh, sanh là
huyễn sanh và diệt cũng là huyễn diệt. Nguyên vì chúng nó đều theo nhân duyên sanh diệt, cho nên nói không phải
chân thường, cũng không phải thật có, nguyên vì nó sanh diệt cũng
đều huyễn cả, vì thế mới nói diệt nhưng không phải là đoạn diệt. Nếu là đoạn diệt, mà đã diệt thì làm sao có thể sanh trở
lại? Nếu thật có thì lẽ tất nhiên không thể
diệt. Xưa kia, các nhà Vật Lý Học cũng
đã từng ngộ nhận cho vật chất là thật có, thế
nên nói vật chất thường trụ
không diệt, nếu vật chất đúng là thật có, lại quyết định không thể
bị diệt, nếu vật chất đúng là không thể bị diệt, mà đã diệt thì
không thể sanh trở lại, do đó núi sông nhơn vật tất nhiên đến thời
kỳ diệt tận thì vĩnh viễn không thể sanh. Các nhà
khoa học hiện đại mới chứng minh vật chất đều không thường trụ, có
thể biến diệt, nhưng diệt ở đây đều không phải diệt chân thật,
chính là huyễn diệt. Vật chất diệt thì năng lực sanh, năng lực
diệt thì vật chất sanh, cả hai đây có thể lẫn nhau biến, vì thế nên
biết chỗ gọi sanh diệt, chính là giả tướng có biến hóa, kỳ thật
thể căn bản chưa thường sanh diệt, chưa thường biến động, cho nên
Phật giáo nói tất cả pháp bất sanh bất diệt (Tất cả pháp không
sanh không diệt). Nhưng kẻ không thông đạt được học
thuyết nghĩa chân thật đây lại ngộ nhận tất cả giả tướng đều không
sanh diệt, lại chấp cho là thật có, trở thành là kẻ thường kiến.
Và nghe Phật nói giả tướng có sanh diệt liền ngộ
nhận cho bản thể có sanh diệt, chấp cho là đoạn kiến. Thường
kiến cũng là tục kiến (thấy theo thế tục),
Đoạn kiến tức là tà kiến, hủ bại của nó rất xa là vu tục (thô
tục). Mỗi lần nghe người đời nói, làm người là
không, khuyên đại gia rõ thấu điểm này, có được ăn liền ăn, có
được rõ thấu liền rõ thấu, cần gì phải tự khổ? Là người cho nói cũng nói, đấy là thấu suốt lẽ đời.
Nơi Phật giáo xem đến thì một điểm cũng không thông đạt, hoàn toàn
là ngu si đã không
rõ mà thuyết pháp, một nửa
là đoạn kiến, một nửa là thường kiến. Cái không của người kia nói
chính là cái không của đoạn diệt không phải là cái không của Phật
giáo chỗ nói chân không diệu hữu, nguyên vì họ còn chưa quên tình
cảm ham thích, họ nhận cho ăn xem là chân, còn người khác không cho
ăn là không phải chân; họ chỉ xem thấy đã đoạn diệt của đoạn diệt,
còn chưa đoạn diệt hãy mau lên để hưởng thọ, đâu chẳng phải ngoài
đoạn kiến lại còn có thường kiến? Do vọng thấy đoạn và thường đây,
một phương diện tận tình hưởng lạc, tham trước ngũ dục; một phương
diện đoạn diệt từ bi, ghét nơi tu thiện. Đậy lại là hiện tại có
một nhóm người nhơn sanh quan của họ chỉ biết an phận giữ mình, họ là
kẻ có tham trước đoạn diệt tà kiến thì sử dụng nhân quả báo ứng
hoàn toàn theo kiểu cách hệ phái thần đạo thiết lập giáo dục cải
cách ngu dân, họ tự cho là không phải ngu dân, họ chỉ sợ lợi ích
của thiên hạ không quay về mình, chỉ sợ quyền uy của thiên hạ không
tập trung về thân của họ, không mượn tánh mạng của chúng sanh làm
súc sanh cúng tế cho họ, những người như thế hàng ngày đều tạo vô
số nghiệp địa ngục, khi mạng chung làm sao tránh khỏi bị đọa vào địa
ngục, thọ khổ vô lượng? Nay đem lý sanh diệt đoạn
thường trình bày đồ biểu nơi bên trái, để trừ vọng chấp.
Lại một lần nữa đề
cử sự thật của khoa học làm thí dụ để nói rõ: hiện tại người trong
nhà trang bị giây đèn điện, sau khi xưởng điện phát điện, chỗ mở
đóng bằng một chốt điện, khi mở đèn điện ánh sáng liền phát ra. Người không rõ nguyên lý điện học đến xem, thấy ánh sáng
đèn điện đây đã được trắc nghiệm ổn định nên không thấy biến, thế
họ cho là dòng điện đã không còn biến. Thực tế đã biết số
lượng và phương
hướng của dòng điện tức khắc đã
nằm trong chỗ biến, nhờ đó ánh sáng điện đương nhiên cũng biến theo,
nhưng biến rất nhanh chóng, vì thế mắt thịt không thể nào biết được,
cho nên huyễn giác “Thường” phát khởi. Nếu người học trông nom điện
đến giảng, dòng điện đây gọi là Giao Lưu (chỗ dòng điện giao tiếp)
tức là Phi Sanh, số lượng lại biến liền nương nơi người trông nom
điện đến ngay nơi Huyền Khúc Tuyến (chỗ giăng giây đường cong), trước
hết từ ngoài trực tiếp phát khởi hướng về một phương hướng nào đó
để tăng trưởng, chờ đến khi trực tiếp một tối cao nào đó, liền
giảm nhỏ lần lần để đến ngoài, rồi lại từ ngoài khởi chiều tương
phản phương hướng để tăng trưởng, đạt đến điểm tối cao, tiếp theo đi
trở lại giảm nhỏ lần cho đến nơi ngoài, rồi lại dẫn lên tuần hoàn
biến hóa. Do đây có thể cho biết đường đi của dòng điện không có
thời gian chỉ trong chớp mắt ẩn định, liền lập tức ở trong sanh trưởng
biến diệt, sanh rồi lại diệt, diệt rồi lại sanh, sanh sanh diệt diệt
tuần hoàn không dứt. Lại có thể suy biết dòng điện đây là ở trong
điện tuyến (giây điện) qua lại gây chấn động làm rung động, khi mở
chốt điện liên quan điện, trong giây điện đều chưa gia tăng chất
lượng của điện nên gọi là Phi Tăng. Khi đóng quan hệ
của nó thì điện trong giây điện cũng chưa giảm nhỏ chất lượng, nên
gọi là Phi Giảm. Giây điện đa số bằng đồng nguyên tử mới bảo
trì được số lượng điện tử, đều không nương theo
chốt đóng đèn điện
mà có tăng giảm. Đã không
tăng thì con điện không sanh, đã không diệt thì con điện không diệt,
nên gọi là Phi Đoạn. Dòng điện đã sanh diệt tương
tục thì biết không phải thường nên gọi là Phi Thường. Điện tử của đồng nguyên tử thì không bao giờ bị diệt nên
gọi là Phi Diệt. Khi mở đèn, điện tử có thể
sanh ánh sáng đèn, thế nên điện tử khi cùng đèn tắt công dụng
không giống nhau cho nên gọi là Phi Nhất. Nhưng điện tử khi bị
động tức là điện tử từ khi tịnh lại chuyển sang động thì không phải
khác, nên gọi là Phi Dị. Khi dòng điện đến, thật cẩn thận, sử dụng
điện tử trong giây điện để gây rung động, đây không phải thật có
điện tử từ nơi xưởng đưa đến, cho nên gọi là Phi Lai. Điện tử khi đứng lại, điện tử trong giây đồng cũng chưa
bỏ đi, nên gọi là Phi Khứ. Do thí dụ đây, xem lại kinh Phật có
chỗ nói những câu “Bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm, bất đoạn
bất thường, bất nhất bất dị, bất lai bất khứ”, liền có thể suy nghĩ
quá phân nữa vậy,
V.- TINH THẦN TÍCH CỰC CỦA PHẬT
GIÁO.
