LỜI MỞ ĐẦU
Thật là bất hạnh, giới trẻ mới lớn lên khi bước chân vào đời qua cánh cửa
gia đình đa số đều thất vọng chua cay, bao nhiêu lý tưởng cuộc đời
đều sụp đổ trôi sông vì họ tự chuốc lấy nhiều khổ đau ngang trái
hơn là gặt hái được những hạnh phúc chân thật mà họ hằng ước mơ.
Phần đông
giới trẻ nhìn cuộc đời thấy toàn là hoa mộng, đầy trăng sao kết
thành bức tranh đời linh hoạt, một bản nhạc sống tuyệt trần. Nhưng chúng
không thấy rằng phía sau cuộc đời hoa mộng kia giăng mắc khắp nẻo
đường trần đầy chông gai cay đắng.
Thật ra
giới trẻ không phải ích kỷ chỉ biết sống theo bản năng dục vọng
riêng tư và họ hết sức chăm sóc người họ thương yêu, nhưng vì khi
lập gia đình bắt đầu sống tự lập không được giáo dục chín chắn về
hôn nhân của những người lớn nhiều kinh nghiệm, không có phương thức
xây dựng hạnh phúc gia đình của các thế hệ trước trao truyền, chỉ đi
trong sự mò mẫm học lóm bên ngoài với tánh cách vá víu hời hợt.
Họ ăn ở bắt chước theo đường lối truyền thông đại chúng miêu tả,
nào sách vở, báo chí..v..v... diễn dịch có tánh cách lý luận triết
học sinh lý mập mờ thiếu kiểm chứng, cho nên không thể áp dụng
được. Cũng vì những lý do trên, tôi cho ra tác phẩm với nhan đề là “Xây Dựng Hạnh Phúc Gia Đình” ngỏ
hầu giúp cho thế hệ trẻ một cẩm nang sống đúng ý nghĩa của một con
người trên lãnh vực hạnh phúc gia đình. Nhan đề “ Xây Dựng Hạnh Phúc Gia Đình” đúng ra gọi cho đủ là “Những Điều Kiện Căn Bản Xây Dựng
Hạnh Phúc Gia Đình Theo Tinh Thần Phật Giáo” mới đúng ý nghĩa của
nội dung trong tác phẩm này muốn trình bày.
Thật là
trớ trêu và buồn cười, tôi là một ông thầy tu, xuất gia vào chùa
lúc lên 8 tuổi và hiện nay, năm 2007 đã đến 80 tuổi rồi, đã hoàn
toàn không biết chút nào về chuyện đời mà lại bàn luận đến “Những Điều Kiện Căn Bản Xây Dựng
Hạnh Phúc Gia Đình Theo Tinh Thần Phật Giáo”. Những điều tôi trình
bày trong tác phẩm này chưa chắc được mọi người tin tưởng mà tin
tưởng sao được khi một người không biết đời là gì lại bàn đến những
chuyện không có chút kinh nghiệm. Đúng ra tôi viết nên tác phẩm này
là nhờ căn cứ theo tinh thần của các Kinh Luận, như các bộ Kinh
Nikàya, phối hợp bốn bộ A Hàm, Kinh Đại Niết Bàn, các bộ Duy Thức
Luận, ..v..v.... trong đó có Kinh Thi Ca La Việt (Singàlaka); ngoài ra
tôi còn căn cứ theo tinh thần Tâm Lý Học, Sinh Lý Học, Xã Hội Học
mà tôi đã học qua trong khi còn là một sinh viên, chẳng những thế
tôi còn góp nhặt những sự kiện của một số gia đình Việt Nam đã xảy
ra ở hải ngoại mà tôi làm cố vấn tinh thần. Căn cứ theo tinh thần
trong các Kinh Luận, nghĩa là tôi đã căn cứ theo những điều mà đức
Phật đã chỉ dạy trong các Kinh Luận về hạnh phúc gia đình viết nên
tác phẩm này mà không phải căn cứ theo những lời chỉ dạy trong bối
cảnh của lịch sử thời đại ngày xưa. Bối cảnh lịch sử của thời đại
ngày xưa không phải là bối cảnh lịch sử của thời đại ngày nay, nhưng
tinh thần của đức Phật chỉ dạy trong các Kinh Luận về hạnh phúc gia
đình thì có giá trị tuyệt đối ở bất cứ thời đại nào, chẳng những
có giá trị từ ngàn xưa mà còn có giá trị mãi cho đến ngàn sau. Mặc
dù tôi không có chút kinh nghiệm nào về hạnh phúc gia đình, nhưng
những điều kiện căn bản mà tôi viết trong tác phẩm này chính là
những nguyên tắc sống để có hạnh phúc mà không cần đòi hỏi phải
có kinh nghiệm mới viết được, vì những điều kiện đó đều đặt trên
nền tảng đời sống tâm thức để xây dựng. Người đời thường bình luận
về hạnh phúc gia đình luôn luôn đặt trên nền tảng vật chất để xây
dựng, nào phải có tiền của nhiều, tài năng giỏi, học vấn cao, sắc đẹp tốt..v..v.... mới có
hạnh phúc. Nhưng thực ra những thứ đó càng lôi cuốn dục vọng càng
phát triển, ham muốn càng nhiều, lòng tham càng đòi hỏi, nếu không
đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của dục vọng thì phiền não càng chồng
chất và như thế đời sống làm sao
có được hạnh phúc chân thật. Đời sống tâm thức có được xây dựng
thì chồng vợ mới có hiểu biết nhau, có thông cảm nhau, mới có chia
xẻ cay đắng ngọt bùi với nhau trên mọi nẻo đường đời chông gai quanh
co khúc khuỷu và được như thế đôi chồng vợ mới gặt hái được hạnh
phúc thực sự.
“Những Điều Kiện Căn Bản Xây Dựng
Hạnh Phúc Gia Đình Theo Tinh Thần
Phật Giáo” mà tôi sáng tác đều được thiết lập trên quy chế Sáu
Pháp Hòa Kính của đức Phật chỉ dạy để làm phương châm cho nếp sống
tập thể của một gia đình. Sáu Pháp Hòa Kính, gọi tắc là Lục Hòa là
quy chế của đức Phật sáng lập dành cho tập thể người xuất gia sống
trong tinh thần hòa hợp, tương kính, tương thuận để cùng nhau tu tập
đạo giác ngộ và giải thoát. Theo tôi, một gia đình cũng là một tập
thể nhỏ, đã sống chung thì nhất định phải có tinh thần hòa hợp, tương
kính, tương thuận mới đồng lòng để tát cạn biển Đông. Tác phẩm này
tuy không phải khuôn vàng thước ngọc nhưng dù sao đi nữa cũng là cẩm
nang cần thiết cho những thế hệ trẻ lúc ban đầu khi bước chân vào
đời khỏi bị vấp ngả đớn đau. Cha mẹ nào muốn dựng vợ gả chồng cho
con cái của mình nên bắt chúng học thuộc lòng cẩm nang này trước khi
tiến tới hôn nhân.
Vấn đề hạnh phúc gia đình, tôi khi còn
ở Học Đường Ấn Quang, trong lớp Trung Đẳng có học qua, nhưng không
chút quan tâm, chỉ chuyên tu học những tư tưởng triết học của Phật
Giáo cho được thông suốt. Lúc đó tôi quan niệm rằng, vấn đề hạnh
phúc gia đình là chuyện của thế gian thường tình, không phải là pháp
môn vô lậu giải thoát, cho nên không thích hợp với những người xuất
gia như tôi để tâm đi sâu vào nó. Đến khi ra nước ngoài, tôi đi
hoằng pháp khắp nơi, nhất là ở nước Mỹ và nước Canada, gặp rất
nhiều Đạo Hữu hỏi tôi trong Phật Giáo có Kinh nào dạy cách xây
dựng hạnh phúc gia đình, cũng như một số thanh niên Phật Tử cũng hỏi
tôi về vấn đề trên. Đó cũng là những lý do thúc đẩy tôi phải
nghiên cứu lại các kinh điển của Phật Giáo và viết thành tác phẩm
này. Nội dung trong tác phẩm này
chưa hẳn không có khuyết điểm, nguyên nhân là vì tác giả hoàn toàn
chưa có kinh nghiệm trên lãnh vực tình yêu, nhưng dù sao cũng là khởi
điểm lúc ban đầu cho những tư tưởng mới đáng giá và thiết thực xuất
hiện qua những ngòi bút đầy kinh nghiệm hơn. Tôi hy vọng sẽ đón nhận
rất nhiều sáng kiến đầy kinh nghiệm và thiết thực của quý đọc giả
bốn phương để bổ xung tác phẩm này cho được hoàn hảo, mong làm sao
cho các thế hệ trẻ bước chân vào đời có một cẩm nang gối đầu quan
yếu cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình.
Cẩn bút
Phật Lịch 2551, năm Mậu Tý, ngày 4 tháng 3 năm
2008
TỊNH
THẤT VIÊN HẠNH
Sa
Môn THÍCH THẮNG HOAN.
XÂY DỰNG HẠNH
PHÚC GIA ĐÌNH
I.- VÀO ĐỀ:
Vấn đề hạnh phúc gia đình là vấn đề trọng đại
trong cuộc sống của con người. Từ xưa đến nay không có người nào
không bôn ba khắp mọi nẻo đường đời để đi tìm hạnh phúc chân thật
cho lẽ sống, nhưng họ hoàn toàn thất bại vì không biết bản chất của
hạnh phúc là như thế nào và phải đi tìm ở đâu. Phần đông họ tưởng
rằng hạnh phúc phát xuất từ bên ngoài và trên lạc thú vật chất.
Cho nên họ thi đua đổ rất nhiều công sức xây dựng hạnh phúc gia đình
trên ngũ dục lạc của thế gian, như xây dựng trên tiền tài, trên sắc
đẹp, trên danh vọng, trên ăn uống, trên ngủ nghỉ, rồi đi vào thực
tế những người đó không có chút nào hạnh phúc cả. Người giàu có
cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo,
người quan quyền có cái khổ của người quan quyền, người thứ dân có
cái khổ của người thứ dân..v..v...., nghĩa là gia đình nào cũng có
thảm cảnh riêng của họ.
Họ không
biết rằng hạnh phúc chân thật đều phát sanh từ nơi tâm linh của mỗi
con người và phải được xây dựng trên tinh thần hòa hợp thân thương. Trong
sự sống chung hằng ngày, bất hòa là một tai họa không gì bằng.
-
Trong
gia đình, vợ chồng không hòa thì gia nghiệp không thành, con cái khổ
sở vì xa cha hoặc xa mẹ.
-
Trong xã hội, xóm làng không hòa thì
sanh
ra rầy
rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau,
- Quốc gia không hòa thì sanh ra giặc giả
loạn
lạc, dân chúng khổ sở,
-
Nhân
loại không hòa thì chiến tranh tiếp
diễn, nhân sanh điêu đứng, suy tàn.
Vì sự bất
hòa vô cùng nguy hiểm cho nếp sống tập thể, thế nên đức Phật mới chế ra Pháp Hòa Kính, Pháp Hòa
Kính gồm có sáu loại, gọi chung là Lục Hòa.
II.- ĐỊNH NGHĨA:
Lục là
sáu, Hòa là hòa kính, nghĩa là hòa thuận và kính nể lẫn nhau. Lục
Hòa là sáu pháp hòa kính, nghĩa là sáu phương pháp cư xử hòa thuận,
tôn trọng và kính nể lẫn nhau trong sự sống chung. Hòa ở đây không
phải nhu nhược mà nhằm mục đích làm lợi lạc cho tất cả, gây hạnh
phúc cho tất cả, trong đó có ta và người.
Muốn xây
dựng hạnh phúc gia đình trên tinh thần Lục Hòa cho được hữu hiệu,
trước hết chúng ta cần phải ý niệm rõ tinh thần duyên sanh của Phật
Giáo.
III.- TINH THẦN
DUYÊN SANH:
Duyên sanh
gọi cho đủ là nhân duyên sanh. Tinh thần duyên sanh, nghĩa là tất cả
pháp trong thế gian đều quan hệ lẫn nhau để sanh tồn, để phát triển, cái
này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sanh
thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt, bác sĩ sống được là
nhờ bệnh nhân hổ trợ và bệnh nhân
sống được là nhờ bác sĩ trị liệu, cho đến cỏ cây sống được là nhờ
con người cung cấp thán khí và con người sống được là nhờ cỏ cây
cung cấp dưỡng khí,..v..v.... Tất cả đều nói lên tinh thần duyên sanh
cả, cho nên nhà thơ có câu:
“ Cây
thường cho ta dưỡng khí để ta sống góp mặt đời, Ta thường cho cây
thán khí để cho cây lá khoe tươi”
(Thắng Hoan Thi Tập)
Trên tinh thần duyên sanh, con người muốn sống có
ý nghĩa để được hạnh phúc chân thật trước hết cần phải ý niệm
những điều cơ bản sau đây: Giá trị gia đình, giá trị nương tựa và giá
trị chức năng.
1. GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH:
Gia đình là
căn bản của gia tộc, của cộng đồng, của xã hội. Sự giá trị này có
hai lãnh vực:
a-Lãnh Vực Gia Tộc:
Lãnh vực gia tộc là căn cứ trên dòng
họ định mức giá trị quan hệ. Gia tộc là bao gồm nhiều đơn vị gia đình
cùng chung một dòng họ. Gia tộc có giá trị là khi nào mỗi gia đình
sống có ý nghĩa, có đạo đức, có hạnh phúc chân thật. Sự quan hệ
giữa gia đình và gia tộc trên hai phương diện: quan hệ vật chất và
quan hệ tâm linh.
1)- Sự Quan Hệ Vật Chất:
Con người
gồm có hai phần: phần vật chất và phần tâm linh. Hai phần này hòa
hợp chặt chẻ tạo thành con người, trong đó phần tâm linh đứng vai
chủ tể trong mọi lãnh vực sinh hoạt đời sống. Riêng về phần vật
chất, con người quan hệ như thế nào với gia đình với gia tộc.
Thân thể người con chính là máu
huyết của cha mẹ trao truyền. Thân
thể cha mẹ chính là máu huyết của ông nội bà nội của ông ngoại bà
ngoại hai họ hòa hợp trao truyền. Thân thể ông nội bà nội cũng
do máu huyết của ông cố bà cố hai họ trao truyền, cứ như thế lần
lên đến cao tằng tổ khảo..v..v.....
Cũng từ ý
nghĩa quan hệ đó, chúng ta ý niệm được rằng, thân thể chúng ta toàn
diện chính là máu huyết của cha mẹ nẩy nở và phát triển, cũng
giống cây đậu xanh toàn diện là do hạt đậu xanh nẩy nở và phát
triển. Không những sự có mặt máu huyết của cha mẹ khắp trong thân
thể chúng ta cả đến sự có mặt máu huyết của dòng họ tông môn
nhiều đời trong thân thể chúng ta. Trong tinh thần duyên sanh của các
pháp, chúng ta là những kẻ có kiến thức đôi chút không thể phủ
nhận ý nghĩa quan hệ này trên lãnh vực vật chất.
2)- Sự
Quan Hệ Tâm Linh:
Con người ngoài sự quan hệ về vật chất còn có
quan hệ về tâm linh. Tâm linh của con người là chúa tể của mọi sự
sống, tâm linh hiện hữu thì con người tồn tại, tâm linh giả biệt thì
con người biến hoại, tâm linh thánh thiện thì cuộc sống của con người
thăng hoa, tâm linh sa đọa thì lôi cuốn con người đi vào vực thẩm đen
tối của cuộc đời. Ý niệm được hạnh phúc an lạc cho lẽ sống cũng do
tâm linh và chuốc lấy những thất vọng chán chường khổ đau của cuộc
đời cũng từ nơi tâm linh.
Sự quan hệ
của tâm linh con người đối với gia tộc như thế nào? Theo tinh thần
duyên sanh, tâm linh của con cháu đối với tâm linh của dòng họ gia
tộc quan hệ đến bảy đời, thường gọi là quan hệ thất tổ. Tâm linh
của tổ tiên gia tộc chính là nguồn tâm linh cung ứng trực tiếp cho
con cháu qua hệ thống tâm linh của cha mẹ. Nguồn tâm linh của tổ tiên
dòng họ quan hệ với dòng tâm linh của con cháu trong mỗi gia đình
cũng tương tợ như nguồn điện lực của nhà máy phát điện quan hệ với
dòng điện các bóng đèn trong mỗi nhà. Nguồn tâm linh của tổ tiên
dòng họ cũng tương tợ như nguồn điện lực của nhà máy phát điện,
dòng điện lực của bình biến thế nơi mỗi khu vực cũng tương tợ như
dòng tâm linh của cha mẹ, đòng điện của mỗi con cháu trong gia đình
cũng tương tợ như dòng điện của mỗi bóng đèn trong nhà. Sự quan hệ
của tâm linh con người đối với gia tộc đúng như câu Tục Ngữ nhân
gian thường nói: “Cây có cội, nước
có nguồn”, nghĩa là cây cối thì phải có gốc rễ mới nẩy mầm sanh
hoa trái, nước phải có cội nguồn thì mới tỏa khắp rạch sông, làm
con người thì ai cũng phải có cha mẹ tổ tiên.
Chúng ta
cắt đứt mọi sự quan hệ tâm linh với cha mẹ dòng họ tổ tiên, chỉ biết
sống riêng tư với khả năng của mình thì không khác nào bóng đèn cắt
đứt mọi sự quan hệ với nguồn điện lực của nhà đèn, chỉ quan hệ với
bình điện nho nhỏ (Battery) của riêng nó. Với hiện tượng này, dòng
tâm linh cá nhân của mỗi con người tự nó không đủ sức đương đầu
với cuộc đời quá nhiều cạm bẩy khổ đau đen tối dồn dập đưa đến,
cũng như dòng điện của bóng đèn với bình điện nho nhỏ (Battery) không
đủ soi sáng một ngôi nhà quá cao rộng.
Sự quan hệ
về mặt tâm linh vừa trình bày trên cho chúng ta một ý niệm cụ thể
rằng giữa chúng ta và cha mẹ tổ tiên ông bà có mối tương quan tình
cảm một cách chặt chẽ không thể phân ly. Để tránh những sự bất
hạnh sau này sẽ xảy ra cho đời sống của mình, chúng ta không nên cắt
đứt mọi sự quan hệ về mặt tâm linh với cha mẹ tổ tiên ông bà bằng
những cung cách bất kính, những cử chỉ thiếu lễ độ mà còn phải nuôi
dưỡng mối tương quan tình cảm nói trên qua sự kính trọng, thương yêu,
quý mến và thường xuyên quan tâm đến đời sống, đến tình cảm của họ
mà họ đã đặt hết niềm tin vào mình. Chúng ta nếu như cắt đứt mọi
sự quan hệ tình cảm với cha mẹ tổ tiên ông bà thì vô tình khiến tâm linh của chúng ta bị
tổn thương bị đau khổ vì đứa con bất hiếu. Chúng ta giả như có thái
độ bất hiếu với đấng sanh thành là nguyên nhân, rồi sau này con
cháu của chúng ta sẽ có thái độ bất hiếu với chúng ta và sẽ làm
cho chúng ta đau khổ cũng như chúng ta đã từng làm cho họ đau khổ.
Chúng ta có thể trốn khỏi luật pháp thế gian, nhưng không thể trốn
khỏi luật pháp nhân quả nghiệp báo.
b- Lãnh Vực
Cộng Đồng và Xã Hội:
Sự quan hệ giữa con người, giữa gia đình với cộng
đồng với xã hội như thế nào? Trước hết chúng ta nhận xét tổng quát
sự quan hệ giữa con người và cộng đồng:
1)- Sự Quan Hệ Với Cộng Đồng:
Cộng đồng
nghĩa là những người sinh hoạt chung một nghề nghiệp, chung một tư
tưởng, chung một quan niệm. Cộng đồng bao gồm có các tôn giáo, các
đoàn thể, các nghiệp đoàn,..v..v..... Sự quan hệ giữa con người với
các tôn giáo, các đoàn thể, các xí nghiệp được nhận định như sau:
+ Một tôn
giáo được xã hội tôn kính và quy ngưỡng là do mỗi cá nhân của
những tín đồ nơi tôn giáo đó thể hiện được đạo đức qua lời nói, qua
hành động, qua tư tưởng và họ biết hòa hợp lẫn nhau trong cùng một
nếp sống đạo đức mà chính họ đã chọn tôn giáo đó làm lý tưởng.
Ngược lại tôn giáo đó mất giá trị với xã hội, mất niềm tin với mọi
người là do những tín đồ của tôn giáo đó không biểu tượng được tư
cách đạo đức để làm gương mẫu cho chúng sanh quy ngưỡng. Tư cách
không tốt của một số tín đồ gây ảnh hưởng không nhỏ đến với tôn
giáo của họ nương tựa đúng như câu tục ngữ nhân gian thường nói: “Con sâu làm sầu nồi canh”.
+ Một đoàn
thể được mọi người kính yêu và nương tựa là do mỗi thành viên của
đoàn thể đó biết sống chân thật, biết liên kết chặt chẽ với nhau,
biết thể hiện được tinh thần đạo đức tập thể.
+ Một
nghiệp đoàn được phát triển lớn mạnh điều quan trọng không nhỏ là do
giữa người lãnh đạo và các đoàn viên biết hòa hợp chặt chẻ, biết
thiện chí trong nghĩa vụ, biết chia
xẻ và thông cảm trong trách nhiệm.
2)- Sự Quan Hệ Với Xã Hội:
Một xã hội có rất nhiều cộng đồng
hiện hữu, trong đó bao gồm tất cả đơn vị gia đình, gia tộc, đoàn thể,
nghiệp đoàn, tôn giáo,..v..v....cùng nhau góp mặt. Một xã hội muốn
được hòa bình an lạc thật sự, muốn đời sống văn minh tiến bộ cả hai
mặt vật chất và tinh thần, tất cả thành phần đơn vị trong những cộng
đồng, bao gồm có cá nhân của mỗi người biết hòa hợp thân thương,
biết đoàn kết chặt chẽ, biết dấn thân hợp tác đóng góp hết mình
trong mọi lãnh vực văn hóa, đạo đức, kinh tế, an ninh,..v..v.... Trái lại, trong một xã hội, có vài đơn
vị mâu thuẩn, có vài cá nhân bất chánh sẽ tạo nên tình trạng bất
an và viễn ảnh đưa xã hội vào con đường bi đát, tràn ngập khổ đau
cho đời sống của mọi người.
Những dữ
kiện đã trình bày tổng quát ở trên cũng đủ nói lên được sự quan
hệ như thế nào giữa con người với gia đình, với gia tộc, với cộng
đồng và với xã hội. Tất cả sự quan hệ này là tất yếu của con
người sinh tồn và không ngoài nguyên lý duyên sanh của Phật Giáo.
Những người sống trong một gia đình hay trong một xã hội không thể
thoát ly khỏi mọi sự quan hệ nói trên, nhất là sự quan hệ về mặt
tâm linh, nguyên vì con người sở dĩ ý niệm được hạnh phúc chính là nhờ
ở nơi tâm linh. Giờ đây chúng ta đã khái niệm được giá trị trọng
đại của lẽ sống qua sự quan hệ như thế nào giữa con người với gia
đnh, với gia tộc, với cộng đồng, với xã hội thì cần phải tiến thêm
một bước nữa là phải ý niệm được sự nương tựa.
2. GIÁ
TRỊ NƯƠNG TỰA:
Theo
tinh thần duyên sanh, vấn đề nương tựa là vấn đề quan yếu không chỉ
riêng của con người mà còn chung của tất cả chúng sanh trong vũ trụ.
Tất cả chúng sanh trong vũ trụ nếu như không có chỗ nương tựa thì
không thể nẩy nở và phát triển; Chỗ nương tựa của cây cối là đất
đai, nếu đất đai có phì nhiêu thì cây cối mới nẩy nở tốt tươi.....
và ngược lại đất đai thiếu dinh dưỡng thì cây cối trở nên cằn cỗi
yếu ớt. Chỗ nương tựa của con người là cha mẹ và dòng họ, cha mẹ
và dòng họ có phước đức thì con cháu được hiển vinh, cha mẹ và dòng
họ thiếu phước đức thì con cháu sống bất hạnh và khổ đau. Con người
muốn sống có ý nghĩa, muốn được an lạc, muốn được hạnh phúc thì
phải ý niệm được giá trị của sự nương tựa. Đời sống con người có 3
giai đoạn nương tựa: Giai đoạn ấu thơ, giai đoạn trưởng thành và giai
đoạn tuổi già.
a)- Giai Đoạn Ấu Thơ:
Giai đoạn
ấu thơ theo quan niệm phổ thông, nhất là ở Việt Nam ước lượng vào
khoảng con người mới sanh ra cho đến 20 tuổi, có chỗ cho rằng khoảng
30 tuổi (gọi là tam thập nhi lập: nghĩa là con người lớn lên đến 30
tuổi thì mới đứng vững với đời). Trong giai đoạn này, con người có
hai nơi nương tựa cho lẽ sống, để lớn lên, để mở mang kiến thức:
nương tựa nơi cha mẹ và nương tựa nơi thầy tổ.
1)- Nương Tựa Nơi Cha Mẹ:
Cha mẹ nếu
không ước mơ thì không cho chúng ta ra đời, cha mẹ nếu không mến
thương thì không cho chúng ta no cơm ấm áo, cha mẹ nếu không hy sinh hạnh
phúc riêng tư thì không cho chúng ta ăn học để thành danh với đời. Sự
có mặt của chúng ta trong cõi đời này chính là sự hy sinh của cha mẹ
quá nhiều cả thể xác và tâm hồn cho con cái của mình. Thế nên đối
với ân nghĩa sanh thành của cha mẹ,
phận làm con phải ghi sâu đậm nét vào tâm khảm để luôn luôn tưởng
niệm tri ân và báo ân, nhất là về mặt tâm linh chúng ta đừng có
thái độ phũ phàng đối với đấng sanh thành vô tình làm tổn thương nơi
lương tâm của cha mẹ đã chịu nhiều cay đắng và đau khổ suốt cả cuộc
đời.