Hiện
tại hai danh từ thông dụng là tích cực cùng tiêu cực, ý nghĩa đây
suy cho cùng là hàm hồ, cũng thí dụ như danh từ đông tây đều không
định vị được.
Nhưng chính ý nghĩa của tích cực và tiêu cực xin nói lại giống như,
chỗ gọi tích cực là đại khái chỉ cho nỗ lực, dũng cảm, tiến về phía
trước, nói không cho đầy đủ vân
vân; còn chỗ gọi tiêu cực là
nói chỉ cho lười biếng, e dè, thối lui, biết đủ, vân vân. Phổ thông
mọi người cảm tưởng đối với Phật giáo, nói chung
cho là tiêu cực, yếm thế, nguyên vì họ xem thấy tăng chúng ẩn cư nơi
sơn lâm hẻo lánh vắng vẻ, không làm những công việc sanh sản; còn
chúng cư sĩ thì không thường ra vào chỗ thị trường náo nhiệt. Vì lối sống như thế của các tăng chúng và các cư sĩ nói
trên khiến cho người khác ngộ nhận và phê phán. Phật giáo xưa
nay vốn là Tông giáo thuần lý trí, cho nên Phật giáo đồ, đầu não
của họ luôn luôn tĩnh lặng lãnh đạm cực đoan và họ hoàn toàn triệt
để giải quyết sự mê lầm của vũ trụ nhơn sanh, vì thế mới chọn
những chỗ thanh tịnh vắng vẻ hẻo lánh để dụng công tu tập và trên
con đường tu tập muốn đạt được thành công, tuyệt đối cấm không được
phóng khí sanh sản. Còn trong thế gian, trên thực tế hầu như có một
số người, họ chỉ nhìn thấy chỗ trọng yếu của sự sanh sản, không
những ở nơi chánh trị, giáo dục trở xuống, cho đến chỗ thị trường
náo nhiệt, nếu là nơi danh lợi hưởng lạc, đương nhiên họ không bỏ
qua, cũng như những phước lợi cho chúng sanh thì làm gì họ không bỏ
đi? Chỉ họ vì tâm tham dục vô giá trị, không những chuyên làm những
chuyện tính toán cho chính mình, cũng chẳng cầu hư danh; mặc dù họ
biểu hiện bên ngoài là tiêu cực, nhưng bên trong đối với các thứ
việc xấu ác thực sự tha hồ tuyệt đối tích cực. Người đời chỗ gọi
là tích cực tức là chỉ cho
nào là nổ lực, dũng cảm, tiến
về phía trước, không cho đầy đủ. Họ luôn luôn mông cầu chỗ nguyên
động lực của tích cực ở tại đâu và tại đó không có người khác chen vào, đồng thời danh lợi chỉ có riêng cho họ mà
thôi. Vì danh lợi cho nên gà kêu cũng phải thức, không thể gọi là
không nổ lực; vì danh lợi cùng phấn đấu cho hoàn cảnh, không thể
gọi là không dũng cảm; vì danh lợi tuyệt đối sợ lạc hậu, không thể
gọi là không tiến về phía trước; vì danh lợi nên được danh vọng cô
độc to lớn, luôn luôn không cho đầy đủ. Phật giáo
đồ nếu vì họ không có nguyên động lực này, cho nên họ đối với
những sự việc đây, đương nhiên chỉ có thể biểu hiện lười biếng của
họ, lo sợ, chùn bước, thối lui về sau, không biết tri túc, vân vân,
đều có thái độ hoàn toàn tiêu cực. Còn Phật giáo đồ chính
nơi họ có nguyên động lực này cho nên họ, vì cầu tất cả chúng sanh
tuyệt đối bình đẳng, vì cầu tất cả chúng sanh tuyệt đối tự do, vì
cầu tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, vì cầu chúng sanh trí tuệ đầy
đủ, vì cầu chúng sanh viên mãn chánh giác, mặc dù ở nơi đại thiên
thế giới khắp bỏ thân mạng họ cũng không luyến tiếc, ngàn sanh
muôn kiếp vĩnh viễn không thối chuyển, như một chúng sanh nào chưa
thành Phật nguyện cho họ quyết định mau chứng được Niết Bàn (Nê
Hoàn). Tinh thần trên đây mới gọi là nổ lực, là
dũng cảm, là tiến về phía trước, là không cho đầy đủ, tất cả như
thế mới gọi là tích cực chân chánh.
1/- Tìm cầu tự do.
Tích cực tiến thủ của Phật giáo là một lời nói bao trùm hết cả,
đó gọi là tìm cầu tự do. Người đời chỗ cầu tự do, phải chăng không
ngoài thân thể, chỗ ở, vinh nghiệp, tập hội, ngôn luận, tân khai,
xuất bản, tín ngưỡng, tư tưởng vân vân tất cả đều tự do, trải qua
về sau Tổng Thống La Tư Phước thêm vào một điều tự do nữa là không
dự đoán thiếu thốn, để giúp cho tự do phạm vi được hoàn toàn rộng
lớn. Nhưng ở lập trường của Phật giáo xem đến, một số tựï do đây phạm
vi hoàn toàn rất nhỏ, tiêu chuẩn hoàn toàn
quá thấp, cần yếu nhu cầu thái quá hoàn toàn không có dũng khí. Ta
có một việc nên làm, chính việc làm đó rất tốt là thí dụ như, có
một Hoá Tử mộng tưởng muốn làm hoàng đế, người nhà hỏi nó: “Con
hoàn toàn muốn làm hoàng đế, cần phải làm sao có mẫu để hưởng
phước”? Nó trả lời: “Con muốn làm hoàng đế, chỉ cần cầu trời thì
trời cất lên một bước, điều kiện đem bánh dầu lớn thì ăn thích thú”
Nói cho cùng cũng có thể thương, người thế gian đều giống Hoá Tử
đây, nghĩa là có một nhóm người bần cùng, tâm họ hoàn toàn tối
tăm, cần yếu hễ mở miệng là trả giá, nhưng cũng không dám hy vọng
đi trả giá với trời! Có thể nói là đệ tử của Phật thì gan dạ rất
lớn, tâm họ cũng hoàn toàn kiên quyết, họ cần cầu tự do, dứt
khoát đem phạm vi tiêu chuẩn một chân đá là
khai ngộ ngay (Bổng Hát Thiền). Họ nói ho
cần phát khởi từ nơi thân thể.
Nơi thân thể họ có sáu thứ công dụng là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân
và ý, họ cần cầu sáu thứ công dụng đây có thể tuyệt đối phát huy
tự do, không chịu bất cứ trói buộc nào, bất cứ chướng ngại gì. Trước
hết từ nhãn tình (Tròng con mắt) phát khởi, có người khác hỏi, nhãn
tình là cái gì mà có thể thấy được ánh sáng hướng dẫn một đoạn
ngắn trong làn sóng nam châm và làm sao thấy được màu tím ở ngoài
màu hồng nằm trong làn sóng ánh sáng, cho đến làm sao thấy được làn
sóng của nhiệt và làn sóng của vô tuyến điện? Làm
gì có thể thấy được hình ảnh đảo ngược trên võng mô mà không thể
thấy trực tiếp đến làn sóng ánh sáng? Làm gì
không thể thấy các núi sông nhơn vật trên tinh cầu? Làm gì không thể thấy hạt điện tử, quang tuyến vũ trụ,
dòng năng lực nam châm? Làm gì không thể thấy
sự tình của quá khứ và vị lai? Làm gì không
thể thấy chỗ thấy của tất cả chúng sanh? Làm
gì không thể lìa khỏi tất cả đối tượng mà chỗ thấy có sai biệt?
Họ cần cầu giải trừ các thứ chướng ngại để đạt được tự do tuyệt
đối. Thử hỏi lỗ tai làm gì không thể nghe làn
sóng âm thanh đến tần số 20 trở xuống và 2 vạn trở lên? Làm gì không thể nghe tiếng ngôn ngữ âm thanh của tất cả
chúng sanh trong toàn thế giới cho đến toàn cả vũ trụ? Làm gì không thể nghe tiếng chấn động của phân tử?
Làm gì không thể nghe ngôn ngữ của con người mấy ngàn năm về trước?
Làm gì không
thể thoát khỏi chỗ nghe riêng
có làn sóng âm thanh? Họ cũng cần cầu đạt được tự do tuyệt đối
của âm thanh. Thử hỏi lỗ mũi làm gì không thể giải
thoát sự trói buộc của không gian thời gian và không thể giải thoát
khi nghe đến tất cả mùi vị trong và ngoài xưa và nay? Làm gì
không thể nghe đến đạo vị bản thân lỗ mũi con của người khác? Làm gì không thể sử dụng đến các thứ tầng số cạnh chính
khúc tuyến nơi đó biểu thị các thứ chủng loại sai biệt của mùi hôi?
Họ cũng cần cầu đạt được tự do tuyệt đối ngửi biết mùi hương. Thử hỏi lưỡi làm gì nhất định cần hòa hợp với vật chất
rồi sau đó mới có thể thưởng thức vị? Làm gì lưỡi của nó
không thể tự thưởng thức là đắng hay là ngọt? Làm
gì không thể nói tất cả ngôn ngữ của động vật? Làm gì không thể biến khắp che phủ ba ngàn đại thiên thế
giới để phổ cáo cho chúng sanh? Làm gì không
được dùng một thứ tiếng để diễn thuyết khiến tất cả chúng sanh tùy
chủng loại đều hiểu được? Họ cũng cần cầu đạt được thưởng
thức mùi vị và ngôn luận tự do tuyệt đối. Thử hỏi
thân thể làm gì không thể giải thoát tâm địa và hấp lực du hành
của thái hư, qua lại các tinh cầu trong không gian? Làm gì không thể tùy ý biến hóa hoặc lớn hoặc nhỏ, cả
đến biến khắp hư không, nhỏ cho đến tiến thẳng vào trong hạt nguyên
tử, để làm loạn tổ chức? Làm gì không thể đem
điều chỉnh toàn bộ thái dương hệ ném vào trong ngân hà? Làm gì
không thể tiếp thu nưóc sắt
nóng trong lò luyện giây đồng? Làm gì không thể cảm giác nỗi thống khổ nơi thân chịu
đựng của vô lượng chúng sanh? Làm gì không thể
đem mười phương thế giới nuốt hết vào trong một miệng? Họ cũng
cần cầu đạt được tự do tuyệt đối của các bộ phận trong thân thể. Thử hỏi tâm ý là thứ gì không thể hiểu rõ tất cả sự
vật biến hóa và tâm lý của tất cả chúng sanh trong mười phương ba
đời? Làm gì không có thể không tiếp nhận được tám thứ bệnh
khổ nào là sanh lão bệnh tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất
đắc, ngũ ấm xí thạnh.? Làm gì
không có thể tưởng tượng bốn độ trở lên và tình trạng của không
gian? Làm gì tất cả vật chất không thể theo
tâm để biến hiện? Làm gì không thể lìa khỏi tất cả
đối tượng để riêng có tưởng niệm? Họ cũng cần cầu đạt được
tự do tuyệt đối của tâm ý. Các ông nếu nói họ cần cầu là cần
cầu vô lý, chúng ta lại hỏi các ông có lý do gì không thể cần
cầu? Các ông nếu nói họ chỉ cần cầu là cần cầu chỗ vô lý, chúng
ta lại hỏi các ông có lý do gì không thể cần cầu? Các
ông không cần làm miếng bánh dầu lớn mà bên ngoài không dùng mỹ
vị. Chỗ gọi là chim Đại Bàng bay vạn dặm, nhưng
ý chí của nó đâu có thể hiểu biết bằng con chim sẻ núi? Thứ dũng mãnh đây đối với chỗ cầu hiểu biết thì không
đầy đủ hiện trạng tinh thần tích cực, ở đây chỉ Phật giáo thì mới
có khả năng đầy đủ.
2/-
Nguyện vọng vĩ đại. Ở trên đã liệt kê các thứ tự do, nhưng không có lý do
nào để đạt được chúng nó, đương nhiên cương quyết không thể cần
cầu, quả như lý luận trên có thể đạt đến được; nhưng trên thực tế
không có phương pháp nào có thể đạt đến được và cũng chỉ có thể
than mình sức yếu không làm được việc mà mình muốn làm. Xin xét lại
giáo nghĩa của Phật giáo, thứ tự do đây chính mọi người vốn có khả
năng và nhưng không thể chỉ biết bề ngoài; họ chỉ vì vọng tưởng chấp
trước, mê mất bản tánh, mãi chạy theo phát khởi các thứ phiền não,
giống như mình tự trói buộc lấy nghĩa là mình phải có bổn phận gây
giống hoa lan để nuôi con tầm mùa xuân, không có chút tự do giải
thoát, họ tự thọ lấy các khổ oan uổng. Họ nếu như
có thể noi nương giáo pháp tu hành, đoạn trừ tận gốc tất cả phiền
não hoặc nghiệp, thì bản tánh của họ tự nhiên chiếu sáng, nguyên do
họ không còn bị trói buộc nữa. Cho nên biết có thể đạtï được
nguyên lý tự do tuyệt đối, cũng có thể đạt được đạo quả viên
thành, như có người đối với đây có thể sanh tín tâm, có thể phát
đại nguyện, có thể thiết thực đi làm, không sợ khó, không lùi
bước, tự nhiên một ngày nào đó có thâu hoạch được ngay.
Cho
nên đối với Phật giáo người đã sanh tín tâm, dạy họ trước hết phải
phát đại nguện rồi sau đó mới có thể thật hành. Tín tâm chính là La Bàn của
kẻ đi
thuyền, để có được
định hướng, không gây mê loạn, còn nguyện lực chính là động cơ, có
thể sanh động lực, nhờ đó mới có thể khiến hành giả tiến tới
không ngừng, vì thế phàm là tín đồ Phật giáo tất nhiên phải phát
bốn Hoằng Thệ Nguyện đã được liệât kê ở bên trái:
1>- Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ,
(Chúng
sanh không số lượng thệ nguyện đều độ hết).
2>- Phiền não vô
tận thệ nguyện đoạn,
(Phiền não không
cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch)
3>- Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học,
(Pháp môn không kể
hết thệ nguyện đều tu học)
4>- Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
(Phật đạo không gì
trên thệ nguyện được viên thành)
Theo
trong bốn Hoằng Thệ Nguyện đây có thể xem ra tinh thần tích cực của
tín đồ Phật giáo so với các tín đồ của các Tông giáo khác thì họ
còn quá xa.
Tinh thần tích cực trong bốn Hoằng Thệ Nguyện được thấy như sau:
a). Sự tin Phật của
Phật giáo đồ là họ tu hành không vì mưu cầu lợi ích riêng tư cho
chính mình, không tưởng đến mình sẽ được lên thiên đàng để hưởng
phước, mà ở đây là chỉ cần cứu độ tất cả chúng sanh, trong đó gồm
có các động vật và các thiên thần, tốt nhất là lìa khổ được vui, dứt
hẳn phiền não.
b). Nổ lực cầu biết chân lý
của vũ trụ nhơn sanh, cầu đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
c). Biết rõ chúng
sanh không cùng tận, phiền não không cùng tận, pháp môn không kể
hết, Phật đạo không gì trên, mà đều không sợ khó thối lui chùm
bước. Chọn tinh thần đại hùng vô úy như thế mà gọi
là tiêu cực thì tôi không biết hai chữ tích cực sẽ làm thế nào để
giải thích.