2)- Nương
Tựa Nơi Thầy Tổ:
Cha mẹ chỉ
sanh ra thân xác cho chúng ta, nhưng không thể sanh ra trí thông minh cho
chúng ta. Chúng ta muốn có trí thông minh để sống với đời thì phải
nhờ thầy tổ chỉ dạy. Thầy tổ là những ân nhân không thua cha mẹ,
người đã tạo dựng trí khôn cho chúng ta có kinh nghiệm sống để bước
chân vào đời khỏi bị vấp ngả. Chúng ta ngày nay được hảnh diện là
một đơn vị quan trọng đáng quý trong một xã hội văn minh tiến bộ với
trình độ kiến thức sâu rộng chính là nhờ thầy tổ trao truyền sự kinh
nghiệm lâu đời của họ. Giá trị tinh thần này chúng ta cũng phải ghi
sâu vào tâm khảm để luôn luôn tưởng niệm ân nghĩa giáo dưỡng của thầy tổ cũng giống như tưởng niệm
ân nghĩa sanh thành của cha mẹ. Ý niệm giá trị sự quan hệ này cũng
là vấn đề trọng yếu trong sự bồi dưỡng tâm linh.
b)- Giai Đoạn Trưởng Thành:
Giai đoạn trưởng thành ước lượng vào khoảng 20
tuổi đến 60 tuổi. Ở giai đoạn này, con người đúng ra đủ tư cách dấn
thân vào đời và đủ trí khôn bước chân vào xã hội. Khi bước chân
vào xã hội để vươn mình lên, con người cũng cần phải có chỗ nương
tựa. Chỗ nương tựa của con người là gia đình và tôn giáo.
Gia đình là
chỗ nương tựa cho đời sống con người và tôn giáo là chỗ nương tựa cho
tâm linh của con người. Gia đình là đơn vị truyền thừa của gia tộc là
nơi phát huy sự hiển vinh cho dòng họ muôn đời với tổ tiên. Gia đình
là một xã hội nhỏ trong cộng đồng, bao gồm có chồng vợ con cái.
Chồng vợ phải ý niệm được rằng là bạn đời cần thiết không thể
thiếu để chia xẻ với nhau những cay đắng ngọt bùi trong mọi nẻo
đường thăng trầm vinh nhục và cùng nhau xây dựng hạnh phúc an lạc
thật sự cho đời sống. Tôn giáo là miếng ruộng phước để cho tâm hồn
con người phát triển đạo đức làm người. Con người khi thân bệnh thì
phải nhờ bác sĩ trị liệu và con người khi tâm bệnh thì phải nhờ tôn
giáo trị liệu, Bác sĩ trị liệu thân bệnh bằng y dược và tôn giáo trị
liệu tâm bệnh bằng pháp dược. Cho nên con người muốn được lành mạnh
thì phải cần đến bác sĩ và muốn được đạo đức nẩy nở hạnh phúc thì
phải cần đến tôn giáo. Chúng ta là người muốn sống có giá trị thì phải
ý niệm rõ điều đó.
Có người
quan niệm rằng họ không cần phải lập gia đình cho thêm khổ, chỉ nương
tựa bạn bè là đủ sống an lạc rồi. Họ không hiểu rằng bạn bè chỉ
giúp nhau trong giai đoạn ngắn, nhưng không hy sinh cho nhau đến đầu bạc
răng long. Hơn nữa bạn bè chỉ giúp nhau có tánh cách tạm bợ trong
phạm vi giới hạn về đời sống vật chất nhưng không chia xẻ với nhau
trên lãnh vực tâm linh, đúng với câu tục ngữ như sau: “Giúp lời giúp đủa, không ai giúp của giúp cơm”; chỉ có chồng
vợ mới giúp của giúp cơm và giúp suốt cả cuộc đời.
Tóm lại,
chúng ta phải lập gia đình làm chỗ nương tựa vững chắc cho đời sống
cũng như cho tâm linh để có hạnh phúc an lạc thật sự. Chúng ta nếu
như không lập gia đình sẽ buông thả theo dòng đời trụy lạc xa hoa
không định hướng, sẽ làm đau khổ cho mình khi tuổi về chiều, sẽ ô
nhiễm tâm linh đen tối khi mình bước chân vào thế giới bên kia mờ mịt.
Chúng ta nếu như không lập gia đình mà muốn cuộc sống thăng tiến thì
phải xuất gia tu hành. Người xuất gia tu hành cũng phải nương tựa nơi
Tăng Đoàn để tiến lên trên con đường giác ngộ và giải thoát khổ
đau sanh tử. Nói cho cùng, con người muốn nếp sống có ý nghĩa phải
tạo dựng cho mình một chỗ nương tựa vững chắc.
c)- Giai Đoạn Tuổi Già:
Giai đoạn tuổi
già là giai đoạn kể từ 60 tuổi cho đến chấm dứt hơi thở cuối cùng
của một sanh mạng. Đa số những người già cả, tâm trạng của họ
không nhiều thì ít thường mang bệnh hay lo xa. Sự lo xa của họ tương
đối gồm có:
*)- Tứ đại
nơi thân thể của họ thường hay bất
hòa,
gây tạo cho họ nay đau mai yếu.
*)- Những
ước mơ của họ chưa hoàn tất mà
sức
khỏe của họ không cho phép tiếp tục
gánh
vác trách nhiệm.
*)- Họ băn
khoăn không biết sau khi họ chết,
con
cháu của họ có thương yêu chia xẻ và
đùm
bọc với nhau hay không.
*)- Họ
không biết sau khi họ chết con cháu
của
họ có đủ sức đương đầu với cuộc đời
hay
không.
*)- Họ tự
cảm thấy buồn tủi khi họ không còn
là
cây đại thọ che mát cho con cháu trong
cuộc
đời.
*)- Tuổi họ càng già thêm thì tình
cảm của
họ
càng lớn mạnh theo tỷ lệ nghịch, cho
nên
họ cảm thấy sẽ bị cô đơn rồi đây phải
xa lìa
con cháu khi họ bước qua bên kia
cửa
tử.
*)- Họ
càng lo lắng khi họ chết, không biết
con
cháu có làm tròn bổn phận giúp đỡ
họ
những hành trang cần thiết đi vào thế
giới
bên kia hay không.
*)- Nhất
là họ càng băn khoăn cho nẻo trước
của
họ quá mờ mịt, nghĩa là họ hoàn toàn
không
biết sau khi chết họ sẽ đi về đâu.
Đây là
tâm trạng băn khoăn lo lắng tổng quát của người già. Tâm trạng băn
khoăn lo lắng của họ có khi quá cực độ khiến cho họ trở nên quẩn
trí, thường hay bộc lộ thái độ buồn phiền, gắt gỏng, bực dọc và
cũng có người trở nên tình trạng tâm hồn bảng lảng. Những người con
biết quý trọng đấng ân nghĩa sanh thành thì cần phải thể hiện chỗ
nương tựa xứng đáng cho tâm hồn của cha mẹ trong khoảng đời còn lại,
nghĩa là phải luôn luôn quan tâm đến tình trạng khủng hoảng của họ,
thường xuyên chia xẻ, an ủi và tìm mọi cách giúp họ được an tâm cho
đến khi trút hơi thở cuối cùng. Người nào làm tròn nghĩa vụ nói
trên chính là kẻ ý niệm được giá trị của sự quan hệ sanh tồn nơi
cuộc đời.
3.
GIÁ TRỊ CHỨC NĂNG:
a). Định Nghĩa:
Chức năng là bổn phận, ý niệm
chức năng nghĩa là ý niệm bổn phận. Chức năng của con người là
sống phải có tình nghĩa. Tình nghĩa chính là tình cảm và ân nghĩa.
1)-
Tình Cảm:
nghĩa là tình thương yêu, biết chia xẻ buồn vui cho nhau. Tình cảm không
phải là tình ái. Tình ái chính là tình yêu xác thịt, chỉ làm thỏa mãn
cho thể xác đòi hỏi mà không có chút tình cảm ở trong. Tình yêu xác
thịt thì dễ bị chán chê, bị quên lãng,
nguyên vì theo Tâm Lý Học ăn mãi một món ăn thì dễ bị ngán
ngẩm và thích muốn thay đổi món ăn mới cho ngon miệng hơn. Tình cảm
đặt trên nền tảng nội tâm chỉ đạo thì tạo cho nhau sự cảm thông và đưa
đến tình yêu lý tưởng. Đôi chồng vợ biết sống trên tình yêu lý
tưởng là đôi chồng vợ đạt được hạnh phúc trọn vẹn đến đầu bạc
răng long.
2)-
Ân Nghĩa: là bổn phận tri ân và báo ân. Con người có ân
nghĩa là con người biết sống chung và có trách nhiệm với nhau trong
mọi hoàn cảnh, biết gánh vác nghĩa vụ của mình trong gia đình , biết cùng
nhau chia xẻ mọi sự thăng trầm vinh nhục của cuộc đời và biết ân
đền nghĩa trả xứng đáng với những người đồng lao cộng khổ đang góp
phần không nhỏ tạo dựng cho mình có một địa vị xứng đáng của một con
người trong xã hội tiến bộ.
b). Ý Niệm:
Tình Nghĩa chỉ cho chức năng của con
người đối với con người trong đó bao gồm cả tình cảm và ân nghĩa.
Tình nghĩa của một con người chia làm ba lãnh vực: lãnh vực cha mẹ con
cháu, lãnh vực chồng vợ, lãnh vực thầy trò.
1)-
Lãnh Vực Cha Mẹ Con Cháu:
Tình nghĩa cha mẹ con cháu, nghĩa là giữa
cha mẹ và con cháu phải sống có tình có nghĩa với nhau. Con người
phải ý niệm được rằng: cây phải có cội nước phải có nguồn, làm
con người ai cũng phải có cha mẹ. Chúng ta đã có cha mẹ thì phải ý
niệm được giá trị sự quan hệ tình nghĩa giữa cha mẹ và con cháu, đồng
thời nên dạy dỗ con cháu của mình cũng phải ghi tâm khắc cốt giá
trị tinh thần tình nghĩa đối với cha mẹ nói trên.
2)- Lãnh
Vực Chồng Vợ:
Chồng và vợ mỗi người là một đơn vị trọng yếu
không thể thiếu trong một gia đình và nếu như mất đi một người thì gia
đình đó mất đi ý nghĩa trong cuộc sống lứa đôi trên con đường xây
dựng hạnh phúc bền lâu. Sự quan
hệ gắn bó chặt chẽ trong cuộc sống lứa đôi nơi một gia đình, giữa
chồng và vợ, mỗi người phải xem mình như một phần thân thể về đời
sống của người kia và mất họ mình cảm thấy dường như mất đi định
hướng trên hành trình xây dựng hạnh phúc chung, cũng như mất đi trách
nhiện nối dõi tông đường trên con đường tiến bộ mà đôi chồng vợ
đã tuyên thệ trước bàn thờ tổ tiên khi mới lập gia đình. Sự tương
quan sanh tồn của một gia đình sẽ được trình bày ở sau. Trong tinh thần
duyên sanh, con người ý niệm được giá trị tương quan sanh tồn giữa
chồng và vợ của một gia đình thì mới có thể xây dựng được hạnh
phúc chân thật.
3)- Lãnh
Vực Thầy Trò:
Chúng ta đã ý niệm được giá trị sự quan hệ giữa
thầy trò như đã trình bày ở trước với nhan đề “Nương Tựa Thầy Tổ” thì
phải sống có tình nghĩa với nhau. Chúng ta làm tròn nghĩa vụ này đối với
thầy tổ chứng tỏ rằng về phương diện tâm linh đã bồi dưỡng được
một phần nào đạo đức của con người để làm hành trang cho sự xây
dựng nếp sống an lạc.
Những dữ
kiện đã trình bày tổng quát ở trên cũng đủ nói lên được tánh
chất, giá trị và ý nghĩa sự quan hệ tinh thần duyên sanh của một con
người. Một con người sống trong trời đất nhất định không thể thoát ly
khỏi sự ràng buộc của quan hệ này. Một con người sống chẳng những
quan hệ với gia đình, mà còn quan hệ với gia tộc, với cộng đồng, với
xã hội, chẳng những quan hệ với chồng vợ, mà còn quan hệ với cha
mẹ con cháu, quan hệ với thầy trò.
Chúng ta đã ý niệm được sự quan hệ giữa con người với gia
đình, với gia tộc, với cộng đồng, với xã hội là trọng đại thì mỗi người
trong gia đình muốn đem lại lợi ích cho nhau cần phải có chức năng,
nghĩa là phải biết sống có tình nghĩa với nhau.
IV.- XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA
ĐÌNH
TRÊN TINH THẦN LỤC HÒA:
Sự quan hệ
của tinh thần duyên sanh đối với sự sống còn của một con người đã
được giới thiệu qua, giờ đây chúng ta bước sang lãnh vực xây dựng
hạnh phúc gia đình trên tinh thần Lục Hòa của Phật Giáo. Lục Hòa là
sáu pháp hòa kính, nghĩa là sáu nguyên tắc sống của một tập thể để
được thanh tịnh và an lạc. Theo Phật Giáo, chữ Hòa nghĩa là hòa hợp
như keo sơn và hòa không có ranh giới giống như sửa hòa trong nước.
Đây là chỉ cho sự hòa hợp của tâm linh con người. Con người với con
người sống chung phải hòa hợp tâm linh thì mới có thể hạnh phúc an
lạc. Đất, nước, gió, lửa là bốn loại mâu thuẩn chống trái với nhau
như mặt trời mặt trăng mà còn biết hòa hợp để cùng nhau xây dựng
nên thân thể con người thì tại sao tâm linh của hai người không biết
hòa hợp để cùng xây dựng hạnh phúc chung cho nhau. Gia đình là một
tập thể nhỏ, mỗi người trong gia đình sống chung muốn nắm lấy được
hạnh phúc thật sự thì cần phải nương theo tinh thần Lục Hòa để cùng
nhau xây dựng. Lục Hòa nghĩa là sáu phương pháp hòa kính và sáu
phương pháp này gồm có: thân hòa cùng chung ở, miệng hòa không tranh
cải, ý hòa cùng hoan hỉ, giới hòa cùng tu tập, kiến hòa cùng giải
bày, lợi hòa cùng chia xẻ. Ý nghĩa sáu phương pháp hòa kính được giải
thích như sau:
1. THÂN HÒA CÙNG CHUNG Ở
(Thân Hòa Đồng
Trụ)
Thân hòa
cùng chung ở nghĩa là cùng nhau sống chung trong một gia đình thì phải
hòa hợp, phải chung lưng đâu cật, đùm bộc lẫn nhau, không nên dùng
bạo lực lấn áp nhau. Muốn được như thế, trong một gia đình, chồng vợ,
con cái, cha mẹ, anh em sống chung phải có những luật lệ như sau:
A)- Đối Với Gia Đình:
1)- Thánh Thiện
Hóa Giá Trị Lập Gia
Đình:
Thánh thiện hóa giá trị lập gia đình, nghĩa là
lập gia đình nhằm xây dựng tình yêu lý tưởng. Tình yêu lý tưởng không phải là tình yêu thể xác chỉ
biết thỏa mãn dục vọng. Tình yêu lý tưởng ở đây là tình yêu có ý
nghĩa cao cả. Xây dựng tình yêu
lý tưởng có hai mục đích: truyền thừa sự nghiệp gia bảo của tổ tiên
dòng họ và thể hiện đạo đức của gia tộc.
a)- Truyền thừa sự nghiệp gia
bảo của tổ tiên dòng họ, nghĩa là phải có con cái để nối dõi tông
đường, đừng để dòng họ phải bị tuyệt tự và làm thế nào dòng họ
của mình càng ngày càng chặt chẽ lớn mạnh qua gia đình mình và con
cháu của mình. Muốn có con cái nối dõi tông đường, đôi chồng vợ phải
áp dụng những nguyên tắc sau đây:
1- Chồng vợ
phải biết tiết dục, nghĩa là tiết chế ái dục. Tiết chế ái dục là
hạn chế ái dục, nghĩa là tình yêu nam nữ phải có chừng mực, đừng
xài phí bừa bãi theo dục vọng của mình. Đức Phật chỉ dạy: người xuất
gia sống phải diệt dục và người Phật tử tại gia sống phải tiết
dục. Chồng vợ tiết dục nhằm mục đích giúp cho máu huyết của hai
người đầy đủ chất lượng tốt để sanh ra đứa con được lành mạnh toàn
diện. Hạt giống lúa nuôi dưỡng không đủ chất lượng và gặp phải
phân đất không được tốt,..v.. v.... thì cây lúa sanh ra không được
lành mạnh. Súc vật còn biết ái dục có mùa thì con người cần phải
biết tiết chế ái dục đúng lúc để sanh con. Đôi chồng vợ nên luôn
luôn tâm niệm với nhau rằng: chúng mình lập gia đình nhằm mục đích
sanh con để nối dõi tông đường mà không phải để thỏa mãn sinh lý.
2- Người
vợ khi có thai trong bụng, theo tinh thần Kinh Đại Niết Bàn phải giữ
gìn bào thai trong tư thế an lạc thanh tịnh cho đến khi sanh ra đứa con. Muốn giữ gìn bào thai trong tư thế an lạc thanh
tịnh, người vợ phải áp dụng triệt để những điều kiện sau đây:
*)- Không
được gần gủi với người chồng trong lúc mang thai. Đôi chồng vợ gần
gủi nhau trong lúc mang thai vô tình hai ông bà trút vào tâm của đứa
bé trong bào thai tràn ngập nghiệp ái dục và khiến cho nó sau này
lớn lên không thể kềm chế nỗi bệnh ái dục kích thích.
*)- Không
được ghen tương phiền não..v..v.... khiến cho đứa con trong bào thai
bị ô nhiễm bởi chất độc ngu si đần
độn từ nơi cha mẹ và còn làm cho nó trong bào thai bị đau đớn bởi
các cơ năng của người mẹ cọ sát vào khi ghen tương phiền não.
*)- Không
được đi đứng hấp tấp, không được tâm trạng băn khoăn lo lắng khiến
cho bào thai bị kinh động bất an làm trở ngại không tốt cho Tâm Thức
A Lại Da đang xây dựng hệ thống thần kinh của đứa bé trong bào thai.
*)- Ăn
uống những món ăn khinh nhẹ, không có những chất độc hại để xây
dựng thân thể đứa con lành mạnh tráng kiện. Thí dụ khi có thai,
người mẹ ăn uống toàn những chất phong, như ăn tôm cua..v..v... tạo
cho thân thể đứa con mang bệnh dị ứng,..v..v....
3- Người vợ khi có thai muốn con mình sanh ra được
tướng hảo tốt đẹp, theo tinh thần Duy Thức Học, nên đi thỉnh tượng
Phật thật đẹp đem về thờ trong nhà của mình, mỗi tối thành tâm cầu
nguyện quán tưởng hình tượng đức Phật đó thì sẽ được toại nguyện.
Nguyên vì tâm của chúng ta như cái máy chụp ảnh, chúng ta thấy người
nào thì hình ảnh (form) người đó đã vào tâm của chúng ta, chúng ta
yêu mến người nào thì hình ảnh (form) người đó từ trong tâm của
chúng ta xuất hiện ra. Khi người mẹ có thai, Tâm Thức A Lại Da trong
bụng người mẹ liền chọn sẳn hình ảnh đã có trong tâm người mẹ để
làm kiểu mẫu cho việc xây dựng đứa con ra đời, trong lúc đó người
mẹ nếu như nhớ hình ảnh của người nào khác nữa thì Tâm Thức A Lại
Da lại tiếp tục lấy hình ảnh vừa
mới nhớ của người mẹ đem ráp vào với hình ảnh kiểu mẫu đã chọn
liền sửa đổi canh tân (Modified) lại cho thích hợp để xây dựng thành
hình đứa con trong bụng theo ý người mẹ muốn trong lúc đó. Cũng từ
giá trị này, người mẹ muốn đứa con mình sanh ra cho đẹp, liền mua
những hình ảnh đẹp đem về nhà cầu nguyện.
4- Mỗi gia
đình phải có gia phả để biết người nào là bà con gần xa của mình và
phải tạo niềm thân thương gắn bó với nhau trong bà con dòng họ bằng
cách giải thích cho con cháu được biết những thành tích tốt đẹp của
bà con dòng họ để chúng nó học hỏi.
b)- Gia đình sống phải hiễn vinh
dòng họ muôn đời với tổ tiên, nghĩa là mỗi người trong gia đình sống
phải thể hiện được đạo đức của gia tộc. Đạo đức là giá trị tinh
thần của con người đúng như câu tục ngữ thường nói: “ Hoa thơm nhờ
nhụy, người có giá trị nhờ đạo đức”. Đạo đức không phải có từ nơi
tài năng, tiền của, danh vọng, mà nó có từ nơi tâm linh qua nếp
sống, qua phong cách, qua ngôn ngữ, qua thái độ tư tưởng của mỗi
người. Gia đình chúng ta sống bằng cách nào để cho mọi người nhìn đến
đều quý mến và cũng làm bằng cách nào để cho mọi người khi thấy
cha mẹ mình, dòng họ mình đều kính trọng. Chúng ta thể hiện tối thiểu
được một trong hai điều kiện nói trên cũng là biết sống tình yêu lý
tưởng, nghĩa là biết thánh thiện hóa giá trị lập gia đình.
c)- Nguyên tắc thiết lập một
gia đình lý tưởng của đôi trai gái mà ông bà chúng ta đã chỉ dạy qua
hai câu ca dao như sau:
“Trai
khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa đám ba quân”.
+ Chợ
Đông: có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa ở đây là chỉ cho chỗ hội chợ đông
người. Các cô gái thường tập trung nơi chỗ đông người như hội chợ,..
v..v..... thì những đặc tính của mỗi cô biểu lộ rõ nét hoặc tốt
hoặc xấu khi trao đổi qua lại với nhau.
+ Ba Quân:
nghĩa đen là chỉ cho ba đội quân lính: Đội quân trung ương, gọi là Trung
Quân, Đội quân bên tả gọi là Tả Quân và Đội quân bên hữu gọi là
Hữu Quân, mỗi đội quân gồm có 12.000 quân lính. Ba quân nói chung là
toàn thể quân đội, nhưng ở đây là ám chỉ cho chỗ tập trung tất cả
thanh niên trai tráng. Các thanh niên có dịp tập trung vào chỗ đám
đông thì tánh tình của mỗi chàng trai đều bộc lộ rõ nét hoặc tốt
hoặc xấu khi trao đổi qua lại với nhau.
+ Các thanh
niên nam nữ muốn chọn ý trung nhân thì nên đến chỗ đông người đó
để quan sát tìm hiểu. Nguyên tắc để chọn ý trung nhân làm bạn đời
thì đừng đòi hỏi đối phương hoàn toàn tốt trăm phần trăm điều đó
khó thành công, chỉ cần nơi họ có những đặc tính tương đồng với mình ước lượng khoảng sáu chục phần
trăm là đủ tiêu chuẩn và phần còn lại khi nào sống chung với nhau
mới huấn luyện sau, giống như câu ca dao đã chỉ cách huấn luyện:
“Dạy con dạy thuở còn thơ, Dạy vợ
(chồng)
dạy
thuở ban sơ mới về”.
Những điều
trình bày trên là những nguyên tắc căn bản tương đối để chọn những
người yêu và xây dựng tình yêu lý tưởng. Những ai thực hiện đúng
những điều căn bản này chính là người đó biết cách thánh thiện hóa
giá trị lập gia đình.
2)- Tôn Trọng Và Kính Nể Lẫn Nhau:
Con người đối xử với nhau có kính nể mới có tôn
trọng và con người muốn được kính nể thì người đó phải thể hiện
trọn vẹn phong cách đạo đức tốt của một con người, như lịch sự,
khiêm cung, lễ độ, linh hoạt,..v..v..... bao nhiêu đó cũng đủ tư cách
biểu tượng cho họ kính nể và từ kính nể đó đi đến tôn trọng. Nhưng
trên thực tế, theo Phật Giáo, con người là kết tinh của tất cả
nghiệp báo của kiếp trước và hiện đang bị tất cả phiền não, như
tham, sân si,..v..v..... đang lên ngôi chỉ đạo cho lẽ sống, nghĩa là ai
cũng có những tật xấu đang tiềm ẩn trong tâm thức của họ. Khi chưa
sống chung, những tật xấu của mỗi người thường tìm ẩn bên trong nội
tâm để chờ cơ hội lên ngôi và khi hai người sống chung với nhau thì
những tật xấu của mỗi người hội đủ điều kiện lên ngôi để tạo sự
mâu thuẩn trong cuộc sống tập thể. Những bạn trai bạn gái khi chưa
lập gia đình thường hay lý tưởng người yêu của mình có những cá tính
thuần lương, nhưng khi sống chung với nhau những lý tưởng đó đều sụp
đổ và cả hai bên đều hoàn toàn thất vọng. Vì hoàn toàn thất vọng,
họ tỏ ra bất kính với nhau và cũng từ đó họ có những thái độ
không tôn trọng danh dự cho nhau.
Nên biết
rằng trong một gia đình, chồng và vợ ai cũng có tự ái cá nhân, đã
sống chung với nhau đừng chà đạp danh dự của nhau trước con cháu,
trước bạn bè, trước quần chúng đông người, nghĩa là đừng cho con
cháu hoặc bạn bè biết những tật xấu của chồng mình hay của vợ
mìnhï, đừng đánh đập cấu xé lẫn nhau, đừng nói những lời thô tục,
chửi mắng nguyền rủa, bêu xấu cho nhau, cho đến đừng hổn láo đem cả
dòng họ cấp trên ra lăng mạ cho thỏa mãn nư giận cá nhân.
Đã sống
chung với nhau, chồng và vợ phải biết kính nể và tôn trọng danh dự
cho nhau bằng cách thông cảm và che chở cho nhau, đừng có thái độ đưa
người yêu mình vào đường cùng, theo tâm lý có một ngày họ sẽ phản
ứng lại rất mạnh làm nguy hại đến hạnh phúc lứa đôi, đúng như câu
tục ngữ thường nói: “Nhân cùng tắc biến, vật cùng tắc
phản”, nghĩa là đưa người vào đường cùng thì họ trở mặt biến
đổi, đưa con vật vào đường cùng thì con vật đó trở lại phản mình.
Đây là nguyên tắc thứ hai mà mỗi người sống chung trong một gia đình
cần phải giác ngộ để cùng tạo dựng nền tảng hạnh phúc gia đình.