Tất cả Bồ Tát đều
có nguyện lực đặc biệt siêu việt thù thắng, đó chính là ba thứ đại
nguyện trong Phật giáo được tuyên dương vô cùng rộng lớn, xin tường
thuật sơ lược để giới thiệu: (1) Một là mười đại nguyện của Bồ Tát
Phổ Hiền, (2) 48 lời nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng (tức là hiện tại
Phật A Di Đà), (3) 141 lời nguyện của Bồ Tát Văn Thù. Giờ đây xin
trích lục một đại nguyện trong 10 đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền như
bên trái:
“Lại nữa này thiện
nam tử, nói hằng thuận chúng sanh đây, nghĩa là tận cùng cõi hư
không của pháp giới, mười phương cõi rộng lớn như biển cả chỗ có
chúng sanh,......., tôi đều vì họ mà chuyển xe pháp luân, mỗi mỗi
đều phụng sự, mỗi thứ đều cúng dường, như kính cha mẹ, như phụng
dưỡng sư trưởng và A La Hán, cho đến các đức Như Lai, đều bình đẳng
không có sai biệt. Nơi các bệnh khổ, vì họ mà làm lương y; nơi những
kẻ lạc đường, chỉ bày cho họ chánh lộ; nơi trong đêm tối tạo ra ánh
sáng cho họ, đối với những kẻ bần cùng, nay giúp cho họ được chỗ
ẩn nấp ở yên; Bồ Tát bình đẳng lợi ích chúng sanh như thế, tại sao?
Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh tức là tùy thuận cúng
dường chư Phật; nếu nơi chúng sanh phải tôn trọng phụng sự tức là
tôn trọng phụng sự Như Lai; nếu khiến chúng sanh sanh tâm hoan hỷ,
tức là khiến tất cả Như Lai hoan hỷ. Vì sao thế?
Nguyên vì chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm thể, nguyên vì chúng sanh
mà phát khởi đại bi, nguyên vì đại bi mà sanh tâm bồ đề, nguyên vì
tâm bồ đề mà thành được chánh đẳng giác. ---- nguyên
vì bồ đề là thuộc nơi chúng sanh, nếu không có chúng sanh, tất cả
Bồ Tát chọn không thể thành vô thượng chánh giác. Này
thiện nam tử, các ông đối với nghĩa đây, nên cứ như thế mà giải
thích. Dùng tâm bình đẳng của chúng sanh thì có
thể thành tự đại bi viên mãn. Dùng tâm đại bi tùy theo chúng sanh, thì
có thể cúng dường Như Lai
thành tựu. Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như thế, suốt tận thế giới
khắp hư không, suốt tận chúng sanh khắp thế giới, suốt tận nghiệp
của chúng sanh, suốt tận phiền não của chúng sanh, ta đây đều tùy
thuận không có cùng tận, niệm niệm tương tục không có gián đoạn,
nghiệp của thân miệng ý, không có mệt mõi chán nãn.”
Đây
là trình bày tiêu biểu tinh thần tích cực vĩ đại phục vụ chúng sanh
của Bồ Tát Phổ Hiền. Thế gian chỉ biết phục vụ xã hội, phục vụ nhơn
quần, đối tượng rất nhỏ, chúng ta cần phải noi theo
pháp Phổ Hiền, khuếch trương rộng lớn, phục vụ đối tượng cho đến nơi
vô hạn định. Thế gian chỉ biết đối với cùng ta có
quan hệ tập đoàn thì mới phục vụ, có phần thân và sơ thì mới phục
vụ; Bồ Tát Phổ Hiền thì dùng tâm bình đẳng làm lợi lạc cho chúng
sanh, không phân biệt oan thân. Tông giáo thế gian chỉ biết tôn
sùng phụng thờ giáo chủ của mình; Bồ Tát Phổ Hiền thì nối tiếp
phụng sự chúng sanh cho là nối tiếp phụng sự Như Lai và cho cúng
dường chúng sanh chính là cúng dường Như Lai. Còn thế
gian chỉ biết hết mình phục vụ nhơn quần của thế gian; Bồ Tát Phổ
Hiền thì cho thời gian phục vụ chúng sanh lâu dài vô cùng, luôn luôn
không mệt mõi chán nãn. Phật giáo tuyệt đối
không phải yếm thế, quán sát đây tăng thêm tín tâm.
48 lời nguyện của
Tỳ kheo Pháp Tạng cũng là rất vĩ đại, Ngài phát nguyện cần yếu là
tạo thành một quốc độ Cực Lạc, trong nước vật chất văn minh có thể
do lời phát nguyện đạt đến cực điểm, trong nước nhơn dân mỗi người
sống đặng đang trang mỹ lệ, mà lại mỗi người đều đạt đến mỗi thứ
tự do trên hết, mỗi cá nhơn đều đạt đến địa vị bình đẳng tuyệt đối.
Ngài đương nhiên ban đầu khi phát nguyện liền hướng về đức Phật Thế
Tự Tại Vương, đức Phật bảo chứng cho Ngài nhất định sẽ thành tựu
đúng như lời đại nguyện này; đức Phật đối trước Ngài Pháp Tạng nói
rằng: “Thí dụ như có một người lạc vào biển lớn mênh mông, trên
chiếc thuyền chỉ biết nhìn sao bắc đẩu để đi, lang thang trên biển cả
trải qua nhiều kiếp số, nghèo đến nỗi tận cùng của cuộc đời, bỗng
nhiên còn có thể may mắn gặp được một hòn đảo to lớn trong đó chứa
đầy trân châu diệu bảo; có người chí tâm tinh tấn cầu đạo không
dừng nghỉ, lẽ đương nhiên sẽ gặp được quả, nhờ đó nguyện gì mà
không thành!” Về sau Tỳ kheo Pháp Tạng quả nhiên nhờ
tu toàn bộ đại nguyện, công thành quả mãn như thế, nghiểm nhiên trở
thành một vị Phật hiệu là A Di Đà Phật. Hiện tại sáu chữ “Nam
Mô A Di Đà Phật” đã trở thành khẩu hiệu tuyên
truyền rất rộng rãi trong Phật giáo, cho đến tận cùng làng xóm, phụ
nữ trẻ con nơi hẻo lánh, ai cũng đều biết đến.
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Phẩm Tịnh Hạnh, Bồ Tát Văn Thù cũng đã phát nguyện, 141 lời nguyện
cũng có phần thâm ý. Có số người trong sinh hoạt thường ngày, mỗi
lần làm một công việc liền phát một lời nguyện, mỗi một lời
nguyện đều nói câu “Đương nguyện chúng sanh”(Nguyện
cho chúng sanh), mà không nói “Nguyện ngã chẩm ma”(Nguyện tôi thế
nào). Đây trình bày rõ nhơn sanh quan của Phật giáo, là mỗi nơi, mọi
người ai cũng đều tưởng đến câu “Nguyện cho chúng sanh” và mỗi việc
làm người nhà đều nguyện tốt, riêng tôi cũng đang làm một công
việc giống như thế là “Nguyện cho chúng sanh”. Sở dĩ không từ lập
trường của bản ngã để phán xét, mà chính là hợp lại các văn kiện
đã giảng đạo lý bình đẳng khách quan ở trên để phán xét. Từ ba thứ
nguyện vọng vĩ đại ở trước, có thể thấy rõ đại hùng đại lực đại
từ bi của Phật giáo, quyết định không phải trên thế gian bất kỳ nhà
tông giáo, nhà triết học, nhà chánh trị, nhà khoa học nào có thể
mô phỏng được một phần rất nhỏ của nó!
VI.-
ỨNG DỤNG PHẬT GIÁO VÀO ĐỜI.
Trong Phật giáo có
hai danh từ, một là “Xuất thế”, một là “Liễu sanh tử”, thường thường
có người hiểu sai lầm và căn cứ nơi đó gắn cho Phật giáo là chủ
nghĩa yếm thế. Để làm sáng tỏ v
thể không biện giải chân
chánh. Chỗ gọi là “Thế”, tức là thời gian, cho nên
nói ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chỗ
gọi là “Xuất Thế”, tức là vượt ra khỏi sự trói buộc của thời gian.
Thời gian từ đâu mà có?