3)- Xây Dựng Đức Tin Cho Nhau:
Đôi chồng
vợ mới cưới, hai người chỉ có niềm tin với nhau mà họ chưa có đức
tin chân thật khi đôi bên thực sự sống chung. Đôi bên chỉ có niềm
tin với nhau trên lời nói và hành động, nhưng trên tư tưởng chưa được
dung thông thực sự. Giữa hai người, niềm tin của họ còn chút nghi kỵ
ở trong tâm, nghĩa là hai người luôn luôn theo dõi những hành động
của nhau, điển hình như một người nào đó khi có việc phải đi ra ngoài
một mình thì thường bị người ở nhà gọi điện thoại theo dõi, điều đó
chứng tỏ họ còn chút nghi kỵ, thiếu sự tin tưởng lẫn nhau. Hai chồng
vợ sở dĩ thiếu sự tin tưởng lẫn nhau là do lúc sơ giao hai bên đều
dấu kín những tật xấu của mình không cho đối phương biết được và chỉ
đem những tánh tốt để trau đổi tâm tình. Khi sống chung với nhau,
những tật xấu của hai người bắt đầu xuất hiện tạo nên sự mâu
thuẩn bất ổn trong gia đình, từ đó hai bên trở nên nghi kỵ lẫn nhau
trong sự sống chung.
Muốn xóa
bỏ những tâm trạng nghi kỵ của hai người, đôi chồng vợ trước hết
phải áp dụng những nguyên tắc căn bản sau đây để xây dựng đức tin
chân chánh:
a)-
Nguyên tắc thứ nhất:
*)-
Người chồng muốn tiếp bạn gái phải
hẹn
khi có mặt người vợ ở nhà.
*)-
Khi tiếp bạn gái, người vợ phải đóng
vai
chánh trong việc tiếp khách và
người
chồng chỉ đóng vai phụ tá.
*)-
Người vợ muốn tiếp bạn trai phải hẹn
khi
có mặt người chồng ở nhà.
*)-
Khi tiếp bạn trai, người chồng phải
đóng vai chánh trong việc tiếp khách
và
người vợ chỉ đóng vai phụ tá.
Nên biết
rằng, theo Phật Giáo tình yêu bao giờ cũng có mặt trái của nó, nghĩa
là yêu không được thì thù hận và thương không được thì ganh ghét.
Mình đã được một người nào để yêu thì người đó cũng đã được nhiều
người khác đã chọn, nhưng mình lại được người yêu đó đồng tình mà
những người khác lại bị thất vọng thì họ nhất định sẽ tìm mọi cách
phá hoại hạnh phúc của mình, cho nên mình phải đề phòng những hiện
tượng trên sẽ xảy đến gia đình của mình, nếu như hiện tượng đó không
có xuất hiện thì mình được phước báo đấy. Để ngăn ngừa những hiện
tượng trên mang đến bất an trong gia đình, mình nên áp dụng nguyên tắc
thứ nhất đã trình bày trên.
b)- Nguyên tắc thứ hai:
Những tật xấu nói trên của đôi chồng vợ là
thuộc về tâm bệnh mà không phải thân bệnh. Thân bệnh thì phải nhờ
y dược trị liệu, nhưng tâm bệnh thì phải nhờ đến pháp dược trị liệu;
thân bệnh thì phải nhờ đến Bác Sĩ cứu chữa, còn tâm bệnh thì phải
nhờ đến Phật Giáo hóa giải. Để bồi dưỡng tâm linh, đôi vợ chồng
cần phải chuyên cần tu tập pháp Phật để thanh lọc những phiền não
trong tâm tư của mình cho được thanh tịnh. Đây là những điều kiện xây
dựng đức tin cho nhau.
4)- Quan Tâm Chăm Sóc Nhau:
Đôi chồng vợ trong một gia đình, thân thể thì
sống chung với nhau, nhưng tâm hồn thì sống riêng rẻ biệt lập nhau,
chồng sống theo kiểu của chồng và vợ sống theo kiểu của vợ mỗi
người sống một ốc đảo riêng không bao giờ quan tâm chia xẻ với nhau huống
chi là chăm sóc. Thí dụ người chồng đang làm công việc gì đó tại
nhà thì người vợ nên quan tâm đến hỏi: anh làm có mệt không, có
cần em giúp gì không? Cũng thế người vợ đang làm công việc nhà thì
người chồng cũng đến hỏi: em làm chi đó có cần anh giúp không? Chỉ
có những câu hỏi như thế cũng đủ tạo nên sự đậm đà tình cảm với
nhau. Mỗi người sống theo chủ nghĩa cá nhân trên hết, nhìn nhau như
bạn đời qua đường không cho nhau chút tình cảm, khi cần thì dùng đến
và hết cần thì quên đi, chỉ biết có lợi cho mình là đủ rồi, lạnh
nhạt với kẻ khác không chút cảm thông. Mỗi người sống như vậy làm
sao có hạnh phúc được. Những nguyên tắc quan tâm chăm sóc nhau đại
khái như sau:
a)- Người
vợ phải biết tâm trạng của người chồng muốn gì và những điều ước
muốn đó không xâm phạm đến sự sống chung, không tổn thương đến hạnh
phúc gia đình thì đừng khắc khe trói buộc để cho chồng làm tròn nghĩa
vụ của kẻ nam nhi; người chồng cũng phải biết tâm trạng của người
vợ muốn gì và những điều ước muốn đó không xâm phạm đến sự sống
chung, không tổn thương đến hạnh phúc gia đình thì phải cởi mở để cho
người vợ của mình khơi dậy niềm vui
an lạc trong tâm hồn. Thí dụ người vợ muốn đi chùa lễ Phật,
người chồng đừng có ích kỷ nên để cho người vợ có niềm vui lý
tưởng liền sẵn sàng đưa vợ đến chùa lễ Phật, nên biết rằng điều
ước muốn đó của vợ mình không tổn hại đến hạnh phúc gia đình mặc
dù đối với đạo Phật mình không có niềm tin.
b)- Hai
chồng vợ mỗi người làm việc mỗi sở khác nhau. Chiều đến, sau khi tan
sở, người chồng về đến nhà trước và người vợ về đến nhà sau. Khi
người vợ về đến nhà, người chồng phải chạy ra cửa chào đón thăm
hỏi và tiếp tay với người vợ mang đồ vào nhà. Còn người vợ về đến
nhà trước và người chồng về đến nhà sau. Khi người chồng về đến
nhà, người vợ cũng phải chạy ra cửa chào đón thăm hỏi và tiếp tay
với người chồng mang đồ vào nhà. Đó là một trong những cử chỉ quan
tăm châm sóc lẫn nhau. Đôi chồng vợ đã sống chung không nên đưa mắt
nhìn lơ khi người chồng hay người vợ bước vào nhà mà không cần quan
tâm thăm hỏi, hoặc có thăm hỏi nhưng chỉ hỏi cho qua loa không có chút tâm tình, hoặc có ra
giúp đở nhưng chỉ hành động như một cái máy không có chút tình cảm.
Tục ngữ có dạy: “Tiếng chào cao hơn cổ”, nghĩa là lời chào hỏi
quý trọng hơn mâm cao cổ đầy. Đôi chồng vợ muốn gia đình được hạnh
phúc cần phải chú ý ở điểm này.
c)- Người
chồng hoặc người vợ, nếu ai về nhà trước người đó phải vào bếp
chuẩn bị cho bửa cơm tối. Người nào không biết nấu nướng, nhưng phải
chuẩn bị những phần căn bản trước chờ chồng hay vợ về đến sẽ bổ
túc sau cho bửa cơm đầy đủ để cùng nhau ăn uống, hoặc hai người về
đến nhà cùng một lúc thì cả hai cùng nhau vào bếp để giải quyết cho
xong bửa cơm tối, rồi sau đó mới làm những công việc khác trong gia
đình, không nên người này làm còn người kia làm biếng ngồi chơi xem
báo. Trường hợp hai người làm việc khác giờ khắc, công việc ban
ngày hoặc công việc ban đêm, người làm việc ban ngày cũng phải
chuẩn bị bửa cơm cho người làm việc ban đêm. Nên biết rằng cả hai
người đều mệt nhọc ở nơi sở làm cả, phải thông cảm và chia xẻ mệt
nhọc với nhau. Đã sống chung với nhau, tất cả mọi việc trong gia đình
đều phải bình đẳng chia nhau cùng làm.
d)- Khi ra
khỏi sở, người chồng hay người vợ phải đi thẳng về nhà rồi sau đó
muốn đi đâu sẽ đi. Hai chồng vợ nên biết rằng, chồng hay vợ mình ỏ
nhà đang trông chờ mình về để cùng nhau ăn uống tâm sự trao đổi
những công việc ưu khuyết thành bại trong ngày cho nhau kinh nghiệm, vì
thế khi ra khỏi sở làm, mình không được chạy vòng quanh tìm bạn bè
ăn chơi giải trí khiến cho những người ở nhà trông đợi, băn khoăn lo
lắng buồn phiền, không lợi cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình.
e)- Nếu
công việc làm cùng ngày và nghĩ cùng giờ, người nào về nhà trước
phải chờ đợi người về nhà sau để cùng nhau ăn bửa cơm chung, không
nên mỗi người tự cầm tô cơm ăn riêng mỗi nơi mỗi gốc nhà hoặc vừa
ăn vừa xem truyền hình và cũng không nên mình tự ăn trước không chờ
đợi người sau cùng ăn. Trường hợp suốt tuần lễ, chồng vợ không có
ngày nào được ăn chung thân mật thì ít nhất cuối tuần chồng vợ cũng
phải dành một ngày tổ chức ăn chung tình nghĩa bao gồm chồng vợ con
cháu, nếu như có con cháu. Bửa ăn chung tình nghĩa là bửa ăn tâm tình
thân mật cảm thông, nghĩa là bửa ăn từ trường tâm linh của mỗi
người quấn quít hòa quyện gắn bó lấy nhau. Còn như mỗi người ăn cơm
riêng rẻ khiến cho từ trường tâm linh rẻ sang lối khác và cùng lúc
từ trường tâm linh nghịch biến tự động xô đẩy sức hút của từ
trường tâm linh đối phương, tình trạng đó kéo dài lâu ngày tình cảm
gia đình trở nên hao mòn lạnh nhạt. Những dữ kiện vừa trình bày trên
chính là những nguyên tắc quan tâm chăm sóc nhau.
5)-
Hòa Hợp Trong Việc Xây Dựng Gia
Đình
(đồng lòng tác biển đông mới cạn)
a)- Người chồng hay người vợ muốn làm
việc gì phải có sự đồng ý của nhau, nghĩa là phải đem việc đó thảo
luận với nhau trước khi hành động, không nên tự ý quyết định mà
không có sự tham khảo trước. Việc làm đó mặc dù mình nhận thấy hợp
lý nhưng chồng hay vợ chưa thông cảm thì phải để qua một bên, chờ khi
nào hai người tán thành thì mới đem ra áp dụng, nghĩa là mình phải
thuyết phục đến khi nào người chồng hay người vợ của mình tán thành
thì mới đem ra thực hiện. Thí dụ mình muốn mở một xí nghiệp gì đó làm
ăn trước hết phải thuyết phục người chồng hay người vợ của mình tán
thành thì mới thực hiện, không nên tự động thực hiện riêng mà
không có sự đồng ý của người chồng hay của người vợ.
b)- Khi
thực hiện một công việc làm ăn gì đó cả hai người phải cùng nhau
xây dựng, không nên giao hết cho người chồng hay người vợ chịu trách
nhiệm lấy và người kia không cần biết đến, không chịu tiếp tay chia
xẻ, hoặc giả trong lúc đó người kia lại tự động mở một công việc
làm ăn khác qua mặt người chồng hay người vợ. Hai chồng vợ hợp tác
với nhau trong một công việc, trong một nhiệm vụ, trên mặt tình cảm
chính là hai người đã chia xẻ với nhau
trong một nhiệm vụ, cảm thông nhau trong một hoàn cảnh và gắn
bó đậm đà với nhau trong một nếp sống hạnh phúc. Sự quan tâm của
người chồng hay của người vợ trong một công việc hay trong một nhiệm
vụ là điều khích lệ lớn nhất cho nhau, là niềm an ủi trên hành trình
xây dựng hạnh phúc gia đình.
c)- Trong
việc xây dựng hạnh phúc gia đình, cả hai người cùng nhau phải chịu
trách nhiệm chung trong việc gánh lấy thành công hay thất bại trong
cuộc đời màø không nên phó thác hay đổ lỗi cho ai cả. Sự nghiệp
nếu được thành công thì cả hai cùng hưởng, nhưng nếu như thất bại thì
cả hai cùng chịu đựng và cùng nhau dũng cảm đứng lên tìm mọi cách
gở rối cuộc đời, không nên buông trôi theo dòng nước rồi chỉ biết
than trời trách đất. Ở đời không có việc gì tuyệt đối cả, có ngày
thì có đêm, có tối thì có sáng, có nước ròng thì có nước lớn, có
rủi ro thì có may mắn, có thất bại
thì nhất định sẽ có thành công, chúng ta nên đặt trọn niềm tin
vào đó để tiến lên trên đường đời. Chúng ta nên biết rằng theo tinh
thần Phật Giáo chính mình tự khai thông sanh lộ cho mình mà không có
ai trải thảm cho mình đi cả.
B)- Đối Với Con Cái:
Đôi chồng vợ phải luôn luôn tâm
niệm rằng, mình sanh con có hai mục đích: thứ nhất làø nối dõi tông
đường và thứ hai là nhờ chúng nó quan tâm chăm sóc mình khi tuổi xế
chiều. Muốn được hai điều trên, phận làm cha mẹ phải thực hiện
những căn bản sau đây:
1)-
Thường Xuyên Phải Cho Con Bú
Sữa Mẹ:
Theo Duy Thức Học, tâm lý
thì quan hệ với sinh lý cho nên mỗi khi tâm lý tác dụng thì khiến cho
sinh lý bị kích thích, thí dụ tâm lý ái dục tác dụng thì khiến cho
sinh lý phát động đòi hỏi hưởng thụ, các tâm lý khác cũng giống như
thế, từ đó đi đến kết luận: Tâm lý thương yêu của người mẹ quan hệ
đến sữa của mẹ và cho con bú sữa của mẹ thì tạo nên tình cảm giữa
mẹ con gắn bó với nhau. Giá trị của sữa mẹ, quyển sách “Khởi đầu Khỏe mạnh, Phát triển
Thông Minh (Bé Sơ sinh của Bạn) do Bộ Nông Nghiệp Mỹ, Bộ Giáo dục
Mỹ, Bộ Y Tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ thực hiện”, mục “Sữa Mẹ Là
Tốt Nhất Cho Trẻ Sơ Sinh Của Bạn”, trang 9 nói rằng:
“Sữa mẹ là tốt nhất cho trẻ sơ sinh
của bạn. Trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ thường không hay ốm và thường
không bị nhiều dị ứng. Thậm chí chúng nó có thể còn thông minh hơn!
Đồng thời, cho bú sữa mẹ dường như còn bảo vệ mẹ khỏi một vài vấn
đề về sức khỏe”.
Muốn tìm hiểu thêm về nuôi con bằng
sữa mẹ, người mẹ nên liên lạc đâến Liên Đoàn La Leche theo số
1-800-LALECHE hoặc xem trang Web tại địa chỉ www.lalecheleague.org/.
Cho nên người mẹ muốn tình cảm của
con mình sau này đừng lạc lỏng với mình thì thường xuyên cần phải cho
con bú sữa của mình.
2)-
Đừng Hun Hít Âu Yếm Khi Con
Mình Đang Ngủ:
Các tâm lý đều có năng lực riêng
của mỗi loại, như tâm lý tham thì có năng lực điều khiển con người
hành động theo tâm lý tham điều khiển, tâm lý sân thì có năng lực điều
khiển con người sân hận theo nó chỉ đạo, tâm lý si mê thì có năng
lực khiến con người hành động ngu si theo sự chỉ đạo của nó, tâm lý
ái dục thì cũng có năng lực khiến con người chạy theo ái dục điều
khiển kềm chế không được,..v..v.... Hành động hun hít âu yếm là
trạng thái tâm lý ái dục sinh hoạt, trạng thái tâm lý này mang
tánh chất si mê, có lúc si mê đứng ra chỉ đạo thì khiến cho con người
hành động trở nên đam mê, thiếu lý trí xét đoán, nhìn “kẻ
sứt môi vẫn thấy đẹp, lợi dụng vẫn thấy trung thành”. Do đó
cha mẹ chỉ nên hun hít âu yếm con mình trong lúc nó thức, không nên
hun hít âu yếm khi con mình đang ngủ mê.
*)- Con mình đang lúc thức, sáu tâm
thức của nó hiện có mặt và đang sinh hoạt trong thân thể thì nó mới
có cảm giác. Nhơn lúc nó đang thức cha mẹ hun hít âu yếm nó thì Ý
Thức của nó tiếp nhận có phân biệt, có chọn lựa và có giới hạn
và khi nó tiếp nhận đầy đủ tình cảm của cha mẹ ban cho liền có
những cử chỉ như tránh mặt qua chỗ khác hoặc đưa hai tay đẩy cha mẹ
qua một bên.
*)- Còn đứa con khi ngủ mê, sáu Tâm
Thức của nó không còn hiện hữu,
chỉ còn lại hai Tâm Thức Mạt Na và A Lại Da trong thân thể của
nó cho nên nó lúc đó không có cảm giác nhận thức; cha mẹ hun hít
âu yếm trong lúc đứa con đang ngủ mê, nghĩa là cha mẹ trút hết vào
tâm của nó sự đam mê luyến ái qua tâm Thức Mạt Na tiếp nhận không
có phân biệt chọn lựa và không giới hạn, khiến tâm của nó bị ô
nhiễm ngu si đần độn, sẽ làm trở ngại sự học hỏi của nó sau này
kém thông minh khi nó lớn lên. Muốn con mình lớn lên trở nên người
thông minh sáng suốt, một trong những điều kiện là không nên hun hít
âu yếm chúng nó trong lúc ngủ mê.
3)-
Tạo Tình Cảm Nương Tựa Giữa Cha
Mẹ Và Con Cái:
Như trước đă trình bày theo
tinh thần duyên sanh, con người sống cần phải có chỗ nương tựa để
tồn tại, để nẩy nở và phát triển tâm hồn, nhưng đã sống chung với
nhau mà không có tình cảm gắn bó với nhau thì không có hạnh phúc an
lạc. Con người sống chung với nhau mà không có tình cảm gắn bó thì
đối xử với nhau có tánh cách máy móc, tính toán thiệt hơn, thái độ
lợi dụng lẫn nhau hơn là thể hiện sự chân tình trao đổi chia xẻ.
Trong một gia đình, con người muốn có hạnh phúc an lạc thật sự thì
mỗi người cần phải xây dựng tình cảm nương tựa. Nhất là con cái,
chúng nó cũng cần phải có chỗ nương tựa để đặt tình cảm. Chúng nó
đặt tình cảm nương tựa nơi cha mẹ thì thương yêu và sẵn sàng hy sinh
cho cha mẹ, chúng nó đặt tình cảm nơi súc vật như con gấu vải, con
búp bê, con mèo, con chó thì thương yêu và sẵn sàng hy sinh cho những
súc vật nói trên. Tại sao đứa trẻ lớn lên chỉ biết thương yêu và
quý mến những con gấu, con búp bê bằng vải, hoặc thương yêu và quý
mến con mèo, con chó hơn thương yêu và quý mến cha mẹ của nó? Nguyên
do cha mẹ không cho nó đặt tình cảm nương tựa nơi mình, cho nên nó
phải đặt tình cảm nương tựa vào những chỗ khác, như nương tựa con
gấu, con búp bê bằng vải..v..v.... để cho tình cảm của nó nẩy nở và
phát triển. Cha mẹ muốn cho con mình luôn luôn mến thương tưởng nhớ
đến mình thì phải để cho chúng nó nương tựa tình cảm từ khi sanh ra cho
đến khi thành danh. Cha mẹ muốn con mình dâng trọn tình cảm nương tựa
nơi mình thì phải theo những điều kiện sau đây:
a)-
Phải ngủ chung với con cái:
Con cái từ hai tuổi cho đến
khoảng 12 tuổi, cha mẹ phải tìm cách thường xuyên ngủ chung với
chúng, cha thì phải ngủ chung với con trai và mẹ thì phải ngủ chung
với con gái, phải thường xuyên kể những gương tốt của mình, của gia
tộc cho chúng nghe, đừng để cho chúng ngủ riêng một mình trong một
căn phòng suốt năm này qua năm nọ khiến cho tâm hồn của chúng lớn
lên trong sự cô đơn lạc lõng. Chúng nó tuổi còn bé thơ nếu như ngủ
riêng một mình trong một căn phòng trống vắng suốt năm này qua năm
nọ thì tâm hồn của chúng trở nên ốc đảo và tình cảm của chúng trở
nên lạnh lùng với cha me. Giữa đêm khuya thanh vắng, tâm hồn chúng
nó cảm thấy cô đơn đáng sợ, trong lúc đó không làm sao hơn đành
phải gởi gấm tình cảm vào gối ôm, vào con gấu, vào búp bê hoặc
vào con mèo, con chó..v..v.... để được ấm lòng cho yên giấc ngủ và
cũng từ đó những vật này trở thành bạn lành gắn bó đậm đà không
thể phân ly với chúng nó. Tình cảm của chúng nó đã đặt trọn vẹn
vào gối ôm, vào con gấu, con búp bê..v..v....thì đối với cha mẹ lẽ
tất nhiên trở nên lạc lỏng xa vời và cách biệt. Mình là người lớn,
nếu ở một mình trong một gian nhà hay ngủ riêng một mình trong một
căn phòng còn cảm thấy cô đơn, buồn tẻ, huống chi là đứa bé còn
trẻ thơ. Cho nên cha mẹ muốn con mình đặt trọn tình cảm gắn bó với
mình phương pháp đầu tiên và tốt nhất là phải tìm cách ngủ chung với
chúng nó để làm chỗ nương tựa cho chúng nó an tâm.
b)- Làm gương tốt cho con cái:
Tâm lý của những đứa con, nhất là
con gái thường tự hào hảnh diện và khoe khoang với bạn bè những
điều tốt của gia đình của cha mẹ và chúng nó cũng đau lòng cũng tủi
hổ với bạn bè khi bạn bè cho biết những điều không tốt của gia đình
của cha mẹ chúng nó. Cha mẹ phải luôn luôn thể hiện những đức tánh
tốt cho chúng nó lý tưởng. Bậc làm cha mẹ đừng làm cho chúng nó
mất niềm tin với những tật xấu của mình qua hành động, lời nói hay
tư tưởng. Châm ngôn thường nói: “Không có những đứa con xứng đáng
khi cha mẹ không xứng đáng” trong quyển Hạnh Phúc Lứa Đôi, trang 99,
của Ven. Dr. K. Shi Dhammananda, Thích Tâm Quang dịch. Cha mẹ ly dị là
điều bất hạnh lớn nhất của con cái, làm tổn thương lớn nhất về mặt
tâm lý của con cái, trước hết là thiếu chỗ nương tựa cho tâm linh,
làm mất lý tưởng thần tượng của con cái về mặt thiêng liêng trong
đó có sự bất kính đối với cha mẹ len lỏi vào tâm hồn của chúng nó,
vì chúng nó cảm thấy rằng tương lai đen tối sẽ đến với chúng nó khi bị
cha mẹ bỏ rơi. Chồng vợ nếu có sự bất hòa vấn đề gì, nếu như việc
nhỏ nhặt thì hai người âm thầm giải quyết lấy đừng cho con cái biết,
đừng để tổn thương đến tâm hồn trong trắng của chúng; còn như những
việc bất hòa trở nên lớn chuyện có thể đi đến ly dị nếu như con cái
đã lớn thì nên đem ra thảo luận với chúng, vì chúng nó cũng có
nhiều ý kiến quan hệ tinh thần với cha mẹ trong cộng đồng sống chung
gia đình, nếu cha mẹ còn nghĩ tình nghĩa với con cái. Thật là một điều
bất hạnh và khổ đau nhất cho con cái khi bị cha mẹ bỏ rơi để họ sống
cho hạnh phúc riêng tư. Nói tóm lại, bậc làm cha mẹ luôn luôn phải
biểu tượng tấm gương tốt trong mọi góc độ qua hành động, qua lời nói
và qua ý tưởng để cho con cái noi theo.
c)- Theo dõi sự học hành của con cái:
Theo quyển Hạnh Phúc Lứa Đôi của Thích Tâm
Quang dịch, trang 101 giải thích: “Nhà là trường học đầu tiên và cha
mẹ là thầy giáo đầu tiên. Trẻ con thường học những bài học vỡ
lòng tốt và xấu nơi cha mẹ”. Bổn phận của cha mẹ là phải luôn luôn
quan tâm đến đời sống của con cái nhất là vấn đề học vấn, nền
tảng căn bản của đời sống hạnh phúc của con cái trong tương lai.
Thầy giáo đào luyện kiến thức văn minh cho con cái trong trường học,
còn cha mẹ giáo dục kinh nghiệm đạo đức làm người cho con cái trong
trường đời. Nhưng trường học thì khác hơn trường đời, trường học chỉ
giáo dục con người qua sách vỡ, nhưng trường đời thì giáo dục con
người qua kinh nghiệm sống. Để cho trường học và trường đời không
mâu thuẩn với nhau trong phương hướng xây dựng hạnh phúc tương lai cho
con cái, cha mẹ phải thường xuyên theo dõi sự học hành của con cái
mình. Những điều kiện theo dõi sự học hành của con cái như sau:
1)- Điều Kiện thứ nhất:
*)- Cháu nào học giỏi cha mẹ
khen thưởng,
*)- Cháu nào học kém cha mẹ
an ủi
khuyến khích,
thí dụ như khuyến khích nó cố gắng học cuối tháng được điểm cao
tặng quà cho nó,..v..v.....
*)- Cháu nào nếu như cuối niên khóa học
kém, cha mẹ
phải theo dõi
cháu có năng
khiếu gì thì cho
nó học ngành nghề theo năng
khiếu của nó,
nhờ đó nó mới chăm học để
năng khiếu
được phát triển. Châm ngôn có
câu: “Nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh” , nghĩa là bất cứ nghề nào, miễn
nghề đó được điêu luyện tinh xảo
thì một đời được vinh hiển, đừng bắt ép con
mình học theo ý muốn của mình mà những môn học đó không phải đúng
năng khiếu và sở thích của chúng nó.
2 )- Điều kiện thứ hai:
Cha mẹ
theo dõi những điều học được trong nhà trường có lợi hay có hại về
mặt tình cảm trong gia đình, có những môn học có lợi về mặt khoa học
kỷ thuật nhưng không có lợi về mặt đạo đức tình cảm làm người. Thí
dụ:
*)- Nhà
trường dạy cháu về giá trị giữa công nhân và chủ nhân, nghĩa là
chủ nhân phải trả lương tương xứng công suất của công nhân và không
được cướp công của công nhân. Khi về nhà, cha mẹ nhờ cháu làm một
việc gì đó và cháu khi làm xong việc đó liền đòi hỏi cha mẹ phải
trả công cho cháu, cha mẹ không trả công cho cháu thì cháu cứ trách
móc cha mẹ cướp công của cháu. Ba má cháu hỏi: ai dạy con như thế,
cháu trả lời nhà trường dạy con như thế. Từ đó cha mẹ và cháu sứt
mẻ tình cảm với nhau. Cho nên cha mẹ phải theo dõi để giải thích lại
mặt trái của vấn đề để cháu so sánh chọn lựa.