Đáp
rằng, thời gian từ niệm niệm sanh diệt mà có. Niệm đầu chuyển biến được
nhiều thì biết được thời gian dài, nếu niệm đầu chuyển biến được ít
thì biết được thời gian ngắn, thí dụ như những người khi chờ đợi ai,
niệm niệm không dứt hy vọng trông chờ người đó đến, nhưng họ không
đến đã trải qua mười phân đồng hồ, liền biết được dường như thời
gian quá ngắn đã đi qua được phân nửa. Lại nữa như
lúc nhàn rỗi thanh thản, khi tịnh tọa mặc niệm, thời gian chính biết
được quả quyết đã thuộc về quá khứ. Niệm đầu
nếu không sanh diệt tức là không có thời gian dài ngắn. Vì thế có thể lìa khỏi giả tướng sanh diệt tức là không
chịu thời gian trói buộc, cho nên “Xuất Thế”, đều không phải gọi là
yếm thế lánh đời. Cho nên kinh Phật có nói: “Bất ly thế gian
pháp, thường hành xuất thế đạo” (Chẳng lìa pháp thế gian, thường
thật hành đạo xuất thế). Lại nói: “Phật pháp tại thế gian, bất ly
thế gian giác, ly thế gian mích bồ đề, kháp như cầu thố giác” (Phật
pháp chính ở nơi thế gian, không thể lìa khỏi thế gian để được giác
ngộ, nếu lìa khỏi thế gian đi tìm bồ đề, đúng là đi tìm cầu sừng
thỏ). Phật pháp căn bản chính là không lìa khỏi thế gian, nay nói
vào
đời đây đúng là không phải chỉ
bảo tham gia sự nghiệp xã hội, không phải thật có vấn đề ra đời
(xuất thế) hay vào đời (nhập thế) vậy. Lại nữa chỗ gọi”Sanh tử”
đây, tức là nghĩa của sanh diệt, “Liễu sanh tử” đây, chính là chỉ cho
đã thoát khỏi vọng niệm của sanh diệt, thoát khỏi giả tướng của
sanh diệt. Có kẻ mượn vấn đề đây để mỉa mai Phật
giáo sợ chết trốn sống, đều là nguyên nhân không thấu đạt được
nghĩa này, liền phát sanh ra đoạn giải thích đây. Phật giáo vốn là môn học thực dụng cần thiết rất thích
hợp với nhơn sanh, có lý luận, có ứng dụng, cùng khoa học giống nhau,
không giống như một nhóm Tông giáo có ít thực dụng mà không lý
luận, cũng chẳng giống như triết học có lý luận mà không thực
dụng. Nay xin nói nhập thế ứng dụng của Phật
giáo, nhằm tạo làm kết thúc cho bản văn này.
1/-
Giải thích chân thật về phục vụ. Hai chữ phục vụ ở trong Phật giáo gọi là
độ chúng sanh, xem nơi điều thứ nhất của bốn hoằng thệ nguyện là,
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” (Chúng sanh không có ranh giới
thệ nguyện đều độ hết), và câu “Hằng thuận chúng sanh nguyện” (Phát
nguyện thường độ chúng sanh) của Bồ Tát Phổ Hiền, cũng đủ chứng
minh Phật giáo chính là Tông giáo phục vụ nhơn loại tích cực không
điều kiện. Phật giáo dạy người phục vụ tích cực như thế bằng cách
nào, chính là nguyên nhân chọn lấy tất cả
chúng sanh xưa nay đều một thể
bình đẳng để độ người mà cũng tức là độ mình, cứu người cũng tức
là cứu mình, tuyệt đối không phân biệt, cho nên kinh Kim Cang nói
rằng: “Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật vô
chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu
ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ
Tát”. (Nghĩa là độ thoát vô lượng vô số vô biên
chúng sanh như thế, thật ra không có chúng sanh nào được độ thoát
cả. Tại sao thế? Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ
Tát còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả,
tức không phải là Bồ Tát). Nguyên vì nhơn và ngã là
một thể, mặc dù là người phục vụ, nhưng tư tưởng phục vụ không còn
tồn tại. Phật giáo không phải không thực hiện
tư tưỏng phục vụ mà lại còn thực hiện cả tư tưởng báo ân, chấp
nhận tất cả chúng sanh đều là ngưòi ân. Hoặc nói: Cho cha mẹ
sư trưởng là người ân thì còn có lý, nếu cho tất cả chúng sanh đều
người ân thì chưa khỏi thái quá hay sao. Tôi thì đáp: đây là sự thật,
đều không phải nói làm cho người đời sợ hãi ngạc nhiên. Chúng ta chỉ cần đem mỗi người về ăn mặc ở, việc làm chỗ
nhu cầu cần yếu như tiền của vật chất vân vân đem ra để thí nghiệm
thì bỗng nhiên cũng đủ để chứng minh lời nói này không sai lầm.
Thí dụ như chúng ta rõ biết có vãi, có lụa, có hàng len, có các
thứ y phục, thì biết rằng phải nhờ có thợ may cắt xén chấp vá kết
thành y
phục để mang mặc;
những vật liệu vãi lụa hàng len phải nhờ các cửa tiệm bày bán;
nguồn gốc những vãi lụa hàng len được bày bán trong cửa tiệm đây
đều phát xuất từ nơi xưởng dệt vãi lụa, xưởng dệt tơ tầm, xưởng
phân biệt định giá; những nguyên liệu bày bố đây chính là từ nơi
xưởng chỉ sợi cung cấp; tơ tầm là do người nuôi tầm cung cấp; món ăn
của con tầm là lá dâu do người trồng cây dâu cung cấp; nguyên liệu
sản phẩm hàng len chính là nhờ người chăn nuôi bầy trừu cắt lông cung
cấp. Đây là nói từ hệ thống trực tiếp, đã hiểu rõ chỉ một người
mà hoàn toàn quan hệ phần lớn các giới nông công thương; nếu đem
một người được thành quả nhờ trợ giúp gián thiếp để nói, thí dụ
như, sản phẩm nông nghiệp được chuyên chở cung cấp nhu cầu từ nơi xe
hơi, xe lửa, ghe thuyền, hàng không, cho đến quan hệ các công cụ giao
thông như xe thuyền xe ngựa, vân vân, phần nhiều những công cụ đây
nhất định phải có người quản lý dệt đan, còn bổ xung công cụ lại
cần có các công xưởng hợp tác. Tóm lại, những sản phẩm nông
nghiệp cung cấp cho các xưỡng xe chỉ sợi tơ tầm,
xưỡng dệt đan, xưởng cắt may; lại nữa, nhu yếu chế tạo phải qua các
cơ khí, mà các cơ khí đây phải do công trình các kỷ sư thiết kế chế
tạo và sử dụng. Nhu yếu công trình của kỷ sư là bộ
phận cắt rọc trong đại học sản xuấ ra, học thức của họ là các thứ
khoa học nơi giáo sư giáo dục. Có thể nói, tất cả công nghiệp
thương nghiệp và cơ quan giáo dục đều
là nhu yếu, chánh trị phù trợ
và quân đội bảo hộ. Đơn cử thứ nhất nói, không
biết con người ít nhiều đều là hạng lao động. Trong con người
đây đa số bao quát gồm có các giới nào là, nông, công, thương,
trường học quân chánh, thật là chỗ không có phân biệt, đông, tây,
nam, bắc; người thì không có phân biệt nam nữ già trẻ, đều hoàn
toàn là một cá nhân tôi nương tựa và xem họ là những người hợp
tác lao động. Nương nơi đây đã thấy một khoảng là như
thế, vấn đề ăn, ở và sinh hoạt ba điều kiện trên tinh thần là vật
nhu yếu, lại cũng là nhiều cho đến không có gì thắng hơn. Cần yếu là triệt đễ trình bày, có thể nói trên thế giới
không có một cá nhơn nào không trực tiếp hoặc gián tiếp không trợ
giúp tôi và tôi có thể không cảm tạ ân đức của họ hay sao?