*)- Có một
số nhà trường dạy triết lý sex cho học sinh và cho rằng hành động
tình dục không có tội lỗi. Sau khi học xong, đa số học sinh thích thú
muốn thí nghiệm cho biết, mà chúng nó không rõ vấn đề tình dục sẽ
gây đau khổ cho cá nhân cho gia đình, cho cả xã hội và bị người đời
khinh khi, còn cho tình dục la ømón hàng quá tầm thường không còn quý
trọng, mất lý tưởng, thường gọi là “Tình yêu bán chợ trời”.
Ngoài ra
còn nhiều vấn đề khác có hại cho luân lý, cho đạo đức và cho tình
cảm của con người mà bậc làm cha mẹ phải có bổn phận theo dõi để
giải thích lại mặt trái của mọi vấn đề để cho con mình hiểu biết,
có nghe được hai tiếng chuông thì mới biết tiếng chuông nào kêu hơn.
3)- Hướng Dẫn Con Cái Về Đạo Đức Và
Hiếu Hạnh:
Đạo đức là nền tảng căn bản của con người và
hiếu hạnh là điều kiện hàng đầu trong nếp sống làm người. Những
đứa trẻ sanh ra theo luật nhân quả của Phật Giáo là kết quả sơ khởi
với dạng vô ký ( không phải thiện mà cũng không phải ác) của
những nghiệp nhân kiếp trước có quan hệ trực tiếp với cha mẹ, nghĩa
là những nghiệp nhân thiện ác chứa đầy trong tâm của nó chờ gặp
duyên xuất hiện để thọ nhận quả báo tốt hay xấu trong cuộc đời nó.
Có thuyết cho rằng đứa bé sanh ra thuộc về bản tánh thiện và có
thuyết cho rằng đứa bé sanh ra thuộc về bản tánh ác. Đứa bé sanh ra
nếu là bản tánh thiện thì không thể trở thành người tội lỗi xấu
ác được; còn đứa bé sanh ra nếu là bản tánh ác thì không thể trở
thành người hiền lương đạo đức được. Theo Phật Giáo, đứa bé sanh ra
thuộc về bản tánh vô ký là bản tánh không phải thiện và bản tánh
không phái ác, nghĩa là nó sống gần những điều thiện thì trở thành
người hiền lương đạo đức và nó sống gần những điều ác thì trở
thành người xấu xa tội lỗi. Những đứa bé mới sanh ra thuộc dạng vô
ký, nghĩa là những nghiệp thiện ác của kiếp trước hiện đầy dẫy
trong tâm thức của chúng nhưng chưa có đủ duyên xuất hiện để tạo
lấy quả báo an vui hay khổ đau cho cuộc đời của chúng đúng với châm
ngôn: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Cũng vì lý
do đó, bậc làm cha mẹ cần phải hướng dẫn con cái xây dựng đạo đức
làm người, tránh xa những điều xấu ác và làm những điều lành, giữ
tâm cho thanh tịnh. Những nguyên tắc hướng dẫn con cái về đạo đức và
hiếu hạnh như:
a)- Về Đạo đức:
*)- Lúc nó
còn trẻ thơ, cha mẹ phải tập cho con cái biết xưng hô dạ thưa, biết
vâng lời, biết chào hỏi khi khách đến nhà, không được lấy mắt ngó
rồi bỏ đi hoặc không được nói năng vô lễ.
*)- Tập cho
con cái biết làm việc thiện, biết bố thí, biết giúp đỡ người già
yếu, bệnh tật..v..v....
*)- Chỉ dạy
cho chúng biết kính trên nhường dưới, biết thương yêu anh em bà con
dòng họ,..v..v.....
*)- Nếu cha
mẹ đạo Phật, dẫn chúng đi chùa lễ Phật, hợp đoàn bạn đạo với lứa
tuổi của chúng và còn các đức hạnh khác của đạo Phật như mình muốn
cúng dường cho Tam Bảo nên đưa tiền bảo chúng nó bỏ vào thùng phưóc
sương, mình đốt hương lễ Phật đưa chúng nó mỗi đứa một cây và giúp
chúng nó cấm lên lư hương trên bản Phật, mình lạy Phật và bảo chúng
nó lạy theo,..v..v... đó là những hình ảnh, những cử chỉ, những hành
động uốn nắn chúng nó trở thành thói quen, có thể giúp đạo đức được
ăn sâu vào tâm não nơi chúng nó.
b)- Về hiếu hạnh:
Cha mẹ phải hướng dẫn con cái của mình
tổ chức ngày lễ Hiếu Hạnh nho nhỏ tại gia đình cũng như ngày lễ
Mother day và Father day của nước Mỹ, nhưng tổ chức nội dung phải có
chất lượng mà không phải chỉ chú trọng hình thức thiếu giá trị tinh
thần, nghĩa là không phải mua một gói quà nho nhỏ và một cái thiệp
chúc cha chúc mẹ là đủ. Nếu gia đình đạo Phật, cha mẹ chọn ngày Hội
Vu Lan rằm tháng bảy hướng dẫn con cái tổ chức ngày lễ Hiếu Hạnh
tại gia đình. Phương thức tổ chức như sau:
· Tối Chủ Nhật, cha mẹ tập
trung các con cái lại tại phòng khách trong nhà.
· Trong các cháu, cử một cháu
lớn tuổi hơn đứng ra đọc bài văn ngắn chúc tụng công lao cha mẹ
bằng tiếng Anh do cha mẹ viết cho cháu, vì tiếng Việt các cháu không
hiểu hết nghĩa..
· Một cháu đại diện gắn bông
hồng cho cha mẹ và cha mẹ gắn bông hồng lại cho các cháu.
· Sau đó cha mẹ tặng cho mỗi
cháu một món hòa Hiếu Hạnh nho nhỏ cho các cháu.
· Tiếp theo các cháu hợp ca
bài hát Bông Hồng, cha mẹ phải dạy trước cho các cháu hát và giải
nghĩa bài hát cho các cháu hiểu.
· Đồng thời cùng nhau uống
trà và ăn bánh ngọt.
· Sau đó bế mạc, thế là xong
buổi lễ Hiếu Hạnh tại nhà.
Các cháu khi lớn lên, ấn tượng Hiếu Hạnh ăn
sâu trong tâm hồn của các cháu không bao giờ quên. Đó là một trong
những phương pháp giáo dục hạnh hiếu đối với cha mẹ cho tuổi trẻ
hữu hiệu không ít. Nhờ đó, các cháu sau này khi lập gia đình biết
cách tổ chức lễ Hiếu Hạnh cho con của chúng nó học hỏi theo.
4)- Đừng Chen Lấn Vào Đời Sống Gia
Đình Của Con Cái:
Một số không ít, cha mẹ
thường hay chen lấn vào đời sống của con cái có gia đình, kiểm soát
lối sinh hoạt riêng tư của chúng, bắt chúng phải sống theo lối sống
của mình, vô tình làm tổn thương đến đời sống hạnh phúc của lứa
đôi. Cha mẹ có những hành động như đã kể trên vô tình đào sâu hố
thẩm ngăn cách tình cảm giữa cha mẹ và con cái, nhất là tạo nên
thành kiến sâu dầy giữa cha mẹ và dâu rể. Thực tế khi cha mẹ già
yếu, con cái không quan tâm đến sự sống chết của cha mẹ mà lúc đó
cha mẹ rất cần đến con cái làm chỗ nương tựa lúc tuổi xế chiều. Cha
mẹ phải để cho con cái có tinh thần tự lập, có trách nhiệm gánh
vác sự nghiệp gia đình riêng tư của chúng nó.
Trước khi
lập gia đình, cha mẹ phải huấn luyện con cái cách sống của một gia
đình hạnh phúc giữa chồng vợ con cái, biết cách xây dựng sự nghiệp,
biết chia xẻ tình cảm, biết nuôi dưỡng con cái, biết giao dịch xã
hội,..v..v.....
Khi con cái
đã lập gia đình, cha mẹ không nên chen lấn vào đời sống hạnh phúc
riêng tư của chúng. Sự thành bại của gia đình chúng nó để cho chúng
nó tự chịu trách nhiệm giải quyết và cha mẹ chỉ đóng vai cố vấn là
khi nào chúng nó đến nhờ chỉ dạy, nhưng cha mẹ chỉ trao đổi lợi hại
với chúng nó bằng cách ái ngữ để
chúng nó không bị mặc cảm khi tiếp nhận, không thành kiến khi bị
trách móc.
Phận làm
cha mẹ nên luôn luôn nhớ câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn”,
nghĩa là những điều mình không thích thì đừng làm cho người khác; mình
không muốn cha mẹ chen lấn kiểm soát vào đời sống hạnh phúc riêng
tư của mình thì mình cũng đừng chen lấn kiểm soát vào đời sống hạnh
phúc riêng tư của con cái.
5)- Không Nên Đem Tôn Giáo Vào Gia
Đình:
Theo quan niệm của tôi, phận làm cha mẹ không
nên đem tôn giáo vào gia đình mà nên để cho gia đình tự động hướng
về tôn giáo, nghĩa là cha mẹ đừng bắt ép con cái dâu rể muốn được
cưới vợ lấy chồng trước hết phải vô tôn giáo rồi sau đó mới được
tác hợp với nhau. Cha mẹ bắt ép như thế vô tình làm tổn thương tâm
lý của đôi trai gái mới yêu nhau mà chúng nó chưa có khái niệm đức
tin về vấn đề tín ngưỡng, nghĩa là chúng nó vì sợ không được yêu
nhau nên vẫn làm theo lệnh của cha mẹ, nhưng tâm hồn của chúng nó
vẫn âm thầm bất kính và khinh thường sự thánh thiện của tôn giáo
đó.
Tôn giáo
là một tổ chức thánh thiện và gia đình là một xã hội thế tục, cha
mẹ nếu đem tôn giáo vào gia đình thì vô tình hạ thấp giá trị thánh
thiện của tôn giáo đó khi chúng nó chưa có đức tin vững chắc. Gia
đình hướng về tôn giáo để tu tâm dưỡng tánh thì tôn giáo đó mới có
lý tưởng và gia đình đó mới được hạnh phúc.
Gia đình
hướng về tôn giáo để tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là gia đình đó, đôi
trai gái sau khi xây dự đức tin về tình yêu vững chắc cho nhau, rồi
sau đó chúng nó mới tự động hướng về tôn giáo theo đức tin tín
ngưỡng sẵn có của mình để cùng nhau bồi dưỡng tâm linh cho việc xây
dựng hạnh phúc chân thật.
Gia đình
nào, đôi trai gái cùng một tôn giáo thì rất dễ dàng cho việc đem
tôn giáo vào gia đình trước khi cưới gả. Còn gia đình, đôi trai gái
khác nhau tôn giáo thì đừng ép chúng nó theo đạo trước khi yêu nhau
mà chúng nó không có chút đức tin tín ngưỡng nào và cũng không có
quyền tự do chọn lựa đức tin tín ngưỡng cho mình.
Phận làm
cha mẹ nếu như thật sự thương yêu con dâu hay con rể của mình thì để
cho chúng tự do chọn lựa tôn giáo theo sự hiểu biết của chúng nó,
đừng chen lấn vào gia đình riêng tư của chúng nó, đừng đem tôn giáo
vào khống chế đời sống hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ. Nếu được
như vậy thì gia đình đó hạnh phúc biết bao.
C)- Đối Với Người Thân:
Người thân
của chúng ta là cha mẹ ruột và cha mẹ bên chồng cũng như cha mẹ bên
vợ. Cha mẹ ruột là những người thân nhất trực tiếp quan tâm, chia
xẻ, bao dung không vị kỷ đến đời sống của chúng ta và cũng là cây
đại thọ che mát cuộc đời của chúng ta trên cuộc hành trình xây dựng
hạnh phúc gia đình; còn cha mẹ bên vợ và bên chồng là những người
thân gián tiếp hổ trợ tinh thần, khuyến khích và hướng dẫn những
kinh nghiệm sống an vui cho chúng ta. Chúng ta phận làm con, làm rể,
làm dâu đối với cha mẹ hai bên phải biết cảm thông kính trọng.
1)- Phải Tôn Kính Cha Mẹ Hai Bên:
Chúng ta
thường có một tâm bệnh ích kỷ riêng tư chỉ biết tôn kính cha mẹ ruột
của mình, còn cha mẹ bên vợ hay cha mẹ bên chồng thường tỏ thái độ
thiếu lễ nghi cung kính. Người rể cũng như người dâu phải ý niệm
rằng: Nếu không có cha mẹ vợ thì làm sao có vợ để mình yêu và nếu
không có cha mẹ chồng thì làm sao có chồng để mình thương. Chúng ta
kính trọng cha mẹ ruột của mình bao nhiêu thì cũng phải kính trọng cha
mẹ bên chồng và cha mẹ bên vợ bấy nhiêu. Chúng ta nếu như thương
yêu vợ của mình thì phải kính trọng cha mẹ bên vợ, chúng ta nếu như
thương yêu chồng của mình thì phải kính trọng cha mẹ bên chồng giống
như câu Ca Dao nhân gian thường nói: “Thương chồng phải lụy
mụ gia, gẩm tôi với mụ có bà con chi”. Một khi đã sống chung
trong một gia đình, chúng ta đừng làm cho chồng của mình hay vợ của
mình lương tâm bị tổn thương, bị giày vò bởi dòng họ nguyền rủa cho
chồng mình hay vợ mình là đứa con bất hiếu đối với cha mẹ của họ do
chính mình gây nên. Mình cứ mãi gây tạo những ấn tượng cho chồng của
mình hay cho vợ của mình bị mang tiếng là đứa con bất hiếu nói trên
nội kết lâu ngày vào tâm khảm sẽ đưa đến tình trạng hạnh phúc gia
đình bị sứt mẻ và cũng có thể đi đến tình trạng chồng vợ ly dị với
nhau.
Ngoài ra,
chúng ta nếu là người con rể hay con dâu cũng phải quý mến và kính
trọng họ hàng cũng như bạn bè bên vợ và bên chồng để tạo một bầu
không khí tương quan thích hợp, an vui cho cuộc sống ra riêng tự lập
của chúng ta. Nhờ tư cách lễ độ khiêm cung của chúng ta đối với họ
hàng và bè bạn hai bên tạo nên một ấn tượng đẹp đẽ mến yêu thắm
thiết của mọi người và nhờ đó không bị cô đơn về tâm linh trên
bước đường lập nghiệp.
Giả sử,
anh chị em bên chồng hay bên vợ có thái độ ganh ghét thì chúng ta vì
chồng của mình hay vì vợ của mình luôn luôn nhịn nhục làm thinh, nếu
nhận thấy những sự ganh ghét đó không hại đến đời sống riêng tư
của gia đình mình. Còn như những sự ganh ghét đó có ảnh hưởng đến
đời sống riêng tư của gia đình mình thì chúng ta vẫn có thái độ lịch
sự với họ, đồng thời chồng hay vợ nên tâm sự với nhau để cùng
thông cảm và không cần phải đôi co với họ không có lợi ích chi cả,
vì họ là những người bên ngoài không có sống chung với chúng ta.
Chúng ta
cũng nên giác ngộ rằng mình thể hiện những cử chỉ lễ độ khiêm cung,
tôn kính với cha mẹ hai bên, với họ hàng bè bạn cũng là một phương
pháp bồi dưỡng tâm linh về đạo đức làm người đúng với câu tục ngữ
nhân gian: “Hoa thơm nhờ nhụy, người có giá trị nhờ đạo đức”.
2)- Thường Xuyên Vấn An Sức Khoẻ Cha
Mẹ Hai Bên:
Thường xuyên vấn an sức khỏe cha mẹ hai bên chính
là chức năng của con người hiếu hạnh và cũng là đạo nghĩa của nhân
cách làm người. Con người biết tôn trọng giá trị nhân phẩm, biết
sống đạo nghĩa tình người đối với cha mẹ hai bên thì không thể thiếu
sót nghĩa vụ này. Thường xuyên vấn an sức khỏe cha mẹ hai bên có ba
mục đích:
a)- Mục đích thứ nhất:
Nền tảng căn bản của xã hội loài người là sự quan hệ phức tạp trên mặt
đời sống cũng như trên mặt tình cảm giữa cha mẹ và con cái. Theo tâm
lý thông thường, cha mẹ nào khi có con cái đều đặt hết tình thương
yêu vào chúng nó và muốn chúng nó suốt đời không ra khỏi tầm tay
chăm sóc của mình. Nhưng theo
luân lý xã hội, con cái lớn lên phận làm cha mẹ phải dựng vợ gả
chồng cho chúng nó và nếu như không cho chúng nó lập gia đình thì cha
mẹ phạm tội lỗi rất nặng thiếu trách nhiệm rất lớn về hạnh phúc
tương lai của chúng nó. Nhưng tình cảm của cha mẹ lại không muốn
chúng ra riêng tự lập, tách khỏi sự quan tâm của mình. Vì lý do đó,
thuở xưa cha mẹ mới đặt ra một luật lệ “Cưới Dâu” và “Bắt Rể” là
để chúng nó được sống bên cạnh
gia đình của mình và để tình cảm của mình khỏi bị tổn thương.
Ngày nay thời đại văn minh khoa học tân tiến,
vấn đề “Cưới Dâu” và “Bắt Rể” không còn giá trị đối với tuổi trẻ.
Khi lập gia đình, cập chồng vợ son trẻ nào cũng muốn ra riêng tự lập
theo sở thích của mình mà không muốn bị ràng buộc, bị khống chế bởi
luân lý khô cằn của cha mẹ hai bên.
Con cái khi
sống tự lập trên mặt tâm lý là một hiện tượng khiến cho tâm trạng
của cha mẹ trở nên buồn tủi vì cha mẹ cảm thấy kể từ nay con cái
của mình bỏ rơi mình, không còn cho mình trách nhiệm thương yêu, chăm
sóc và bao dung nữa. Đó là lý do bổn phận làm con cái cần phải
luôn luôn cảm thông sâu sắc tấm gương tình cảm thương yêu vô bờ bến
của những đấng sanh thành đã dành trọn cho mình và nên thường xuyên
vấn an sức khỏe cha mẹ hai bên để
cho cha mẹ vơi bớt phần nào tâm trạng buồn tủi mà họ đã cam chịu
quá nhiều khổ đau trong cuộc đời.
b)-
Mục đích thứ hai:
Vì quá thương yêu con cái, tâm hồn cha mẹ luôn
luôn băn khoăn lo lắng, khiến cho tâm trạng không an, ăn ngũ không
yên, sợ con cái của mình còn ngây thơ, thiếu kinh nghiệm, không đủ
sức đương đầu trước cuộc đời quá nhiều cạm bẩy giăng mắc khắp nẻo
đường trần. Quan niệm của cha mẹ cho rằng:
*)- Trường
học khác hơn trường đời, trường học chỉ dạy trên lý thuyết nhưng
không có dạy trên kinh nghiệm sống; trường đời mặc dù không dạy
trên lý thuyết, nhưng trực tiếp dạy trên kinh nghiệm. Chỉ có kinh
nghiệm mới giúp con người sống thực tế hơn.
*)- Con cái
của mình mặc dù thông minh trên trường học, nhưng thiếu kinh nghiệm
trên trường đời. Cha mẹ mặc dù không thông minh bằng con cái trên
trường học, nhưng rất kinh nghiệm trên trường đời.
*)- Con cái
mới lớn lên còn ngây thơ trên trường đời, chúng nó chỉ biết bề mặt
của trường đời mà không biết bề trái của nó. Thí dụ chúng nó chỉ
biết bề mặt của tình yêu nhưng không biết mặt trái của tình yêu.
Trên
trường đời, tuổi trẻ ngây thơ tưởng rằng: đời toàn là hoa gấm, vàng
son trải thảm trên cuộc hành trình may mắn và hạnh phúc, nhìn đời
với đôi mắt ngang bằng sổ thẳng mà không biết uyển chuyển tùy
duyên để vương mình lên. Trong xã hội, con người cần có mực thước
công bằng để xây dựng đời sống vật chất, nhưng về mặt tình cảm, con
người nếu như sử dụng mực thước công bằng để xây dựng hạnh phúc
thì sẽ thất bại, nguyên vì “Thẳng
mực tàu, đau lòng gổ”, mà ở đây con người phải xây dựng tình
cảm trên nguyên tắc “Hạnh Tùy
Duyên” để có hạnh phúc, giống như dòng nước uyển chuyển đều có
mặt khắp nẻo ngọn ngành của sông hồ. Đối với cuộc đời Hạnh Tùy
Duyên là hạnh biết sống đúng với châm ngôn của Phật Giáo là: “Khôn thì chết, Dại thì chết, chỉ Biết thì mới sống”, chữ Biết ở đây nghĩa
là sống biết tùy duyên theo hoàn cảnh. Người biết sống tùy duyên
phải là người có kinh nghiệm đời và cha mẹ của chúng ta chính là
một trong những người sống có kinh nghiệm ở đời. Cho nên chúng ta là
con cái mới lớn lên cần phải có cha mẹ hướng dẫn trên kinh nghiệm
trường đời. Đó là lý do cha mẹ hai bên lo lắng cho chúng ta khi chúng
ta ra riêng tự lập. Điều nên nhớ cha mẹ hai bên có dạy dỗ cho chúng
ta những điều gì, chúng ta nếu thấy những điều đó có lợi ích thiết
thực cho mình thì chân thành tiếp nhận, còn chúng ta nhận thấy những
điều dạy dỗ đó không thiết thực cho mình thì chỉ lắng nghe mặc niệm cho qua, không nên có thái độ phản
ứng bất kính đối với bề trên.
c)- Mục đích thứ ba:
Như trước đã trình bày ở mục Giai Đoạn Tuổi Già,
cha mẹ khi già yếu, tuổi gần đất xa trời, ngoài việc thân thể bất
an, tứ chi mỏi mệt, tâm trạng của họ trở nên lo âu cho số phận hẩm
hiu, cảm thấy đường trần lần lần thâu ngắn, hố thẳm tử sanh mỗi
ngày mỗi gần kề, không biết rồi đây sau khi từ giả cuộc đời mình
sẽ đi về đâu. Đứng trước tình trạng khổ đau vì mịt mờ nẻo trước này
của đấng sanh thành, phận làm con hiếu hạnh phải thường xuyên đến
vấn an sứ khỏe và tìm mọi cách an ủi cha mẹ cho vơi bớt não phiền
ngỏ hầu đem lại đôi chút niềm vui cuối đời của tuổi xế chiều. Đó
là nghĩa vụ của mục đích thứ ba.
3)- Khuyến Khích Và Giúp Đỡ Cha Mẹ
Trong Việc Tu Tập Đạo Đức:
Đạo đức là nền tảng căn bản cho cuộc sống của
con người có ý nghĩa. Con người cần đến đạo đức cũng như hoa cần đến
hương sắc đúng như câu tục ngữ thường nói: “hoa thơm nhờ nhụy, người có giá trị nhờ đạo
đức”. Đạo đức tự nó có từ trường móc nối và kết hợp thân
thương của tất cả mọi người quy tụ về mình, hổ trợ cho mình đủ sức
vượt qua mọi nẻo đường cay đắng của cuộc đời, đồng thời nó còn là
một sợi giây vô hình thắt chặt sinh mệnh của mình trong đời này trải
dài qua các đời sau trên cuộc hành trình chuyển hóa thăng tiến tâm
linh. Có thể khẳng định đạo đức chính là liều thuốc dưỡng sinh để
bồi dưỡng tâm linh tăng cường sức sống, tạo nguồn hạnh phúc an lạc
thực sự cho mình.
Cha mẹ
tuổi đã già cần phải tu tập để bồi dưỡng đạo đức làm hành trang
cho kiếp sau trên con đường giác ngộ và giải thoát khổ đau của kiếp
nhân sanh. Cũng vì lý do đó, khi cha mẹ tu tập đạo đức hay làm những
việc phước thiện để bồi dưỡng đạo đức, phận làm con hiếu hạnh phải
tìm mọi cách giúp đỡ cho cha mẹ đạt được như ý nguyện và cha mẹ nếu
như chưa biết tu tập đạo đức thì hãy khuyến khích họ chuyên cần tiến
tu đạo nghiệp cho đời sống nở hoa, đừng để họ lãng phí thì giờ của
khoản đời xế chiều còn lại.
D)-
Đối Với Xã Hội:
1)- Khiêm Cung Đối Với Mọi Người:
Khiêm là
khiêm tốn, nghĩa là thể hiện cử chỉ hạ mình xuống ngang hàng với mọi
người. Cung là cung kính, nghĩa là tỏ thái độ kính nể với mọi người.
Khiêm Cung là hành động nhằm đả phá thái độ cống cao ngã mạn của
con người. Người khiêm cung không phải làm mất thể diện của con
người mà trái lại theo tỷ lệ nghịch còn đưa giá trị của con người
nổi lên như ngôi sao sáng trong một bầu trời đen tối. Người khiêm
cung cần phải nhận thức rõ những yếu tố quan hệ sau đây:
a)- Sự
sống còn của chúng ta vô cùng quan hệ mật thiết với xã hội, xã
hội thương yêu che chở là chúng ta sống, xã hội ghét bỏ phá hoại
là chúng ta đau khổ. Thí dụ: chúng ta mở tiệm buôn bán để kiếm cơm
qua ngày phải nhờ khách hàng tiêu thụ; có nhiều khách hàng thương
yêu đến tiêu thụ là chúng ta sống và có nhiều khách hàng ghét bỏ
không đến ủng hộ là chúng ta thất bại. Sự sống còn của chúng ta
quan hệ mật thiết với xã hội đúng với câu Tục Ngữ: “Bà
con xa không bằng lối xóm gần”.
b)- Trong
xã hội, rất nhiều người có tánh hay ganh tỵ hiềm khích so
đo,..v..v..... với những người hơn mình, họ không thích những người tài
năng hơn họ, giàu sang hơn họ, thông minh hơn họ..v..v..... Họ đã
không thích những người hơn họ mà còn tìm mọi cách phá hoại những
người họ không thích bằng những phương tiện như chụp mũ, bôi bác, vu
khống, chê bai,..v..v..... làm sao cho những người đó mãi bị thất bại
trên đường đời. Đây là đặc tánh cố hữu của xã hội và theo Phật
Giáo xã hội nếu như không có những đặc tánh nói trên thì không phải
là xã hội trần gian.
Muốn cho
cuộc sống của mình được thuận chiều mát mái theo chiều hướng đi lên
trong việc xây dựng hạnh phúc an lạc, mỗi người trong gia đình cần
phải thể hiện thái độ khiêm cung đối với mọi người. Thái độ khiêm
cung là một trạng thái tâm lý móc nối tình cảm thân thương của tất
cả mọi người quy tụ về mình nếu như không được trọn vẹn như ý muốn
nhưng cũng giảm bớt đến mức trung bình những mâu thuẩn nghịch biến cản
trở trên bước tiến lên xây dựng hạnh phúc và nhờ đó mình mới có
cơ hội tạo dựng nền tảng an ổn cho cuộc sống lứa đôi.
2)- Thể Hiện Đức Hạnh Của Bậc
Trượng
Phu Và Thục Nữ:
Trượng Phu: Trượng là cây gậy, phu là
người đàn ông; Trượng Phu nghĩa bóng ám chỉ cho người đàn ông là cột
trụ của gia đình. Bậc trượng phu là người đứng đắn thể hiện được
bốn đức hạnh của phái nam trong những phong cách đi đứng, nói năng,
cư xử đới với mọi người, nghĩa là không vì giàu sang mà thay lòngï, không vì thấp
hèn mà đổi chí. Tứ Đức là hiếu, đễ, trung, tín.
*- Hiếu nghĩa là hết lòng thờ kính
cha mẹ;
*- Đễ nghĩa là tỏ lòng yêu mến
anh chị em;
*- Trung nghĩa là trọn đời yêu
nước thương
dân;
*- Tín nghĩa là quý trọng lời hứa trên hết.
Thục Nữ: Thục là hiền lành có nết
na, nữ là người đàn bà; Thục Nữ là chỉ cho người đàn bà có những
đức tánh hiền hòa, nhã nhặn, thể hiện được bốn đức hạnh cao quý:
· Công: mọi việc đều phải
khéo léo,
· Ngôn: ăn nói phải khôn
ngoan lễ phép,
· Dung: mặt mày phải nghiêm
chỉnh, ăn mặc phải vén khéo kín đáo,
· Hạnh: nết na phải đằm thắm,
đoan trang, thuần hậu, hiền lương.
Riêng đôi
chồng vợ ngoài sự bồi dưỡng bốn đức hạnh của bậc Trượng Phu và
Thục Nữ vừa được giải thích tổng quát mà ở đây còn phải chú trọng
đến cung cách phục sức khi tiếp xúc với xã hội bên ngoài để nói
lên được giá trị cao quý của bốn đức hạnh trên. Theo luân lý và
đạo đức, đôi chồng vợ muốn thể hiện bậc Trượng Phu và Thục Nữ khi
tiếp xức với xã hội bên ngoài cần phải quan tâm những điểm sau
đây:
a)- Khi giao
tiếp với mọi người bên ngoài, chúng ta không nên ăn mặc thường
phục ở nhà, nghĩa là chúng ta phải mặc sắc phục ngoại giao như theo
người Việt
*)- Tạo cho
mọi người không thiện cảm với mình, vì chính mình tỏ thái độ khinh họ
thấp hèn khi tiếp xúc.
*)- Tạo cho
mọi người đánh giá mình thiếu học thức, thiếu văn hóa nên không
biết cung cách giao tiếp.
b)- Khi giao
tiếp với mọi người bên ngoài, đàn bà thì không nên ăn mặc hở hang
và nói năng lả lơi có tánh cách khêu gợi tình dục với người khác
phái. Ăn mặc hở hang và nói năng lả lơi để tiếp xúc với mọi người
có những khuyết điểm như sau:
*)- Tạo cho
đối phương khinh thường mình, đánh giá thấp cho mình là hạng bất
chánh.
*)- Tạo cho
chồng dễ mất niềm tin với nhau trong khi sống chung qua cách phục sức
hở hang hoặc nói năng thiếu tế nhị.
Đôi chồng
vợ cần phải biết, người đàn ông thì có bạn trai và người đàn bà
thì có bạn gái; người chồng khi ra ngoài xã hội ăn mặc không lịch
sự làm cho vợ của mình mất mặt với bạn gái, vì bị những bạn gái
bình phẩm tư cách, cũng như người vợ khi ra ngoài xã hội ăn mặc
không đàng hoàng làm cho chồng của mình mất mặt với bạn trai, vì bị
những bạn trai bình phẩm nết hạnh.
Đây là
một trong những yếu tố cần phải quan tâm trong việc xây dựng hạnh
phúc gia đình. Món hàng có giá trị là khi món hàng đó khó kiếm và
ít gặp và tình yêu có lý tưởng là tình yêu khó kiếm và ít được
thấy. Như vậy đôi chồng vợ muốn được hạnh phúc bền lâu thì lối ăn
mặc và nói năng cũng cần phải cẩn thận.
3)- Loại Bỏ Những Chuyện Thị Phi Ở
Đời:
Vấn đề thị
phi được thấy trong quyển Niệm Phật Thập Yếu của Đại sư Thiền Tâm,
trang 153 – 154 có ghi lại bài kệ Vô Tướng nơi Kinh Pháp Bảo Đàn của
ngài Huệ Năng như sau:
“.......................................
“Muốn phá
tan phiền não
Hãy trừ
tâm thị phi
Thương
ghét chẳng để lòng
Nằm
thẳng đôi chân nghỉ!”
Xây dựng
hạnh phúc gia đình, vấn đề thị phi theo quan niệm Phật Giáo cũng là
một vấn đề tai họa không kém. Người đời thường bị một thứ bệnh
cũng khó trị là những chuyện xấu trong gia đình không biết đóng cửa
để dạy nhau, lại đi bán rao với mọi người, hoặc những chuyện xấu
của người đời bên ngoài không quan hệ chút nào với gia đình mình lại
mang vào nhà làm xáo trộn nếp sống bất an trong gia đình. Thứ bệnh
này của con người, đức Phật ghép vào một loại bệnh là bệnh Vọng
Ngôn (một thứ trong bốn thứ Vọng Ngữ). Vọng Ngôn: nghĩa là chụp mũ,
du khống, chuyện có cho là không có, chuyện không có cho là có,
chuyện phải cho là quấy, chuyện quấy cho là phải, chuyện xấu trong
nhà đem khoe ngoài đường, chuyện xấu ngoài đường mang về làm xáo
trộn trong gia đình. Gia đình muốn được hạnh phúc bền lâu, chồng vợ
cần phải tu tập những điều kiện sau đây:
*)- Không
nên đem những chuyện thị phi bên ngoài vào nhà bình phẩm. Những
chuyện thị phi bên ngoài không quan hệ chút nào với gia đình nếu đem
vào nhà bình phẩm làm nếp sống gia đình trở nên sóng gió vô cớ, vì
mỗi người có quan điểm khác nhau về chuyện thị phi đó; có một số gia
đình cũng vì chuyện thị phi vô cớ nói trên sắp đi đến tình trạng
chồng vợ ly dị với nhau. Cho nên luật của Phật cấm người Phật tử
chân chánh tuyệt đối không nên đem những chuyện thị phi bên ngoài
vào gia đình vô tình làm xáo trộn tâm linh của họ trở nên bất an.
*)- Không
nên đem những chuyện xấu trong gia đình đi bán rao ra ngoài cho mọi
người đều biết. Trong gia đình nếu có chuyện xấu gì, chồng vợ nên
đóng cửa để sửa đổi cho nhau, không nên nhờ người ngoài can thiệp
vào sẽ làm mất thể diện cả tông môn hai họ. Nếu như chồng vợ
không giải quyết cho nhau được thì nên nhờ đến cha mẹ hai bên đứng ra
hòa giải, hoặc chồng vợ có tín ngưỡng thì nhờ đến người lãnh đạo
tinh thần đứng ra hòa giải. Còn người ở ngoài thì không thể nào hòa
giải được và nếu như người hòa giải đó không được tốt thì tạo sự
ly gián khiến cho hai bên càng đổ vở thêm và những điều xấu trong
gia đình mình cũng vì họ không kín miệng cho nên mọi người ai cũng
biết đến.
Tâm có
hòa thuận thì chồng vợ mới có hạnh phúc và chuyện thị phi vừa trình
bày là những điều kiện khiến cho tâm của chồng vợ trở nên bất hòa
và từ đó lâu ngày nội kết sẽ đưa đến gia đình mất hạnh phúc. Đôi
chồng vợ muốn sống có hạnh phúc thì phải tu tập tịnh khẩu để tránh
những chuyện thị phi nói trên.
2.- MIỆNG HÒA KHÔNG TRANH CẢI:
(Khẩu hòa vô
tránh)
Miệng hòa
không tranh cải nghĩa là lời nói phải hòa hợp không chống đối lẫn nhau,
nghĩa là lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn. Bất kỳ
trường hợp nào, nếu có điều gì thắc mắc cần phải thảo luận, nhưng phải
trao đổi trong sự hòa nhã lễ độ để tránh sự cạnh tranh hơn thua, thù
nghịch nhau. Muốn được như vậy, trong một gia đình, chồng vợ, con cái,
anh em cần phải theo những luật lệ như sau:
1)-Nhẫn Nhục Để Vượt Qua Mọi Trở Lực:
Theo Phật Giáo, cuộc đời
luôn luôn có hai mặt: thiện và ác, tốt và xấu, thạnh và suy, ngày
và đêm, nước lớn và nước ròng. Dòng đời luôn luôn vô thường biến
đổi như dòng nước chảy và nhờ vô thường biến đổi cho nên con người
mới sống cũng như nhờ dòng nước chảy cho nên dòng nước không bị hư
thối. Cũng vì dòng đời vô thường biến đổi cho nên cuộc đời luôn
luôn xuất hiện có hai mặt vừa kể ở trên. Chúng ta hiện đang sống
trong dòng đời vô thường biến đổi và trong cuộc đời hai mặt thì làm
sao tránh khỏi những trở lực đắng cay dồn dập đưa đến. Chúng ta cũng
vì sống trong cuộc đời hai mặt và bị cuốn hút theo dòng đời vô
thường biến đổi cho nên luôn luôn gặp rất nhiều ngang trái hơn là
gặp nhiều may mắn.
Chúng ta là Phật tử đã biết
cuộc đời là như thế thì phải nên sống theo Hạnh Tùy Duyên. Hạnh Tùy
Duyên nghĩa là đời sống của mình khi gặp con nước lớn, gặp nhiều
phước lành, nhiều may mắn thì đừng tự hào buông thả, đừng tiêu hao
lãng phí cuộc đời mà phải nên chuẩn bị lúc gặp phải con nước ròng,
gặp phải thời vận suy tàn đắng cay dồn dập; còn đời sống của mình
khi gặp phải con nước ròng, gặp lúc thời vận suy tàn, gặp nhiều trở
ngại đắng cay thì cũng đừng thối chí ngả lòng, phải nhẫn nhục để
vượt qua cơn nguy khó thì nhất định sẽ gặp nước lớn trở lại, sẽ gặp
nhiều phước lành, nhiều may mắn tái diễn. Chúng ta đã biết sống theo
Hạnh Tùy Duyên nói trên, nghĩa là chúng ta đã chuẩn bị trước tư thế
thì khi gặp phải những hoàn cảnh bất hạnh như đã nói ở trên không
bao giờ bị khổ đau tuyệt vọng. Ngược lại chúng ta nếu như không biết
sống theo Hạnh Tùy Duyên, nghĩa là không biết chuẩn bị trước tư thế thì
sẽ rước lấy từ thất bại này đến thất bại khác trong cuộc đời.
Những sự
kiện trên dạy cho chúng ta rằng mình là người biết sống Hạnh Tùy
Duyên khi gặp phải những hoàn cảnh bất hạnh, những trở ngại đắng
cay dồn dập mang đến thì không nên mắng trời trách đất mà ở đây
cần phải nhẫn nhục để vượt qua và biết rằng ngày mai trời sẽ sáng
trở lại, không nên thối chí ngả lòng để rồi chính mình phải rước
lấy những bất hạnh khổ đau.
2)- Ái Ngữ Trong
Việc Đối Xử:
Ái ngữ nghĩa là lời nói thương yêu ngọt ngào.
Đôi chồng vợ hằng ngày đối sử với nhau cần phải sử dụng đến ái
ngữ. Châm ngôn thường nói: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau”.
Làm người
ai cũng có lúc lỗi lầm và ai cũng có tự ái cá nhân và không muốn
người khác phê bình những khuyết điểm của mình. Chồng hay vợ nếu như
có những khuyết điểm gì và muốn họ sửa đổi thì phải đối xử với
nhau bằng những lời ái ngữ với những nguyên tắc sau đây:
*)- Đừng
phê bình, đừng sửa chữa chồng hay vợ trước mặt mọi người hoặc trước
mặt con cái.
*)- Phải
dùng những lời ái ngữ để phê bình hay sửa chữa, nghĩa là phải ca
ngợi chồng hay vợ 80 phần trăm những hạnh kiểm ưu điểm rồi sau đó
nói một cách nhẹ nhàng những khuyết điểm để họ sửa chữa.
*)- Phải
nghe tiếng lòng của họ đừng nghe tiếng nói của họ, nghĩa là khi mình
phê bình sửa chữa chồng hay vợ, thâm tâm của họ đã biết họ có
lỗi, nhưng họ vì tự ái cá nhân cho nên vẫn cứ cải bướng không chịu
nhịn. Lúc đó chồng hay vợ phải lắng nghe khi nhận biết được tiếng
lòng của họ đã ăn năn thì làm
thinh bỏ đi chỗ khác để họ tự động âm thầm sửa chữa, đừng chấp
trước những lời cải bướng của họ mà phải đưa đến sự bất an trong
gia đình. Chồng hay vợ nếu như chấp trước những lời cải bướng của họ
thì sẽ đưa đến tình trạng họ lại trở mặt lỳ lợm không chịu sửa đổi
những khuyết điểm theo như ý mình muốn, điều đó đúng với câu tục
ngữ : “Nhân cùng tắc biến, vật cùng tắc phản”, nghĩa là con
người nếu như dồn họ vào đường cùng thì họ nghịch biến trở lại
chống mình, con vật nếu như dồn nó
vào đường cùng thì nó phản lại cắn mình.
Đây là
nguyên tắc ái ngữ để đối xử với nhau cho đẹp lòng chồng vợ và để
cho nhau hòa hợp sống chung. Đó cũng là những yếu tố trong việc xây
dựng hạnh phúc gia đình được bền lâu.
3)-Thắc Mắc Cần Phải Giải Tỏa.
Chồng hay vợ có những thắc mắc gì trong gia đình
thì phải trực tiếp trình bày thẳng với nhau mong sớm giải tỏa, đừng
để ẩn uất nội kết lâu ngày trong lòng trở thành ung thư tâm lý.
Tâm lý khi bị ung thư về những thắc mắc ẩn uất nội kết thì khó khăn
trong việc trị liệu tâm bệnh cũng như bệnh ung thư tham lam, sân hận,
si mê,..v..v.... đã nội kết lâu đời trong tâm hồn con người thì không
dễ gì xóa bỏ tận gốc rể. Tâm lý ung thư nói trên cũng là nguyên
nhân đưa đến tình trạng bất an trong gia đình khó bề hòa hợp mà gia đình
nếu như không thể hòa hợp thì việc xây dựng hạnh phúc lâu dài
không thể nào thành công tốt đẹp.
Những thắc
mắc trong gia đình muốn giải tỏa thì chồng và vợ phải thực hiện
những điều kiện sau đây:
*)- Chồng
vợ phải luôn luôn tâm niệm rằng, mình là người cột trụ trong gia
đình, là cây đại thọ làm chỗ nương tựa vững chắc và che mát cho các
con. Chồng vợ sống chung đừng tạo nên sự rạn nứt với những thắc
mắc không đâu khiến đưa đến tình trạng bất hòa trong gia đình gây ảnh
hưởng không tốt tâm lý cho con cái. Đôi chồng vợ sống chung hằng
ngày cứ mãi chạm mặt cách lòng, nghĩa là hai người thường giáp mặt
gặp nhau hằng ngày mà lòng của hai người cách xa nhau ngàn dặm là
hiện tượng tâm hồn của đôi bên không có chút hòa hợp, tình trạng
như thế chẳng những gây ảnh hưởng không tốt cho đời sống của chính
mình mà còn ô nhiễm đến tâm lý của con cái. Theo Tâm Lý Học, chồng
vợ mặc dù sống chung với nhau, nhưng tâm hồn của hai người không còn
tin tưởng với nhau để nương tựa thì nhất định mỗi người sẽ đi tìm người khác để gởi gắm tình
cảm và con cái của mình cũng vậy một khi đã mất niềm tin nơi cha mẹ
thì mặc dù sống chung với cha mẹ
nhưng với thái độ chạm mặt cách lòng của cha mẹ, chúng nó cũng sẽ
đi tìm ngưới khác bên ngoài để nương tựa. Trong một gia đình sống
chung, tâm hồn của mỗi người lại đi theo lối rẻ của mỗi ngã thì làm
sao có được hạnh phúc. Nhằm ngăn ngừa những hiện tượng không tốt
xảy đến trong gia đình, phận làm cha mẹ chồng vợ nếu có những thắc
mắc gì thì phải nên lập tức cùng nhau giải tỏa ngay, đừng tạo tình
trạng chạm mặt cách lòng xảy ra vô tình làm mất hạnh phúc cho nhau.
*)- Muốn
giải tỏa những thắc mắc nếu có, đôi chồng vợ vì hạnh phúc chung mỗi người phải có
thiện chí giác ngộ thật sự để cùng nhau hóa giải trong sạch tận đáy
lòng những nghi kỵ khiến không còn dấu vết trong tâm hồn. Nguyên tắc
giải tỏa những thắc mắc, chồng và vợ hai người phải đối diện trực
tiếp, phải đặt trên nền tảng xây dựng, phải trao đổi với nhau bằng
những lời lẽ ái ngữ, nhằm cải tiến để sống chung mà không phải để
hơn thua, trong lời nói.
*)- Sau khi
trao đổi giải tỏa xong, chồng vợ kể từ đấy trở về sau xả bỏ tất
cả những khuyết điểm đã qua xem như không có chuyện gì cả, tuyệt đối
không được nhắc đi nhắc lại nhiều lần những lỗi lầm đã được giải
tỏa. Đôi chồng vợ nếu như mỗi lần có chuyện gì xảy ra cứ mãi nhắc
lại những lỗi lầm đã qua vô tình khơi dậy sóng gió trong gia đình như
khơi lại đốm lửa đã tàn mà theo lẽ chúng nó đã tắt rụi từ lâu.
3.- Ý HÒA CÙNG HOAN HỶ:
(Ý Hòa Đồng Duyệt)
Ý hòa
cùng hoan hỉ nghĩa là tán đồng ý kiến hay, tùy hỷ học hạnh tốt,
luôn luôn vui vẻ cùng nhau. Hãy nuôi ý đẹp đối với nhau, hãy trao
dồi đức hỷ xả, đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau. Muốn được như
thế, trong gia đnh, chồng vợ, con cái, anh em cần phải theo những luật
lệ như sau:
1)- Bất Cứ Ai Có Ý Kiến Hay Nên Tán
Đồng Và Chấp Nhận:
Trong việc sống chung, bất
cứ chồng hay vợ muốn thực hiện những điều gì trước tiên phải đem ra
cùng nhau thảo luận rồi sau đó mới thực hiện. Bất cứ việc gì chồng
hay vợ không nên tự động làm theo ý riêng của mình mà không có sự
đồng ý chung. Trong gia đình nếu như các con lớn khôn và có chút hiểu
biết mà chúng nó hiện đang sống
chung với cha mẹ, cha mẹ cũng phải cho chúng nó tham gia trong việc
sanh hoạt kinh tế gia đình, nguyên vì chúng nó cũng có những ý kiến
hay đóng góp vào. Cha mẹ cho chúng nó tham gia sanh hoạt kinh tế gia
đình nhằm mục đích giáo dục chúng nó ý thức trách nhiệm của mình
đối với gia đình trong việc sống chung, nghĩa là chận đứng sự ham muốn
đua đòi quá độ của chúng nó mà kinh tế gia đình không đủ khả năng
bảo trợ. Cha mẹ nếu như không cho chúng nó tham gia sanh hoạt gia đình,
nghĩa là không cho chúng nó biết được mức độ kinh tế trong gia đình
thì chúng nó cứ tưởng rằng cha mẹ mình giàu có tiền nhiều mà chúng
nó cứ tha hồ đòi hỏi để chạy đua theo chúng bạn. Trong khi sanh hoạt
gia đình để thảo luận một việc gì, chồng vợ kể cả con cái phải theo
những nguyên tắc sau đây:
1)- Phải
chấp nhận những ý kiến nào được đa số tán thành, mặc dù đó là ý
kiến của con mình. Có được như vậy sự hợp tác sống chung mới được phát
triển trong chiều hướng đi lên. Cùng một vấn đề, mỗi người có một
ý kiến đóng góp thì mới thấy rỏ được ý kiến nào hay và ý kiến
nào dỡ, cũng như có nhiều tiếng chuông khác nhau mới biết được
tiếng chuông nào kêu thanh hơn.
2)- Không
nên cố chấp, không nên bảo thủ ý kiến sai lầm của mình.
*)- Không
nên cố chấp, nghĩa là không nên ỷ mình là cha mẹ là người lớn phủ
nhận ý kiến của con cái hay của em út. Cha mẹ cần chúng nó có
thiện chí hợp tác công việc chung mà không phải cần vai vế để rồi
chính mình phải tự bao thầu gánh vác lấy tất cả mọi công việc, còn
chúng nó buông thả đi chơi không trách nhiệm.
*)- Không
nên bảo thủ ý kiến sai lầm của mình. Ý kiến của mình không được đa
số chấp nhận có nghĩa là ý kiến của mình mặc dù rất hay nhưng không
hợp thời, không đặt đúng chỗ hoặc người trình bày không rõ ràng
khúc chiết khiến mọi người không được thông suốt. Ý kiến nào mà đa
số người sống chung đã không tán thánh, mặc dù ý kiến đó của cha
hay của mẹ cũng phải để qua một bên mà không nên bảo thủ chống
đối hay độc quyền vô tình làm hư hại tinh thần hợp tác chung. Mình
phải chờ đợi một cơ hội khác khi mọi người thông suốt ý kiến qua
sự trình bày của mình thì lúc đó mọi người sẽ dễ dàng hưởng ứng. Vì
quyền lợi chung, chúng ta phải chấp nhận ý kiến tập thể.
2)- Hãy Nuôi Ý Tốt Đẹp Đối Với
Nhau,
Hãy Trao Dồi Đức Hỷ Xả:
Theo Phật Giáo, con người là hiện thân của
nghiệp báo. Tất cả nghiệp nào là tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến,..v..v.... hiện đang lên ngôi làm chủ điều khiển cuộc sống của
con người. Như nghiệp tham, sân, si mà ai cũng biết chúng nó là những
thứ tai họa nguy hiểm cho sự sống còn của con người và hiện nay
chúng nó đang có mặt trong tâm hồn con người. Chúng nó khi tác dụng
chỉ đạo thì mọi sự sanh hoạt của con người trở nên xấu xa tội lỗi.
Nhưng con người muốn diệt chúng nó không phải là dễ, đòi hỏi rất
nhiều công phu tu tập lâu đời mới có thể kềm chế được chúng. Cũng
vì những thứ bệnh nghiệp nói trên con người thường phải vướng mắc
những tật xấu như sau:
*)- Con
người, nhất là chồng vợ khi mới quen nhau và đối xử với nhau thì tỏ
ra cung cách rất lịch sự, rất lễ phép hay nói cách khác là rất văn
hóa. Khi sống chung với nhau, con người thường hay lờn mặt, không giữ
kẻ với nhau cho phải cách, trao đổi qua lại nhau với thái độ khinh
lờn, xưng hô mầy tao mi tớ với lời lẽ khiếm nhã thô tục..v..v.... Những
cử chỉ không tốt đẹp này khiến cho chồng hay vợ mất mặt với mọi
người với bạn bè nhất là mất mặt với con cháu trong gia đình.
Chồng vợ
muốn được hạnh phúc gia đình bền lâu, việc nhỏ nhặt thường tình này
cũng cần phải chú ý, cần cố gắng cư xử với nhau luôn luôn qua
những thái độ, những cử chỉ, những lời nói, những hành động tốt
đẹp như lúc ban đầu hai bên mới gặp nhau, nhất là trước mặt con cháu
hay trước mặt mọi người.
*)- Chồng hay vợ trước khi gặp nhau hay
sau khi gặp nhau, nay đã sống chung với nhau, nếu như họ có những lỗi
lầm nào hay có những khuyết điểm nào mà họ đã ăn năn hay đã sám
hối thì không nên cố chấp, phải bỏ ra ngoài tâm tư định kiến cho
thật xa nghìn dặm và thân thiết với nhau bằng tâm hồn độ lượng hỷ
xả tha thứ tất cả không còn chút ấn tượng nào vướng mắc bợn nhơ
trong tâm tư, để cho hai bên khỏi bị mặc cảm lo âu khổ não suốt đời
vì những chuyện đau thương ấy.
4.- GIỚI HÒA
CÙNG TU TẬP:
( Giới Hòa Đồng Tu)
Giới hòa cùng tu tập nghĩa là giới luật cùng
nhau học tập và hành trì. Tôn Giáo thì có luật lệ của tôn giáo,
Quốc gia thì có luật pháp của quốc gia, Gia đình thì cũng phải có
luật lệ của gia đình. Luật lệ của gia đình là để quy định trật tự
giữa chồng vợ và con cái. Gia đình muốn bảo vệ hạnh phúc bền lâu
thì phải:
1)- Giữ Tròn Luật Lệ Gia Đình:
Giữ tròn luật lệ của gia đình nghĩa là chồng vợ
phải ra chồng vợ, con cái phải ra con cái trong trật tự của xã hội
gia đình.