Tuy nhiên tôi đã đưa ra giá đại biểu tương tương, nhưng có nhiều vật
cho phép là vô giá, thí dụ như tôi thay đổi kỷ nguyên tiền tệ giá
bằng một quyển sách, trong quyển sách đây giá trị trí thức đối với
tôi chính là không phải kim tiền có thể thay thế đại biểu. Hơn nữa tôi kiếm tiền với một bộ phận là bằng tác phẩm
nhưng không có định giá nhiều ít, cũng không phải bổn phận, không
phải ân nghĩa, cũng không dùng phương pháp lừa bịp để thủ lợi.
Dù rằng tôi lấy được cũng là tiền chánh đáng, còn
đổi lấy vật chất đại biểu trị giá cũng rất chính xác, nhưng đây
phần nhiều vạn người chỉ có một người không cùng tôi hợp tác.
Như vậy tôi lại đem đến
những thứ gì? Chúng
nó chỉ cùng tôi. hợp tác, chính là chúng
nó ân nghĩa đối với tôi. Ân nghĩa đây có tiền cũng
không mua được nó, thứ đây không hợp tác kinh nghiệm thống khổ,
nghĩa là nỗi thống khỗ đây mỗi cá nhân chúng ta đều đã chịu qua.
Do đó chúng ta biết được đạo lý, và đạo lý đó chúng ta hưởng thụ,
không phải do chủ tạo vật hoặc thiên thần ban cho, chúng ta không
đăng ký cảm tạ chủ tạo vật hoặc thiên thần, chúng ta phải nên cảm
tạ mỗi cá nhơn của toàn thể thế giới. Cho nên chúng ta cần phải
học tinh thần 141 lời phát nguyện trong Phẩm Tịnh Hạnh, nơi trong sinh
hoạt hàng ngày, mỗi việc cần phải làm là cầu phước cho toàn thể
nhơn loại, tuyệt đối không nên hướng về một cá nhơn không bình
đẳng------- hoặc hướng về chủ tạo vật hay thiên thần chỉ cầu phước
báo cho riêng cá nhân mình. Chúng ta cần nổ lực đi
làm chức nghiệp chính đáng, và sự nghiệp có lợi cho nhơn quần, để
báo đáp công ân của toàn thể nhơn loại, đây mới là chúng ta hoàn
toàn phục vụ xã hội.
2/-
Tâm trách nhiệm chân thật. Các đại gia đều biết đạo, phục
vụ xã hội trọng yếu thứ nhất là tâm có trách nhiệm, nhưng làm gì
gọi là tâm có trách nhiệm? Đây là nói, một cá nhơn đối với
một người nào, hoặc một tập đoàn nào xây dựng một sự kiện gì, đảm
nhiệm một thứ nhiệm vụ gì, cần yếu phải tận tâm tận lực làm việc,
giả sử làm việc không được tốt,
chính cần yếu là phải chịu đối
phương trách phạt, muốn khỏi bị trách phạt thì không được làm việc
không hoàn hảo, dụng tâm như thế mới gọi là tâm làm việc có trách
nhiệm. Chúng ta phân tích sau đó, chính biết đạo lý động cơ tâm có
trách nhiệm là như thế, còn kẻ làm trâu ngựa thì tâm lý họ sợ bị
chủ nhơn đánh đập cho nên mới nổ lực, phần lớn làm việc không có
nhận thức phân biệt. Có người nói: “Không phải, đây là sợ trách
phạt của lương tâm chính mình, mà không phải là sợ người nhà trách
phạt.” Tôi nói: “Lương tâm nhà ngươi chính là kẻ lường gạt nhà ngươi,
lời đây tôi đã nói qua, cũng cho phép tôi trách phạt nhà ngươi là
không cho nhà ngươi đi làm việc ác. Giả sử lương tâm
nhà ngươi trực tiếp bị trách phạt, thì nhà ngươi lại trở thành thứ
gì? Con đường khó cho nhà ngươi là trong bao tử có hai cái tâm,
một là tâm lương thiện, một là tâm đen tối cả hai hòa hợp có thành
không?” Hiện tại trên xã hội có một cá nhơn nào đó
không thể tự nói mình có lương tâm, có tâm trách nhiệm. Có thể là đại đa số trong xã hội không có lương tâm,
không chịu gánh vác trách nhiệm, chuyên chọn lựa những điều ác để
đi làm, đây là đạo lý gì? Phật giáo chính căn bản không nói
đến trách nhiệm điều đó, trong Kinh Phật cũng không có danh từ nào
hoàn toàn thiện theo kiểu đó. Chỉ có thể căn
cứ theo giáo nghĩa của Phật giáo để làm việc
thì vẫn thật sự khả năng phụ trách tuyệt đối. Nay vì tùy thuận thế
tục, tạm thời
gọi là tâm trách nhiệm chân
thật. Tâm trách nhiệm chân thật đây chính là từ nơi
tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm báo ân, và tâm nhân quả sáng tỏ hoà
hợp sanh ra. Cho nên nếu như thời gian nương theo Phật giáo để
làm việc thì đối với cấp trên có khả năng làm việc không bị trách
phạt, còn đối với thuộc hạ cấp dưới xem họ làm việc không để họ
bị trách phạt, vì tâm họ không bị sợ hãi, tâm họ không sanh kêu
ngạo, đó chính là tâm bình đẳng. Thuộc cấp có chỗ
nhu cầu thì cấp trên tất nhiên giúp đỡ họ cho được mãn ý, có chỗ
khốn nạn thì tất nhiên phải giải trừ cho họ được thoát khỏi, đây
chính là tâm từ bi. Cấp trên chỉ thị tôi phương châm công tác,
còn thuộc hạ giúp đỡ tôi trình bày mọi việc, tất cả họ đều là ân
nhân của tôi, đã là ân nhân đây tất nhiên phải báo đáp, đó chính
là tâm báo ân. Làm thiện thì được thiện báo, làm ác thì được ác
báo, nhân quả rõ ràng, như ảnh theo hình, tôi nếu tham ô thì phạm
giới trộm cắp, tôi nếu cẩu thả làm biếng thì phạm giới buông lung,
tôi nếu nóng nảy thì phạm giới sân, tôi nếu thất lễ thì phạm giới
ngạo mạn, đã phạm giới thì phải chịu thọ báo, một hào ly cũng không
thoát khỏi, đây chính là tâm bị nhân quả rõ ràng ràng buộc. Nếu hiệp bốn thứ tâm này lại để làm việc, thì không có
thể gánh vác được trách nhiệm hay sao? Đây gọi
là tâm trách nhiệm chân thật. Nếu không rõ lý Phật, đối với
cấp trên thì tất nhiên nịnh bợ, đối với cấp dưới thì trở nên kiêu
mạng; cấp
trên khi kiêu mạng
thì từ chối trách nhiệm đối với cấp dưới, cấp dưới khi có chỗ thỉnh
cầu thì cấp trên lại từ chối; nơi tôi có lợi thì cung nghinh đón
rước long trọng vì sợ không đủ lễ; còn tôi lại sợ hãi đền đáp vì
xét thấy không đủ sức, những kẻ không biết phân biệt lợi hại thì
không biết báo ân. Ở đời danh lợi uy quyền địa vị
trước mắt lại cho là chân thật, còn nhân quả báo ứng lại cho là
hoàn toàn dối gạt người. Những hạng người như thế thì đáng coi
thường, giả sử họ không biết nếu trách phạt thì còn có thể khéo
léo ngăn ngừa, nguyên vì luật nhân quả không thể phá hoại, nếu kết
quả không được như thế không phải là hại người mà chính hoàn toàn
ngược lại là hại mình mà thôi.