Gia đình, theo
Phật Giáo là một tập thể nhỏ, một xã hội nhõ cũng phải có luật
lệ của gia đình cũng như Hội Đoàn đã có luật lệ của họ gọi là Quy
Chế hay Điều Lệ để quy định trật tự của tổ chức. Luật lệ của gia
đình là một luật pháp quy định giá trị và nghĩa vụ trong sự sanh hoạt
sống chung của một tập thể, nghĩa là mỗi người trong gia đình phải
học tập, phải giác ngộ tư cách của mình, bổn phận của mình thể hiện
được giá trị làm một người chồng, một người vợ, một người con mẫu
mực trong việc sống chung. Trong một gia đình, mỗi người sống buông
thả theo sở thích riêng tư của mình mà không có luật lệ nào kềm
thúc họ đi đúng theo nếp sống chung của tập thể, sống theo chủ nghĩa
cá nhân thì sẽ bị rơi vào tình trạng sa đọa nan giải. Phần đông nhiều
gia đình không có soạn thảo luật lệ cho việc sống chung thành thử,
chồng, vợ, con cái, mỗi người cứ sống theo chủ nghĩa cá nhân, nghĩa
là mạnh ai cứ sống theo sở thích riêng tư của mình một cách do dục
vọng lôi cuốn không thể tự kềm chế được, cho nên một số gia đình
gặp nhiều sóng gió nổi dậy gây đau khổ cho nhau triền miên. Nhờ
luật lệ gia đình, mỗi người mới có thể kềm thúc được phần nào dục
vọng buông thả của mình đi vào mực thước của lề lối sống chung. Có
một số người nói rằng, chồng vợ cải vã với nhau sống mới có ý
nghĩa. Họ nói như thế có nghĩa là họ nói liều mạng mà không biết
rằng những hành động nói năng của họ gây ô nhiểm cho tâm hồn các
con cái, làm chúng mất lý tưởng nơi cha mẹ, có đứa bỏ nhà ra đi
sống riêng, có đứa tỏ thái độ lầm lì bất kính, đồng thời họ tự
châm ngòi lửa sân hận đốt cháy cuộc sống hạnh phúc lứa đôi.
2)- Giác Ngộ Lý Nhân Quả Để Tránh
Những Thói Hư Tật
Xấu Của Xã Hội.
(Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng).
Theo giáo
lý Phật Giáo, lý nhân quả là một định luật tất nhiên và thiết yếu
trong vũ trụ, chi phối tất cả sanh mệnh của vạn pháp, nghĩa là sự
thành hình của vạn pháp trong vũ trụ đều do nhân quả quyết định cả.
Trong vũ trụ, con người có thể trốn khỏi luật pháp xã hội, nhưng
không thể trốn khỏi luật pháp nhân quả.
Trong xã
hội, con người thích uống rượu là nguyên nhân rồi bị nghiện rượu say
sưa là kết quả, con người thích cờ bạc là nguyên nhân rồi bị mê cờ
bạc sạt nghiệp là kết quả, con người thích làm nghề ăn trộm là
nguyên nhân rồi bị tù đày là kết quả,..v..v..... Lý Nhân quả quan
hệ chặt chẽ đến ba đời trong sự báo ứng của con người. Đức Phật đã
dạy trong Kinh Nhân Quả: “Dục tri tiền thế nhân kim sanh thọ
giả thị, yếu tri hậu thế quả kim sanh tác giả thị”, nghĩa là muốn biết nguyên nhân ở kiếp trước của
mình như thế nào thì hãy xem chính mình ở kiếp này đang thọ quả báo
như thế nào, muốn biết quả báo ở kiếp sau của mình như thế nào thì
hãy cần xem hiện nay chính mình đang gây tạo những nguyên nhân gì.
Từ những
nguyên lý đó, xã hội ngày nay tràn ngập những điều xấu xa tội lỗi
và cũng tràn ngập những điều phước đức thánh thiện, tất cả đều là
thành quả của chúng sanh gây tạo những nguyên nhân thiện ác ở kiếp
trước. Cũng vì lý nhân quả nói trên, chúng ta nên tránh xa những
điều xấu xa tội lỗi trong xã hội để khỏi vướng mắc những nguyên
nhân không tốt cho cuộc sống làm người. Chúng ta nên biết rằng, tâm
của chúng ta như máy chụp ảnh, nếu như chụp lấy những hình xấu xa
tội lỗi vào tâm làm nguyên nhân, rồi một ngày kia những nguyên
nhân đó xuất hiện lôi chúng ta đi vào những con đường quả báo tội
lỗi không thể nào tránh khỏi. Chúng ta thà rằng tránh xa những chỗ
xấu xa tội lỗi vừa kể đừng để bị vướng mắc vào tâm thì nhất định
cuộc sống của chúng ta sẽ được an nhiên tự tại, cũng như chúng ta không
nên thức khuya thì nhất định không bị buồn ngủ.
3)- Trau Dồi Trí Tuệ Sáng Suốt Để
Giải
Quyết Mọi Vấn Đề Gia Đình (văn,
tư, tu).
Trí tuệ (Intelligence) là một loại trí thông minh
lanh lợi và loại trí tuệ này mới sáng suốt để giải quyết mọi hoàn
cảnh thuận duyên hay nghịch duyên đưa đến trong gia đình. Trí tuệ này
được phát sanh từ Phật Trí và được đào luyện qua Văn huệ, Tư huệ, Tu
huệ, ba môn học vô lậu giải thoát của Phật Giáo. Văn Huệ là trí
tuệ được thể hiện từ nơi học kinh nghe pháp, lão thông Kinh Luận của
Phật Giáo một cách thâm nhập. Tư Huệ là trí tuệ được thể hiện từ
nơi sự tư duy thấu triệt yếu chỉ thâm sâu của đức Phật ẩn mật trong
các Kinh Luận. Tu Huệ là trí tuệ được thể hiện từ nơi tu luyện đạt
đạo các yếu chỉ trong các Kinh Luận.
Loại trí
tuệ nói trên khác hơn loại trí tuệ thế gian. Loại trí tuệ thế gian
là loại trí tuệ học rộng hiểu sâu các pháp trong thế gian để trở
thành nhà thông thái bác học. Nói cách khác loại trí tuệ thế gian
được phát sanh từ các dữ kiện tổng hợp duyên sanh trong thế gian mà
nó không phải phát khởi từ nơi Phật Trí nên gọi là Thế Gian Trí.
Cũng vì thế loại trí tuệ thế gian không có khả năng hóa giải tận
nguồn gốc khổ đau của tất cả tâm bệnh chúng sanh; thí dụ như các
nhà bác học thuộc về loại trí tuệ thế gian cho nên vẫn bị vướng mắc
khổ đau về vấn đề hạnh phúc gia đình mà không có lối thoát. Trái
lại trí tuệ phát sanh từ Phật Trí thì có khả năng chuyển hóa tận
nguồn gốc khổ đau của chúng sanh kể cả những nguồn gốc gây khổ đau
cho nếp sống hạnh phúc gia đình.
Chồng vợ
muốn trau dồi trí tuệ thuộc Phật Trí để giải quyết mọi vấn đề hạnh
phúc gia đình thì cả hai người phải chuyên cần học tập và hành trì
Phật Pháp; giống như trong xã hội, con người muốn có trí tuệ thế gian
thì cũng phải đổ vào đó rất nhiều công sức học tập trải qua nhiều
thời gian mới gặt hái được thành quả danh phận. Điều đặc biệt trong
Phật Giáo, mỗi người tu học đến đâu thì tự nhiên cảm thấy sự an
lạc trong tâm hồn đến đó, nghĩa là người học tập cơ bản thì cảm
nhận được những sự an lạc trong cơ bản, người học lên cấp cao thì
cảm nhận được những sự an lạc trong cấp cao, học tập càng lên cao
thì cảm nhận những sự an lạc càng cao hơn, cũng như người đang bệnh hoạn
nếu như được uống thuốc vào thì cảm thấy khỏe lần và càng uống
nhiều thuốc theo bác sĩ quy định thì cảm thấy khỏe khoắn vì bệnh tình
của mình đã được dứt hẳn. Theo Phật Giáo, người trao dồi trí tuệ
không cần đòi hỏi phải được lên cấp mà ở đây đòi hỏi người tu
học phải có thiện chí, thiện chí càng cao thì sự an lạc tâm hồn càng
sâu.
Nói tóm
lại, chồng vợ muốn đạt được hạnh phúc thật sự đúng với ý nghĩa
của nó thì mỗi người trong gia đình cần phải tiến tu đạo nghiệp, trao
dồi trí tuệ sáng suốt để chọn lấy hướng đi đích thực và áp dụng
phương châm thực tánh cho việc xây dựng nếp sống lý tưởng an lạc
bền lâu.
4)- Lấy Đạo Đức Từ Bi Cư Xử Với Nhau:
Hai chữ Từ
Bi của Phật Giáo có ý nghĩa khác hơn tình thương hay tình yêu của thế
gian. Tình thương hay tình yêu của thế gian đều có mặt trái của chúng,
nghĩa là thương không được thì ganh ghét và yêu không được thì hận
thù. Từ bi của Phật Giáo không có vấn đề ganh ghét hay hận thù. Từ
bi của Phật Giáo với trạng thái tâm lý chỉ biết hành động cho ra
với lòng vị tha vô ngã không có sự mong cầu đền đáp. Từ bi theo
tiếng Phạn, Từ là Maitrya nghĩa là hành động ban vui đến với chúng
sanh hay nói một cách khác là tôn trọng sự sống, sự hạnh phúc của
chúng sanh và Bi là Karuna, nghĩa là cứu khổ cho chúng sanh hay nói
một cách khác là bảo vệ sự sống còn của chúng sanh. Hai chữ từ bi
ghép chung lại ý nghĩa là hành động với tâm nguyện bảo vệ sự sống
còn của chúng sanh và mang lại hạnh phúc an vui thât sự cho chúng sanh
mà không phân biệt những chúng sanh đó thuộc về người thân thiết
hay sơ giao, thuộc về người thù nghịch hay thân thương. Người thật hành
đạo đức từ bi phải là người xả kỷ vị tha, chọn lấy sự sống của
người khác làm sự sống của mình, nghĩa là mượn chúng sanh bên ngoài
để diệt tâm chúng sanh của mình. Tâm chúng sanh của mình chính là tâm
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến,..v..v.... mà chúng đã ẩn núp trong
tâm hồn của con người. Mượn chúng sanh để diệt chúng sanh tâm nghĩa
là mượn hoàn cảnh bên ngoài để trắc nghiệm sự tu tập trong sự diệt
khổ của chúng ta, mượn những hoàn cảnh trái ngang của chúng sanh để
trắc nghiệm những phiền não trong tâm của mình còn hay đã mất. Người
thật hành đạo đức từ bi đối xử với mọi người, nhất là đối xử với
gia đình phải giống như một người mẹ đối xử với những đứa con thân
yêu của mình, cũng giống như một gà mẹ đối xử với bầy gà con của
nó. Cha mẹ đối xử với con cái bằng tình thương thì có sự phân biệt,
có đứa thương có đứa ghét, có đứa thương nhiều có đứa thương ít, do
đó sẽ tạo ra sự bất an trong gia đình; còn cha mẹ đối xử với con cái
bằng từ bi thì hành động hy sinh không có sự phân biệt cũng giống
như gà mẹ trang trải tình nghĩa cho đoàn gà con của nó và không cần
đòi hỏi chúng nó biết ơn hay trả ơn. Sự khác biệt giữa tâm từ bi
và tâm tình thương:
*)- Tâm từ
bi thể hiện qua hành động vị tha không vị kỷ với châm ngôn là “Đạo
cần ta đến chúng sanh cần ta đi không nệ gian lao
không từ khó nhọc”,
*)- Tâm
tình thương thể hiện qua hành động vị kỷ hơn vị tha, chuyên lánh nặng
tìm nhẹ, chỗ nào dễ thì đến giúp , chỗ nào thấy khó thì tránh mặt.
Thích chỉ huy mà không thích dấn thân.
*)- Tâm từ
bi đặt trên nền tảng thi ân bất cầu báo, nghĩa là mình thi ân không
cần họ biết ân và không cần họ đền đáp ân nghĩa.
*)- Tâm
tình thương đặt trên nền tảng thi ân cầu báo, nghĩa là mình thi ân
nhưng đòi hỏi họ phải biết ân và họ phải đền đáp ân nghĩa.
*)- Tâm từ
bi không phân biệt kẻ thân người sơ, kẻ thương người thù, nghĩa là
bất cứ ai đau khổ thì mình sẵn sàng hy sinh cứu giúp.
*)- Tâm
tình thương thì phân biệt kẻ thân người sơ, kẻ thương người thù, nghĩa
là mình dành ưu tiên cho người thân nhiều hơn người không thân, kẻ
thương thì mình sẵn sàng giúp đỡ, còn kẻ thù thì làm lơ.
*)- Tâm từ
bi không bao giờ cầu danh, nghĩa là mình hành động bằng cách vô danh,
không cần ai biết đến.
*)- Tâm
tình thương thì cầu danh, nghĩa là quảng cáo để cho mọi người đều biết
đến tình thương của mình.
Chúng ta
nên biết, gia đình là một xã hội nhỏ sẽ có những hoàn cảnh bất an
đưa đến tạo cho nhau những sự khổ đau ngăn cách. Chỉ có từ bi mới
xóa hết mọi khổ đau và ngăn cách. Cho nên đôi chồng vợ phải lấy
đạo đức từ bi cư xử với nhau mới có thể ngăn ngừa những bất hạnh
đưa đến cho gia đình mất hạnh phúc. Muốn được như thế, chồng vợ mỗi
người phải chuyên cần tu luyện đạo đức từ bi.
5)- Tu Tập Giới Luật Đã Thọ Cho
Được
Thanh Tịnh Để Tiêu Biểu Đạo Đức
Làm Người.
Giới luật
đạo đức làm người theo Phật Giáo chính là Ngũ Giới và theo Nho Giáo
chính là Ngũ Thường. Ngũ Giới của Phật Giáo và Ngũ Thường của Nho
Giáo mặc dù danh nghĩa khác nhau nhưng ý nghĩa và giá trị không khác
nhau, cả hai đều là luật pháp dùng để xây dựng nhân cách làm
người. Pháp số của Ngũ Giới gồm có: Không Sát Sanh, Không Trộm
Cắp, Không Tà Dâm, Không Vọng Ngữ, Không Uống Rượu. Pháp Số của
Ngũ Thường gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Sự quan hệ
của Ngũ Giới và Ngũ Thường như sau:
1)- Nhân
Bất Sát: nghĩa là có lòng mhân từ
thì
không được sát sanh.
2)- Nghĩa
Bất Đạo: nghĩa là có đạo nghĩa thì
không
được trộm cắp.
3)- Lễ Bất
Dâm: nghĩa là người có lễ độ thì
không
được tà dâm.
4)- Trí Bất
Ẩm: nghĩa là người có trí thì
không
được uống rượu.
5)- Tín Bất
Vọng: nghĩa là người có sự tin
cậy
thì không được nói láo.
Còn sự
khác nhau giữa Ngũ Giới và Ngũ Thường như là:
*)- Ngũ
Thường thì chỉ học tập để thật hành
mà
không có phát nguyện hành trì để tu
tập.
*)- Ngũ
Giới ngoài sự học tập để hiểu biết
mà
còn phải phát nguyện hành trì và tu
tập.
*)- Ngũ
Thường thì chỉ chú trọng nơi lời nói
và
hành động mà không chú trọng nơi tư
tưởng.
*)- Ngũ
Giới ngoài sự chú trọng nơi lời nói và
hành động mà còn chú trọng nơi tư
tưởng,
nguyên
vì tư tưởng chỉ huy lời nói và
hành
động.
Do đó, con
người phải tu tập giới luật đã thọ cho có chất lượng tốt, nhờ có
chất lượng tốt thì mới có giới đức tốt, nghĩa là có hương thơm giới
đức thể hiện nơi con người, nhờ có giới đức tốt thì mới có giới
thân (có giới tướng: tướng tu), có huệ mạng (mạng sống có trí tuệ
sáng suốt) tốt để chỉ đạo cuộc sống làm người. Cho nên đôi chồng
vợ, nếu là Phật Tử muốn có hạnh phúc chân thật đích thực của nó
thì phải chuyên cần tu tập giới luật đã thọ cho được thanh tịnh.
5.- KIẾN HÒA CÙNG NHAU GIẢI BÀY:
( Kiến Hòa Đồng
Giải )
Kiến hòa cùng nhau giải bày, nghĩa là thấy biết
những điều hay lẽ phải thì giải bày cho nhau cùng hiểu. Trong một gia
đình, trình độ kiến thức của mọi người có ngang nhau thì mới cảm
thông với nhau, cho nên chồng vợ mỗi người phải:
1)- Trao Đổi Ý Kiến Với Nhau Cùng
Hiểu:
Bước chân vào đời, không ai tự hào rằng mình
thông hiểu hết mọi mặt của lẽ sống và cũng không ai có kinh nghiệm
lão luyện hết mọi nghề theo nhu cầu cho gia đình mà không cần đến sự
học hỏi của kẻ khác, nhất là sự phức tạp của xã hội quan hệ đến
cuộc sống của con người. Người giỏi về phương diện kỷ sư nông nghiệp
nhưng không giỏi về ngành khoa học cơ giới, người giỏi về ngành bác
sĩ trị liệu thân bệnh nhưng không giỏi về chuyên môn trị liệu tâm
bệnh,..v..v.... Trong tinh thần duyên
sanh, sự sống còn của chúng ta không thể thiếu những ngành chuyên
môn cung ứng, kể cả chuyên môn về tinh thần cho mặt tâm linh. Do đó
chúng ta cần phải thâu thập những ý hiến hay bên ngoài để bổ túc
cho đời sống của chúng ta mỗi ngày được tốt đẹp hơn. Cho nên một gia
đình muốn đạt được những thành quả tốt đẹp cho cuộc sống, người
chồng hay người vợ, bất cứ ai đã thâu thập được bất cứ điều gì hay
hoặc những kinh nghiệm nào tốt ở bên ngoài cần phải trao đổi cho
nhau cùng hiểu cùng thông suốt để cùng nhau chia xẻ và cùng bổ túc
cho nếp sống gia đình ngày thêm thăng tiến. Có hiểu biết có thông
suốt như nhau thì mới có sự hòa hợp cùng một nhịp điệu trong việc
xây dựng hạnh phúc gia đình. Đã sống chung với nhau nếu kiến thức
bất đồng, không cùng hiểu biết, không cùng thông suốt, kẻ thì thấy
xa, người thì thấy gần, kẻ thì quan niệm sâu sắc, người thì quan niệm
nông cạn, tình trạng như thế thì không thể nào thành công trong cùng
một ý hướng xây dựng.
Nhưng chúng
ta cần nên nhận thức rằng, không phải tất cả những điều tốt trong
xã hội đều là nhu cầu thiết yếu của gia đình mà ở đây chúng ta cần
phải biết sống hạnh tùy duyên theo hoàn cảnh, nghĩa là phải biết
chọn lựa những điều tốt nào quan hệ không thể thiếu sự có măït
của nó trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình làm cẩm nang cho đời
sống. Nói cách khác, chúng ta nên lấy gia đình làm nền tảng và chọn
những điều tốt nào theo nhu cầu của gia đình mà không nên chạy theo
sự phồn hoa của xã hội mà khả năng gia đình không đáp ứng nỗi,
đúng với châm ngôn: “Liệu cơm gắp mắm”.
Nói tóm
lại, sống chung trong một gia đình, chúng ta cần phải trao đổi với nhau
những ý kiến hay và những điều kinh nghiệm tốt mà chúng ta đã thâu
nhặt được từ bên ngoài để cùng nhau hiểu biết cùng nhau chia xẻ và
chỉ áp dụng những hiểu biết nào, những kinh nghiệm nào mà nhu cầu
gia đình cần thiết phải có.
2)- Chia Xẻ Với Nhau Khi Bị Thất Bại:
Trên tinh thần đồng lao cộng khổ, vui cùng hưởng
khổ cùng chịu, chồng vợ khi người nào gặp phải những hoàn cảnh trái
ngang như bị thất nghiệp hay làm ăn bị thất bại..v..v.... thì người kia
phải có tinh thần thông cảm, nên chia xẻ và an ủi, khuyến khích cho họ
lên tinh thần để đủ sức đương đầu với những trở ngại dồn dập đưa
đến. Trong những hoàn cảnh đó, người chồng hay người vợ khi gặp đôi
chút khó khăn không nên có thái độ phũ phàng trách móc đối với
bạn đời của mình đang trong tình trạng khổ đau lo lắng và cũng không
nên tự mình rẻ sang lối khác chạy theo sự tham vọng riêng tư vô tình
đưa tâm trạng kẻ bị thất bại vào con đường quẩn trí đồng thời cũng
gây tạo cho gia đình đáng lý phải được êm ấm hạnh phúc trở nên xáo
trộn bất an đốt cháy niềm tin của nhau.
Con người
nên biết rằng cuộc đời không phải tuyệt đối, luôn luôn có hai mặt:
có tốt có xấu, có thạnh có suy, có lúc sung sướng tràn đầy và
cũng có khi đau khổ giăng mắc bủa vây. Con người sống trong cuộc đời
khi nắm bắt được những may mắn đến với mình không nên có thái độ
tự hào và khi gặp lúc những bất hạnh bủa vây cũng không nên thối
chí ngả lòng mà phải giữ vững niềm tin chờ cơ hội một ngày nào đó
bình minh sẽ trở lại.
Giữ vững
niềm tin có nghĩa là giữa chồng và vợ phải hợp tác chặt chẽ với
nhau, chia xẻ niềm đau cho nhau trong mọi hoàn cảnh để đủ can đảm đương
đầu trước những khó khăn mang đến và tin tưởng đời sống của mình sau
cơn gió lốc đi qua nó sẽ tươi sáng trở lại.
Muốn giữ vững niềm tin để chia xẻ với
nhau khi bị thất bại, chồng và vợ phải chọn lấy hạnh phúc gia đình
làm nền tảng căn bản để vượt qua mà ở đây không phải chọn lấy
chủ nghĩa cá nhân làm nhu yếu cho lẽ sống. Chồng hay vợ nếu như chọn
lấy chủ nghĩa cá nhân làm nhu yếu cho lẽ sống thì vô tình đạp đổ
nền tảng hạnh phúc gia đình trong việc sống chung trở nên rả nát và
cũng từ đó hạnh phúc cá nhân sẽ mất đi điểm tựa về mặt tâm linh
rồi đưa đời sống con người tuột dần xuống vực thẩm của hố sâu đau
khổ. Cho nên đôi chồng vợ phải ý niệm rõ tinh thần đồng lao cộng
khổ mặc dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc đời thăng hay trầm,
vinh hay nhục cùng nhau đồng tâm chia xẽ một cách chân thành thì
không bao giờ cản trở được bước tiến của mình trên con đường xây
dựng nếp sống an lạc hạnh phúc chân thật.
3)- Biết Cách Sống Để Được Hạnh Phúc
Bền Lâu:
Cổ Đức có câu: “Khôn
cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống”. Khôn gọi
cho đủ là khôn ngoan lanh lợi, nghĩa là người có trí khôn biết phân
biệt lợi hại phải quấy, biết hoạt bát xoay trở, biết cách nói năng
lanh lợi hấp dẫn. Dại là dại khờ đần độn, nghĩa là người ngu dại
tối dạ, chậm chạp, ít hiểu biết, ít phân biệt phải quấy, thua kém
đủ mọi mặt. Biết là nhận biết, nghĩa là người nhận chân được sự
việc đã xảy ra và biết mình sống như thế nào cho hợp lý.
a)- Khôn Cũng Chết:
Chữ chết
ở đây có nghĩa là bị chết vì đói khổ. Khôn cũng chết, nghĩa là người khôn ngoan lanh lợi rồi sẽ
bị chết vì đói khổ do bởi thất bại mọi mặt trong trường đời. Trong
trường đời, người nào tỏ ra mình khôn ngoan lanh lợi xuất sắc hơn hết
thì sẽ bị mọi người ganh ghét và mỗi khi ganh ghét thì họ tìm đủ mọi
cách bao vây, ruồng bỏ, cô lập, nhằm mục đích phá hoại bước tiến của
họ không cho ngóc đầu lên trong xã hội và cố đẩy họ rơi vào hố
thẩm của khổ đau trong cuộc đời cho thỏa dạ.
Theo lẽ sự
sống của chúng ta quan hệ chặt chẽ vô cùng với xã hội trong mọi
hoàn cảnh với tinh thần đùm bọc chở che đúng với câu tục ngữ: “Bà
con xa không bằng lối xóm gần” mà ở đây chúng ta vì nổi bật
sự khôn ngoan lanh lợi cho nên bị xã hội ganh ghét ruồng bỏ thì làm
sao sóng yên gió lặng được, vì thế châm ngôn mới có câu “Khôn cũng chết”.
b)-
Dại Cũng Chết:
Dại cũng chết, nghĩa là người dại khờ đần
độn thiếu hiểu biết, gặp đâu tin đó cho nên thường bị người đời lợi
dụng đến tận cùng xương tủy, đến khi hết sôi rồi việc liền bị đào
thải, vắt chanh bỏ võ, sống lây lất bên dĩa hè của xã hội cho đến
trút hơi thở cuối cùng, vì thế châm ngôn có câu “Dại cũng chết”.
c)-
Biết Mới Sống:
Biết mới sống, nghĩa là người phải biết
cách sống mới được hạnh phúc bền lâu. Người biết cách sống nghĩa
là người không phải hạng dại khờ đần độn và cũng không phải thuộc
về hạng khôn ngoan lanh lợi như trình bày ở trước.
*)- Hạng
dại khờ đần dộn là hạng không có trí tuệ sáng suốt và hạng này
cần tu tập đào luyện để có trí tuệ sáng suốt; người có trí tuệ
sáng suốt mới có thể chẳng những hiểu rõ mặt thật và mặt trái
của tất cả pháp mà còn có thể hiểu rõ toàn diện và cả đến chiều
sâu (phía bên trong) của tất cả pháp.
*)- Còn hạng khôn ngoan lanh lợi cũng không
phải là hạng có trí tuệ sáng suốt. Hạng khôn ngoan lanh lợi luôn
luôn sống bằng xảo thuật để đạt đến mục tiêu của sự ham muốn mà
không thấy được những tai họa ở phía sau, chỉ biết những lợi dưỡng
trước mắt mà không đoán được những biến cố sẽ đưa đến ở tương lai.
Đã vậy khi đắc thế họ còn thường hay tỏ thái độ cao ngạo tự đắc
mục hạ vô nhân.