3/-
Năng lực phán đoán chính xác. Người thế gian có thể phân biệt
sự việc, tất nhiên phải có đủ hai điều kiện là tài và đức thì mới
có thể thành tựu sự nghiệp vĩ đại. Ở trên chỉ
có giảng một chữ đức, cho đến chữ tài thì bao quát cả tài nghệ học
vấn và tài năng trí tuệ. Trí tuệ tức là bình
thường chỗ gọi năng lực phán đoán. Học vấn
không đủ kỷ năng bảo vệ, còn có thể mượn người trợ giúp, chỉ có
năng lực phán đoán thì làm người chủ sự rất xứng đáng. Năng
lực phán đoán đây muốn nuôi dưỡng được thành tựu tất nhiên trươc
hết phải minh bạch sự lý, phải hiểu rõ nhơn tình của cuộc đời thì
mới có thể phán đoán được chính
xác. Nhưng chỗ gọi là minh bạch
sự lý, thảo luận như thế nào cho được dễ dàng, trên thế tục nói
về sự lý, nơi nhãn quang của Phật giáo xem thấy, thường thường không
phải là sự lý chân thật. Như thế chỉ có giáo lý
của Phật giáo mới hoàn toàn minh bạch, trở lại xem sự việc thì mới
có thể đạt được chân lý của nó. Nhân vì Phật giáo tôn sùng
khách quan, bất kỳ sự việc nào đều không phải từ lập trường của
tự kỷ để xem, thường thường chọn lấy tâm chúng sanh để làm tâm của
mình, khiến thâm nhập đến tâm lý của cá nhân mỗi người, cho nên
đối với bất kỳ sự việc gì cho đến nhơn tình của cuộc đời không thể
không nhìn thấu nếu xem nó là lửa. Vấn đề minh bạch
hoàn toàn đối tượng để về sau mới thảo luận. Giờ
đây trở lại bàn đến phán đoán, tự nhiên hoàn toàn không thể gặp
không chính xác. Người đời sở dĩ không được thông suốt rõ
ràng sự lý là do chấp trước thâm sâu ngã chấp, không biết bị phiền
não, hoặc nghiệp lực ngăn che không cho giác ngộ, tâm có ngăn ngại,
liền phát khởi hoảng sợ điên đảo, đem thứ tâm này đi phân biệt sự
vật, đương nhiên không thể đạt đến chân tướng của nó. Thí dụ như
quân quan lâm trận, trong quân phát khởi tin đồn, họ liền lo ngại
thân mạng của mình và tài sản vợ con của họ, tự nhiên họ phát
khởi nhát gan đối với tin đồn đây liền nói, thà tin là nó có thật
hơn là không tin nó không thật; nhà ngươi nói người quân nhơn đây như
thế nào có thể phá
không? Hiện tại con mắt của quân
nhơn đó phần nhiều bị giới hạn ngăn che bởi tham sân si mạn, khiến
hoàn toàn tan mất năng lực phán đoán, hướng về họ để xem họ chạy
đến con đường tự sát. Cho nên tôi can đảm nói, chỉ người học giáo
lý của Phật giáo mới có minh bạch chân chánh, mới có năng lực
phán đoán chính xác. Có năng lực phán đoán chính xác
thì mới có thể thành tựu sự nghiệp vĩ đại.
4/-
Nghị lực kiên nhẫn. Làm tất cả sự nghiệp trong thế gian, điều
cần yếu là nghị lực, mới có thể vượt qua các thứ quan hệ khó khăn,
không bẻ gãy không khất phục thì triệt đễ không thành công. Nếu như một khi gặp trắc trở, ông liền bị tinh thần chán
nản ý chí buồn khổ, mặc dù việc nhỏ mà còn thất bại, huống hồ
đại sự. Thứ nghị lực đây đã đạt được từ trong tu dưỡng học
thức, có học thức thì mới có tinh thần can đảm, có tu dưỡng thì mới
có nhẫn nại, hợp lại hai thứ này thì mới có nghị lựïc kiên nhẫn,
đủ để trách nhiệm trọng đại đạt đến chỗ xa. Nguyên nhân nghị lực
được phát xuất từ nơi học dưỡng, cho nên không giống nơi ngoan cố,
ngoan cố là tự ý làm càn thì tất nhiên nó học dưỡng có chỗ không
đủ tiêu chuẩn, học không đủ thì thấy lý không rõ ràng, dưỡng không
đủ thì cứng đầu cứng cổ (ngang bướng). Thế gian có sai lầm để cứng
rắn là nghị lực, rõ ràng không hợp lý sự, sai trái nếu đi làm, làm
sai lầm thì một sai lầm, cho đến
chết cũng vẫn sai lầm không
giác ngộ. Kỳ thật đúng ra có nghị lực thì quyết định
không như thế.
Phật
giáo không gọi là nghị lực mà gọi là nhẫn. Ý nghĩa
nhẫn thì hoàn mỹ. Không chỉ gặp phải nghịch cảnh thì mới nhẫn
nại, khiến cho ý chí bị giao động; còn như gặp được thuận cảnh, khác
nào người được ca ngợi tán dương cung kính vân vân, cũng cần đứng
yên kiên nhẫn, không phát khởi tâm háo danh, hãy xem đến hiện tượng
cung kính người đặc biệt giống nhau, trực tiếp đến bát phong như, lợi
(lợi dưỡng), suy (thương thảm), hủy (nói xấu), dư (khen)ï, xưng (xưng
tặng), cơ (chê trách), vân vân là những cảnh giới không thể động
đến, đây là chỗ tuyệt đối phải đến xí nghiệp để công phu tu dưỡng.
Trong Phật giáo đối với chữ nhẫn phân tích rất tinh tế, có các thứ
nhẫn như, giới nhẫn, định nhẫn, vô tưởng nhẫn, vô sanh nhẫn vân vân,
danh tướng rất phức tạp, như thế không tường thuật tỉ mỉ được. Bồ Tát tu Lục Ba La Mật, đem chữ nhẫn thuộc Ba La Mật thứ
ba dùng đối trị ngã mạn. Có thể thấy Phật
giáo đối với công phu chữ nhẫn xem rất trọng yếu cực đoan. Chúng ta đã là phàm phu, ngã chấp chưa trừ, tự nhiên có
ngã mạn, thường thường mới học vượt qua điều tốt, thong thả thấy
chữ nhẫn càng sâu. Không tin, xin lưu tâm bất kỳ trên bàn hội
nghị, tài liệu đây khi phát sanh tranh luận, người biện tài thành
công tốt đẹp, người biện tài thành công mà không được phục vụ
biếu tặng thì như thế nào, đối
phương nếu như cũng chẳng chịu lép vế, thường thường biến động nẩy
lửa, đem đề mục tranh luận dời đến nhà tư nhơn. Người có Phật giáo
tu dưỡng lại quyết định không như thế, mặc dù dẫn đến tình trạng vì
pháp vong thân cũng cần quán chiếu nơi mình, vẫn không thấy kiêu mạn
tăng trưởng, lại không thể phát khởi tâm sân, đi công kích cá nhân
người được nâng lên. Hoàn toàn có nhẫn lực, mới có thể vượt qua
các thứ quan hệ khó khăn, vượt qua quan hệ danh lợi, không bị dục
niệm dẫn dắt, rồi sau đó biện luận sự nghiệp mới có thể phát
triển thuận lợi.