*)- Riêng
hạng biết cách sống để được hạnh phúc là hạng người có trí tuệ
biết trước được những hậu quả của sự việc và biết dự trù để
tránh khỏi những hậu quả đó xảy đến. Nghĩa là hạng người biết cách
sống phải có trí tuệ nhận thấy rõ rằng cuộc đời luôn luôn nằm
trong vòng tương đối hết ngày rồi đến đêm hết đêm rồi đến ngày,
hết nước lớn rồi đến nước ròng hết nước ròng rồi lại đến nước
lớn , hết thạnh rồi đến suy hết suy rồi lại đến thạnh, hết may mắn
rồi đến rủi ro hết rủi ro rồi đến may mắn trở lại, không có gì
tuyệt đối cả, cứ xoay tròn mãi cho đến bất tận, đó là định luật vô
thường và luân hồi cố hữu của vũ trụ và tất cả pháp hữu vi trong
đó có chúng ta đều không thoát khỏi hai định luật này chi phối.
Người biết
cách sống, khi được may mắn, gặp chỗ làm ăn phát tài đừng tự hào,
đừng buông thả, phải dự trù khi bị thất nghiệp và nếu có dự trù
trước khi bị thất nghiệp khỏi phải lo âu mọi mặt, chờ thời gian hết
cơn bỉ cực đến hồi thới lai, rồi sẽ có chỗ làm ăn khác phát triển
trở lại, các việc khác cũng thế. Hơn nữa mình trong lúc được hưng
thạnh, không ỷ lại tài năng, không tự phụ sự khôn ngoan lanh lợi,
tạo được sự thương yêu với mọi người, nhờ đó khi bị sa chân thất
thế được mọi người chung quanh thương yêu che chở yên lòng trong thời
gian chờ cơ may sẽ đến. Nguyễn Du thường nhắc nhỡ rằng: “Có
tài đừng cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần”,
nghĩa là người biết sống theo tinh thần duyên sanh thì đừng cậy nơi
tài năng khôn ngoan lanh lợi của mình mà phải cần đến mọi người
chung quanh tin tưởng thương yêu hổ trợ, che chở khi gặp phải cơn mưa
nắng trở trời. Những hạng thấy rõ thế sự cuộc đời luôn luôn đổi
thay như thế và theo tình thế sống biết dự trù trước chính là những
người biết cách sống để được hạnh phúc bền lâu.
4)- Khuyến Khích Nhau Trong Việc
Tu Học, Phước Thiện:
Như chúng
ta đã biết, thân bệnh thì nhờ y dược của bác sĩ để trị liệu, còn
tâm bệnh thì phải nhờ đến pháp
dược của đức Phật trị liệu mới có thể an lành. Pháp dược của đức
Phật chính đức Phật đã ra toa sẵn và theo đức Phật chính mình tự trị
liệu cho mình mà không ai có thể thay thế trị liệu cho mình, nghĩa là chính
mình phải tự uống lấy mà không ai có thể kể cả đức Phật uống thế
cho mình. Nói cách khác đức Phật muốn cho mình trở thành một vị lương
y để chính mình tự trị lấy cho mình. Muốn trở thành vị lương y để trị
tâm bệnh, theo Phật dạy chúng ta phải chuyên cần tu học Phật Pháp
là những toa thuốc Dược Vương Dược Thượng tự uống vào mới ngỏ hầu
giải thoát căn bệnh khổ đau trầm kha trong tâm linh của chúng ta và
nhờ đó những hạnh phúc thực sự chân thật mới gặt hái được cho
mình. Đức Phật chỉ là người gia hộ yểm trợ phương tiện mà không phải
là người cứu rổi hay chuộc tội cho mình. Thế nên đôi chồng vợ muốn đạt được
hạnh phúc chân thật bền lâu cần phải khuyến khích nhau tu học Phật
Pháp để trở thành vị lương y thâm diệu trong việc trị liệu tâm bệnh
cho nhau.
Ngoài ra,
chúng ta phải phát tâm làm những việc phước thiện để bồi dưỡng tâm
linh cho thêm tăng trưởng đạo lực từ bi, cũng như một người bệnh
nặng sau khi được lành, cần phải uống thuốc bổ bồi dưỡng thân thể
để sức khỏe sớm được bình phục. Từ bi là chất liệu sống và ý nghĩa
của sự sống an lạc mà tất cả chúng sanh trong tinh thần duyên sanh
không thể thiếu trong sự kiến tạo hạnh phúc chân thật cho con người.
Chất liệu từ bi có khả năng hóa giải mọi mâu thuẩn hận thù và
kết nối thân thương mọi khuynh hướng dị biệt trở thành chất keo sơn
hòa hợp trong cộng đồng duyên sanh. Tâm từ bi muốn cho phát triển
lớn mạnh thì môi trường căn bản nhất không ngoài làm việc phước
thiện. Người làm việc phước thiện là người trải tâm từ bi đến với
những nơi phước thiện mà mình thật tâm trang trải và những phước
thiện đó chính là nhân tố ảnh hưởng trở lại tâm mình biến thành
quả lành bồi dưỡng tâm từ bi của mình trưởng thành nhân tố phát
triển.
Tóm lại
người muốn được hạnh phúc chân thật thì điều kiện cần thiết phải
thực hiện cho kỳ được hai yếu tố tu tập và làm việc phước thiện
nhằm hóa giải những nghiệp khổ đau và phát triển đạo lực tâm từ bi
cho nếp sống được thăng hoa thánh thiện.
6.- LỢI HÒA CÙNG CHIA XẺ:
(Lợi Hòa Đồng Quân)
Lợi hòa
cùng chia xẻ nghĩa là những tài lợi hay đồ dùng thu thập được phải
phân chia đồng đều cho những người cùng sống chung với mình, hoặc
cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng hay giành phần
nhiều về mình. Theo tinh thần lợi hòa cùng chia xẻ chúng ta phải thực
hiện những điều sau đây:
1)- Không Được Riêng Tư Quyết Định:
Tài sản trong gia đình là của chung, thuộc của
chồng công vợ và tài sản đó muốn thực hiện vào việc gì thì phải
có sự đồng ý của chồng hay của vợ, không được tự mình riêng tư
quyết định.
Của chồng
công vợ nghĩa là gì? Của chồng nghĩa là tiền của và sự nghiệp của
gia đình sở dĩ có được chính là do công lao của người chồng đứng ra
gầy dựng nên, cho nên gọi là của chồng. Công vợ nghĩa là người vợ
có công thay thế chồng quản lý tiền của và bảo trì sự nghiệp gia
đình được tồn tại bền lâu chính là công lao của người vợ, cho nên
gọi là công vợ. Đây là cách sống chung của luân lý thời xưa. Theo
luân lý thời xưa, người chồng thì đóng vai tùng quân, cột trụ của
gia đình, có trách nhiệm đối ngoại, giao dịch với mọi từng lớp xã
hội để tạo dựng sự nghiệp cho gia đình; còn người vợ thì thuộc về
hạng cát đằng nương bóng tùng quân, đóng vai nội trợ, thay mặt chồng
đối nội, có nhiệm vụ trông nom tài sản của chồng, sắp xếp gia đình
trên dưới có trật tự, trong ngoài có ngăn nấp đâu ra đó để tài
sản và sự nghiệp của chồng khỏi bị thất thoát hư hao. Thế nên tục
ngữ mới có câu: “Của chồng công vợ”.
Theo xã
hội ngày nay, chồng và vợ cả hai cùng nhau tạo dựng sự nghiệp gia
đình cho việc sống chung và quyền lợi sở dĩ có được không riêng gì
của chồng hay của vợ mà cả hai đều đầu tư công sức vào đó cả mồ
hôi và nước mắt. Những tài sản nói trên chẳng những người chồng
mà cho đến người vợ đều có quyền hưởng thụ. Nhưng với những tài
sản đó muốn sử dụng vào bất cứ việc gì, người chồng hay người vợ
không được độc quyền chi tiêu riêng tư mà không có sự đồng ý của
hai bên, nghĩa là hai người không được quyền có túi hò túi xê của
tài sản chung nói trên. Người chồng hay người vợ muốn hưởng thụ đến
tài sản này phải có sự hợp tác chặt chẽ của hai người trong sự
hòa thuận cả mọi mặt, nghĩa là muốn chi tiêu tài sản đó thì phải
thương lượng với nhau trước khi thi hành và phải được sự vui vẻ đồng
tình với nhau trong tinh thần hòa hợp, trong đó không có sự ép buộc
hay cắn răng thắt bụng nể lòng. Người chồng hay người vợ biết tự
trọng và áp dụng đúng nguyên tắc sống này thì gia đình đó hạnh phúc
biết bao.
Thí dụ như
vì chuyện gởi quà về Việt
2)- Phải Chi Tiêu Có Điều Độ Đúng
Theo
Nhu Cầu Cần Thiết:
Lương bổng
của gia đình thì có giới hạn, nhưng nhu cầu cho sự sống thì vô cùng.
Hơn nữa trong cuộc đời sự may mắn và sự bất hạnh không có hình
tướng, nó đến với chúng ta lúc nào không biết và nó ra đi khỏi tầm
tay của chúng ta khi nào cũng không hay. Có một điều nên biết, sự
may mắn đến với chúng ta chỉ có một lần rồi vĩnh biệt luôn, nhưng sự
bất hạnh đến với chúng ta luôn luôn dồn dập không chút nương tay.
Chúng ta phải biết rằng công ăn việc làm có khi lên nhưng cũng có
khi xuống dốc và tiền bạc có khi sung túc nhưng cũng có lúc túi cạn
tay không. Khi có tiền vô ra thường xuyên, khi có công ăn việc làm
no cơm ấm áo, chúng ta không nên chi tiêu bừa bãi theo sở thích mà
phải sử dụng đúng theo nhu cầu cần thiết của gia đình, miễn làm sao
đầy đủ tiện nghi trong vòng tương đối theo lương bổng của mình nhằm đề
phòng những chuyện bất trắc xẩy đến cho gia đình đủ sức xoay trở.
Thí dụ,
trong gia đình, chúng ta cần một chiếc xe hơi dùng phương tiện để đi
làm việc sanh sống, nhưng khi mua xe phải nhìn lại lương bổng của mình
mà định mức chi tiêu, không nên mua xe đắc giá cho thật sang trọng
quá mức đồng lương để khoe với xã hội mà chính mình phải vướng nợ
ngân hàng. Xã hội chỉ khen chúng ta có chiếc xe sang trọng rồi thôi
mà không bao giờ quan tâm đến sự đau khổ ngủ không yên của chúng ta
vì phải lo đi cày hai ba jobs để trả nợ hằng tháng, vì phải lo chăm
sóc khi nó bị hư hao,..v..v..... Cũng vì lao nhọc lo đi cày hai ba jobs
để giải quyết nợ nầng mà hạnh phúc gia đình trở nên lạnh nhạt, tình
nghĩa con cái trở nên thờ ơ lạc lỏng.
Nhằm cung
ứng nhu cầu cho gia đình, chúng ta phải biết chọn lấy những vật liệu
dựa trên công dụng căn bản của món đồ mà không nên căn cứ trên
giá trị sang trọng quý giá của vật liệu. Giữa hai món đồ, một loại
với vật liệu tầm thường rẻ tiền và một loại với vật liệu sang
trọng quý giá, nhưng công dụng của chúng đều giống nhau, chúng ta
nên chọn lấy món đồ với vật liệu tầm thường vừa với khả năng túi
tiền, miễn làm sao không thiếu tiện nghi là được. Mặc dù với vật
dụng rẻ tiền, chúng ta biết cách sắp xếp, biết cách ăn mặc thì gia
đình vẫn trở nên sang trọng hơn là những món đồ quý giá đắc tiền
mà người sử dụng không có cặp mắt mỹ thuật trang trí.
Tóm lại,
nhắm vào kinh tế gia đình, chúng ta phải biết tiết kiệm trong việc chi
tiêu và chi tiêu có điều độ chừng mực, không nên phung phí bừa bãi
mà gia đình không cần thiết đến.
3)- Phải Dự Trù Trong Việc Chi Tiêu:
Có nhiều gia đình ít khi dự trù trong việc chi
tiêu, nghĩa là không có thành lập lịch trình hằng tháng trong việc chi
tiêu. Vì thế có nhiều gia đình chi tiêu không có mức độ, nghĩa là khi
có công ăn việc làm thì họ chi tiêu cho thỏa mãn theo sở thích và
đến khi thiếu hụt thì họ đi vay mượn ăn trước trả sau; cho nên họ bị
nợ trước chồng lên nợ sau và suốt cuộc đời bôn ba đây đó kiếm
tiền để trả nợï. Họ cũng vì ăn trước trả sau không có dự trù chi
tiêu thành thử cuộc sống của họ không có tương lai sáng lạng và con
cái của họ tuyệt vọng tiến thân. Hiện tượng này cũng là một yếu
tố khiến cho gia đình trở nên mất hạnh phúc.
Để tránh
sự bế tắc xẩy đến cho cuộc sống mai sau, mỗi gia đình cần phải dự
trù trong việc chi tiêu bằng cách thành lập một ngân khoản Phúc Lợi
trong số lương chung của hai chồng vợ. Ngân khoản Phúc Lợi chính là
ngân khoản còn lại được trích ra trong tổng số lương bổng của chồng
vợ cộng lại sau khi khấu trừ tất cả chi phí hằng tháng cần thiết
trong gia đình. Ngân khoản Phúc Lợi cũng phải chia làm ba phần: ngân
khoản dự trù, ngân khoản phụ trội và ngân khoản phước đức.
*)- Ngân khoản dự trù: nghĩa là
ngân khoản dành cung cấp cho những sự việc bất ngờ xảy ra trong gia
đình như, tai nạn, bệnh hoạn, xe hư dọc đường..v..v..... mà những khoản
tiền chi tiêu đó không nằm trong ngân khoản lịch trình chi tiêu hằng
tháng. Ngân khoản này phải tích lũy hằng tháng sau khi được trích ra
từ trong ngân khoản phúc lợi.
*)- Ngân khoản phụ trội: nghĩa là
ngân khoản dành chi tiêu cho những công việc linh tinh khác ngoài
ngân khoản lịch trình chi tiêu hằng tháng như, lễ hội, tiệc tùng, hội
đoàn, sanh nhựt..v..v..... mà mình không thể không tham dự. Ngân khoản
này cũng phải tích lũy hằng tháng sau khi được trích ra từ trong ngân
khoản phúc lợi.
*)- Ngân khoản phước đức: cũng
gọi là ngân khoản xã hội, nghĩa là ngân khoản dành chi tiêu vào
công việc từ thiện xã hội. Thuốc bổ là y dược để bồi dưỡng thân
thể, còn phước đức là chất liệu để bồi dưỡng tâm linh. Chúng ta
muốn bồi dưỡng tâm linh cho tăng trưởng phước đức làm lẽ sống an
lạc cho gia đình thì phải thực hiện công tác xã hội. Những nơi trợ
giúp cho việc phước đức tăng trưởng chính là công tác bố thí cho
những người nghèo đói đau khổ, công tác cúng dường vào việc cúng
chùa, tạo tượng, in kinh,..v..v..... , vì những nơi đó là môi trường
đáng quý cho việc tăng trưởng phước đức nơi bản thân nơi gia đình với
những nguyên do sau đây:
*)- Thứ
nhất, những người nghèo đói, đau khổ là những nơi rất cần đến những
người cứu khổ cho họ. Điều này đúng với lời chỉ dạy của đức Phật
nói ở trong kinh: “Chúng sanh duyên từ”, nghĩa là nương nhờ nơi
chúng sanh để phát khởi lòng từ bi của mình.
*)- Thứ
hai, việc cúng chùa, tạo tượng, in kinh,..v..v.... vì những nơi đó,
những việc làm đó chia sớt phước đức rất lớn cho chúng ta qua sự
cầu nguyện hằng ngày của họ.
Chú ý,
trong ba ngân khoản phúc lợi đã trình bày ở trên, có một ngân khoản
nào nếu như bị thiếu hụt thì chúng ta phải làm việc thêm giờ hay
kiếm thêm job để bổ sung mà không được chi tiêu lấn qua hai ngân
khoản thặng dư kia.
Tóm lại,
mỗi gia đình cần phải thiết lập lịch trình chi tiêu hằng tháng, trong
đó có ngân khoản Phúc Lợi để cho cuộc sống có ý nghĩa, có an lạc,
có hạnh phúc và có một tương lai tươi sáng, chẳng những cho mình, cho
gia đình mình và cho cả con cái của mình trong việc tiến thân. Gia đình
nào thực hiện được những điều đã trình bày trên là gia đình đó biết
sống cho nhau, biết dự trù trong việc chi tiêu và gia đình đó đáng
được tôn quý trong xã hội.
4)- Phải Tri Túc Trong Nếp Sống:
Tri túc là biết đủ, người sống tri túc
nghĩa là người sống có chừng mực không trụy lạc xa hoa phung phí,
buông thả. Kinh Phật có dạy: “Tri túc thường lạc, đa ưu tắc
bi”, nghĩa là người biết đủ thì thường được an vui và người lo
âu nhiều thì bị buồn khổ nhiều. Người sống biết đủ là người biết
sống lượng sức, biết sống theo khả năng sẵn có của mình, không xa
hoa, không đua đòi những điều quá tầm tay mà khả năng của mình không
cho phép.
Kinh Di
Giáo Phật dạy: “Người tri túc dù nằm trên đất cũng vẫn an vui, Kẻ không tri
túc dù ở cảnh Thiên đường cũng chẳng vừa ý”. Người tri túc
không bị năm thứ dục lạc chi phối. Năm thứ dục lạc nghĩa là cuộc
đời con người thường bị năm thứ dục lạc trói buộc cuốn trôi bởi ham
muốn. Năm thứ dục lạc gồm có:
1)- Tài
Dục: nghĩa là tiền của mờ mắt
2)- Sắc
Dục: nghĩa là sắc đẹp quyến rủ
3)- Danh
Dục: nghĩa là danh vọng lôi cuốn
4)- Thực
Dục: nghĩa là ăn uống say mê
5)- Thùy
Dục: nghĩa là ngủ nghỉ lười biếng.
Kinh Niết
Bàn, quyển 22 giải thích: “Người mê theo Ngũ Dục (năm thức dục
lạc) tỷ như con chó gặm xương khô, như kẻ cầm lửa đi ngược gió, như
nuôi nhốt con rắn độc, như được của trong giấc mộng, như cây trái
đầu đường mà nhiều người ném chọi, như một khúc thịt mà có cả
bầy chim tranh ăn, như bọt trên mặt nước....” Năm thứ dục lạc
như của tạm bợ, không được lâu dài.
Trong phạm
vi gia đình, năm thứ dục lạc nói trên cần nên tiết chế theo nhu cầu
và sử dụng theo khả năng, không nên chạy theo thị trường, buông thả
theo sở thích mà phải bị lao tâm tổn sức, phá hoại gia cang, như:
a.
Tiền của: tạo dựng theo khả năng,
sống theo nhu cầu, đừng chạy
đua quá
độ để có tiền của cho nhiều
mà bỏ quên
hạnh phúc gia đình.
b.
Sắc đẹp: luôn luôn tâm niệm mình đã
có gia đình, vì con cái, không nên để cho sắc đẹp bên ngoài quyến rủ
để làm tổn thương đến hạnh phúc gia đình.
c.
Danh vọng: tiếng thơm nếu mình đã có thì
không cần phải phô trương, luồn cúi, nịnh bợ làm mất đi phong cách
của một con người.
d.
Ăn uống: ăn uống để sống mà không
phải sống để ăn uống, cho nên ăn uống phải có tiết độ, không nên
tham ăn tham uống quá độ đem đến tai hại cho thân xác.
e.
Ngủ nghỉ: trao cái vóc óc u mê, nghĩa
là trao dồi thân thể cho đẹp thì tâm hồn trở nên đần độn ngu si. Con
người thiếu ngủ thì dễ bị bệnh hoạn, nhưng ngủ nghỉ quá độ thì kém
thông minh, hiểu biết chậm chạp.
Tóm lại,
tri túc là biết sống an phận, biết chấp nhận những nhu cầu hiện có
khiêm tốn trong khả năng tạo dựng của mình, không phung phí xa hoa dư
thừa, không đua dòi theo sở thích, không chạy đua theo phong trào vật
chất, biết dừng lại ở nơi cần phải dừng trong thanh bần lạc nghiệp.
Người sống tri túc là người biết bảo vệ hạnh phúc gia đình, biết lo
cho chồng vợ con cái, dù bất cứ hoàn cảnh nào giữ gìn cho gia đình
được hạnh phúc lâu dài là thỏa mãn cho tâm nguyện của mình. Những
người biết sống như trên đáng được kính trọng và tôn vinh.
III.- KẾT LUẬN:
Đây là
những nguyên tắc căn bản cho việc sống chung trong một gia đình cần
phải có để xây dựng hạnh phúc dài lâu. Nội dung những nguyên tắc
này bao gồm cả tâm lý, sinh lý và vật lý được rút ra từ nơi những
điều Phật dạy trong các kinh luận và xây dựng trên nền tảng sáu
pháp hòa kính (Lục Hòa) ngỏ hầu giúp cho người Phật Tử tại gia sống
có ý nghĩa để được hạnh phúc an vui theo tinh thần Phật Giáo. Giá trị
tinh thần những nguyên tắc trên nhằm mục đích quân bình cả tâm lý,
sinh lý và vật lý qua sự chỉ đạo của tâm trí con người không cho
thặng dư (không cho xí thạnh) sẽ gây xáo trộn bất an cho cá nhân và
tập thể. Đối với tuổi trẻ mới lớn lên, những nguyên tắc nói trên
chính là kinh nhật tụng cần phải gối đầu cho những trai gái trước khi
lập gia đình, là khuôn vàng thước ngọc cho những đôi chồng vợ son
trẻ vững bước trên lộ trình hạnh phúc lứa đôi và cũng là cẩm nang
đáng giá cho những người lớn tuổi căn cứ theo đó giáo dục con cái
mình để biết sống theo con đường hạnh phúc bền lâu. Gia đình nào nếu
như quyết tâm thực hiện những nguyên tắc nói trên một cách triệt
để thì gia đình đó trở thành gương mẫu tốt trong xã hội và cũng là
nền tảng xây dựng lâu đài cho sự giác ngộ giải thoát sanh tử của
kiếp nhân sanh.
Nghi Thức
LỄ THÀNH HÔN
Wedding Ceremony
Lễ thành
hôn đối với tôn giáo vô cùng quan trọng không thể thiếu trong việc
kết hợp lương duyên được bền chặt lâu dài. Đôi trai gái muốn kết
thành chồng vợ mang đầy ý nghĩa thì hai người phải vào chùa hay nhà
thờ của tôn giáo mà các cháu tín ngưỡng làm lễ thành hôn. Lễ
thành hôn là hai trẻ phát nguyện, tức là tuyên thệ trước đức Phật
hay trước Chúa yêu nhau trọn đời. Những lời phát nguyện hay lời thề
đó ấn vào tâm của hai người thành hai hạt giống (Two Datas) tình yêu
chân thật. Đó là hai nguyên nhân nằm sâu trong tâm thức của hai
người. Hai hạt giống tình yêu này lâu ngày trở thành hai năng lực
luyến ái gắn bó với nhau không cho xa cách. Một trong hai người nếu
như phản bội nhau thì người phản bội đó bị hạt giống tình yêu khiến
họ bị đau khổ bởi cắn rứt lương tâm, rồi đi đến quả báo qua kiếp sau
hay đời sau hạt giống tình yêu khiến họ bị đau khổ bởi người khác
phản bội lại họ hoặc hành hạ họï, nhân nào quả nấy không tránh
khỏi.
Nghi thức
Lễ Thành Hôn, tôi căn cứ theo Nghi Thức Lễ Thành Hôn của Tu Viện
Trúc Lâm ở Edmonton – Canada ấn hành, soạn lại cho ngắn gọn mà không
mất phần ý nghĩa và giá trị. Nghi Thức Lễ Thành Hôn này gồm có hai
hai phần: phần tiếng Việt và phần tiếng Anh. Trước hết là phần
tiếng Việt được trình bày như sau:
NGHI THỨC HỘ
NIỆM HÔN LỄ
Wedding Ceremony
1.- ĐẠI CHÚNG
VÂN TẬP
2.- CUNG THỈNH CHƯ
TĂNG
3.- DÂNG HƯƠNG:
Xin cho khói trầm thơm
Kết thành mây năm sắc
Dâng lên khắp mười phương
Cúng dường vô lượng Phật
Vô lượng chư Bồ Tát
Cùng các Thánh Hiền Tăng
Nơi pháp giới dung thông
Kết đài sen rực rở
Nguyện làm kẻ đồng hành
Trên con đường giác ngộ
Xin mọi loài chúng sanh
Từ bỏ cõi vô minh
Theo đường giới, định, tuệ
Quay về nơi bến giác
Chúng con kính dâng hương lên Phật và chư vị Bồ
Tát (o)
4.- ĐẢNH LỄ TAM
BẢO: (3 lần
đọc và 3 lần
lạy)
Nhất tâm kính lễ Phật, Pháp, Tăng trường trụ trong
mười phương (o)
5.- TRÌ TỤNG (đại chúng đồng tụng)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm
Con nay may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (o)
6.- TỤNG KINH
BÁT NHÃ:
TÂM KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
ĐA
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại
Một khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật Đa
Bỗng soi thấy thể năm Uẩn
Đều không thật có tự tánh
Liền vượt qua khỏi tất cả
Bao thứ khổ đau ách nạn.
Này Xá Lợi Tử nghe đây,
Quả Sắc chẳng khác nhân Không,
Nhân Không chẳng khác quả Sắc,
Quả Sắc biến thành nhân Không,
Nhân Không biến thành quả Sắc,
Cho đến, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
Cũng đều giống như vậy cả.
Này Xá Lợi Tử nghe đây,
Thể mọi pháp đều không Tướng,
Không sanh mà cũng không diệt,
Không nhơ mà cũng không sạch,
Không thêm mà cũng không bớt.
Cho nên nơi trong thể Không,
Không có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Và cũng không có Thức (Tướng);
Không có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Cho đến Thân, Ý (sáu Căn);
Không có Sắc, Thinh, Hương, Vị,
Cho đến Xúc, Pháp (sáu Trần);
Không có mười tám Giới riêng,
(Từ Nhãn cho đến Ý Thức);
Không hề có chút Vô Minh,
Và không có hết Vô Minh;
Không có vấn đề Lão Tử,
Và cũng không hết Lão Tử;
Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
Không Trí và cũng không Đắc,
Vì không có chỗ sở đắc.
Nên khi Bồ Tát nương theo
Bát Nhã Ba La Mật Đa
Thì tâm không bị chướng ngại,
Vì tâm không bị chướng ngại,
Nên không có chút sợ hãi,
Xa lìa được mọi điên đảo,
Xa hẳn được mọi mộng tưởng,
Đạt đến Niết Bàn tuyệt đối.
Các đức Phật trong ba đời,
Cũng nhờ hành trì theo pháp
Bát Nhã Ba La Mật Đa,
Đều chứng quả Vô Thượng Giác.
Thế nên cần phải biết rằng,
Bát Nhã Ba La Mật Đa,
Chính là Linh Chú đại thần,
Chính là Linh Chú đại minh,
Chính là Linh Chú vô thượng,
Chính là Linh Chú tuyệt đỉnh,
Chính là chân lý bất vọng
Có năng lực rất siêu phàm,
Tiêu trừ tất cả khổ nạn.
Cho nên mỗi khi nói đến
Bát Nhã Ba La Mật Đa,
Bồ Tát liền đọc Thần Chú:
“Yết Đế, Yết
Đế, Ba La Yết Đế,
Ba La Tăng Yết
Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha” (đọc
Chú này 3 lần)
7.- KHAI THỊ:
(Thầy
chủ lễ xoay về phía chủ rể và cô dâu mà khai thị)
Hôm nay hai Phật tử (tên chú rể) và (tên cô
dâu) làm lễ thành hôn. Trong giờ phút trang trọng này, xin hai Phật
tử nghĩ đến những ơn lớn trong cuộc đời của mình mà lễ lạy Tam Bảo
để đáp đền công đức sâu dày ấy. Sau lời xướng nghe tiếng chuông
lạy xuống 1 lạy.
*)- Phật tử mang ơn cha mẹ sanh thành, cúi đầu
kính lễ Tam
Bảo thường trụ trong mười
phương.
*)- Phật tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu
kính lễ Tam
Bảo thường trụ trong mười
phương.
*)- Phật tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện
tri
thức đã
tác thành hôn lễ cho, cúi đầu kính lễ
Tam Bảo
thường trụ trong mười phương.
8.- PHÁT NGUYỆN:
(Thầy
chủ lễ tiếp tục khai thị cho 2 Phật tử)
Hai Phật tử! Đây là lúc hai vị phát nguyện sống
cuộc sống lứa đôi theo giáo pháp của Phật. Nên biết rằng, thành
chồng thành vợ là để cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, để
tiếp nối công trình của tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà làm cho nòi
giống được tồn tại, tốt tươi. Hạnh phúc ấy, trước hết là ở sự chia
xẻ: chồng vợ cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, buồn vui, cùng nhau nâng đở
dắt dìu, chăm sóc nhau trong cuộc sống.
Chia xẻ để giúp nhau có sức mạnh tinh thần mà
vượt qua những thất bại khó khăn, để thấy được hạnh phúc ở trong
nhau mà cùng nhau sống cuộc sống có ý nghĩa cao đẹp để nuôi lớn
niềm tin cậy và sự kính trọng nhau, lòng yêu thương và hiểu biết
nhau, lòng bao dung và tha thứ nhau – những chất liệu cần thiết làm
nên hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc chân chánh chỉ có ở một cuộc sống
lương thiện, trong sạch, lành mạnh.
Đó là những gì mà đức Phật đã ân cần dạy bảo,
thể hiện trong truyền thống đạo đức của tổ tiên và là những gì mà
các bậc cha mẹ luôn mong ước cho con cháu của mình. Lại nữa, nên
thấy mình là trong liên hệ với tiền nhân cũng như với các thế hệ
mai sau của nòi giống. Đã thừa kế di sản của tổ tiên, mang ơn sanh
thành, tạo tác của cha mẹ, thì với con cái sau này, hai Phật tử cũng
nên đem hết lòng yêu thương, khả năng và phương tiện nuôi dưỡng
chúng nó nên người xứng đáng, làm cho nòi giống được lưu truyền tốt
đẹp.
Trong giờ phút kết hợp trang trọng này, trước sự
chứng minh của Tam Bảo, sự chứng nhận của cha mẹ và thân bằng quyến
thuộc hai họ, hai Phật tử hãy chân thành đọc theo Thầy lời phát
nguyện sau đây:
*)- Chúng con nguyện: từ nay kết thành chồng vợ,
vui buồn có nhau, sướng khổ có nhau, cùng bên nhau trong mọi thăng
trầm của cuộc sống.
*)- Chúng con nguyện: giữ niềm tin cậy, yêu thương
và hiểu biết nhau, bao dung, tha thứ và lòng kiên nhẫn để cùng nhau
xây dựng hạnh phúc gia đình.
*)- Chúng con nguyện: cùng giúp nhau sống cuộc
đời lương thiện, trong sạch và lành mạnh để xứng đáng là người con
Phật, xứng đáng với truyền thống đạo đức của tổ tiên nòi giống và
với tấm lòng kỳ vọng của cha mẹ chúng con.
*)- Chúng con nguyện: thường tự nhắc nhở rằng,
sự trách móc, sự hờn giận và cãi cọ chỉ làm thương tổn hòa khí mà
không giải quyết được gì. Chúng con biết, chỉ có sự hiểu biết và
lòng tin cậy mới bồi đắp được cho tình yêu, hạnh phúc và an vui mà
thôi.
*)- Chúng con nguyện: trong đời sống hằng ngày,
sẽ dồn hết tâm lực và phương tiện để xây dựng cho thế hệ con cháu
của chúng con trong tương lai.
9.- Ý NGHĨA
CHIẾC NHẪN:
(Thầy chủ lễ
giảng ý nghĩa chiếc nhẫn. Sau khi
giảng xong, hỏi
chú rễ và cô dâu như sau)
Chiêác nhẫn được làm bằng vàng, là một thứ kim
loại quý trong các thứ kim loại. Trao cho nhau chiếc nhẫn bằng vàng
là trao cho nhau những gì quý nhất của con người mình. Nhẫn này hình
tròn. Trao cho nhau chiếc nhẫn hình tròn là trao cho nhau trọn vẹn
những nguyện ước tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Nhẫn này cũng là
nhẫn nhục. Để cho hạnh phúc được bền chặt, là chồng là vợ cần
biết nhẫn nhịn, bao dung, tha thứ cho nhau, biết chấp nhận những cái
tốt, đồng thời cũng biết chấp nhận những cái xấu của nhau để cùng
giúp nhau chuyển hóa.
Giờ đây hai Phật tử nghe Thầy hỏi và trả lời
sau câu hỏi của Thầy:
(Nam/Nữ) Phật tử (tên) có nhận vị (nữ/nam) Phật
tử (tên) là người (vợ/chồng) chánh thức để cùng nhau sống chung hòa
hợp, tương kính, tin cẩn và thương yêu nhau. Có hết lòng xây dựng
hạnh phúc gia đình và luôn luôn chung thủy với (vợ/chồng), mọi việc
trong gia đình đều nên cùng nhau bàn thảo một cách hòa nhã, vui vẻ; có
biết kính trọng họ hàng, thân quyến và bạn bè của (chồng/vợ), có
sẳn sàng nâng đỡ, trợ duyên cho (chồng/vợ) trong các việc làm hợp
với đạo lý và lẽ phải không?
- Dạ có.
10.- LỄ TRAO
NHẪN:
(Thầy chủ lễ bào hai Phật tử xoay mặt, chấp tay
đối diện với
nhau và nói)
Theo truyền thống của tổ tiên, chồng vợ kính nhau
như mới biết, quý trọng nhau như quý trọng người khách quý. Thể hiện
niềm tương kính đó, chủ rể cô dâu quay mặt lại với nhau cùng nhau
làm lễ giao bái. Lòng yêu thương và sự cam kết sẽ được tiếp tục
lớn mạnh được căn cứ vào sự tương kính này.
-
Chú Rể và Cô Dâu cùng giao
bái nhau
(lạy xuống 1 lạy)
(Thầy nói tiếp:)
Hai Phật tử! Bây giờ xin hai vị cầm tay nhau, lập
lại lời Thầy nói trước khi trao nhẫn cho nhau:
-
Anh/Em
(tên) xin nhận em/anh (tên) làm người (vợ/chồng) chánh thức của
anh/em. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, giàu có hay khốn cùng, khỏe
mạnh hay ốm đau, an vui hay cực nhọc, chúng ta cũng nguyện trọn đời
sống bên nhau trong yêu thương, nhẫn nại, trách nhiệm và danh dự.
–
TRAO NHẪN.
11.- HỘ NIỆM:
( Thầy
chủ lễ tuyên bố:)
Giờ đây xin đại chúng chắp tay hộ niệm cho cuộc
hôn phối này được thành tựu tốt đẹp và bền vững.
Nguyện ngày an lành đêm an lành
Ngày đêm sáu thời đều an lành
An lành trong mỗi giây mỗi phút
Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần –o)
12.- QUAY VỀ
NƯƠNG TỰA:
*)- Con về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ
lối cho con
trong cuộc đời. (o)
*)- Con về nương tựa Pháp, con đường của tình
thương và
sự hiểu biết. (o)
*)- Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những
người nguyện
sống cuộc đời tỉnh thức. (o)
13.- HỒI HƯỚNG:
Phát nguyện pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền
Pháp môn xin nguyện học
Ơn nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên. (o)
14.- KÝ GIẤY
HÔN THÚ
15.- ĐẠI DIỆN
HAI HỌ CẢM TẠ
16.- CUNG TIỂN CHƯ
TĂNG
HẾT
WEDDING CEREMONY
1.- COMMUNITY
GATHERING
2.- WELCOME THE SANGHA ENTERING THE SHRINE HALL
3.- INCENSE
OFFERING
In gratitude,
we offer this incense
to all Buddhas and Bodhisattvas
throughout space and time.
May it be fragrant as Earth herself,
reflecting our careful efforts,
our wholehearted awareness,
and the fruit of understanding,
slowly ripening.
May we, and all beings
be companions of Buddhas and Bodhisattvas.
May we awaken from forgetfulness
and realize our true home.
We offer this incense to all Buddhas and Bodhisattvas
(o)
4.- BOWING (bow one each time)
-
Homage
to the Buddha, the Dharma, and the Sangha in the ten directions (3 times).
5.- SUTRA OPENING
VERSE:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sambuddhassa (3 times (o)
The Dharma is deep and lovely
We now have a chance to see it
Study it and practice it
We vow to realize its true meaning (o)
6.- CHANTING THE
PRAJNAPARAMITA
THE HEART OF THE
PRAJNAPARAMITA
The Bodhisattva Avalokita,
While moving in the deep course
of perfect understanding,
Shed light on the five skandhas
And found them equally empty.
After this penetration,
He overcame ill-being. (o)
Listen, Shariputra,
Form is emptiness,
Emptiness is form.
Form is not other than emptiness,
Emptiness is not other than form.
The same is true with feelings,
Perception, mental formations,
And consciousness. (o)
Hear, Shariputra,
All dharmas are marked with emptiness.
They are neither produced nor destroyed,
Neither defiled nor immaculate,
Neither increasing nor decreasing.
Therefore in emptiness there is neither form,
Nor feelings, nor perceptions,
Nor mental formation, nor consciousness;
No eye, or ear, or nose,
Or tongue, or body, or mind;
No form, no sound, no smell, no taste,
No touch, no object of mind;
No realms of elements
(from eyes to mind consciousness);
No interdependent origins and
No extinction of them
(from ignorance to death and decay);
No ill-being, no cause of ill-being;
No end of ill-being, and no path;
No understanding, no attainment. (o)
Because there is no attainment,
The Bodhisattvas, grounded
In perfect understanding,
Find no obstacles for their minds.
Having no obstacles,
They overcome fear,
Liberating themselves
Forever from illusion
And realizing perfect nirvana.
All Buddhas in the
Past, present, and future,
Thanks to this
Perfect understanding,
Arrive at full, right,
And universal enlightenment. (o)
Therefore
One should know that
Perfect understanding
Is the highest Mantra
The unequalled Mantra
The destroyer of ill-being
The incorruptible truth.
A Mantra of prajnaparamita
Should therefore be proclaimed
This is the Mantra:
Gate, Gate, Paragate, Parasamgate,
Bodhis Svaha. (3 times – o)
7.- INTRODUCTORY WORDS:
(Master facing to the couple and teach)
Today (name) and (name) are getting married. To repay
the deep favor of the four gratitude who have supported you, this is a moment
that both of you should express the sincere gratitude to them by bowing deeply
to the Three Jewels after the bell.
*)- In gratitude to their parents who
have brought them to life, they bow deeply to the Three Jewels in the ten
directions.
*)- In gratitude to their teachers
who have shown them the Way, they bow deeply to the Three Jewels in the ten
directions.
*)- In gratitude to their friends, who
give them guidance and support on the path, they bow deeply to the Three Jewels
in the ten directions.
8.- FIVE VOWS:
(Master
of Ceremony reads to bride and groom)
Students of
the Buddha, this is the moment where you would make your vows to live as
according to the Buddha’s teaching. You
should know that this union is to construct a family, to continue the work of
your ancestors, maintaining this human race. Happiness is, most important of
all, sharing – that is you should share your moments of joy and sadness, your
good and bad times, support and care for one another in your everyday life.
Sharing will
grant you spiritual strength to overcome obstacles; it will enable you to
recognize true happiness, to gain trust and respect, love and understanding,
and to forgive and forget one another – these are the ingredients necessary for
a healthy and happy family.
This is the
teaching of the Buddha; it is also the wish and desire of all of our ancestors.
You should also realize that your existence is the link between your ancestors
and your descendants. For that reason, you should love and provide for your
children.
In this
important moment of your union, before the Triple Gems, witness by the parents
and families of both sides, the Bride and the Groom please repeat these vows
after me:
*)- We vow that from now on as spouses will share joys
and sorrows, happiness and sadness, and will be close to each other in any
experience of life.
*)- We vow that, in promoting happiness in the family,
we will maintain mutual trust, love and understanding and will observe
tolerance and forgiveness.
*)- We vow, to urge each other toward and honest, pure
and wholesome life, so as to remain worthy of our claim as disciples of the
Buddha, our moral traditions and our parent’s highest expectations.
*)- We vow to frequently remind ourselves that blaming,
anger and argument only destroy harmony and do not solve problems. We are aware
that only understanding and trust nourish love, happiness and peace.
*)- We vow that, in our daily life, we will dedicate our
time and effort to build a strong and healthy foundation for our future
generations.
9.- BRIEF
DISCUSSION ON THE MEANING
OF THE RING
(The Master
explains the meaning of the wedding
ring. Continue to ask the bride and the
groom.)
Gold is the
most precious and valuable metal used in making the wedding rings. Giving the
golden ring to each other represents giving the most precious and valuable part
of yourself to each other. The round shape of the wedding rings is a symbol of
the fullness and prosperity. You both wish to give each other all of whom you
are and the best of who you will become. And, in Vietnamese language, the
meaning of the word “Nhan” (Ring in
English) is patience. That is to say, as husband and wife, in every day life,
you should be patient with each other, tolerate and forgive each other, accept
the good side of each other and also accept the bad side to support each other
in transforming.
Please
answer “I DO” after the following
question:
- Will you (name)
take this (man/woman) to be your lawful wedded (husband/wife) to live together
in harmony with mutual respect, trust and love? Do you promise to care for the
family, to be faithful to your (husband/wife), to have all discussions carried
out in a pleasant manner, to respect the friends and relatives of your
(husband/wife), to encourage your (husband/wife) to do what is morally right?
-
I DO
10.- CEREMONY OF EXCHANGE RINGS:
(Bride and Groom please turn and face each
other)
In ancestral
tradition, husband and wife must always repect each other as a distinguished
guest. To express this respect, bride and groom face each other and bow deeply to each other to show the
mutual respect. Your love and commitment will continue to grow based on this
ground of mutual respect.
The Bride
and Groom bow down 1 bow.
Now is the
time for you to hold hands repeat after me and exchange rings.
-
I
(name ) take the (name) to be my lawful wedded (husband/wife), to love, honor
and cherish for richer and for poorer, in sickness and in health, as long as we
both shall live. EXCHANGE RINGS
II.- CHANTING:
(Master of ceremony declares):
Will the
community recollects the names of the name of the Buddha in support of the
newly-wedded couple.
May the day be well and the night is well
May the midday hour bring happiness too
In every minute and every second
By the blessing of the Triple Gem.
Homage to Bodhisattva Avalokita of Great Compassion.
(3 times – o)
12.- THE THREE
REFUGES:
- I take refuge in the Buddha, the
one who shows
me the way in
this life. (o)
-
I
take refuge in the Dharma, the way of
understanding
and love. (o)
-
I
take refuge in the Sangha, the community that lives in harmony and awareness.
(o).
13.- SHARING MERIT
Reciting the sutras,
practicing the way of awareness
gives rise to benefits without limit.
We vow to share the fruits with all beings.
We vow to offer tribute to parents, teachers,
friends and numerous beings
who give guidance and support along the path.(o)
14.- SIGNING OF THE MARRIAGE
STATEMENTS
15.- WORDS OF APPRECIATION BY
THE
FAMILIES
16.- FAREWELL TO ALL SANGHA
END
XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
MỤC LỤC
· LỜI MỞ ĐẦU
I. VÀO ĐỀ
II. ĐỊNH NGHĨA
III. TINH THẦN
DUYÊN SANH
1. GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH:
a)- Lãnh Vực Gia Tộc:
b)- Lãnh Vực Cộng Đồng Và
Xã Hội:
2. GIÁ TRỊ NƯƠNG TỰA:
a)- Giai Đoạn Ấu Thơ:
b)- Giai Đoạn Trưởng Thành:
c)- Giai Đoạn Tuổi Già:
3. GIÁ TRỊ CHỨC NĂNG:
a. Định Nghĩa
b. Ý Niệm
IV.- XÂY DỰNG
HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
TRÊN TINH THẦN LỤC HÒA
1.- THÂN HÒA CÙNG CHUNG Ở:
(Thân Hòa Đồng Trụ)
A)- Đối Với Gia Đình:
1)-
Thánh Thiện Hóa Giá Trị Lập Gia
Đình:
2)-
Tôn Trọng Và Kính Nể Lẫn Nhau:
3)-
Xây Dựng Đức Tin Cho Nhau:
4)-
Quan Tâm Chăm Sóc Nhau:
5)-
Hòa Hợp Trong Việc Xây Dựng Gia
Đình:
B)- Đối Với Con Cái:
1)-
Thường Xuyên Phải Cho Con Bú Sửa
Mẹ:
2)-Đừng Hun Hít Âu Yếm Khi Con Mình
Đang
Ngủ:
3)-
Tạo Tình Cảm Nương Tựa Giữa Cha
Mẹ Và Con Cái:
4)-
Hướng Dẫn Con Cái Về Đạo Đức Và
Hiếu Hạnh:
5)-
Đừng Chen Lấn Vào Đời Sống Gia
Đình Của Con Cái:
6)-
Không Nên Đem Tôn Giáo Vào Gia
Đình:
C)- Đối Với Người Thân:
1)-
Phải Tôn Kính Cha Mẹ Hai Bên:
2)-
Thường Xuyên Vấn An Sức Khỏe
Cha Mẹ Hai Bên:
3)-
Khuyến Khích Và Giúp Đỡ Cha Mẹ
Trong Việc Tu Tập Đạo Đức:
D)- Đối Với Xã Hội:
1)-
Khiêm Cung Đối Với Mọi Người:
2)-
Thể Hiện Đức Hạnh Của Bậc
Trượng Phu Và Thục Nữ:
3)-
Loại Bỏ Những Chuyện Thị Phi Ở
Đời:
2.- MIỆNG HÒA KHÔNG TRANH CẢI:
(Khẩu
Hòa Vô Tránh)
1)- Nhẫn Nhục Để Vượt Qua Mọi Trở
Lực:
2)-
Ái Ngữ Trong Việc Đối Xử:
3)-
Thắc Mắc Cần Phải Giải Tỏa:
3.- Ý HÒA CÙNG HOAN HỶ:
(Ý
Hòa Đồng Duyệt)
1)-
Bất Cứ Ai Có Ý Kiến Hay Nên Tán
Đồng Và Chấp Nhận:
2)-
Hãy Nuôi Ý Tốt Đẹp Đối Với Nhau,
Hãy Trao Dồi Đức Hỷ Xả:
4.- GIỚI HÒA CÙNG TU TẬP:
(Giới
Hòa Đồng Tu)
1)-
Phải Giữ Tròn Luật Lệ Gia Đình:
2)-
Phải Giác Ngộ Lý Nhân Quả Để
Tránh
Những Thói Hư Tật Xấu Của
Xã Hội:
3)-
Trau Dối Trí Tuệ Sáng Suốt Để Giải
Quyết
Mọi Vấn Đề Gia Đình:
4)-
Lấy Đạo Đức Từ Bi Cư Xử Với Nhau:
5)-
Phải Tu Tập Giới Luật Đã Thọ Cho
Được Thanh Tịnh Để Tiêu Biểu Đạo
Đức
Làm Người:
5.-
KIẾN HÒA CÙNG NHAU GIẢI BÀY:
(Kiến
Hòa Đồng Giải)
1)-
Trao Đổi Ý Kiến Với Nhau Cùng
Hiểu:
2)- Chia Xẻ Với Nhau Khi Thất Bại:
3)-
Phải Biết Cách Sống Để Được Hạnh
Phúc
Bền Lâu:
4)-
Khuyến Khích Với Nhau Trong Việc
Tu
Học, Phước Thiện:
6.- LỢI HÒA CÙNG CHIA XẺ:
(Lợi
Hòa Đồng Quân)
1)-
Không Được Riêng Tư Quyết Định:
2)-
Phải Chi Tiêu Có Điều Độ Đúng
Theo
Nhu Cầu Cần Thiết:
3)-
Phải Dự Trù Trong Việc Chi Tiêu:
4)-
Phải Tri Túc Trong Nếp Sống:
V.- KẾT LUẬN:
VI.- NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
VII.- WEDDING CEREMONY
VIII.- MỤC LỤC
IX.- NHỮNG KINH LUẬN THAM KHẢO
NHỮNG KINH LUẬN THAM KHẢO
*)- Tăng Chi Bộ Kinh tập I, IIA, IIIA, IIB, IIIB,
VB
*)- Trường Bộ Kinh tập I, III, IV
*)- Trung Bộ Kinh I, II, III, IV
*)- Tương Ưng Bộ Kinh tập I, II, V
*)- Tiểu Bộ Kinh tập I
*)- Trường A Hàm
*)- Trung A Hàm,
*)- Tăng Nhứt A Hàm
*)- Tạp A Hàm
*)- Kinh Thi Ca La Việt (Singàlaka)
*)- Kinh Đại Niết Bàn
*)- Phật Học Phổ Thông I, II, III, IV, V. (Thích
Thiện Hoa).
*)- Tư Tưởng Xã Hội Trong Kinh Điển Phật
Giáo
Nguyên Thủy (Thích Chơn Trí)
*)- Tự Điển Phật Học Huệ Quang
*)- Hạnh Phúc Lứa Đôi (Thích Tâm Quang dịch)
*)- Nghi Thức Lễ Thành Hôn (Ban Nghi Lễ Tu
Viện Trúc
Lâm Edmonton – Canada ấn
Hành)
PHƯƠNG DANH QUÍ
PHẬT TỬ PHÁT TÂM ẤN TỐNG QUYỂN
“XÂY DỰNG HẠNH
PHÚC GIA ĐÌNH”.
1.-
Đạo Hữu Dương Phan PD Chủng Tuệ,
6 Vidmar
Court Sacramento, CA 95823
2.- Đạo Hữu Dũ Hữu Vự PD
Chủng Chơn,
2264 Petruchio Way, Roseville,
CA 95823
3.- Đạo Hữu Trương Minh Sung PD
Minh Vương,
9704 Apple Mill Dr. Elk grove, CA 95624
4.- Đạo Hữu Diệu Bạch,
3542 Corte Bella
Dr, San Jose, CA 95148
5.- Đạo Hữu Diệu Khiết,
1539 – 8th # B, Oakland, CA
94606
6.- Đạo Hữu Đinh Trụ, New Orleans
7.- Đạo Hữu Đinh Minh Hồng, New Orleans
8.- Đạo Hữu Lê Thị Hường,
2814 Woodburn Road. Annandale,
VA 22003
9.- Đạo Hữu Diệu Đức,
25714 Pennie St. Slidell.
10.- Đạo Hữu Thạch Thị Nho,
Dearborn Hts, MI 48125
11.- Phật Tử Nguyễn Kim Xuân PD
Diệu Huệ tại San Jose, Bắc
California.
12.- Tất cả Phật Tử Chùa Quang Minh Chicago, Illinois và quý Phật Tử có
tên sau đây:
*- Đạo Hữu Minh Thành, Diệu
Phước
*- Đạo Hữu Lê Thị Thúy
*- Đạo Hữu Minh Phong
*- Đạo Hữu Tâm Hải và Diệu Thiện
*- Đạo Hữu Tâm Đạo (Dương
Hải
Nam)
*- Đạo Hữu Từ Hoa (Linda
Ngọc Tran Tam)
*- Đạo Hữu Từ Tâm (Kevin Van
Lam)
*- Đạo Hữu Từ Hiếu (Kenny Vo
Lam)
*- Đạo Hữu Diệu Lê (Jimmy)
*- Đạo Hữu Binh Vo (Thommy)
*- Đạo Hữu Tạ Đào
Nguyện đem
công đức ấn tống này hồi hướng về Cửu Huyền Thất Tổ Nội Ngoại
Tông Thân từ vô lượng kiếp về trước được nhẹ nhàng siêu thoát và
phụ mẫu lục thân quyến thuộc hiện tiền cùng tất cả pháp giới
chúng sanh phát tâm tin sâu Tam Bảo, tăng trưởng phước lành, thọ
hưởng hạnh phúc an vui trong niềm tin đức Phật.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Tát Đại Chứng
Minh.
NHỮNG SÁCH ĐÃ
XUẤT BẢN
CÙNG MỘT TÁC
GIẢ
1.- Khảo Nghiệm Duy Thức Học
quyển I
2.- Khảo Nghiệm Duy Thức Học
quyển II
3.- Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái
Nhìn Của Duy
Thức
4.- Khái Luận Về Pháp Tướng
Duy Thức Học
5.- Bát Thức Quy Củ Tụng
6.- Yếu Chỉ Kinh Pháp Hoa
7.- Thắng Hoan Thi Tập
NHỮNG SÁCH SẮP
XUẤT BẢN
CÙNG MỘT TÁC
GIẢ
1.- Quan Niệm Sử Học Của Duy
Thức
2.- Quan Niệm Triết Học Của
Duy Thức