5/-
Thái độ thành khẩn. Từ thái độ nghi lễ niệm hương lễ Phật năm
vóc gieo mình sát xuống đất của tín đồ Phật giáo, có thể xem thấy
tâm chí thành khẩn thiết của họ. Lại xem đến các tăng chúng
niệm Phật tụng kinh trên điện trong các tự viện, nghe đến âm nhạc
của chuông trống mõ khánh khiến người không do dự cảm đến được
không khí trang nghiêm tôn kính. Lại xem đến quy củ
trong trai đường, và trật tự trên pháp hội giảng kinh, có thể nói so
với trong hoàn cảnh của một đoàn thể mục nát trong quốc gia xã hội,
kiếm không được nguyên tắc thứ hai ở bên ngoài. Người trong
nước không tuân theo pháp luật, không tuân theo
trật tự, nơi bất kỳ tập hợp, bất kỳ công cộng trường sở, đều biểu
diễn bao quát xem thấy, đã không thể che
giấu được sự thật. Chỉ có nghi lễ của giới Phật giáo có thể mời người nước
ngoài tham quan mà không xấu hổ. Người trong nước
thì giống nhau nhưng trên hành động có chỗ sai biệt khác nhau, thật
không thể không thán phục sự giáo dục cảm hoá có hiệu quả vĩ đại
của Phật giáo. Cho nên hai trình độ phu tử đại nho của Tống
triều khi tham quan quy cũ nghi lễ của tự viện trở về sau, phát ra
lời than rằng: “Ba đời lễ nhạc, cuối cùng không hơn đây!” Tôi đã
được ở kế bên bàn hội nghị nọ, nghe một vị chủ quan phụ trách nói:
“Mặc dù đoàn thể khi ăn chung luôn luôn tranh biện là không tốt,
nguyên vì trên phòng ăn luôn luôn có vấn đề, chỉ có các hoà thượng
trong tự viện, từ xưa đến nay không có nghe nói lỗi đấu tranh trong
phòng ăn.” Cần yếu ở đây trở lại vấn đề công trình
giới luật của Phật giáo. Căn cứ theo giới luật, không chỉ
nói, nhất cử nhất động đều có quy củ, chính là khởi tâm động niệm
cũng không thể dần dần liên quan đến gian tà riêng tư, một khi có
lỗi lầm, chính cần yếu là ở trước Phật chí thành sám hối. Nho giáo
giảng thành kính, quân trận giảng kỷ luật, cả hai đều không có
tượng Phật để dạy họ mẫu mực chu đáo và
nghiêm cách. Nhà nho giảng ngũ thường thì trừu tượng,
khiến người không thể thật hành; Phật giáo dạy ngũ giới thì cụ thể
hơn, ngăn cấm nói rất rõ ràng, dạy người làm dễ dàng. Nhưng
luận sự thật vẫn là giống nhau không hai, không sát sanh là nhơn,
không trộm cắp là nghĩa,
không tà dâm là lễ, không vọng
ngữ là tín, không uống rượu là trí. Phật giáo thì
trọng sự thật, cũng trọng lý luận, khiến người làm hiểu rõ được gì
cần phải làm như thế. Cho nên trong Phật giáo
nhất cử nhất động, nhất sự nhất vật, đều lý luận có căn cứ, đều
ra thi hành, nhưng phía bên trong dường như có thành phần mê tín?
Phật giáo đồ có
thái độ chí thành khẩn thiết, nếu tinh tế phân tích, thật tế do bốn
thứ thành phần Phật lý hoà hợp kết thành: (1) tín tâm, (2) chân
tâm, (3) nhu hoà tâm, (4) cung kính tâm.
(1)- Chỗ gọi là tín
tâm, chính là tin tất cả chúng sanh đều bình đẳng, tất cả pháp giới
đều bình đẳng, cho nên có thể đối với mọi người không yêu không
ghét, không ham muốn không hiềm khích, không ganh tị không ghen tương,
không nịnh bợ không kiêu hãnh.
(2)- Chỗ gọi là
chân tâm, nghĩa là cùng với người bàn luận công việc hoàn toàn sự
thật và công bằng, không lừa dối, không có lý lẽ, không thiên
kiến (chấp thiên lệch), không tà kiến, không tư kiến (chấp riêng
tư).
(3)- Chỗ gọi là nhu
hòa tâm, thường quan sát đối phương có chỗ nhu cầu gì, có chỗ nghi
ngờ gì, có chỗ
hoảng sợ, ta phải trợ giúp họ
nếu không đầy đủ, nên giải bày cho họ khỏi lo âu, giúp thân tâm
họ được an lạc, nói ra bằng lời lẽ nhu hoà, khiến họ được hoan hỷ
(4)- Chỗ gọi là cung
kính tâm, xem đối phương đều là ân nhân, là thiện tri thức, là cha
mẹ anh em, cho nên phải cung kính, không phải vì lợi ích riêng tư cho
mình.
Do vì có bốn thứ
này, phát triển ra ngoài gọi là thái độ thành khẩn. Con người nhờ
thái độ thành khẩn đây liền được phát sanh ra bốn thứ hiệu quả: (1)
Được người tín nhiệm, (2) Khiến người thích thân cận, (3) Khiến người
hoan hỷ, (4) Chịu người lễ kính. Người có thể nhờ thái độ đây nếu
theo chánh trị, thì có thói quen không suy tính, không từ chối, không
lôi kéo, không trì hoãn, trên thì nịnh hót, dưới thì hiếp đáp; chọn
thái độ đây làm kinh tế thương nghiệp thì không lừa bịp, không thủ
đoạn, xảo quyệt, không cướp giựt, không hủ bại độc quyền, bóc lột;
chọn thái độ đây quản lý gia đình thì hoà khí đưa đến tốt đẹp; chọn
thái độ đây giao tiếp bạn bè thì nước sữa thân thiện thuận hòa. Nói hợp lại, chọn thái độ đây xử thế tiếp vật thì tự
nhiên mưu sự gì tất nhiên đều thành công, chỗ cầu gì tất nhiên được
kết quả. Bất kỳ tập đoàn cơ quan nào như có
số người bảo trì thái độ này thì tự nhiên có trật tự, pháp luật
kỷ cương nghiêm minh, tất nhiên thành một bộ máy cấu tạo có khả
năng kiên cường.
Như Khổng Tử nói:
“Thành đây là đạo của trời vậy, kẻ thành đây là đạo của người
vậy.” Người đạo Nho đối với công phu thành ý này rất chú trọng
nghiêm túc, nhìn nhận cho là “Chí thành có thể cảm đến trời đất”,
“Tinh thành cho đến đá vàng cũng phải nở hoa” lời nói đây công dụng
hữu hiệu như thế. Phật giáo thì tu trì các thứ pháp môn, trước hết
đều dùng chí thành, tức là người thuyết pháp cũng tất nhiên thành
khẩn, nếu không thì thuyết pháp đều trở thành hý luận, kẻ nói kẻ
nghe đều không thật sự lợi ích.
B.- KẾT LUẬN.
Phật
pháp rất cao thâm mầu nhiệm, người đời đối với đây giải thích bóp
méo xuyên tạc, hiểu biết sai lầm. Có một hạng người cho
thời đại đây là thời đại khoa học xương minh, không nên trở lại đề
xướng mê tín. Lại có một hạng người cho Phật
giáo là thiết lập giáo lý thần đạo, ý của họ ở nơi cần người làm
lành, nhưng chưa có thể làm cho người được an ổn trên tinh thần.
Hạng người thứ nhất là nhận trắng làm đen, hạng
người thứ hai tợ hồ là không phải như thế. Tác giả đã xem
xét qua cho nên từ lập trường khoa học quán sát Phật giáo giải thích
xu hướng của nghĩa lý, nhận thấy người thứ nhất hiểu biết đạo lý
Phật giáo không phải là mê tín, mà lại là học lý phá trừ mê tín
rất triệt đễ, lại còn khiến hạng người thứ hai hiểu biết
đạo lý Phật giáo
không phải thiết lập giáo lý thần đạo, lại không phải là loại
thuốc ma túy để trị liệu khi tinh thần thống khổ, mà chính là chân
lý của vũ trụ nhơn sanh, là học thuyết xử thế tiếp vật thực dụng,
cho đến thời đại cơ giới thời đại thực dụng đối với Phật giáo
không dừng ở nơi đây, xin các đọc giả còn nên tìm cầu sâu xa hơn.
Tóm lại ở trên các tiết mục chỗ luận giải đủ chứng tỏ Phật giáo
là lý trí, là bình đẳng, là tự do, là khách quan, là triệt đễ, là
cụ thể, là viên mãn, là tích cực, là nhập thế, là tôn giáo thực
dụng. Nay kính cẩn cho đến thành tâm, chính đã thấy nghe và chỗ đạt
được, điều khoản được liệt kê như trên, kính xin cống hiến nơi đọc
giả, để báo thâm ân, nguyện thấy đó và nghe đó, phát tâm hoan hỷ,
sanh tin tưởng và phát nguyện, nương nơi lời dạy đây tu hành.
Dịch xong ngày 16
tháng 4 năm 2020
Dịch giả: Thích Thắng
Hoan
Chùa Phật Quang
Trung Tâm Phiên Dịch
và Sáng Tác